Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Làm thế nào để có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp? Làm thế nào để tìm được các nguồn vốn có qui mô đủ lớn, ổn định và chi phí thấp? luôn là những câu hỏi mà các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải trả lời. Sự phát triển của tài chính trực tiếp ( tiêu biểu là thị trường chứng khoán) và tài chính gián tiếp (đại diện là các ngân hàng thương mại) đã đem lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn rẻ, đa dạng và rất lớn. Nhận thấy sự cần

doc128 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiết của vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội” để nghiên cứu và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm có ba phần chính như sau: Chương 1: Vốn và huy động vốn của công ty cổ phần. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội. Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài, mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, mong được sự thông cảm của thầy cô và người đọc. CHƯƠNG I: VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1 TỔNG QUAN VỀ VỐN 1.1.1 Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải luôn quan tâm đến việc duy trì và mở rộng thị phần của mình, để làm được điều này các nhà quản lý doanh nghiệp phải hoạch định những chiến lược đầu tư ngắn hạn cũng như dài hạn và cách thức để có nguồn vốn tiến hành các hoạt động đầu tư đó. Chính vì vậy, đối với bất kỳ doanh nghiệp nào thì vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng, cụ thể như sau: Thứ nhất, vốn là tiền đề cho sự hình thành của một doanh nghiệp, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn thành lập đều phải có một lượng vốn để thực hiện đăng ký kinh doanh được gọi là vốn điều lệ, đây là điểm mốc đánh dấu sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường. Yêu cầu phải có lượng vốn ban đầu để thực hiện đăng ký kinh doanh được qui định trong hầu hết các luật về doanh nghiệp và luật về công ty trên thế giới, trong Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam tại khoản 4 điều 21 có qui định doanh nghiệp phải ghi rõ vốn điều lệ của công ty, vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân trong giấy đề nghị đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp mình. Đặc biệt trong một số lĩnh vực kinh doanh yêu cầu phải có vốn pháp định như: Tài chính-ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán…thì doanh nghiệp phải có văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền mới được phép đăng ký kinh doanh (Điều 16,17,18,19 Luật Doanh nghiệp 2005), cụ thể tại Việt Nam số vốn pháp định này do Chính phủ qui định ( Luật Các tổ chức tín dụng 2004, điều 83). Vốn điều lệ, vốn đầu tư ban đầu này có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn: Do nhà nước cấp (doanh nghiệp nhà nước), do các thành viên hay cổ đông sáng lập đóng góp (công ty trách nhiệm hữu han, công ty cổ phần), do các nhân đóng góp ( doanh nghiệp tư nhân). Sự xuất hiện của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tiến hành thiết lập các mối quan hệ trong kinh doanh, bao gồm quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp và với các nhà phân phối, có thể nói, sẽ không có một tổ chức, các nhân nào muốn hợp tác với doanh nghiệp nếu biết doanh nghiệp đó không có vốn. Thứ hai, vốn giúp quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục hay nói cách khác không có vốn doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ không duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để tạo ra sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho thị trường, doanh nghiệp phải mua nguyên vật liệu, nhiên liệu, thuê nhân công, thay thế, mua mới hay sửa chữa máy móc trang thiết bị, phương tiện và các chi phí khác, doanh nghiệp sẽ phải có tiền để trả cho những chi phí đó và nguồn chi trả này được lầy từ vốn của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà vốn có vai trò quyết định tính liên tục trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, vốn là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sụ tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp thể hiện ở việc tăng qui mô sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường, để cố được sự tăng trưởng và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn bổ sung vào nguồn vốn đầu tư cho sản xuất như: mua sắm tài sản cố định và tài sản lưu động, đầu tư cho các chiến dịch Marketing nhằm quảng bá sản phẩm và thương hiệu, đầu tư cho nghiên cứu phát triển (nghiên cứu về cải tiến , đổi mới sản phẩm cũng như nghiên cứu đối thủ cạnh tranh). Đây là những chiến lược lâu dài và tốn kém nên doanh nghiệp phải lập kế hoạch để có được nguồn vốn dài hạn đủ lớn. Thứ tư, doanh nghiệp có qui mô vốn lớn sẽ ít có khả năng bị thâu tóm, mua lại hay phá sản và dễ dàng hơn trong việc huy động các nguồn vốn trên thị trường. Thật vậy, một doanh nghiệp đứng trước nguy cơ bị mua lại hay thâu tóm tức là toàn bộ hay phần lớn tài sản của doanh nghiệp bị nắm giữ bởi một doanh nghiệp khác, điều này có thể gây ra sự rối lọan trong tổ chức của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, đồng thời xét trên khía cạnh của chủ doanh nghiệp thì không ai muốn doanh nghiệp của mình bị thao túng hay nằm trong tay một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp có qui mô vốn lớn cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sở hữu một lượng tài sản lớn, điều này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp khác khi có ý định muốn mua lại hay thâu tóm doanh nghiệp. Bên cạnh đó, qui mô vốn lớn được hình thành chủ yếu từ vốn chủ sở hữu là tấm lá chắn bảo vệ doanh nghiệp trước sự phá sản. Sự phá sản của một doanh nghiệp là việc doanh nghiệp đó không có khả năng thanh toán các khoản nợ. một doanh nghiệp có nguồn vốn chủ sở hữu lớn tức là nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ ở mức thấp vì thế không đặt doanh nghiệp trước sự phá sản. Cuối cùng, qui mô vốn lớn thường là minh chứng cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp, chứng minh cho khả năng tài chính vững vàng với khả năng thanh toán tốt, là những tín hiệu tốt giúp doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi lớn bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính hay các nguồn vốn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại. 1.1.2 Cơ cấu vốn của doanh nghiệp Vốn của doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều khoản mục khác nhau, dựa vào các tiêu chí khác nhau mà người ta phân chia vốn của doanh nghiệp thành các bộ phận như sau: 1.1.2.1 Vốn ngắn hạn và vốn dài hạn Vốn ngắn hạn và vốn dài hạn của doanh nghiệp được phân chia căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn. Vốn ngắn hạn: Là các nguồn vốn có thời hạn dưới một năm. Các khoản mục của vốn ngắn hạn là: nguồn tín dụng ngân hàng ngắn hạn, tín dụng thương mại, các khoản phải trả, phải nộp. Nguồn vốn ngắn hạn có đặc điểm là thời gian sử dụng vốn ngắn, chi phí thấp vì lãi suất thấp hoặc lãi suất bằng không với các khoản tín dụng thương mại và các khoản phải trả, phải nộp. Vốn ngắn hạn của doanh nghiệp chủ yếu để tài trợ cho tài sản lưu động và những hoạt động sản xuất kinh doanh có khả năng quay vòng vốn nhanh. Vốn dài hạn: Là các nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên. Vốn dài hạn của doanh nghiệp được cấu thành bởi các nguồn tín dụng dài hạn, nguồn từ phát hành chứng khoán dài hạn…..