Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Ba Đình

Lời nói đầu Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đề về nguồn lực, vấn đề vốn - vấn đề thuộc cơ sở “ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Đây là vấn đề mang tính cấp thiết, đầy biến động đòi hỏi phải xây dựng, phát triển và thường xuyên được xử lý, điều chỉnh nhằm

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế, giải quyết được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Vậy thì giải pháp nào cho huy động vốn; chúng ta phải có những phương án, quyết sách cụ thể mang tính chiến lược trong dài hạn nhằm thõa mãn nhu cầu về vốn cũng như nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Chúng ta không chỉ đơn thuần xem nguồn lực, nguồn vốn là tiền mặt, mà phải xem xét nguồn vốn bao gồm cả dưới dạng vật chất và phi vật chất được biểu hiện bằng tiền. Hoạt động huy động vốn không chỉ đơn thuần là thu hút mọi nguồn lực mà còn đi đôi với việc chọn lọc và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Việc xây dựng một thị trường tài chính tầm cỡ cũng như tạo một hành lang pháp lý thông thoáng, an toàn chính là điều kiện cần để chúng ta có thể thu hút các nguồn nội ngoại lực phục vụ cho đầu tư phát triển. Vấn đề hình thành và phát triển thị trường tài chính trong đó nòng cốt là ngân hàng thương mại, tổ chức chiếm vị trí quan trọng trong các chính sách về huy động vốn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì kiện nay. Ngân hàng thương mại gánh trên vai trọng trách to lớn tiếp tục hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính, làm tốt chức năng là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế thông qua việc khơi thông các dòng vốn, di chuyển vốn từ nơi có hiệu quả đầu tư thấp sang nơi có hiệu quả đầu tư cao hơn; mặt khác ngân hàng thương mại với chức năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn còn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, nhất là các hình thức huy động trung và dài hạn để cho vay và đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ. Đánh giá chung về hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kì đổi mới, Bộ Chính trị đã có kết luận “... Từ khi chuyển sang kinh doanh, các ngân hàng thương mại đã thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong nước và nước ngoài, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xóa đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội”. Với nhiệm vụ của mình, toàn hệ thống ngân hàng đang phấn đấu nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng, đồng thời tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng. Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình đã và đang hoàn thiện, phát huy hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với bề dày lịch sử của mình, ngân hàng công thương Ba Đình trong thời kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào công cuộc cải cách nền kinh tế đất nước. Tính bức xúc trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng như nhu cầu về vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang theo đuổi chính là động lực cho em chọn nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình” cho chuyên đề thực tập của mình trong thời gian thực tập tại ngân hàng công thương Ba Đình. Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm: Chương I: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại. ChươngII: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình. Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình. Do khả năng lý luận và nhận thức về một vấn đề còn hạn chế, đây lại là một đề tài khó, chính vì vậy bài viết này của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong thầy cô phê bình, góp ý để bài viết sau của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Chương I Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của NHTM I. Vai trò của nguồn vốn đối với NHTM. 1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM. 1.1. Khái niệm NHTM. Sự hình thành hệ thống NHTM là hệ quả tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế thị trường, đó là sản phẩm của cơ chế thị trường hay là yếu tố cấu thành thị trường tài chính; NHTM nói riêng và thị trường tài chính nói chung có tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau; hệ thống NHTM ổn định, phát triển toàn diện là động lực thúc đẩy thị trường tài chính phát triển và ngược lại. Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng và phát triển một mô hình thị trường tài chính với nòng cốt là hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới một cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, của nhà nước. Từ mô hình hệ thống ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang mô hình ngân hàng của nền kinh tế thị trường, mô hình tổ chức có sự thay đổi căn bản đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hóa các loại hình ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của nhà nước. Tại Việt Nam kể từ năm 1988 bắt đầu hình thành mô hình hệ thống ngân hàng 2 cấp và 2 pháp lệnh ngân hàng( pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và công ty Tài chính) đã chính thức hợp pháp hóa sự thay đổi này, Mô hình hệ thống ngân hàng ở thời điểm này bao gồm: Ngân hàng Nhà nước: cơ quan quản lý cấp nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền tệ. Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản: - Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan nhà nước. - Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu. Các loại hình của NHTM: + NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà nước. + NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. + Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại. + Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam. Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng về sau, theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các nghiệp vụ của các ngân hàng càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu hướng phát triển ngày càng toàn diện với quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch vụ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển của các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi quốc gia mà mang tính chất toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)… việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện đại càng làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoàn thiện Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, chứng kiến bước chuyển mình vượt qua những chặng đường khó khăn dưới chế độ bao cấp bước sang nền kinh tế thị trường . Trải qua hơn 10 năm đổi mới, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành nghị định 53 HĐBT (26/3/1988) với nội dụng “Cải tổ ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một cấp duy nhất trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thành định chế ngân hàng hai cấp theo hướng kinh tế thị trường”. Ngày 23/5/1990 nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngày 26/12/1997, hai pháp lệnh trên được thay thế bằng hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, tạo được một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động ngân hàng. Bộ mặt ngành ngân hàng đã thay đổi, hoạt động của ngân hàng trở nên chuyên nghiệp và năng động hơn, đánh dấu sự thay đổi to lớn trong cách nghĩ cũng như cách làm. Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi chính sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng Trung ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn vê NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của NHTM đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu các hoạt động chủ yếu của NHTM. 1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM. Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa giá trị tài sản của ngân hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế. Ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế các ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. Nghiệp vụ này đã tạo ra lợi nhuận thặng dư cho ngân hàng đồng thời tạo tiện ích cho khách hàng để đôi bên cùng có lợi. Nghiệp vụ tài sản nợ (Nguồn vốn): Đây là nghiệp vụ tạo điều kiện và tiền đề cho hoạt động của NHTM. Các NHTM thực hiện huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới mọi hình thức để thực hiện nhiệm vụ đầu tư, cho vay đối với các thành phần kinh tế, giúp họ đổi mới trang thiết bị sản xuất, nâng cấp nhà xưởng phục vụ kinh doanh… Nghiệp vụ tài sản có (Sử dụng vốn): - Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt: Ngân hàng dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên, liên tục của khách hàng vào bất cứ lúc nào. Dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động, cơ cấu và tính chất nguồn vốn của NHTM. Các khoản dự trữ của NHTM không sinh lời. - Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng tham gia góp vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty con... - Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM. Các NHTM sử dụng phần lớn số tiền huy động được để cho vay đối với nền kinh tế. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập chính để bù đắp các loại chi phí trong hoạt động của Ngân hàng và thu lợi của NHTM. Các dịch vụ Ngân hàng: Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tiến hành cung ứng các dịch vụ phục vụ khách hàng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn tài chính,... trên cơ sở đó Ngân hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay do nhu cầu phát triển của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ Ngân hàng ngày càng mở rộng về số lượng và chất lượng. Các Ngân hàng đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng, thực hiện tốt khâu thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy tính, thực hiện thanh toán bằng thẻ tín dụng… Thực hiện tốt khâu cung ứng dịch vụ góp phần làm tăng thu nhập cho Ngân hàng vì xu hướng phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở rộng các hoạt động dịch vụ, đồng thời vẫn duy trì các nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống, thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động, các NHTM có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng các sản phẩm tài chính. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập từ chênh lệch tỷ giá và các dịch vụ thanh toán quốc tế, đó chính là doanh lợi hối đoái. Như vậy, thành phần chính trong cơ cấu tổng thu nhập của NHTM là lãi cho vay, lợi tức từ các khoản đầu tư, dịch vụ phí và doanh lợi hối đoái. 2. Nguồn vốn của NHTM. Hoạt động của NHTM luôn gắn liền với công tác huy động vốn. Vậy ta hiểu như thế nào là vốn? Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tạo nguồn vốn và đầu tư vốn là công việc của Nhà nước, nghĩa là Nhà nước đóng vai trò vừa là người cấp phát vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế, vừa là người tiêu thụ các sản phẩm mà các thành phần kinh tế đó sản xuất. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu do ngân sách của Nhà nước cấp hoặc vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Thực tế cho thấy, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp lại có hạn và nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư không thu hút được,vì chính sách huy động vốn chưa hợp lý, thủ tục gửi tiền và rút tiền còn rườm rà… Như vậy cơ chế bao cấp đã làm cho đồng tiền không được lưu thông và sử dụng có hiệu quả, không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường. Mặt khác cơ chế huy động vốn và sử dụng vốn trong thời kỳ này chưa được quan tâm đúng mức. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế tự bỏ vốn đầu tư. Điều đó làm cho vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu và là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước không thể bỗng dưng mà có được vốn vì không được cấp vốn như trước nữa, cho nên buộc họ phải tìm cách mua vốn trên thị trường tài chính. Như thế người mua vốn phải trả lãi cho người có vốn trên thị trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn trong thời gian xác định. Thông qua thị trường, vốn được lưu chuyển rộng rãi, từ đó nó mới có thể thể hiện đủ bản chất và vai trò của mình. C.Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn là: “Tư bản” qua định nghĩa hết sức cô đọng: “tư bản là giá trị mang lại thặng dư”. Như vậy, vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản tức là vốn phải được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định. Mặt khác vốn không chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá quý…) và phản ánh giá trị những tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa…) mà còn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản vô hình (uy tín, trình độ, phát minh, sáng chế, thông tin, công nghệ…) chính vì sự biểu hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng đó mà vốn cần phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận cao. Và cũng qua đó giúp ta phân biệt với tiền lương dễ dàng hơn: nếu có một lượng tiền được in không được phát hành trên cơ sở giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư thì đó chỉ là vốn giả tạo chứ không phải là vốn đầu tư, thực chất chỉ những đồng tiền phát hành trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị thực của hàng hoá mới được gọi là vốn. Như ta đã biết trong quá trình vận động, khác với các loại hàng hoá, điểm xuất phát và điểm kết thúc của vốn đều là tiền. Sau một chu kỳ vận động vốn được lớn lên và đem lại hiệu quả cao, thể hiện: Trong doanh nghiệp sản xuất: T-H..SX..H-T’ T’= T+t >T Trong NHTM: T=H-T’ Còn trong các tổ chức tài chính trung gian: T=T-T’ Tóm lại từ những nét đặc thù trên ta có thể đưa ra khái niệm như sau: Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của nó. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả mang lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần phải được quan tâm đúng mức. Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh tế có thể ví như máu trong cơ thể, thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển. Song vốn được tạo lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách tạo vốn. Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì? Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp cho ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Tuy nhiên, nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác. 2.1. Vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM, nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế đó là: cung cấp nguồn lực ban đầu cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới thành lập, là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, phòng ngừa rủi ro kinh doanh cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm: 2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu. Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện thành lập ngân hàng của pháp luật. Nguồn vồn này là lượng vốn tối thiểu mà ngân hàng cần phải có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh doanh. Các loại hình ngân hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau: Đối với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình thành ban đầu là do ngân sách nhà nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì là do các bên liên doanh đóng góp, nếu là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu của ngân hàng; nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu tư nhân. 2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Đó bao gồm: Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân hàng có thể chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng vốn tích lũy tư thu nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới cũng như cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết. 2.1.3. Các quỹ. Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm: - Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu. - Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. - Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,… Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ thu nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, vì trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp. 2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. 2.2. Nguồn huy động. Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng lại là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng,thường thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh lệch nhau một lượng nhất định. Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn rỗi này vào mục đích cho vay kiếm lời. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Vốn huy động bao gồm: - Tiền gửi giao dịch: Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào nhằm mục đích giao dịch thanh toán, chi trả các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh trong kinh doanh một cách an toàn, thuận tiện. Đặc tính cơ bản của tiền gửi giao dịch là có thể phát séc, lãi suất thấp và có tính không ổn định. - Tiền gửi phi giao dịch: Bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, chúng có tính ổn định cao, người gửi được hưởng lãi suất cao nhưng không được phát hành séc. Bên cạnh đó, NHTM còn có thể huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn. Các loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với mục đích, số lượng cụ thể và chỉ phát hành khi được sự cho phép của NHTW. Đặc điểm của các loại giấy nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm, có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác. 2.3. Nguồn đi vay. Là nguồn vốn mà ngân hàng phải vay mượn thêm trong trường hợp khả năng huy động của ngân hàng bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho khách hàng tăng cao. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan hệ vay mượn của ngân hàng thương mại với ngân hàng trung ương, với các tổ chức tín dụng khác hoặc giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương khi khả năng chi trả của ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các NHTM vay vốn của NHTW dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán, bổ sung vốn dự trữ... Để được vay chiết khấu các NHTM phải nộp cho NHTW các giấy tờ có giá có thời hạn còn lại là ngắn hạn xin chiết khấu như thương phiếu, chứng khoán của Chính phủ... chúng thường là các loại giấy tờ mà chủ thể phát hành ra chúng có uy tín cao. Lãi suất chiết khấu do NHTW quy định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Để đảm bảo cho việc thanh khoản của mình, các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời các ngân hàng thường vay mượn của nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có số dư tiền gửi vượt yêu cầu chưa sử dụng sẽ sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Quy trình vay mượn giữa các ngân hàng rất đơn giản, ngân hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí (và có thẻ là ngân hàng nhà nước). Khoản vay có thể có hoặc không cần đảm bảo, dựa trên cơ sở uy tín của ngân hàng đi vay hoặc mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau. Ngoài các hình thức trên ngân hàng có thể vay mượn bằng cáchphát hành các công cụ nợ như: Kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn. Các khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn, là giải pháp tình thế cho ngân hàng trong hoàn cảnh khó khăn. 3. Vai trò của nguồn vốn huy động. 3.1. Đối với nền kinh tế. Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận động theo cơ chế thị trường, việc này phải đồng thời với vấn đề phải phát triển một thị trường tài chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác động của thị trường, cuả các quy luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị…Chính vì vậy các doanh nghiệp để tồn tại được trên thương trường phải không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm,…Vấn đề này thực hiện được khi và chỉ khi doanh nghiệp huy động được đủ lượng vốn cần thiết và sử dụng có hiệu quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù đắp cho nhu cầu đầu tư của mình. Với sự xuất hiện của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng thương mại thì việc vay vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá nhân trở nên dễ dàng hơn. Doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm vốn từ nhiều nguồn khác nhau với chi phí tiết kiệm và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều. Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn nhất định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách Nhà nước là nguồn cung cấp chủ yếu cho kế hoạch chi tiêu của chính phủ, song không phải lúc nào nó cũng ở trong trạng thái lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt ra là có thể in thêm tiền hoặc tăng thuế, vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực lên toàn bộ nền kinh tế, qua đó nảy sinh các vấn đề về xã hội. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách vĩ mô không muốn nó xảy ra. Vì vậy nhà nước có thể sử dụng biện pháp tích cực hơn đó là tìm kiếm nguồn vốn huy động trong và ngoài nước thông qua việc phát hành các công cụ nợ như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc… Qua những dẫn chứng trên có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với nền kinh tế, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Để khai thông nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế chúng ta phải tận dụng tốt lượng vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua các kênh huy động của ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, và có thể từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Trong đó công tác huy động vốn trong ngân hàng thương mại đóng vai trò quyết định và được chú trọng hơn cả. Chính sách huy động vốn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập của quốc gia đó, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Vì nguồn vốn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy, nên chúng ta cần phải khơi thông các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, thông qua các kênh: vốn từ ngân sách nhà nước, vốn huy động của các tổ chức tín dụng… Trong các kênh trên, vốn từ ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng hiện nay số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm do việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc huy động vốn từ kênh này thường không cao. Bên cạnh đó, việc huy động vốn còn được thực hiện thông qua kênh tín dụng. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn qua kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng ở nước ta phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa đủ điều kiện để huy động vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc huy động vốn gián tiếp qua kênh ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng. Vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần thiết của các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế mà ngân hàng là một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát triển đó. Việc đẩy mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta hiện nay. 3.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với NHTM. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, nên trong quá trình chuyển mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình chứ không bao cấp như trước nữa. Do đó, tính năng động sáng tạo được khơi dậy, các NHTM có xu hướng phát triển đa năng. Vì đóng vai trò là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, là thủ quỹ của nền kinh tế nên NHTM là tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Các nguồn vốn huy động được sẽ quyết định quy mô cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu vào thường xuyên, chủ yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này. Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, với quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên quan chặt chẽ với lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và lãi suất các công cụ nợ do ngân hàng phát hành. Nguồn vốn huy động không những g._.iúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu hụt trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động vốn, ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời. Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín dụng cấp bách còn ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu một ngân hàng huy động được vốn trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng đầu tư dài hạn. Nhưng hiện nay việc huy động vốn trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế nên một ngân hàng có thể dùng vốn hoạt động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn nhưng không được vượt quá một tỷ lệ nhất định vì điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng huy động được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và nó quyết định rất lớn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. II. Các hình thức huy động vốn. Do NHTM huy động theo phương thức “đi vay để cho vay” mà vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển, NHTM phải quan tâm tới các hình thức tạo vốn để không ngừng mở rộng, phát triển vốn để cạnh tranh trên thị trường. Quá trình tạo vốn được thực hiện thông qua các hình thức sau: 1.1. Tạo vốn thông qua tiền gửi thanh toán. Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hoặc cá nhân: đây là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu của ngân hàng, cá nhân đều có thể được nhập vào thiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung đây là một khoản huy động có lãi suất thấp, có khi bằng không, thay vào đó chủ tài khoản được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Mặc dù, đối với tiền gửi thanh toán, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định về thời gian và số lượng, nên các loại tài khoản này luôn có số dư. Ngân hàng có thể huy động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay như cho vay thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán. Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất của loại tiền gửi này lên nhằm cạnh tranh với các tài chính tín dụng khác. Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện trả lãi cho loại tiết kiệm tiền gửi này (hiện nay khoảng 0,2%/tháng). ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm khoảng 30% tiền gửi của các ngân hàng. Vì lẽ đó, tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán này được ngân hàng đặc biệt coi trọng. Bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của các ngân hàng khác, nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô của nguồn này thường không lớn. 1.2. Tạo vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn. Nhiều khoản thu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một khoảng thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trọng hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc khách hàng ký thác chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên trên thực tế do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút trước hạn. Trong trường hợp này có thể có hai cách giải quyết: hoặc khách hàng vay tiền của ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền thì dùng số tiền và lãi thu được để trả nợ (cả gốc và lãi vay của ngân hàng); hoặc là thỏa thuận với khách hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp hơn. Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì mục đích của người gửi tiền là kiếm lợi chứ không phải là để thanh toán. Do đó, khác với loại tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến loại nguồn vốn này. Để tăng cường huy động nguồn vốn này, trước hết các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại khách hàng khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 2 năm, 5 năm. Với mỗi loại thời hạn, ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. 1.3. Tạo vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm. ởởoooooooooooooở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị trí số hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của cá nhân nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ, loại tiền gửi này thường chiếm tỷ trọng khá cao (Mỹ: 25%, Việt Nam: 60 – 70%). Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: (bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ) Với loại tiết kiệm này người gửi có thể rút một phần hay toàn bộ theo yêu cầu. Tuy nhiên, khác với tiền gửi thanh toán, người gửi không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ): loại tiền gửi này có nội dung cơ bản giống như tiền gửi có kỳ hạn mà chúng ta nghiên cứu ở trên. 1.4. Tạo vốn thông qua huy động tiền gửi của ngân hàng khác. Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ giữa các ngân hàng có quan hệ trên thị trường liên ngân hàng tạo thuận tiện cho khách hàng và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn do hình thức này chỉ được áp dụng trong trường hợp ngân hàng có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa đầu tư, cho vay hoặc hiệu quả việc đầu tư, cho vay không hiệu quả bằng gửi tiền ở ngân hàng khác. 1.5. Tạo vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá. Giống như các doanh nghiệp khác ngân hàng cũng huy động vốn bằng cách phát hành các giấy tờ có giá (hay còn gọi là các công cụ nợ) như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu ngân hàng…để huy động vốn trên thị trường vốn. Các công cụ nợ của ngân hàng là các giấy nhận nợ mà ngân hàng bán cho công chúng. Đây là cách thức vay vốn của NHTM, bởi vì những người sở hữu các công cụ này được hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn cộng thêm khoản tiền lãi nhất định. Những công cụ nợ của ngân hàng là: - tín phiếu ngân hàng: Đây là công cụ nợ ngân hàng dùng để huy động những khoản vốn ngắn hạn. - Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là những công cụ nợ để ngân hàng huy động những khoản vốn trung - dài hạn. Nếu đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc nhiều vào sở thích của khách hàng thì việc sử dụng các công cụ nợ là một hình thức huy động vốn mang tính chủ động của ngân hàng. Tuy nhiên việc khách hàng có chấp nhận mua các công cụ nợ đó hay không mới là điều quan trọng. Nguồn vốn huy động có được bằng việc phát hành các công cụ nợ sử dụng cho những khoản tín dụng trong kế hoạch của ngân hàng. Với lãi suất tín dụng trong kỳ kế hoạch, ngân hàng xác định mức lãi suất nhất định cho các công cụ nợ, hay đưa vào thời hạn các khoản tín dụng trong kế hoạch mà ngân hàng xác định sử dụng loại công cụ ngắn hạn hay trung - dài hạn. Đây là một hình thức tương đối mới mẻ so với các NHTM của các nước đang phát triển vì nó phụ thuộc vào uy tín và năng lực tài chính của chính ngân hàng đó. Tại Việt Nam, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 89/ QĐ- NH9 và quyết định số 76/ QĐ- NH vào ngày 18/03/1995 về việc thành lập thị trường mua bán lại tín phiếu cùng với quy chế tổ chức hoạt động của thị trường này, tuy nhiên sự chấp nhận của khách hàng, dân cư còn thấp. Thị trường chứng khoán ra đời phần nào đã thúc đẩy được việc mở rộng hình thức huy động vốn của các NHTM qua việc phát hành các công cụ nợ. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn. 3.1. Những nhân tố khách quan. 3.1.1.. Tình hình kinh tế- xã hội. Đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung đến việc huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó có nguồn vốn của NHTM. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền gửi, tiền tiết kiệm gửi vào các NHTM ngày càng nhiều… Ngoài ra với một nền kinh tế phát triển thì công nghệ ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói quen sử dụng những lợi ích do các NHTM cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán chủ yếu qua ngân hàng, ngân hàng thu được càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng được vốn trong thanh toán. Lạm phát là một yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng hy vọng rằng họ sẽ thu được khoản tiền lãi nhất định, lạm phát cao hoặc biến động có thể làm trượt giá đồng tiền và họ sẽ chuyển các tài khoản của họ sang hình thái khác có tính ổn định hơn về giá trị. Bên cạnh đó, các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng là các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành một nguồn tiền gửi lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Ví dụ: vào dịp cuối năm, nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng như tiền gửi của các doanh nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn đang phổ biến như nước ta hiện nay. 3.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng trong hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như chính sách tiết kiệm, chính sách lãi suất,.. Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai trò hiệu quả và theo sát thị trường, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì mới tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển các thị trường tiền tệ cũng như hoạt động của hệ thông ngân hàng. Mặt khác, việc xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng cũng là một nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại. 3.2. Những nhân tố chủ quan. 3.2.1. Lãi suất Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động tín dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi xem xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi lãi suất thay đổi theo diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, điều đó khiến ngân hàng phải tìm kiếm, hoạch định mức lãi suất phù hợp cho mình. Trong trường hợp lãi suất biến động do tác động của các yếu tố phi vật chất (yếu tố tâm lí, yếu tố cạnh tranh không lành mạnh...) sẽ có tác động bất lợi đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây là khó khăn đối với các ngân hàng thương mại có quy mô hoạt động nhỏ, vốn tự có và khả năng tài chính thấp. Trong trường hợp đó là viêc tăng lãi suất huy động, tác động hiệu ứng đối với toàn bộ hệ thống, buộc các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng gửi tiền trong khi đó có thể không thực sự có khó khăn về nguồn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, các hiện tượng kinh tế thường có diễn biến, thay đổi nhanh. Lãi suất cũng là yếu tố nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự thay đổi của quan hệ cung cầu về vốn. Vì vậy, ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động cần có sự theo dõi sát sao sự biến động đó để có những giải pháp ứng phó kịp thời nhằm ổn định tình hình kinh doanh của mình. 3.2.2. Công nghệ ngân hàng. Ngân hàng loại hình kinh doanh đặc biệt trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Ngân hàng cũng có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Vì vậy mà công nghệ ngân hàng cần đi trước một bước, công nghệ ngân hàng liên quan trực tiếp đến các mặt hoạt động như thanh toán, giao dịch, kế toán…Trong cạnh tranh các ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ bởi lẽ các dịch vụ ngân hàng sẽ không được đa dạng, đổi mới trừ khi ngân hàng áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến. Đối với một ngân hàng có công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn. 3.2.3. Chiến lược Marketing ngân hàng. Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển, tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thực tế, để đạt được điều này không phải là đơn giản vì khi áp dụng marketing vào ngân hàng thường gặp một số khó khăn như: Với xu hướng phát triển kinh tế, nhu cầu của khách hàng ngày càng cao. Các ngân hàng cần phải đổi mới nhanh chóng trang thiết bị, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ… Thông qua công tác marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn với thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách hàng về chất lượng, chủng loại các sản phẩm của ngân hàng. Không những thế, công tác marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách hàng mới, ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến lược marketing. Dựa trên yếu tố này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ thuật marketing được tập trung vào 4 chính sách lớn: Chính sách thông tin, ngiên cứu, tìm hiểu điều tra. Thực thi chính sách này cần huy động toàn bộ phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện việc quan sát, phân tích và tổng hợp các lĩnh vực cơ bản có liên quan đến thị trường của ngân hàng. Từ các thông tin có được ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị trường. Chính sách sản phẩm giá cả. Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của nghề ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn khách hàng, nghiệp vụ thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp vụ ngoại vi không mạng lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng kích thích sự chú ý, thu hút khách hàng và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa mãn của khách hàng đối với các dịch vụ cơ bản. Đặc biệt với sự đa dạng hóa các sản phẩm của nghiệp vụ huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng khả năng huy động vốn. Hiển nhiên, một ngân hàng có các dịch vụ tốt, đa dạng sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng khác mà các sản phẩm dịch vụ không tốt. Một ngân hàng mà có dịch vụ thanh toán hoạt động tốt, đa dạng sẽ thu hút được nhiều tiền gửi thanh toán hơn các ngân hàng khác. Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi suất của các khoản tiền gửi, tiền vay, chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Yếu tố giá có vai trò quan trọng đối với kết quả huy động vốn, sử dụng vốn và cung ứng dịch vụ khác của ngân hàng. Chính sách lãi suất cạnh tranh là một chiến lược quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động, đặc biệt cần thiết khi lãi suất thị trường đang ở mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang nắm giữ sang một công cụ khác hoặc chuyển tiền đầu tư, tiết kiệm từ một tổ chức này sang một tổ chức khác để có lợi nhuận cao hơn. Chính sách phân phối. Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa ra sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Việc đa dạng hóa các kênh phân phối, mở rộng các quầy giao dịch (số lượng các quầy giao dịch, địa điểm mở quầy, các sản phẩm, dịch vụ cung ứng tại quầy, trang thiết bị được sắp xếp tại quầy, trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên…) có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân phối, nhiều quầy giao dịch thì cơ hội tiếp xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó khả năng huy động vốn sẽ tăng lên. Tuy nhiên, việc mở rộng các kênh phân phối, mở thêm nhiều quầy giao dịch cần phải tính đến yếu tố chi phí để mở rộng sao cho phù hợp với hiệu quả thu được từ nó. Chính sách giao tiếp, khuyếch trương. Các ngân hàng thường quan tâm hàng đầu tới các chính sách giao tiếp khuyếch trương. Bởi vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng tạo ra hình ảnh của ngân hàng, tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Bên cạnh đó, quảng cáo cũng là một phương tiện rất quan trọng để nâng cao vị thế của ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng, tạo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng. 3.2.4.Công tác cán bộ tổ chức. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đoàn kết, thân thiện, năng động thì đó là nền tảng thành công của ngân hàng. Bởi lẽ khách hàng muốn giao dịch, kinh doanh với một ngân hàng bề thế tiện lợi, các nhân viên dễ mến, lịch sự và có chuyên môn. Chương 2 Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh ngân hàng công thương ba đình. I. Khái quát về ngân hàng công thương Ba Đình. 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHCT Ba Đình. Chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Đình Hà Nội (hay gọi tắt là NHCT Ba Đình) ra đời từ năm 1959, với tên gọi lúc được thành lập là Chi điếm Ngân hàng Ba Đình trực thuộc ngân hàng Hà Nội, có trụ sở tại số 142 phố Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Với số lượng cán bộ lúc ban đầu thành lập là 10 người, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, nhiệm vụ của ngân hàng là vừa xây dựng cơ sở vật chất, củng cố tổ chức và hoạt động ngân hàng (hoạt động dưới hình thức cung ứng, cấp phát theo chỉ tiêu-kế hoạch được giao) nhằm mục tiêu phục vụ chế độ bao cấp, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lý 1 cấp (NHNN). Mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho đến tháng 7 năm 1988 thì kết thúc. Ngày 01/ 07/ 1988, thực hiện Nghị định số 53 của Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Chính phủ) ngành Ngân hàng chuyển hoạt động từ cơ chế quản lý hành chính, kế hoạch hoá sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo mô hình quản lý Ngân hàng hai cấp (Ngân hàng Nhà nước - NHTM) lấy lợi nhuận làm mục tiêu trong hoạt động kinh doanh, các Ngân hàng hoạt động thương mại quốc doanh lần lượt ra đời (NHCT - NHNT – NHĐT&PT- NHNN & PTNT) trong bối cảnh chuyển đổi đó, Ngân hàng Ba Đình cũng đã được chuyển đổi thành một chi nhánh NHTM quốc doanh với tên gọi chi nhánh Ngân hàng Công thương quận Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội. Hoạt động kinh doanh mang tính kinh doanh thực sự, thông qua việc đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ, lấy lợi nhuận làm mục tiêu kinh doanh, cùng với việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh dịch vụ, khai thác và mở rộng thị trường, đưa thêm các sản phẩm mới vào kinh doanh. Lúc này Ngân hàng Công thương Ba Đình hoạt động theo mô hình quản lý NHCT ba cấp (TW - Thành phố - Quận). Với mô hình quản lý này trong những năm đầu thành lập (7/1988 - 3/1993) hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba Đình kém hiệu quả, không phát huy được thế mạnh và ưu thế của một Chi nhánh Ngân hàng Thương mại trên địa bàn thủ đô, do hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào Ngân hàng Công thương Thành phố cùng với những khó khăn thử thách của những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo đường lối mới của Đảng. Trước những khó khăn vướng mắc từ mô hình tổ chức quản lý cũng như từ cơ chế, theo quyết định số 93/NHCT - TCCB của Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (01/04/1993) Ngân hàng Công thương Ba Đình thực hiện thí điểm mô hình tổ chức NHCT hai cấp (cấp TW - Quận) xoá bỏ cấp trung gian là Ngân hàng Công thương Hà nội cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ. Do vậy ngay sau khi nâng cấp quản lý cùng với việc đổi mới cơ chế hoạt động, tăng cường đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba Đình đã có sức bật mới, hoạt động kinh doanh theo mô hình một NHTM đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị trường và không ngừng tự đổi mới, hoàn thiện để thích nghi với các môi trường kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường. Từ đó đến nay hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba Đình được ổn định và phát triển theo bốn định hướng lớn của ngành, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kìm chế lạm phát, thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ, đưa lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với những năm trước. 1.2. Đặc điểm môi trường hoạt động và khách hàng của NHCT Ba Đình. Ngân hàng công thương Ba Đình nằm trên địa bàn không có nhiều lợi thế về cơ sở kinh tế (dân cư không tập trung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế lớn không nhiều…) nhưng lại có nhiều các tổ chức tín dụng lập trụ sở để huy động vốn. Chính vì vậy ngân hàng phải xác định phương châm luôn tự làm mới bản thân để tồn tại trong môi trường cạnh tranh mà ở đó có không nhiều cơ hội kinh doanh. Những ngày đầu mới thành lập, hoạt động của ngân hàng chủ yếu trong địa bàn quận, do vậy đã hạn chế đi nhiều khả năng kinh doanh của ngân hàng. Đến nay, hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã phát triển, mở rộng quy mô cả về lượng và về chất, hiện nay ngân hàng đã và đang mở thêm nhiều chi nhánh cũng như quầy giao dịch với mạng lưới rộng khắp nội ngoại thành, có nhiều sản phẩm, dịch vụ đa năng , tổng hợp trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, thu hút được sự tín nhiệm của đông đảo khách hàng trong và ngoài nước. Chương trình đẩy mạnh cho vay và đầu tư của chi nhánh NHCT Ba Đình đã mở rộng khắp các thành phần kinh tế với phương châm tập trung chọn lọc, vừa đẩy mạnh bán buôn, vừa quan tâm đến bán lẻ. 1.3. Sơ lược về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn. Mục tiêu của chi nhánh trong những năm qua là tiếp tục đẩy mạnh hoạt động huy động vốn, nâng cao cả về số lượng và chất lượng của các khoản huy động. Biện pháp thực hiện huy động vốn của ngân hàng trong những năm qua có một số điểm cơ bản như sau: Từng cán bộ tại các quỹ tiết kiệm luôn chú ý đến phong cách giao dịch với khách hàng, mặt khác Chi nhánh thường xuyên cải tạo sửa chữa, nâng cấp và bổ sung thêm trang thiết bị máy móc cho các quỹ tiết kiệm đảm bảo phục vụ cho khách hàng kịp thời. Mở thêm nhiều quỹ tiết kiệm nơi dân cư tập trung, cải tạo nâng cấp hầu hết các quỹ tiết kiệm nhằm nâng cao chất lượng mạng lưới huy động vốn tại nhiều địa bàn, chủ động tìm kiếm khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế với các hình thức huy động hấp dẫn. Chuẩn bị chu đáo trong triển khai các đợt tiết kiệm dự thưởng, phát hành kì phiếu theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam nên các đợt huy động đều vượt mức so với các chỉ tiêu giao như: trong năm 2003 tiết kiệm dự thưởng đã huy động được 337,3 tỷ đồng vượt kế hoạch 62 tỷ(+22%), đợt phát hành kì phiếu 6 tháng trả lãi sau huy động được 282 tỷ đồng, vượt kế hoạch 132 tỷ(+88%). Đợt huy động trái phiếu vô danh từ tháng 6/2003 đến tháng 8/2003 NHCT Việt Nam giao huy động 90 tỷ VNĐ, chi nhánh đã huy động được 190,65 tỷ vượt trên 100 tỷ (gấp 2,1 lần). - Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất như: thiết bị thông tin, đường truyền, máy in, đào tạo cán bộ… và các bước chuẩn bị khác nên khi thực hiện công tác hiện đại hóa theo chương trình INCAS của NHCT Việt Nam từ ngày 1/11/2003 đến nay đã dần được ổn định và chính xác hơn ở tất cả các quỹ tiết kiệm. Hoạt động cho vay và đầu tư. Trong điều kiện tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều diễn biến không thuận lợi, lãi suất đầu vào biến động theo xu hướng ngày càng tăng, bên cạnh đó sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn ngày càng mạnh hơn, nên hoạt động tín dụng đã gặp rất nhiều thách thức. Nhưng với sự nỗ lực tìm kiếm thị trường, áp dụng nhiều hình thức đầu tư mới trong các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh đa dạng đặc biệt ở các ngành Giao thông vận tải xây dựng cầu đường, bến cảng, sản xuất công nghiệp trong ngành dầu khí…Thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam theo phương châm “ Phát triển- an toàn- hiệu quả’’ chi nhánh đã chú trọng tăng trưởng tín dụng phải kiểm soát được vốn cho vay. Trên cơ sở chọn lọc khách hàng, giảm dần dư nợ đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, vốn chủ sở hữu nhỏ, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, coi trọng hiệu quả kinh tế và thực hiện nghiêm túc các quy chế về tín dụng hiện hành. Trong những năm vừa qua, chi nhánh luôn tập trung nâng cao chất lượng tín dụng đi đôi với việc tăng trưởng dư nợ lành mạnh nhằm đảm bảo an toàn vốn cho vay và hiệu quả vốn tín dụng. Kết quả sơ bộ như sau: Năm 2001 tổng dư nợ cho vay đạt 1166 tỷ . So với cùng kì năm trước tăng 360 tỷ , tốc độ tăng 45% so với cùng kì , vượt 25% so với kế hoạch ( toàn hệ thống tăng 34% ) . Trong đó: - Cho vay ngắn hạn : Dư nợ 958 tỷ, so với cùng kì năm trước tăng 254 tỷ, tốc độ tăng 36%. + Ngành nông nghiệp : Có mức dư nợ 169 tỷ tăng hơn năm trước 106 tỷ. + Ngành thương nghiệp : mức dư nợ tăng 38 tỷ . + Ngành sản xuất công nghiệp : có mức dư nợ 355 tỷ tăng hơn trước 23 tỷ - Cho vay trung và dài hạn : Dư nợ 31/12/2001 đạt 208 tỷ tăng 2,02 lần so với năm trước . Doanh số cho vay năm 2001 đạt 3077 tỷ tăng hơn năm trước 679 tỷ , tốc độ tăng 28,3% . Vòng quay vốn tín dụng 2,96 vòng / năm tăng hơn năm trước 0,38 vòng. Phân định cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế: - Cho vay doanh nghiệp Nhà nước đạt 1114 tỷ ,đạt 96% tổng dư nợ. Hầu hết cho vay các doanh nghiệp nhà nước hiện nay áp dụng hình thức cho vay không có tài sản đảm bảo . Một vài đơn vị trực thuộc cho vay có bảo lãnh của tổng công ty, và một số ít các doanh nghiệp khác cho vay trung và dài hạn co tài sản đảm bảo băng chính đối tượng cho vay. - Cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 52 tỷ , chiếm tỷ trọng 4% tổng dư nợ. Tình hình nợ quá hạn , xử lý tài sản bảo đảm của nợ tồn đọng : + Nợ quá hạn , tồn đọng đến cuối năm 17.706 triệu , chiếm 1,5% tổng dư nợ tăng hơn năm trước 0,66% , mức tăng thêm 11.474 triệu . + Thu nợ quá hạn 5444 triệu đồng. Xử lý rủi ro và xét giảm miễn lãi : Xử lý rủi ro và nợ tồn đọng : Trong năm không có trường hợp nào xét rủi ro về tín dụng . Tuy nhiên về xác định nợ tồn đọng theo quyết định 149 của Chính phủ thì nợ tồn đọng đến cuối năm 2001 còn được xác định là 20.012 triệu đồng và đã được phân loại theo từng tiêu thức hướng dẫn của quyết định 149 . Đã tận thu nợ được bằng quỹ rủi ro năm 2000 xấp xỉ 5 triệu đồng qua bán tài sản cầm cố của công ty Đầu tư phát triển Sinh vật cảnh . Về xét giảm miễn lãi : Đã xét và trình NHCT Việt Nam giảm miễn lãi cho 3 doanh nghiệp 3884 triệu đồng và tận thu lãi được 2550 triệu . Trong đó trong năm đã thực hiện miễn giảm lãi 2195 triệu cho 2 doanh nghiệp và tận thu lãi 600 triệu . Về nghiệp vụ bảo lãnh : Tổng giá trị bảo lãnh trong và ngoài nước đến 31/12/2001 đạt 341 tỷ so với cùng kì năm trước tăng 78 tỷ, tốc độ tăng 30%. Trong đó: Bảo lãnh trong nước 327 tỷ tăng 87 tỷ, bảo lãnh trả chậm nước ngoài 13 tỷ ( tương đương 891000 USD) giảm 9 tỷ do đến hạn thanh toán đã trả nợ nước ngoài . Toàn bộ giá trị bảo lãnh trong năm 2001 được an toàn, không phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh thay doanh nghiệp . Trong năm 2002 hoạt động cho vay và đầu tư đạt được những kết quả cụ thể như sau: * Doanh số cho vay đạt 3.166 tỷ đồng, tăng hơn năm trước 103 tỷ đồng. * Doanh số thu nợ đạt 2.711 tỷ đồng, so với năm trước giảm 214 tỷ đồng * Về dư nợ: + Tổng các khoản đầu tư và cho vay đạt 1.632,37 tỷ đồng, tăng 18,37 tỷ đồng, đạt 101% kế hoạch giao. Trong đó: Góp vốn cho vay đồng tài trợ: 56,90 tỷ đồng Dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 1.564,67 tỷ đồng, tăng 399,17 tỷ đồng, tốc độ tăng 34% so với đầu năm và đạt 100% kế hoạch giao. Trong đó: Dư nợ cho vay VNĐ: 1.364,65 tỷ đồng, tăng 295, 65 tỷ đồng tốc độ tăng 28% so với đầu năm. Dư nợ cho vay ngoại tệ quy VNĐ: 200,02 tỷ đồng tăng 103,52 tỷ đồng, tốc độ tăng 107% so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 13% * Cơ cấu đầu tư, tín dụng - Theo loại đầu tư, cho vay + Dư nợ đầu tư, cho vay ngắn hạn: 1.233,54 tỷ đồng, tăng 274,24 tỷ đồng, tốc độ tăng 28,5% so với đầu năm. + Dư nợ đầu tư, cho vay trung dài hạn: 388,03 tỷ đồng tăng 182 tỷ, tốc độ tăng 88% so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 24%/ tổng dư nợ. - Cơ cấu đầu tư, cho vay theo thành phần kinh tế: + Dư nợ cho vay quốc doanh: 1.483,41 tỷ đồng, tăng 366,95 tỷ đồng, tốc độ tăng 33% so với đầu năm. + Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh: 138,16 tỷ đồng tăng 86,12 tỷ đồng, tốc độ tăng 165% so với đầu năm và chiếm tỷ trọng 9% so với tổng dư nợ ( tăng 5% so với đầu năm ). Về nghiệp vụ bảo lãnh: Dư bảo lãnh đến 31/12/2002 đạt 380 tỷ đồng tăng 40 tỷ tương ứng 11,4% so với năm 2001. trong đó: + Dư bảo lãnh trong nước : 356 tỷ đồng. + Dư bảo lãnh ._.n phẩm huy động, nâng cao hơn nữa tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài ngân hàng phấn đấu đạt được mục tiêu: bất kì cá nhân tổ chức nào có nguồn tiền chưa sử dụng, đều có thể tìm kiếm ở ngân hàng một loại hình huy động nào đó phù hợp với mong muốn của họ. Riêng đối với hình thức huy động tiết kiệm kì hạn truyền thống, cần có những sửa đổi theo hướng linh hoạt cho phép khách hàng đó rút tiền trước hạn tong phần, trả lãi định kì với những món gửi lớn, khách hàng được quyền lựa chọn kì hạn bất kì trong trong giới hạn kì hạn tối đa của ngân hàng. 4. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Nhân tố con người trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt. Nó quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố không thể thiếu, quyết định nguồn vốn huy động cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Bởi chính các cán bộ kế toán là người trực tiếp nhận tiền gửi, thanh toán cho khách hàng... nên đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, có phong cách làm việc văn minh, lịch sự, cách thức giải quyết công việc khoa học. Do vậy, để huy động vốn đạt hiệu quả cao thì chi nhánh cần chú trọng hơn nữa về cán bộ công nhân viên của mình thông qua việc thường xuyên đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công nhân viên nói chung và cán bộ làm công tác nguồn vốn nói riêng. Cụ thể: - Cần đào tạo và đào tạo lại có hệ thống cán bộ công nhân viên theo tiêu chuẩn quy định. Nghĩa là, cán bộ làm công tác huy động vốn phải có kiến thức về mặt nghiệp vụ như: phải được đào tạo về tin học, về thanh toán không dùng tiền mặt... cán bộ công nhân viên phải được phổ cập các kiến thức cơ bản về vốn, lãi suất, ngoại tệ...để đáp ứng các yêu cầu của công việc ngày càng phức tạp. Từ đó có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải đáp được mọi thắc mắc của người gửi tiền, hướng dẫn họ làm đúng thủ tục nhằm tạo niềm tin nơi khách hàng. Đây là yếu tố đánh vào tâm lý khách hàng, khi khách hàng cảm thấy thoả mãn, hài lòng thì lần sau có tiền họ tiếp tục gửi vào và giới thiệu thêm nhiều khách hàng hơn nữa. - Tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp, tổ chức cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với trình độ, được bố trí sử dụng đúng chuyên môn với phong cách làm việc, phẩm chất đạo đức, kỷ luật lao động và có tâm huyết với nghề nhằm phát huy năng lực sở trường của từng cán bộ. - Cần trang bị kiến thức Marketting nhằm tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong chi nhánh trở thành một mắt xích trong việc thu thập và xử lý thông tin, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng. Đặc biệt là những cán bộ thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng thì việc trang bị kiến thức sao cho họ phải là những cán bộ Marketting tốt nhất, phải luôn biết tận dụng mọi cơ hội để quảng cáo, giới thiệu về ngân hàng mình, để hình ảnh ngân hàng trở lên gắn bó, không thể thiếu trong tâm trí khách hàng. - Cần chú trọng đổi mới phong cách phục vụ khách hàng. Hiện nay, khi bước vào ngân hàng, khách hàng vẫn còn bỡ ngỡ. Họ đến với ngân hàng chỉ với một trong hai lý do: Hoặc là đến giao dịch hoặc là đến tìm hiểu ngân hàng trước khi quyết định trở thành khách hàng của ngân hàng đó. ở một số ngân hàng có những người lần đầu tiên đến ngân hàng, họ không biết phải đến phòng nào, bàn nào trước và cần làm những thủ tục gì trong khi đó lại không có người hướng dẫn, hỏi nhân viên thì có thể nhận được thái độ lạnh lùng, bất cần hay trả lời hờ hững cho qua chuyện, đôi khi còn cáu gắt, khinh thường...Với thái độ phục vụ như vậy thử hỏi khách hàng có còn tìm đến ngân hàng nữa hay không? Từ đó cho thấy thái độ, phong cách phục vụ của nhân viên ngân hàng là rất quan trọng. Vì vậy, tất cả các NHTM nước ta hiện nay và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng, tuy phong cách phục vụ khách hàng đã được cải thiện rất nhiều nhưng vẫn cần phải đổi mới hơn nữa, nhất là những nhân viên tiếp xúc thường xuyên, trực tiếp và hàng ngày với khách hàng. Hơn ai hết, họ là bộ mặt, là hình ảnh của ngân hàng, do vậy, phải thực sự nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, tận tâm, biết lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, có trình độ chuyên môn vững vàng và có phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, tận tình, chu đáo...tạo ra sự đồng cảm và lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng, làm cho khách hàng cảm thấy mình rất quan trọng đối với ngân hàng, thấy mình đang thực sự được là “thượng đế”, hãnh diện khi bước vào ngân hàng. Để từ đó, ngân hàng sẽ ngày càng thu hút được nhiều người đến gửi tiền và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng, giúp ngân hàng nâng cao vị thế cạnh tranh và mở rộng thị phần. - Chi nhánh cũng cần phối hợp với trung tâm đào tạo tin học nâng cao, tổ chức các lớp học ngoại ngữ, phối hợp với Trung tâm thông tin trong việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đảm bảo vận hành hệ thống vi tính đạt hiệu quả. - Cần đẩy mạnh công tác tự đào tạo trong nội bộ ngân hàng, trong nội bộ phòng để các thành viên bổ trợ thêm kiến thức chuyên môn và của những bộ phận công việc liên quan để hỗ trợ nhau, nâng cao hiệu quả trong công việc. Để làm tốt những công việc trên, chi nhánh nên có chế độ quan tâm, khuyến khích thích đáng bằng lợi ích và vật chất đối với cán bộ thực sự có thành tích trong hoạt động của ngân hàng và trong trong công tác huy động vốn nói riêng. 5. Phát huy hiệu quả chiến lược marketing ngân hàng. Một công tác không kém phần quan trọng trong chiến lược huy động vốn của ngân hàng là chính sách Marketting, trong đó nổi bật là hoạt động quảng cáo, khuyếch trương, tuyên truyền thông tin. Đây là việc làm ngân hàng đương nhiên phải thực hiện để có thể đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt về lĩnh vực cung ứng các sản phẩm tài chính ra quảng đại quần chúng. Ngoài việc mở rộng phạm vi hoạt động và chuyển tải các thông tin về ngành ngân hàng; quảng cáo, khuyếch trương trong huy động vốn, nhất là huy động tiết kiệm còn có ý nghĩa tuyên truyền ý thức tiết kiệm cho người dân, tạo cơ sở tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhằm thực hiện các chương trình đầu tư, phát triển đất nước, mà trước hết là phát triển nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn, cải thiện đời sống và tri thức người nông dân. Trong thời gian qua, chi nhánh đã ý thức rõ vai trò to lớn của công tác Marketting nói chung và hoạt động tuyên truyền, quảng cáo nói riêng nên đã không ngừng đẩy mạnh công tác này, nghiên cứu áp dụng vào thực tế những biện pháp quảng cáo, khuyếch trương mới, phù hợp với tâm lý và sở thích người dân. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập ngân hàng ngày càng cao, mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt, bên cạnh việc không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đầu tư sinh lời, chi nhánh cần phải coi trọng hơn nữa chính sách khuyếch trương, quảng cáo – một bộ phận quan trọng của chiến lược Marketting. Cụ thể: - Chi nhánh thường xuyên cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động tài chính, báo cáo tài chính kiểm toán...thông qua các ấn phẩm, truyền thanh, truyền hình để dân chúng biết cụ thể hơn về khả năng hoạt động và các dịch vụ của chi nhánh cũng như lợi ích mà nó sẽ đem lại cho khách hàng. Từ đó tạo ra cho khách hàng một cái nhìn tổng quát và chi tiết hơn về hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng, tăng lòng tin của họ và họ sẽ gửi tiền nhiều hơn. - Để khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng biết thêm thông tin một cách thực tế hơn, chi nhánh nên khuyến khích họ tham gia vào các buổi nói chuyện, thuyết trình giới thiệu về hoạt động của chi nhánh, đặc biệt là các sản phẩm huy động vốn tại các cơ quan, xí nghiệp, trường học hay đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng... Qua đó làm cho mọi người dân thấy được các ưu điểm của việc gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đó là tính an toàn, tiện dụng, khả năng sinh lời. - Tuy nhiên chỉ tuyên truyền, quảng cáo là không đủ, muốn tạo lòng tin trong dân thì phải chứng minh bằng thực tế các ưu điểm của ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng. Tại các địa bàn hoạt động mới, nơi người dân chưa quen với việc mở tài khoản tại ngân hàng, chi nhánh nên làm thí điểm việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân ở một số cơ quan, xí nghiệp; Khuyến khích một số cơ quan mở tài khoản cá nhân cho cán bộ và trả lương qua các tài khoản này một cách miễn phí. Nếu chi nhánh thành công trong thí điểm thì chẳng những đã tạo được lòng tin trong dân chúng mà chính những người tham gia thí điểm này sẽ là những quảng cáo viên tốt nhất cho chi nhánh. Cùng với việc tăng cường tuyên truyền, quảng cáo thì khuyến mãi là công cụ hỗ trợ đắc lực để hoạt động tuyên truyền, quảng cáo đạt hiệu quả cao. Để thu hút ngày càng nhiều vốn, chi nhánh nên áp dụng các hình thức khuyến mãi đa dạng, tạo sự thích thú nơi khách hàng, khách hàng không những được hưởng mức lãi suất mà còn được hưởng sự ưu đãi do khuyến mãi đem lại như: tham dự hình thức quay xổ số dự thưởng theo số sổ hoặc seri, sổ chứng từ có giá, áp dụng lãi suất ưu đãi hoặc khuyến khích vật chất đối với những khách hàng duy trì giao dịch thường xuyên với chi nhánh như tặng quà vào những dịp đặc biệt (Lễ, Tết, ngày sinh nhật...), tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể thao, làm công tác từ thiện...nhằm gây ảnh hưởng, nâng cao uy tín của chi nhánh sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư. Như vậy, chi nhánh cần vận dụng một cách linh hoạt có sáng tạo các giải pháp khuyếch trương, quảng cáo trên đây, sẽ tăng khả năng huy động vốn, đồng thời tạo ra ưu thế cạnh tranh của chi nhánh về mọi mặt hoạt động. 6. Kết hợp công tác kiểm tra, kiểm soát, phân tích, đánh giá năng lực khách hàng. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp khách hàng thông qua việc phân tích đánh giá tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng chi trả của khách hàng, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Đối với từng đối tượng cho vay phải có phương thức cho vay, biện pháp bảo đảm nợ cũng như xác định mức cho vay phù hợp. 7. Gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ, hỗ trợ, chi phối lẫn nhau. Nguồn vốn là cơ sở, tiền đề để ngân hàng thực hiện đầu tư, cho vay. Chỉ khi ngân hàng tiến hành đầu tư, cho vay thì đồng vốn mới sinh lời. Do đó, sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để ngân hàng quyết định khối lượng, cơ cấu nguồn vốn cần huy động. Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát triển vốn một cách vững chắc nhất, vì khi đồng vốn đầu tư, cho vay phát huy hiệu quả làm cho kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên và nhờ đó ngân hàng có thể thu hút nguồn vốn ngày càng lớn. Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm và làm tốt công tác quản lý, sử dụng vốn với phương châm: Việc mở rộng tín dụng phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn và tăng trưởng vốn. Để thực hiện được phương châm trên thì: - Chi nhánh phải bám sát định hướng phát triển kinh doanh của Hội đồng quản trị, các giải pháp điều hành của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam. Thường xuyên tiếp cận, bám sát các dự án lớn thuộc mục tiêu chiến lược của Chính phủ để có thể đưa ra các giải pháp hữu hiệu phục vụ công tác đầu tư có hiệu quả. - Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với khách hàng với phương châm: Lắng nghe ý kiến đề xuất từ các đơn vị, nắm bắt chính sách khách hàng của các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn, từ đó chỉnh sửa kịp thời những kiến nghị của khách hàng trên quan điểm bình đẳng, hiệu quả và an toàn kinh doanh. - Tiến hành phân loại khách hàng để đưa ra định hướng đầu tư cho từng nhóm khách hàng cụ thể. - Đổi mới, nâng cao trang thiết bị hoạt động ngân hàng, hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý sao cho có khả năng cung cấp kịp thời, chính xác các tín hiệu của thị trường để từ đó Phòng kinh doanh đưa ra chiến lược sử dụng vốn phù hợp, đáp ứng mục tiêu kinh doanh. - Thường xuyên, tăng cường làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cán bộ tín dụng, giáo dục phẩm chất, đạo đức, phong cách cán bộ, đồng thời phải bố trí sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực chuyên môn, sở thích từng người, quán triệt nguyên tắc an toàn trong kinh doanh. Thực hiện tốt những giải pháp này sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh, việc sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng, tạo cho ngân hàng ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch và gửi tiền với số lượng lớn. Từ đó, góp phần tăng cường quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động. III. Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại NHCT Ba Đình. 1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà Nước. Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn của chi nhánh NHCT Ba Đình chỉ có thể thực hiện tốt nếu điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường pháp lý ổn định, khẳng định vai trò to lớn của Nhà nước và Chính phủ đối với hoạt động ngân hàng. ỉ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm nhiều yếu tố bao trùm tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, chính sách tỷ giá... Chúng có tác động to lớn đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn của ngân hàng nói riêng. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô thì Nhà nước cần có những việc làm cụ thể sau: Phối hợp với các cơ quan chức năng của mình đảm bảo điều tiết một nền kinh tế phát triển ổn định, tránh các đột biến làm giảm bất thường giá trị đồng tiền, đặc biệt là các khoản tiền gửi tại ngân hàng, dù là dưới hình thức nào. Thông qua việc kiểm soát tốc độ lạm phát, Nhà nước đã góp phần bảo đảm sức mua của đồng tiền không bị suy giảm, nghĩa là giá trị thực tế ổn định làm cho người dân tin tưởng vào đồng tiền, vì một người sẽ không ngần ngại gửi một món tiền vào ngân hàng khi họ tin tưởng rằng sau thời gian nhất định sẽ thu về khoản tiền có giá trị cao hơn so với giá trị gửi trước kia. Mặt khác, thông qua việc xác định tỷ giá hợp lý sẽ giảm thiểu hiện tượng đầu cơ ngoại tệ... thu hẹp phạm vi hoạt động của ngoại tệ, mở rộng phạm vi lưu hành VND góp phần vào việc kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả và chính xác, xây dựng lãi suất phù hợp và giữ vững ổn định tiền tệ. ỉ Tạo lập môi trường pháp lý ổn định. Hoạt động của NHTM vẫn nằm trong môi trường pháp lý do Nhà nước quy định, chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh doanh ngân hàng; Đòi hỏi Nhà nước phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của mình xây dựng được môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ, bảo vệ người gửi tiền, nghĩa là các điều khoản của Luật, Bộ luật liên quan, cũng như các văn bản pháp quy ngang hoặc dưới luật hiện hành phải đảm bảo số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng được bảo toàn và tăng trưởng. Việc ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ, rõ ràng sẽ tạo niềm tin cho dân chúng, đồng thời với những quy định khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa người tiêu dùng và người tiết kiệm, chuyển một phần tiêu dùng sang đầu tư, chuyển dần cất trữ dưới dạng vàng, ngoại tệ, bất động sản sang đầu tư vào sản xuất, kinh doanh hay gửi tiền vào ngân hàng. ỉ Về môi trường xã hội. Đối với nước ta hiện nay, việc huy động vốn của các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý của người dân, đặc biệt thói quen giữ tiền ở nhà, mua vàng tích trữ, dường như với họ như thế an toàn hơn, tiện dụng hơn vì khi nào cần tiền họ sẵn sàng bán đi nhanh chóng còn nếu gửi ngân hàng thì khi rút ra sẽ không tiện vì một số thủ tục, giấy tờ và không có lợi vì rút trước hạn. Chính vì vậy Nhà nước cần có biện pháp tích cực nhằm khuyến khích động viên người dân gửi tiền và chi tiêu qua tài khoản mở tại ngân hàng, nên có quyết định bắt buộc các cán bộ thuộc cơ quan Nhà nước phải mở tài khoản và sẽ được trả lương qua tài khoản đó... để có thể thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào ngân hàng. Bên cạnh đó, Nhà Nước cần có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, từ đó, nâng cao đời sống và thu nhập của người dân để họ có thể tăng tích luỹ và sẽ gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều hơn. 2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam Ngân hàng Nhà nước là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định cán cân thanh toán và giảm thất nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển xã hội, nâng cao đời sống người dân. Do đó Ngân hàng Nhà nước cần thực thi chính sách tiền tệ đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh thực tế từng thời kỳ giúp người dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng. Khi nền kinh tế ổn định, giá trị đồng tiền không biến động lớn và có thể kiểm soát được, người dân có thu nhập ổn định hơn, họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng với tâm lý thoải mái, khi đó ngân hàng có cơ hội thu hút nhiều nguồn vốn hơn đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư sinh lời. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước cần chú trọng và nâng cao quản lý ngoại hối một cách có hiệu quả vì nó tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ và đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Có quản lý ngoại hối hiệu quả thì mới ổn định tiền tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát. Có như vậy, làm mới góp phần làm nền kinh tế phát triển, nâng cao mức sống của người dân và người dân sẽ có nhiều tiền gửi vào ngân hàng hay tạo cho mọi người tâm lý yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường hoạt động thanh kiểm tra, giám sát các NHTM để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn ngành ngân hàng. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các NHTM để họ có thể tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh hiện tại cũng như triển khai áp dụng trong tương lai. 3. Kiến nghị đối với NHCT Ba Đình. Thứ nhất, luôn có cơ chế lãi suất cạnh tranh linh hoạt: Lãi suất là yếu tố quan trọng giúp các ngân hàng hấp dẫn được khách hàng đến gửi tiền. Bởi vì hầu hết người có tiền tâm lý muốn đem gửi ngân hàng, trước hết họ sẽ so sánh lãi suất huy động mà các ngân hàng đưa ra xem nơi nào hơn, kế đến mới là vấn đề an toàn tiền gửi cho họ cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng. Nếu khách hàng đánh giá các ngân hàng có cung hệ số an toàn và các dịch vụ tiện ích như nhau, họ sẽ chọn ngân hàng nào trả cho họ lãi suất cao hơn. Điều này họ có thể dễ dàng tìm hiểu và nắm bắt khi các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng trở nên thông dụng và phổ biến ở nước ta (điện thoại, báo chí, thông tin kinh tế trên truyền hình…). Để thực hiện cơ chế lãi suất huy động cạnh tranh, ngân hàng phải thường xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên cùng địa bàn hoạt động để có các quyết định điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường và đặc điểm riêng của ngân hàng. Ngân hàng cũng cần quan tâm đến lãi suất tín phiếu kho bạc bởi vì trên thực tế kho bạc thường phát hành tín phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại do kho bạc có được thuận lợi là không bị khống chế lãi suất trần. Thứ hai, ngân hàng cần đa dạng các kì hạn gửi tiền với nhiều mức lãi suất khác nhau. Các nguồn tiền nhàn rỗi, tiền để dành của người dân rất đa dạng, nếu ngân hàng chỉ huy động với các kì hạn 3-6-9-12 tháng… thì với những khoảng thời gian nhàn rỗi của đồng tiền không khớp với những kì hạn huy động của ngân hàng sẽ không khuyến khích các khách hàng dến giao dịch với ngân hàng,. Chẳng hạn như người có tiền nhàn rỗi trong 2 tháng nhưng ngân hàng chỉ huy động kì hạn tối thiểu là 3 tháng, vì thế khách hàng không gửi kì hạn được. Mặc dù khàch hàng có thể chọn cách gửi không kì hạn nhưng vì lãi suất không kì hạn thấp hơn lãi suất kì hạn nên tạo ra sự bất lợi cho khách hàng. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa các kì hạn gửi tiền sẽ làm cho công việc giao dịch, quản lý, lưu trữ hồ sơ của ngân hàng trở nên phức tạp hơn nhưng không phải không thực hiện được. Trước đây đã có ngân hàng nhận tiền gửi cho tất cả các kì hạn từ 1 đến 12 tháng và hiện cũng có ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng với bất kì kì hạn nào trên 12 tháng.Đa dạng hóa các kì hạn tiền gửi với các mức lãi suất khác nhau theo nguyên tắc kì hạn càng dài thì lãi suất huy động càng cao. Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức thanh toán. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với vì nhiều mục đích khác nhau, có người vì mục đích an toàn, có người chủ yếu để lấy lãi tiêu xài hàng tháng như các đối tượng là cán bộ hưu trí, sinh viên…có người dư dả gửi tiền để đồng vốn ngày càng được sinh sôi, nảy nở. Vì thế họ chọn cách tính lãi cuối kì, lãi suất cao hơn rút lãi trước và rút lãi hàng tháng. Hiện nay đa số các ngân hàng đang áp dụng 2 hình thức trả lãi trước và trả lãi cuối kì. lý do theo các ngân hàng là để đơn giản cho công tác huy động vốn, ổn định được vốn hoạt động, trên cơ sở đó các ngân hàng dễ cân đối được kế hoạch huy động và sử dụng vốn. Tuy nhiên phải thấy rằng, mục tiêu của ngân hàng hiện nay là tranh thủ, thu hút và khai thác tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, kể cả với số lượng nhỏ. Do đó trong thời gian tới, cần duy trì thường xuyên hình thức trả lãi hàng tháng như đã từng làm trước đây để thõa mãn được nhiều mục đích của người gửi tiền và qua đố thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Thứ tư , khuyến khích bằng lợi ích vật chất: Khi khách hàng gửi tiền, ngoài việc so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn còn quan tâm đến những lợi ích vật chất mà họ nhận được. Chẳng hạn như vì lí do nào đó khách hàng cần rút vốn trước hạn để giải quyết các nhu cầu chi tiêu tài chính nhưng không được ngân hàng cho rút trước hạn hoặc cho rút trước hạn nhưng không trả lãi sẽ gây tâm lý khó chịu và ấn tượng không tốt của khách hàng đối với ngân hàng, nhiều khi dẫn đến những tranh cãi không hay. Do đó trong thời gian tới, ngân hàng cần áp dụng hình thức nhận cầm sổ tiết kiệm và cho phép khách hàng chiết khấu kì phiếu do ngân hàng phát hành. Ngân hàng cũng có thể nghiên cứu để từng bước chuyển sang trả lãi bằng lãi suất tiền gửi có kì hạn. Cụ thể là: Khi khách hàng cần rút vốn trước hạn, ngân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng bằng lãi suất tiền gửi có kì hạn của kì hạn nào cao nhất mà khách hàng đã gửi được, cộng với lãi suất tiền gửi không kì hạn của số ngày (tháng) lẻ. Chẳng hạn như một khách hàng gửi tiết kiệm 6 tháng nhưng đến tháng thứ 5 khách hàng xin rút trước hạn, ngân hàng sẽ trả lãi kì hạn 3 tháng cho khách hàng cộng với lãi suất không kì hạn của 3 tháng. Điều này sẽ khắc phục được nhược điểm của quy định không cho phép khách hàng rút vốn trước hạn hoặc cho rút vốn trước hạn nhưng không trả lãi hoặc trả bằng lãi suất tiền gửi không kì hạn đối với những trường hợp thời hạn đã gửi gần đến ngày đáo hạn nhưng khách hàng xin rút vốn trước hạn. Khi đó nếu ngân hàng không cho rút vốn trước hạn hoặc cho rút nhưng không trả lãi sẽ gây thiệt thòi cho khách hàng, còn nếu ngân hàng trả lãi bằng lãi suất tiền gửi không kì hạn thì tiền lãi tính ra không được bao nhiêu so với những trường hợp khách hàng chọn gửi kì hạn thấp hơn. Hệ quả tất yếu là lần sau khách hàng có thể không chọn gửi tiền tại ngân hàng hoặc chọn kì hạn ngắn hơn để gửi. Điều này mâu thuẫn với mục tiêu kế hoạch và biện pháp tăng dần tỷ trọng vốn huy động trung dài hạn của ngân hàng. Tóm lại, biện pháp khuyến khích và cùng với việc đa dạng hóa các kì hạn gửi tiền sẽ giúp ngân hàng huy động được nguồn vốn trung và dài hạn bởi vì khách hàng cảm thấy yên tâm hơn khi gửi tiền dài hạn do khi cần có thể được ngân hàng cho rút tiền trước hạn và tính toán lãi sòng phẳng cho khách hàng. Thứ năm, định kì quảng cáo và niêm yết công khai đầy đủ lãi suất, thể lệ gửi tiền tiết kiệm. Việc quảng cáo sẽ có tác dụng gây chú ý cho khách hàng về hình ảnh của ngân hàng để họ có sự so sánh và chọn lựa. Mặt khác, không phải ai cũng am tường hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng. Nhất là với những khách hàng do trình độ học vấn chưa cao và với những khách hàng mới lần đầu đến gửi tiền tại ngân hàng. Bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích, dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và đơn giản trong thủ tục gửi tiền, hơn nữa sẽ giúp cho khách hàng tìn thấy được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho ngân hàng mà các ngân hàng khác không có được. Trụ sở khang trang, tác phong giao tiếp lịch thiệp, tận tình hướng dẫn khách hàng cũng là nhân tố quyết định đến thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, ngân hàng nào giải quyết tốt được mặt này sẽ có lợi thế trong việc thu hút khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Kết luận Trong hơn 10 năm qua, các tổ chức tín dụng luôn đóng vai trò chủ yếu trong việc huy động vốn trong nền kinh tế, với mức tăng tổng nguồn vốn huy động hàng năm bình quân tăng tới 23-27%. Riêng năm 2004 vừa qua, mặc dù có nhiều biến động về lãi suất, về thị trường bất động sản, giá cả leo thang... những khó khăn chung về kinh tế, nhưng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng vẫn tăng trên 23%. Điều này đã ảnh hưởng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng có lợi, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển đã cơ bản được giải quyết. Qua đó chúng ta càng thấy rõ được vai trò của ngân hàng thương mại nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của Việt Nam. Bài học xuyên suốt của ngân hàng công thương Ba Đình trong hoạt động huy động vốn đó là phải luôn thực hiện đúng phương hướng, nhiệm vụ của nghành đã được cụ thể hoá bằng chương trình công tác, các giải pháp, biện pháp về công tác huy động và điều hành vốn của ngân hàng công thương Việt Nam, kết hợp với sự linh hoạt trong vận dụng vào thực tiễn kinh doanh từng thời kì của Chi nhánh. Tuân thủ nghiêm túc các quy định chế độ, thể lệ, cơ chế trong huy động và điều hành vốn, kịp thời phát hiện những bất hợp lý hoặc bất cập để đề xuất chỉnh sửa cho phù hợp. Như vậy mới đạt được yêu cầu vừa đảm bảo được quy định an toàn trong hoạt động kinh doanh, vừa phục vụ tốt hơn và giữ được khach hàng. Ngân hàng công thương Ba Đình kể từ khi bước vào kinh doanh thực sự vì mục tiêu lợi nhuận, trở thành ngân hàng phát triển mạnh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đã và đang góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Danh mục Tài liệu tham khảo - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic. S. Mishkin - Ngân hàng thương mại - Eward.W.Reed và Eward K. Gill - Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Khoa Ngân hàng Tài chính - Giáo trình Ngân hàng thương mại quản trị & nghiệp vụ- ĐH KTQD - Tạp chí Ngân hàng. - Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ. - Tạp chí thông tin tài chính. - Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHCT Ba Đình các năm 2001 – 2004. - Những vấn đề cơ bản về hoạt động Ngân hàng - NXB Thống kê. - Giáo trình lý thuyết tiền tệ - Trường đại học Tài Chính - Kế toán Hà Nội. - Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – P. Rose. Ngân hàng trong nền kính tế thị trường - NXB Thống Kê. Mục lục Lời nói đầu 1 chương I: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của NHTM 4 I. Vai trò của nguồn vốn đối với NHTM. 4 1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM. 4 1.1. Khái niệm NHTM. 4 1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM. 7 2. Nguồn vốn của NHTM. 8 2.1. Vốn chủ sở hữu. 11 2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu. 11 2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. 12 2.1.3. Các quỹ. 12 2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. 13 2.2. Nguồn huy động. 13 2.3. Nguồn đi vay. 14 3. Vai trò của nguồn vốn huy động. 15 3.1. Đối với nền kinh tế. 15 3.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với NHTM. 17 II. Các hình thức huy động vốn. 18 1.1. Tạo vốn thông qua tiền gửi thanh toán. 18 1.2. Tạo vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn. 19 1.3. Tạo vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm. 20 1.4. Tạo vốn thông qua huy động tiền gửi của ngân hàng khác. 21 1.5. Tạo vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá. 21 III. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn. 22 3.1. Những nhân tố khách quan. 22 3.1.1.. Tình hình kinh tế- xã hội. 22 3.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô. 23 3.2. Những nhân tố chủ quan. 23 3.2.1. Lãi suất 23 3.2.2. Công nghệ ngân hàng. 24 3.2.3. Chiến lược Marketing ngân hàng. 24 3.2.4.Công tác cán bộ tổ chức. 27 Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh ngân hàng công thương ba đình. 28 I. Khái quát về ngân hàng công thương Ba Đình. 28 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHCT Ba Đình. 28 1.2. Đặc điểm môi trường hoạt động và khách hàng của NHCT Ba Đình. 29 1.3. Sơ lược về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 30 II. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHCT Ba Đình 41 2.1. Hình thức huy động vốn của ngân hàng. 41 2.2. Quy mô và cơ cấu vốn huy động. 42 Huy động vốn từ phát hành giấy tờ có giá 44 Huy động vốn bằng các hình thức khác 45 2.3. Mạng lưới tổ chức huy động vốn. 45 2.4. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại NHCT Ba Đình. 51 2.4.1.Những kết quả đã đạt được. 51 2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân của chúng trong hoạt động huy động vốn tại NHCT Ba Đình. 52 Chương III: giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHCT ba đình. 55 I. định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại nhct ba đình. 55 1. Vai trò của nguồn vốn đối với nền kinh tế. 55 2. Định hướng trong công tác huy động vốn. 57 II. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh 60 1. Hoàn thiện công nghệ ngân hàng. 60 2. Mở rộng mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm. 61 3. Đa dạng hóa các hình thức dịch vụ huy động vốn. 63 4. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng. 63 5. Phát huy hiệu quả chiến lược marketing ngân hàng. 65 6. Kết hợp công tác kiểm tra, kiểm soát, phân tích, đánh giá năng lực khách hàng. 67 7. Gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả. 68 III. Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại NHCT Ba Đình. 69 1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà Nước. 69 2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 71 3. Kiến nghị đối với NHCT Ba Đình. 72 Kết luận 76 Danh mục Tài liệu tham khảo 77 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0173.doc
Tài liệu liên quan