Đối tượng tài trợ cho vốn dài hạn là những người cho vay và chủ doanh nghiệp. Đặc điểm của vốn dài hạn là có chi phí cao hơn so với vốn ngắn hạn vì độ rủi ro mà các nhà tài trợ phải đối mặt lớn hơn. Các nguồn vốn dài hạn sẽ được các doanh nghiệp đầu tư vào tài sản cố định hay các dự án dài hạn. Sở dĩ như vậy là vì nếu doanh nghiệp dùng vốn ngắn hạn đầu tư vào các tài sản dài hạn thì khi các khoản vốn ngắn hạn đến hạn trả, daong nghiệp khó có thể đảm bảo chi trả vì việc bán các tài sản dài hạn không dễ dàng thậm chí còn không bán được, điều này làm chi phí của vốn ngắn hạn tăng lên hay vốn ngắn hạn không phát huy được lợi thế đối với doanh nghiệp. 1.1.2.2 Vốn bên trong và vốn bên ngoài Căn cứ vào vị trí các nguồn vốn huy động được vốn của doanh nghiệp được chia thành hai thành phần như ở trên. Vốn bên trong: Là các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động trong nội bộ doanh nghiệp mình. Nguồn vốn này bao gồm: lợi nhuận giữ lại, các quỹ như: quỹ đầu tư, phát triển; quỹ khấu hao cơ bản…Đây là nguồn nội lực của doanh nghiệp, qui mô các nguồn vốn này thể hiện sức mạnh tài chính cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn bên ngoài: Là các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ bên ngoài. Các khoản mục cấu thành vốn bên ngoài gồm: vốn huy động từ phát hành chứng khoán, vốn tín dụng ngân hàng, vốn tín dụng thương mại….Qui mô của các nguồn vốn này rất lớn và hầu hết các doanh nghiệp đều phải dựa vào nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu tài trợ của mình. Nhưng việc huy động vốn bên ngoài đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo được niềm tin cho các nhà tài trợ bằng kết quả hoạt động kinh doanh, tổ chức và quản lý doanh nghiệp. 1.1.2.3 Vốn chủ sở hữu và vốn nợ Căn cứ vào quan hệ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn nợ. Vốn chủ sở hữu Là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, là nguồn có thời hạn rất dài và chỉ khi doanh nghiệp ngừng hoạt động thì nguồn vốn này mới thôi được bổ sung vào tổng vốn. Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia (lợi nhuận giữ lại), vốn từ phát hành cổ phiếu mới. Vốn góp ban đầu: Là số vốn đầu tiên doanh nghiệp có khi thành lập. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau nguồn hình thành vốn góp ban đầu cũng khác nhau. Đối với doanh nghiệp nhà nước là vốn cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước, đối với doanh nghiệp tư nhân là vốn do một cá nhân tự bỏ ra để xin đăng ký kinh doanh và voíư loại hình công ty là vốn góp của hai hay nhiều thành viên tạo nên. Lợi nhuận không chia: Là bộ phận lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận. Thông thường lợi nhuận sau thuế của donah nghiệp được chia làm hai phần: phần thứ nhất được dùng để trả cổ tức cho cổ đông (với công ty cổ phần), phần thứ hai giữ lại để tái đầu tư sản xuất mở rộng. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí tìm kiếm và giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại, họ đặt ra mục tiêu phải có lượng lợi nhuận giữ lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới, đây là một trong những nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng của doanh nghiệp. Tùy vào nhu cầu vốn, chiến lược thu hút đầu tư của doanh nghiệp cũng như nhu cầu và tâm lý của các nhà đầu tư mà doanh nghiệp lựa chọn phát hành cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Vay nợ Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp còn có nguồn vốn được hình thành từ các khoản nợ như: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Tín dụng ngân hàng: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có được do vay từ ngân hàng thông qua các hợp đồng tín dụng. Có thể nói, vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất với sự phát triển của doanh nghiệp. Sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng nguồn vốn. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Tín dụng thương mại (tín dụng của nhà cung cấp): Là nguồn vốn được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Trong một số doanh nghiệp, nguồn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% thậm chí 40% tổng nguồn vốn. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ tiền, tiện dụng và linh hoạt, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Vay thông qua phát hành trái phiếu: Là hình thức doanh nghiệp phát hành các giấy vay nợ dài hạn để huy động vốn trên thị trường tài chính. Trái phiếu là một khế ước mà doanh nghiệp phát hành cam kết sẽ trả lãi và gốc cho người mua trái phiếu hay người sở hữu trái phiếu vào một thời điểm nhất định. Doanh nghiệp phát hành phải quan tâm đến việc lựa chọn trái phiếu để phát hành (trái phiếu gồm: trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất biến đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu chuyển đổi), vì việc phát hành trái phiếu liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Nguồn vốn vay thông qua phát hành trái phiếu là nguồn vốn có tiềm năng rất lớn vì doanh nghiệp có thể thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng và các nhà đầu tư để đáp ứng nhu cầu vốn lớn và dài hạn của doanh nghiệp. 1.2 HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 1.2.1 Đặc điểm của công ty cổ phần Khái niệm: Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Đặc điểm của mô hình công ty cổ phần trong hoạt động huy động vốn. Có thể nói, mô hình công ty cổ phần là cách thức tổ chức doanh nghiệp có nhiều ưu thế trong đó ưu thế mạnh nhất là khả năng huy động vốn lớn bằng nhiều phương thức khác nhau hơn hẳn các doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân. Các ưu thế trong huy động vốn của công ty cổ phần là: Một là, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mà các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và tài sản của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp, không giống như các thành viên của công ty hợp danh hay chủ doanh nghiệp tu nhân là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chính vì vậy, công ty cổ phần có nhiều thuận lợi hơn trong việc huy động vốn so với hai loại hình doanh nghiệp trên, các cổ đông của công ty cổ phần sẽ không lo sợ rằng toàn bộ tài sản của mình có thể bị mất nếu công ty làm ăn thua lỗ, vì thế họ sẽ dễ dàng hơn để quyết định bỏ vốn đầu tư vào công ty. Điều này tạo khả năng cho các công ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng. Hai là, công ty cổ phần cũng giống như công ty trách nhiệm hữu hạn là cá nhân hay tổ chức tham gia góp vốn hay mua cổ phần của công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và tài sản của công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp, nhưng với công ty cổ phần, tổng số vốn góp của các cổ đông được chia thành các phần bằng nhau với mệnh giá của mỗi cổ phần nhỏ nên các nhà đầu tư dù có một lượng vốn thấp cũng có thể mua được cổ phần của công ty và trở thành một trong những chủ sở hữu của công ty. Điều này rất thuận lợi cho công ty cổ phần trong việc huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư cũng như các nhà đầu tư. Khi muốn huy động thêm vốn chủ sở hữu, công ty cổ phần chỉ cần phát hành thêm cổ phiếu mới và thông qua thị trường tài chính bán ra công chúng. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, muốn tăng thêm vốn chủ sở hữu công ty phải tăng vốn góp của các thành viên hay tiếp nhận vốn góp của các thành viên mới, đây là điểm hạn của mô hình công ty này vì lượng vốn mà mỗi thành viên có được chỉ là hữu hạn và số lượng thành viên chỉ giới hạn ở một mức nhất định (theo điều 38 Luật Doanh nghiệp 2005, số lượng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn không vượt quá 50). Ba là, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phép phát hành trái phiếu còn công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thì không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Có thể nói đây là một ưu thế nổi bật của công ty cổ phần trong hoạt động huy động vốn. Một doanh nghiệp được tổ chức hteo mô hình công ty cổ phần cod thể huy động được cả nguồn vốn chủ sở hữu lẫn nguồn vay nợ rất dồi dào thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác trên thị trường tài chính trong khi các loại hình doanh nghiệp khác thì khó khăn hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng thực sự mở ra kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp trong đó chiếm vị trí quan trọng là các công ty cổ phần. Với đặc điểm nổi trội như ở trên các công ty cổ phần ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận với những nguồn vốn có qui mô lớn, ổn định, chi phí thấp lại không bị thẩm định và kiểm soát quá chặt chẽ như vốn vay từ các ngân hàng thương mại. Sự ưu việt này đã chứng minh cho sự phát triển mạnh mẽ của mô hình công ty cổ phần trong nền kinh tế cả về qui mô và chất lượng hoạt động kinh doanh, các công ty lớn trên thế giới như IBM, Toyota, Samsung đều là những công ty cổ phần và tại Mỹ nơi có số lượng công ty cổ phần lớn nhất thế giới cùng với thị trường tài chính phát triển bậc nhất, nguồn vốn các công ty cổ phần huy động qua phát hành chứng khoán lên đến 5152 tỷ đô la chiếm 38,9% tổng lượng vốn trên thị trường tài chính (năm 1990). Bốn là, công ty cổ phần được phép niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn do sở đặt ra. Công ty cổ phần được niêm yết sẽ trở thành công ty đại chúng, các nhà đầu tư cũng như công chúng sẽ biết đến doanh nghiệp nhiều hơn hay đây chính là một hình thức quảng cáo cho công ty. Nếu công ty hoạt động có hiệu quả thì việc huy động vốn của công ty trên thị trường tài chính và từ các ngân hàng thương mại sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp không niêm yết trên thị trường chứng khoán vì công ty làm tăng sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Vì thế khi công ty cần thêm vốn có thể dễ dàng phát hành chứng khoán mới ra công chúng bởi lẽ có nhiều người muốn mua chứng khoán của công ty. Mặt khác, công ty có thể giảm bớt các chi phí phát hành như chi phí quảng cáo, phân phối chứng khoán. Ngoài ra, công ty cũng dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại vì các ngân hàng sẽ không quá khắt khe trong việc thẩm định hồ sơ xin vay của công ty vì đã được biết tiếng công ty trên thị trường chứng khoán, thậm chí nhiều trường hợp công ty không cần có tài sản thế chấp mà vẫn có thể vay được vốn. 1.2.2 Các hình thức huy động vốn của công ty cổ phần Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần cũng như các loại hình doanh nghiệp khác cần có vốn để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh như: tài trợ cho tài sản cố định, tài trợ cho tài sản lưu động, tài trợ cho các dự án….vì vậy công ty cổ phần cũng phải luôn đặt kế hoạch và chiến lược huy động các nguồn vốn để đảm bảo sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Trong kế hoạch và chiến lược huy động vốn, các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng đều phải đưa ra các hình thức huy động vốn phù hợp nhất cho doanh nghiệp mình, có thể là các hình thức huy động nguồn vốn bên trong doanh nghiệp, huy động nguồn vốn bên ngoài hoặc các hình thức huy động vốn ngắn hạn, huy động vốn dài hạn; các hình thức huy động vốn chủ sở hữu, huy động nợ. Việc phân loại các hình thức huy động như trên dựa vào các tiêu chí khác nhau trong việc phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp (nguồn bên trong, nguồn bên ngoài; nguồn ngắn hạn, nguồn dài hạn; nguồn vốn chủ sở hữu và vốn nợ). Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp, vốn được phân thành hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ nhằm tạo sự rõ ràng về sở hữu, sự thuận tiện trong quản lý vì bộ phận nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp cũng gồm hai phần là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Chính vì lẽ đó, các hình thức huy động vốn được đề cập trong chuyên đề này là các hình thức huy động vốn chủ sở hữu và nợ. Cụ thể các hình thức huy động đó như sau: 1.2.2.1 Hình thức huy động vốn chủ sở hữu tại công ty cổ phần. Huy động vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần gồm có: Huy động vốn góp ban đầu, huy động từ lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu mới. Huy động vốn góp ban đầu: Đối với công ty cổ phần, vốn góp ban đầu được huy động chủ yếu từ cổ đông sáng lập, phần còn lại do các cổ đông khác đóng góp thông qua việc mua cổ phiếu phát hành lần đầu của doanh nghiệp. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, điều 84 có qui định “ Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Như vậy, hình thức huy động vốn góp ban đầu của công ty cổ phần là phát hành cổ phiếu dựa trên số vốn điều lệ tại thời điểm công ty tiến hành đăng ký kinh doanh lần đầu tiên, phần lớn lượng cổ phiếu chào bán được mua bới các cổ đông sáng lập (những người cùng nhau ký hợp đồng sáng lập công ty cổ phần), các nhà đầu tư bên ngoài thường ít mua những cổ phiếu này vì họ chưa có sự tin tưởng vào một công ty mới thành lập. Huy động từ lợi nhuận giữ lại: Qui mô vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được bắt đầu bằng qui mô vốn góp ban đầu, qui mô này cần được tăng theo qui mô phát triển của công ty . Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả thì nguồn vốn chủ sở hữu sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng bằng cách huy động từ lợi nhuận để lại. Với công ty cổ phần, nguồn lợi nhuận để lại tái đầu tư là phần còn lại của lợi nhuận sau thuế sau khi đã trừ đi khoản chia cổ tức cho các cổ đông, vì vậy việc huy động nguồn vốn này được nhiều hay ít phụ thuộc vào chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần. Để hình thành được chính sách phân phối cổ tức, công ty cổ phần phải cân nhắc rất kỹ càng vì nó liên quan đến những vấn đề hết sức nhạy cảm, nếu công ty không giải quyết tốt thì không những khồn huy động được nguồn lợi nhuận giữ lại mà còn ảnh hưởng đến các hoạt động huy động vốn khác của công ty, đặc biệt là huy động bằng phát hành cổ phiếu thường mới. Sở dĩ như vậy là vì, khi công ty để lại một phần lợi nhuận sau thuế trong năm cho tái đầu tư tức là công ty không dùng số lợi nhuận đó chia lãi cổ phần, các cổ động không nhận được cổ tức nhưng bù lại họ có quyền sở hữu vốn cổ phần tưng lên của công ty và giá trị ghi sổ của các cổ phiếu tăng lên cùng với việc huy động từ lợi nhuận giữ lại tăng lên. Điều này một mặt khuyến khích các cổ động nắm giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác sẽ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức quá thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị sụt giảm và ảnh hưởng đến việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn của công ty. Do đó, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố liên quan như: - Tổng số lợi nhuận sau thuế trong kỳ. - Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước. - Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó. - Hiệu quả của việc tái đầu tư. Huy động bằng phát hành cổ phiếu mới: Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu là cách huy động vốn đặc trưng của laọi hình công ty cổ phần. Cách này giúp công ty cổ phần có thể huy động được nguồn vốn chủ sở hữu lớn từ dân chúng và các nhà đầu tư. Công ty cổ phần có thể lựa chọn phát hành ra thị trường chứng khoán nhiều loại cổ phiếu khác nhau, nhưng khi đề cập đến cổ phiếu và phát hành cổ phiếu công ty cổ phần thường lựa chọn giữa cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu ưu đãi hay cả hai. Vì vậy, một công ty cổ phần muốn huy động bằng phát hành cổ phiếu phải hiểu rõ về đặc điểm của từng loại để có sự lựa chọn đúng đắn. Cổ phiếu thường Cổ phiếu thường là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty và cho phép người nắm giữ nó được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty. Người nắm giữ cổ phiếu thường là các cổ đông thường, cổ động thường có những quyền chủ yếu sau: - Quyền tham gia bỏ phiếu và ứng cử vào Hội đồng quản trị và được quyền tham gia quyết định các vấn đề quan trọng đối với hoạt động của công ty. - Quyền đối với tài sản của công ty: Quyền này được thể hiện trước hết là quyền được nhận phần lợi nhuận của công ty chia cho các cổ đông hàng năm dưới hình thức lợi tức cổ phần và phần giá trị còn lại của công ty khi thanh lý, sau khi đã thanh toán các khoản nợ, các khoản thanh toán cho cổ đông ưu đãi. - Quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán vì việc phát hành chúng mang lại những lợi thế cho tổ chức phát hành: Thứ nhất, huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường giúp công ty tăng được nguồn vốn đầu tư dài hạn, nhưng công ty không bị bắt buộc có tính chất pháp lý phải trả khoản tiền chi phí cho việc sử dụng vốn này một cách cố định như khi sử dụng vốn vay. Khi huy động vốn theo cách này để mở rộng kinh doanh, nếu công ty không may chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc bị thua lỗ, công ty có thể tuyên bố không phân chia lợi tức cổ phần cho các cổ đông thường cho đến khi công ty thu được lợi nhuận, có khả năng trả lợi tức cổ phần. Do vậy, cách thức huy động này giúp công ty giảm được nguy cơ tổ chức lại hay phá sản. Thứ hai, huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường ra công chúng là một phương thức huy động vốn từ bên ngoài nhưng công ty không có nghĩa vụ hoàn trả theo kỳ hạn cố định. Điều đó giúp công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt trong kinh doanh mà không lo “gánh nặng” nợ nần. Thứ ba, việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới ra công chúng làm tăng thêm vốn chủ sở hữu của công ty, từ đó làm hệ số nợ giảm và tăng thêm mức độ vững chắc về tài chính của công ty. Với tác động đó làm tăng khả năng vay vốn và mức độ tín nhiệm cho doanh nghiệp. Thứ tư, trong một số trường hợp cổ phiếu thường được bán ra dễ dàng hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu (tức là những chứng khoán có lợi tức cố định). Cổ phiếu thường có thể lôi cuốn hấp dẫn một số nhóm người đầu tư nhất định, bởi lẽ cổ phiếu thường hứa hẹn mang lại lợi tức cao hơn cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu, mặt khác cổ phiếu thường tạo ra cho nhà đầu tư một rào chắn tốt hơn so với đầu tư vào trái phiếu để chống đỡ với lạm phát không dự kiến được, bởi lẽ cổ phiếu thường đại diện cho quyền sở hữu trong công ty, đầu tư vào cổ phiếu thường cũng có nghĩa là đầu tư vào một tài sản thực trong công ty. Thông thường, trong thời kỳ lạm phát cổ phiếu thường không bị mất giá như trái phiếu. Mặc dù việc phát hành cổ phiếu thường có nhiều ưu thế như vậy nhưng phương thức huy động này cũng có những hạn chế, ràng buộc mà công ty cổ phàn phải cân nhắc kỹ lưỡng: Một là, cổ phiếu thường bị giới hạn lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được phép phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Ủy ban chứng khoán nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Thông thường, một công ty có thể phát hành một lần hoặc một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành. Như vậy, công ty cổ phần muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết phải được Đại hội cổ đông cho phép sau đó phải hoàn tất các thủ tục quy định khác, điều này nhiều khi làm lỡ mất cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường và có thể gây tâm lý e ngại cho doanh nghiệp khi lựa chọn cách thức huy động phát hành cổ phiếu thường. Hai là, việc phát hành cổ phiếu thường mới ra công chúng làm tăng thêm cổ đông mới, từ đó phải phân chia quyền bỏ phiếu và kiểm soát công ty cho số cổ đông này. Điều này có thể gây bất lợi đối với cổ đông hiện hành. Vì thế, các công ty mới thành lập và công ty nhỏ thường né tránh việc phát hành thêm cổ phiếu ra bên ngoài để không phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty cho người khác. Ba là, phát hành thêm cổ phiếu thường mới làm tăng thêm cổ đông mới và như vậy các cổ đông cũ phải chia sẻ quyền phân phối thu nhập cho các cổ đông mới. Điều này càng trở nên bất lợi cho các cổ đông cũ khi công ty có khả năng thu được nhiều lợi nhuận, làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu đối với cổ đông cũ và ảnh hưởng đến huy động vốn của công ty. Bốn là, chi phí phát hành cổ phiếu thường mới như chi phí hoa hồng cho người bảo lãnh, chi phí quảng cáo….nói chung cao hơn chi phí phát hành cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Sở dĩ như vậy là do đầu tư vào cổ phiếu thường có độ rủi ro cao hơn so với các chứng khoán khác, để thực hiện trọn vẹn đợt phát hành cổ phiếu phải thu hút được người đầu tư trên diện rộng hơn, từ đó chi phí quảng cáo, chi phí phân phối cổ phiếu thường phải cao hơn. Năm là, theo cách đánh thuế thu nhập doanh nghiệp ở nhiều nước, lợi tức cổ phần không được trừ vào thu nhập chịu thuế trong đó lợi tức trái phiếu hay tiền vay được tính vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới để tăng vốn có thể thức hiện theo các phương thức sau: - Phát hành cổ phiếu thường mới với việc dành quyền ưu tiên đặt mua cho cổ đông cũ. Đây là hình thức phổ biến được các công ty cổ phần ở nhiều nước sử dụng khi quyết định tăng thêm vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động kinh doanh. Thông thường, trong điều lệ công ty cổ phần ở nhiều nước đều ghi quyền này của cổ đông. Việc áp dụng quyền ưu tiên đặt mua cho các cổ đông là nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hành. - Phát hành cổ phiếu thường mới để tăng vốn chủ sở hữu bằng việc chào bán cho người tứ ba. Công ty có thể áp dụng hình thức huy động này cho người thứ ba là người có quan hệ mật thiết với công ty như: người quản lý công ty, người lao động trong công ty, các đối tác kinh doanh. Việc phát hành cổ phiếu như vậy, một mặt giúp cho công ty tăng được nguồn vốn kinh doanh mặt khác tăng cường được mối quan hệ loịư ích và tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa công ty và người thường xuyên có quan hệ với công ty. - Phát hành rộng rãi cổ phiếu thường mới ra công chúng. Để tăng thêm vốn đầu tư, công ty có thể lựa chọn con đường phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng bằng việc chào bán công khai. Ngoài cổ phiếu thường mới công ty cổ phần còn có thể phát hành cổ phiếu ưu tiên để huy động thêm vốn chủ sở hữu. Cổ phiếu ưu tiên Cổ phiếu ưu tiên là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Người chủ của cổ phiếu này có quyền thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Phần lớn cổ phiếu ưu đãi của các công ty phát hàn._.h đều là cổ phiếu ưu đãi tích lũy. Điều đó có nghĩa là nếu trong một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong kinh doanh thì có thể tuyên bố hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi và số lợi tức đó được tích lũy lại hay nói cách khác được cộng dồn lại và chuyển sang kỳ tiếp theo. Việc huy động bằng phát hành cổ phiếu ưu đãi có những lợi thế sau: Thứ nhất, một trong những lợi thế quan trọng của cổ phiếu ưu đãi với công ty phát hành là mặc dù phải trả cổ tức cố định nhưng khác với trái phiếu, công ty phát hành không nhất thiết bắt buộc phải trả đúng hạn hàng năm mà có thể hoãn lại sang kỳ sau. Điều đó giúp công ty không bị đe dọa phá sản khi đang gặp khó khăn trong kinh doanh. Thứ hai, phát hành cổ phiếu ưu đãi có khả năng giúp cho cổ đông thường thu được lợi tức cổ phần cao hơn khi công ty thu được lợi nhuận cao trong kinh doanh. Bởi lẽ, cổ đông thường không phải chia phần lợi nhuận cao cho cổ đông ưu đãi. Thứ ba, phát hành cổ phiếu ưu đãi giúp công ty tránh được việc chia phần kiểm soát cho cổ đông mới qua quyền biểu quyết. Thứ tư, việc phát hành cổ phiếu ưu đãi không bắt buộc công ty phải thế chấp, cầm cố tài sản, mặt khác cổ phần ưu đãi không có thời gian hoàn trả, không bắt buộc lập quỹ thanh toán. Do vậy việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi có tính chất mềm dẻo, linh hoạt hơn trái phiếu. Nhưng huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi cũng có những bất lợi, đó là: Lợi tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn trái phiếu vì độ rủi ro của cổ phiếu ưu đãi lớn hơn trái phiếu. Hơn nữa, lợi tức cổ phiếu ưu đãi không được trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty dẫn đến chi phí sử dụng cổ phiếu ưu đãi lơn hơn chi phí sử dụng trái phiếu. Cũng như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi được phát hành để huy động vốn theo ba phương thức: Phát hành với việc dành quyền ưu tiên đặt mua cho cổ đông, phát hành để chào bán cho người thứ ba và phát hành rộng rãi ra công chúng. 1.2.2.2 Hình thức huy động nợ tại công ty cổ phần Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, công ty cổ phần có thể sử dụng nợ các nguồn: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu, tương ứng với các nguồn đó là các phương thức huy động sau; Huy động từ tín dụng ngân hàng: Ngân hàng là một trung gian tài chính luôn gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp từ việc lập tài khoản để thực hiện thanh toán hộ doanh nghiệp, đến tư vấn tài chính, giúp doanh nghiệp phát hành chứng khoán…nhưng quan trọng nhất là ngân hàng là nhà tài trợ lớn cho doanh nghiệp và hình thành phương thức huy động vốn từ ngân hàng của các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng. Về mặt thời gian, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn (thường tính từ 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm), vay ngắn hạn (dưới 1 năm), việc phân loại vốn vay ngân hàng theo thời gian như trên là không hoàn toàn giống nhau giữa các nước và cũng có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Về tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại vốn vay thành các loại như: Cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. Các ngân hàng thương mại buộc phải phân chia các khoản vay như trên nhằm phân loại rủi ro, có nghĩa là các khoản vay khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau, từ đó định ra lãi suất phù hợp. Ví dụ: Các khoản vay dài hạn có lãi suất cao hơn vay trung hạn, vay trung hạn có lãi suất cao hơn vay ngắn hạn vì độ rủi ro của vay dài hạn lớn hơn vay trung hạn và càng lớn hơn vay ngắn hạn. Công ty cổ phần muốn huy động vốn từ ngân hàng thương mại phải ký với ngân hàng hợp đồng tín dụng với các điều khoản kèm theo. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi vay). Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay vốn tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng các điều kiện vay, kể cả những thủ tục giấy tờ…do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng. Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”. Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vay vốn ngân hàng phụ thuộc và tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp, không tạo cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Huy động từ tín dụng thương mại: Công ty cổ phần cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại. Công ty cổ phần huy động nguồn vốn này từ các nhà cung cấp trong việc mua bán trả chậm, tức là công ty mua hàng nhưng không thanh toán ngay cho các nhà cung cấp mà trả làm nhiều lần, công ty dùng số tiền chưa trả đầu tư vào hoạt động khác hay mua hàng của nhà cung cấp khác. Nguồn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn. Chi phí của việc sử dụng các nguồn tín dụng thể hiện qua lãi suất của các khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tùy thuộc vào quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên. Huy động từ phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một công cụ mà các công ty cổ phần sử dụng song song với cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường tài chính. Trái phiếu là giấy chứng nhận việc vay vốn của công ty cổ phần (người phát hành) với người cho vay (người sở hữu tái phiếu). Trái phiếu quy định trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi của tổ chức phát hành cho người sở hữu trái phiếu khi đến thời điểm đáo hạn. Trái phiếu là loại chứng khoán dài hạn, có lãi suất cao và ít rủi ro cho các nhà đầu tư hơn cổ phiếu, phát hành trái phiếu có thể giúp công ty cổ phần huy động được nguồn vốn lớn trong thời gian ngắn. Công ty cổ phần có thể lựa chọn những loại trái phiếu sau để huy động vốn trên thị trường tài chính: Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy, cả doanh nghiệp và người giữ trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Việc thanh toán lãi cũng thường được quy định rõ, trả một lần hay hai lần trong năm. Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Là loại trái phiếu có lãi suất thay đổi theo mức lãi suất trên thị trường. Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác, chẳng hạn như lãi suất LIBOR (London Interbank Offered Rate) hoặc lãi suất cơ bản. Doanh nghiệp chỉ phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi khi mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định, việc phát hành này có thể khai thác được tính ưu việt của loại trái phiếu này, vì trong thời kỳ lạm phát lãi suất thực bị giao động, các nhà đầu tư mong muốn hưởng một lãi suất thỏa đáng khi so sánh với tình hình thị trường và trái phiếu có lãi suất thả nổi sẽ đáp ứng được nhu cầu đó của các nhà đầu tư. Tuy nhiên loại trái phiếu này có một vài nhược điểm: Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều đó gây khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính; việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. Trái phiếu có thể thu hồi: Là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó sau khi đã phát hành. Doanh nghiệp phải quy định rõ thời gian và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Trái phiếu chuyển đổi: Là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một lượng nhất định cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có khả năng có lợi nhuận cao. Cũng giống như cổ phiếu, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng mang lại những lợi thế và bất lợi cho công ty cổ phần. Trước hết là những lợi thế: Một là, lợi tức trái phiếu được giới hạn ở mức độ nhất định, nếu doanh nghiệp có triển vọng tôt trong kinh doanh, có khả năng thu lợi nhuận cao thì việc phát hành trái phiếu để huy động vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cao (vì doanh nghiệp sử dụng đòn bảy tài chính) và chủ doanh nghiệp không phải phân chia quyền phân phối lợi nhuận cho các trái chủ. Hai là, chi phí phát hành trái phiếu thấp hơn so với cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi bởi lẽ trái phiếu có mức độ rủi ro thấp hơn, nó thu hút đông đảo công chúng đầu tư nên chi phí quảng cáo và phân phối thấp hơn. Ba là, khi phát hành trái phiếu, người chủ sở hữu doanh nghiệp không bị phân chia quyền kiểm soát doanh nghiệp cho những trái chủ. Bốn là, lợi tức trái phiếu được xem như chi phí và được trừ vào thu nhập khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp. Năm là, việc tăng vốn bằng phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh cơ cầu vốn một cách linh hoạt hơn nhất là doanh nghiệp phát hành trái phiếu có thể mua lại. Khi thị trường có biến động bất lợi buộc doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô kinh doanh, doanh nghiệp có thể chủ động giảm vốn bằng việc mua lại trái phiếu trước hạn. Những bất lợi khi phát hành trái phiếu mà doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng có thể gặp phải là: Thứ nhất, doanh nghiệp có nghĩa vụ trả lợi tức cho trái chủ đúng kỳ hạn dẫn đến doanh nghiệp phải chịu rủi ro nếu tình hình kinh doanh và tái chính của doanh nghiệp thiếu sự ổn định có thể dẫn đến tình trạng không đủ nguồn tài chính để trang trải lợi tức. Thứ hai, việc tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu có thể dẫn tới hệ số nợ của doanh nghiệp ở mức cao, mặc dù điều đó có thể đưa lại cho doanh nghiệp đạt mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cao, nhưng đồng thời cũng làm tăng độ rủi ro đe dọa sự tông tại và phát triển của doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ đánh giá thấp giá trị doanh nghiệp, làm giảm giá cổ phiếu của công ty. Thứ ba, phát hành trái phiếu là vay nợ có kỳ hạn trả, do đó doanh nghiệp phải bố trí việc trả nợ vay đúng kỳ hạn, nếu doanh nghiệp có tình hình kinh doanh chưa ổn định thì khả năng thanh toán của công ty bị ảnh hưởng. Thứ tư, sử dụng trái phiếu là sử dụng nợ trong thời gian dài vì thế tác động đến sự hoạt động của doanh nghiệp là không ổn định, có lúc là đòn bảy góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, có lúc đe dọa sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của công ty cổ phần. Công ty cổ phần có thể lựa chọn hình thức huy động vốn cho mình theo các cách thức ở trên, nhưng trước khi đi đến quyết định doanh nghiệp phải xem xét thật kỹ lưỡng những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn, từ đó đưa ra sự lựa chọn hợp lý nhất, với mỗi công ty cổ phần thì các nhân tố ảnh hưởng là khác nhau nhưng có thể chỉ ra những nhân tố sau: Trước tiên là những nhân tố khách quan: Trạng thái nền kinh tế: Tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào trạng thái nền kinh tế. Nền kinh tế trong thời kỳ hưng thịnh thì doanh nghiệp có thể huy động được nhiều lợi nhuận và đầu tư vào mở rộng sản xuất, nền kinh tế hưng thịnh cũng làm cho các nhà đầu tư muốn đầu tư nhiều hơn vì thế khả năng huy động vốn từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay vay từ các ngân hàng thương mại có triển vọng lớn. Ngược lại, nền kinh tế trong tình trạng suy thoái thì việc huy động vốn bằng phương thức nào cũng khó khăn. Lạm phát: Lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến phương thức huy động vốn của công ty cổ phần thông qua thị trường tái chính. Khi mức lạm phát trên thị trường cao thì trái phiếu có lãi suất cố định và cổ phiếu ưu đãi không có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, do đó nếu công ty sử dụng hai loại chứng khoán này để huy động vốn thì sẽ thất bại, vì vậy, giải pháp tốt cho công ty là phát hành cổ phiếu thường để huy động vốn. Mặt khác, nếu lạm phát được dự tính trong tương lai cao hơn mức hiện tại thì doanh nghiệp nên tìm kiếm các nguồn tín dụng ngân hàng vì chúng thường có lãi suất cố định, như vậy có thể giảm được chi phí sử dụng vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Môi trường canh tranh: Cạnh tranh ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh và vị thế của doanh nghiệp. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ buộc các doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả để tồn tại, từ đó cũng nâng cao vị thế của doanh nghiệp, đó là điều kiện rất thuận lợi để doanh nghiệp huy động vốn từ lợi nhuận cũng như từ thị trường bên ngoài. Chính sách, pháp luật của nhà nước: Chính sách, pháp luật của nhà nước là cơ sở pháp lý cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Việc đưa lãi vay vào chi phí của doanh nghiệp để tính thuế thu nhập doanh nghiệp của một số nước chính là nhà nước đã khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Hay việc miễn giảm thuế cho các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho công ty cổ phần đẩy mạnh hơn việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu với mục đích huy động vốn. Lãi suất thị trường: lãi suất trên thị trường là một nhân tố quan trọng quyết định sự lựa chọn phương thức huy động nợ hay huy động vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Nếu lãi suất trên thị trường thấp và doanh nghiệp thấy rằng suất sinh lời của dự án đầu tư đáp ứng được việc chi trả lãi vay, thì doanh nghiệp sẽ lựa chọn phương thức huy động nợvì theo các nhà tài chính chi phí của sử dụng nợ thấp hơn chiphí sử dụng vốn chủ sở hữu. Nếu lãi suất trên thị trường quá cao, doanh nghiệp sẽ huy động từ lợi nhuận giữ lại là chủ yếu. Nếu lãi suất trên thị trường có xu hướng không ổn định thì việc lựa chọn các công cụ có lãi suất biến đổi để huy động vốn sẽ thu hút các nhà đầu tư nhiều hơn. Chi phí phát hành chứng khoán: Chi phí liên quan đến phát hành chứng khoán bao gồm: Chi phí hoa hồng cho người bảo lãnh, chi phí phân phối chứng khoán, chi phí in ấn chứng khoán …đều tác động đến huy động vốn của công ty cổ phần. Thông thường, chi phí phát hành cổ phiếu thường cao hơn chi phí phát hành trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi, vì thế nếu công ty cổ phần có hệ số nợ ở mức thấp và trung bình thường chọn trái phiếu để huy động vốn. Trong nhiều trường hợp, nếu chi phí phát hành quá cao mà công ty cổ phần không nhất thiết phải phát hành chứng khoán thì công ty sẽ lựa chọn huy động từ ngân hàng thương mại. Bên cạnh những nhân tố khách quan là những nhân tố mang tính chất chủ quan: Doanh thu và lợi nhuận của công ty cổ phần: Nếu tình hình kinh doanh của công ty chưa ổn định, doanh thu và lợi nhuận có sự thay đổi bất thường, trong trường hợp này huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường là hợp lý hơn so với đi vay. Vì nếu vay vốn thì độ rủi ro của việc huy động vốn mà trả lợi tức cố định là khá cao. Nếu doanh thu và lợi nhuận của công ty là ốn định và mức tăng lên trong tương lai được đánh giá là tương đối chắc chắn, thì việc huy động nợ là hợp lý và có cơ sở . Khả năng tài chính của công ty: Là việc công ty có thể huy động từ lợi nhuận để lại chiếm bao nhiêu nhu cầu cân huy huy động cho đầu tư và cần huy động từ bên ngoài bao nhiêu, từ đó công ty sẽ đưa ra kế hoạch phát hành bao nhiêu chứng khoán hay vay ngân hàng bao nhiêu… Tình hình tài chính của công ty: Tình hình tài chính hiện tại của công ty là yếu tố quan trọng cần phải cân nhắc khi đưa ra quyết định huy động vốn. Trong đó, kết cấu vốn (tỷ trọng giữa nợ và vốn chủ sở hữu) là vấn đề rất trọng yếu vì nó quyết định chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp hay là chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra khi sử dụng thêm một đồng vốn. Chi phí này được xác định như sau: Chi phí vốn bình quân (WACC) = Nợ/Tổng vốn x Chi phí nợ vay sau thuế + Vốn chủ sở hữu/Tổng vốn x Chi phí vốn chủ, việc tính chi phí vốn sẽ giúp doanh nghiệp có huy động vốn hay không và huy động vốn dưới hình thức nào để chi phí vốn là nhỏ nhất. Mặt khác, nếu hệ số nợ của công ty ở mức cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành thì việc huy động vốn chủ sở hữu là hợp lý hơn huy động nợ. Các chỉ tiêu tài chính cũng là vấn đề mà công ty phải quan tâm trong đó quan trọng nhất là các tỷ suất thanh toán, nếu các tỷ suất thanh toán của công ty ở mức cao hơn so với mức bình quân trong ngành thì việc huy động nợ là khá dễ dàng vì ngân hàng thương mại hay các nhà đầu tư trái phiếu của công ty sẽ yên tâm hơn khi cho vay. Nếu các chỉ tiêu này thấp hơn mức trung bình của ngành thì công ty chỉ nên huy động vốn chủ sở hữu. Quyền kiểm soát công ty: Là yếu tố được nhiều công ty cổ phần chú ý. Nếu một công ty coi trọng vấn đề giữ nguyên quyền kiểm soát, đặc biệt là những công mới thành lập, thì không thể tăng vốn bằng phát hành thêm cổ phiếu, do đó công ty sẽ tìm kiếm các nguồn nợ vay. Nếu công ty không quá coi trọng vấn đề về quyền kiểm soát thì kế hoạch huy động bằng phát hành cổ phiếu sẽ không bị ảnh hưởng. Suất sinh lời của các dự án mà công ty dự định tài trợ: Khi tiến hành bất kỳ một dự án nào công ty cũng phải so sánh suất sinh lời của dự án với chi phí sử dụng của các nguồn vốn, từ đó lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho dự án. Nếu suất sinh lời của dự án mà lớn hơn chi phí sử dụng lãi vay và nhỏ hơn chi phí sử dụng vốn chủ thì công ty sẽ huy động nợ để tài trợ cho dự án. Và ngược lại, trong một số trường hợp chi phí vốn chủ thấp hơn suất sinh lời dự án và thấp hơn chi phí lãi vay thì công ty sẽ sử dụng vốn chủ cho dự án. Mục tiêu cúa công ty: Một công ty đặt ra mục tiêu tiết kiệm thuế thu nhập doanh nghiệp và tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) thì công ty đó sẽ sử dụng các phương thức huy động nợ vay. Nếu mục tiêu của công ty là giảm hệ số nợ, nâng cao tỷ suất thanh toán thì công ty sẽ huy động vốn chủ sở hữu thay cho huy động nợ hoặc huy động nợ ít hơn huy động vốn chủ. Trong trường hợp cơ cấu vốn của doanh nghiệp cho phép tăng lợi tức trên một cổ phần (EPS) thì doanh nghiệp sẽ sử dụng nhiều nợ hơn để đạt mức EPS mong muốn, từ đó tăng giá trị cổ phiếu công ty cũng như giá trị công ty. Tình hình phát triển của công ty trong tương lai: Nếu các nhà quản trị công ty nhận thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty trong tương lai có chiều hướng sáng sủa thì công ty sẽ sử dụng phương thức huy động nợ vay vì nợ vay sẽ làm EPS hôm nay cao hơn và sẽ đưa công ty vào quỹ đạo phát triển nhanh chóng. Nếu các nhà quản trị e ngại tương lai phát triển của công ty thì phương thức huy động vốn bằng cổ phiếu rõ ràng chiếm ưu thế do có hệ số thanh toán tốt và EPS vẫn cao trong khi tình hình kinh doanh ở mức độ thấp. Công ty cổ phần phải đặt quyết định huy động vốn của mình trong mối quan hệ tổng hợp của cả các nhân tố chủ quan và khách quan để có sự lựa chọn phương thức huy động phù hợp nhất. 1.3 KINH NGHIỆM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG VIỆCHUY ĐỘNG VỐN. Đây là kinh nghiệm của công ty Deere&Company, một công ty sản xuất thiết bị nông nghiệp lớn nhất thế giới vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1976, giá dầu lên, tỷ lệ lạm phát tăng cao và lãi suất tăng cao kỷ lục đã khiến ngành công nghiệp sản xuất nông cụ rơi vào vòng xoáy khốc liệt. Có chính sách tài chính thận trọng hơn các đối thủ chính là công ty Massey Ferguson và International Harvester, công ty Deere đã chọn thời điểm này để sử dụng sức mạnh bảng cân đối kế toán với tỷ lệ thấp như một vũ khí cạnh tranh chủ yếu. Trong khi các đối thủ cạnh tranh cắt giảm hoạt động vì gánh nặng lãi suất cao và các khoản nợ lớn, thì Deere lại đi vay tiền thoải mái để huy động cho các dự án đầu tư tài chính của mình và hỗ trợ cho các đại lý bán hàng đang gặp khó khăn. Chiến lược này đã làm cổ phiếu trên thị trường của ba công ty của Deere tăng từ 38% vào năm 1976 lên tới 49% vào năm 1980; đó chính là giá trị về tính linh hoạt tài chính của công ty Deere (tức là các quyết định ngày hôm nay không hủy hoại đến lựa chọn phương thức huy động vốn trong tương lai). Nhưng vào cuối năm 1980, với số lượng tiền vay nợ ít đi và thị trường nông cụ vẫn còn trong vòng khủng hoảng, Deere lại phải đối mặt với khó khăn trong việc lựa chọn giữa việc cắt giảm chương trình mở rộng phát triển và phát hành thêm cổ phiếu mới vào lúc ngành công nghiệp sản xuất đang lúc lao đao. Vào ngày 5/1/1981, công ty đã thông báo phát hành 172 triệu USD cổ phiếu mới và phải chứng kiến giá trị thị trường của các cổ phiếu hiện tại lập tức giảm xuống mất 241 triệu USD. Tác động của thông báo này làm giá trị của các cổ phiếu hiện tại của Deere đã giảm hơn số lượng tiền mà Deere có được do phát hành cổ phiếu mới. Mặc dù có các phản ứng tiêu cực của thị trường như vậy, ban lãnh đạo của Deere vẫn tin tưởng mạnh mẽ vào tác dụng dài hạn của chiến lược do mình đặt ra, nên họ vẫn phát hành cổ phiếu mới, sử dụng chúng để giảm các khoản nợ. Do đó, Deere lại có thể vay được khoản tiền cần thiết và có đủ tính linh hoạt tài chính cần thiết trở lại để tiếp tục việc mở rộng sản xuất, trong khi các đối thủ chính của công ty vẫn sa lầy trong cơn khủng hoảng. Chiến lược khôn ngoan của Deere rất khó mà định lượng. Công ty đã chiếm lĩnh thị trường nông cụ. Tuy nhiên, sau khi đạt được suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là 14% vào các năm 1989, 1990, công ty rơi vào vòng lao đao ở các năm 1991, 1992. Nhưng các nhà phân tích ước tính năm 1994 công ty sẽ có mức sinh lời khoảng 20% hoặc cao hơn. Trong khi đó, giá cổ phiếu của Deere đã tăng từ mức thấp là 20USD năm 1986 lên tới 60-90 USD trong nửa đ ầu n ăm 1994. Như vậy công ty Deere&Company đã sử dụng linh hoạt các phương thức huy động vốn làm vũ khí cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường và là kinh nghiệm cho các công ty trong việc huy động vốn. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP BƯU ĐIỆN HÀ NỘI. 2.1. SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG BƯU ĐIỆN HÀ NỘI. 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội. Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội tiền thân là đội công trình trực thuộc Bưu điện Hà Nội, được giao nhiệm vụ lắp đặt cáp viễn thông, sửa chữa và vận hành máy móc thông tin cho Bưu điện Hà Nội. Năm 1979, đội công trình được đổi tên thành Công ty xây dựng Bưu điện Hà Nội và được tổ chức thành 3 đội chuyên trách bao gồm đội cáp, đội máy và đội xây dựng. Sau khi được đổi tên, công ty bắt đầu thực hiện thêm chức năng xây dựng và từng bước phát triển chuyên môn trong lĩnh vực xây lắp bưu chính viễn thông. Ngày 18/12/1996, Công ty xây lắp Bưu điện Hà Nội chính thức được thành lập theo quyết định số 4351/QĐ-TCCB của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam thay cho Công ty xây dựng Bưu điện Hà Nội. Bắt đầu từ thời điểm này, công ty trở thành 1 trong 15 thành viên chính thức của Bưu điện Hà Nội và hạch toán kinh tế phụ thuộc. Đây là bước ngoặt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của ngành bưu chính viễn thông Việt Nam và tạo điều kiện cho công ty tham gia đấu thầu các công trình xây lắp bưu chính viễn thông lớn. Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội, tên giao dịch quốc tế là: Hanoi P&T Construction & Installation Joint Stock Company, tên gọi tắt là HACISCO, trụ sở giao dịch đặt tại 51 Vũ Trọng Phụng, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội chính thức được thành lập theo quyết định số 950/QĐ-TCBĐ, ngày 13 tháng 10 năm 2000 của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện. Công ty là một trong những doanh nghiệp nhà nước của Tổng cục Bưu điện chuyển thành công ty cổ phần sớm nhất theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giao chỉ tiêu cổ phần hóa và đa dạng hóa hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đợt 1 năm 2000. Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 22 tháng 01 năm 2001 tại Phòng đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội với số đăng ký kinh doanh là 0103000234. Ngày 13 thàng 07 năm 2005 công ty tiến hành thay đổi đăng ký kinh doanh lần thứ 6 nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và đa dạng các loại hình kinh doanh của công ty. Theo quyết định số 950/QĐ-TCBĐ, Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội là pháp nhân theo pháp luật Việt Nam kể từ ngày được cấp đăng ký kinh doanh, thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế độc lập, được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng theo qui định của pháp luật, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty. Cũng theo quyết định này, tại thời điểm chuyển đổi thành công ty cổ phần, Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội có số vốn điều lệ là 12.000.000.000 đồng trong đó tỷ lệ vốn nhà nước ( Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam) 30% vốn điều lệ, tỷ lệ vổ phần bán cho người lao động trong doanh nghiệp 27% vốn điều lệ, tỷ lệ cổ phần bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp là 43% vốn điều lệ. Giá trị doanh nghiệp nhà nước tạ thời điểm cổ phần hóa ngày 31/12/1999 là 78.951.630.098 đồng, giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là 10.014.088.842 đồng, tổng số cổ phần theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp là 25.740 cổ phần, phần giá trị được ưu đãi là 772.200.000 đồng ( tính đến 30/06/2000). Ngành nghề kinh doanh của Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội ( 14 ngành nghề kinh doanh ): - Tư vấn, thiết kế thi công trình xây lắp bưu chính - viễn thông; - Tư vấn thiết kế, thi công các công trình xây lắp cơ điện lạnh; - Tư vấn thiết kế, thi công các công trình xây lắp dân dụng vào giao thông; - Sản xuất vật tư, vật liệu phục vụ các công trình trên; - Xây lắp các công trình về phát thanh - truyền hình; - Buôn bán xăng dầu; - Buôn bán vật tư, thiết bị ngành bưu chính - viễn thông, phát thanh- truyền hình, cơ điện lạnh, giao thông; - Kinh doanh nhà; - Tư vấn khảo sát, giám sát, thẩm định, lập dự án, dự toán công trình bưu chính - viễn thông; - Quản lý, giám sát các công trình xây dựng trong lĩnh vực dân dụng, công nghiệp và thông tin; - Duy tu, bảo dưỡng các loại tổng đài điện thoại, các thiết bị thông tin liên lạc, các mạng cáp đồng, cáp quang nội tỉnh và liên tỉnh; - Xây dựng các công trình công nghiệp; - Cho thuê văn phòng, nhà xưởng, kho bãi, mặt bằng; - Thi công các công trình xây lắp bưu chính - viễn thông. Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội chính thức tham gia vào thị trường chứng khoán từ ngày 19/12/2002 theo quyết định số 23 ngày 28/11/2002 của Chủ tịch Ủy ban chứng khoán nhà nước và quyết định 46/QĐ ngày 18/12/2002 của Giám đốc Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh về việc chấp nhận niêm yết lần đầu. Công ty tham gia niên yết trên thị trường chứng khoán nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn dồi dào và tạo được vị thế của mình trên thị trường, trở thành một công ty đại chúng. Việc tham gia thị trường chứng khoán tạo áp lực với công ty trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, công bố các thông tin… nhưng đồng thời cũng là động lực thúc đẩy công ty hoạt động hiệu quả hơn, thanh quyết toán đảm bảo thời gian và chính xác hơn để luôn giữ được niềm tin của cổ đông vào các hoạt động của công ty. 2.1.2 Mô hình tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội. Cơ cấu của Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội được tổ chức theo đúng cơ cấu ghi trong Luật Doanh nghiệp 2005 và theo mô hình của các công ty cổ phần trên thế giới, bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, Ban kiểm soát. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất của công ty bao gồm tất cả các cổ đông coa quyền biểu quyết và/hoặc người được ủy quyền. Đại hội cổ đông có trách nhiệm bầu, bãi nhiệm Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị gồm 5 thành viên với nhiệm kỳ 3 năm, Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đai hội đồng cổ đông. Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra gồm 3 thành viên với nhiệm kỳ 3 năm và có thể kéo dài 60 ngày để giải quyết những công việc chưa hoàn thành, Ban kiểm soát chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông, pháp luật về những công việc thực hiện theo quyền và nghĩa vụ của mình. Ban giám đốc gồm Tổng giám đốc và 2 phó tổng giám đốc do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, là cơ quan tổ chức điều hành và quản lý mọi hoạt động động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty theo mục tiêu, chiến lược và kế hoạch mà Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị đã thông qua.Bên cạnh đó là khối quản lý và khối sản xuất của công ty, khối quản lý gồm 3 phòng chức năng là phòng tài chính, phòng kế hoạch, phòng tổ chức. Khối sản xuất gồm 8 xí nghiệp trực thuộc trong đó có 4 xí nghiệp hạch toán riêng, nhằm tăng cường tính chủ động của đơn vị cơ sở đồng thời đáp ứng kịp yêu cầu quản lý, chỉ đạo thi công các công trình, hạn chế việc điều hành trực tuyến của Ban giám đốc. Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty: 2.1.3 Khát quát kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội. Những thuận lợi và khó khăn trong 3 năm 2003, 2004, 2005 mà Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội có được và gặp phải khi tiến hành các hoạt động ki._.hằm tăng uy tín của công ty trong giới đầu tư một mặt cũng nhiệt tình tham gia mua cổ phiếu của công ty để thể hiện quyền làm chủ và ngày càng gắn bó hơn với công ty, thêm vào đó là sự giúp đỡ của Công ty chứng khoán Bảo Việt, một tổ chức bảo lãnh phát hành khá chuyên nghiệp. Ba là, dựa vào sự hỗ trợ của Tổng công ty, công ty đã phát huy tối đa phương thức huy động nợ từ Công ty tài chính bưu điện. Là một thành viên trực thuộc Tổng công ty nên Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội được vay vốn ngắn hạn có hạn mức tín dụng tại Công ty tài chính bưu điện với lãi suất thấp hơn lãi suất vay trên thị trường (lãi vay ngắn hạn cao nhất mà công ty phải trả là 0,92%/tháng trong khi đó nếu vay tại các ngân hàng thương mại là 1%/tháng), thêm vào đó công ty lại không phải thế chấp tài sản mà được vay dưới hình thức tín chấp. Phương thức huy động này vừa đảm bảo nguồn vốn lưu động ngắn hạn cho công ty vừa nhanh, thuận tiện và ít thủ tục nên được công ty sử dụng là phương thức huy động chủ yếu để bổ sung nguồn vốn lưu động, vì vậy nguồn vốn mà công ty huy động được từ phương thức này không ngừng tăng lên, thậm chí công ty còn sử dụng phương thức này cho vay dài hạn đầu tư vào công trình xây dựng nhà chung cư. Bốn là, công ty đã huy động được nguồn vốn tín dụng thương mại khá lớn, chiếm trung bình gần 50% tổng nguồn vốn của công ty trong thời gian vừa qua. Sở dĩ phương thức huy động này được công ty sử dụng chủ yếu là do đặc điểm kinh doanh của công ty và những lợi ích mà nguồn tín dụng thương mại mang lại. Công ty là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xây lắp nên phải xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài với các nhà cung cấp nguyên vật liêu như sắt, thép, xi măng… đồng thời khi nhận thầu công trình công ty cũng phải yêu cầu chủ đầu tư ứng trước vốn. Mặt khác nguồn tín dụng thương mại từ các chủ đầu tư là nguồn vốn công ty có được mà không phải trả lãi. Chính vì vậy, công ty đã sử dụng chủ yếu phương thức huy động này để cung ứng vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh. Về những hạn chế còn tồn tại, Thứ nhất, mặc dù có những lợi thế huy động vốn trên thị trường chứng khoán nhưng công ty vẫn chưa tận dụng triệt để, vẫn còn dè dặt trong sử dụng phương thức phát hành cổ phiếu. Thông qua thị trường chứng khoán công ty hoàn toàn có thể phát hành các giấy nợ như trái phiếu để huy động vốn, nguồn vốn này tuy có chi phí lớn hơn nguồn từ cổ phiếu nhưng là công cụ của đòn bảy tài chính và khá thích hợp cho công ty trong giai đoạn hiện nay để đạt mức tăng trưởng nhanh. Công ty chưa có kế hoạch sử dụng phương thức huy động này có lẽ vì Thị trường cứng khoán Việt Nam chưa phát triển, các nhà đầu tư chưa mấy quan tâm đến thị trường, thêm vào đó trong số các công ty niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán thì chỉ đếm trên đầu ngón tay các công ty sử dụng phương thức huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu hay nói cách khác huy động vốn trên thị trường chứng khoán còn khá mới mẻ với doanh nghiệp Việt Nam. Trong lần phát hành cổ phiếu mới vừa qua, lượng cổ phiếu công ty phát hành nhỏ nên chưa đáp ứng được nhu cầu của các cổ đông nói chung và các nhà đầu tư nói riêng, bằng chứng là số lượng cổ phiếu được mua hết bởi các cổ đông hiện tại, kế hoạch bán số lượng cổ phiếu còn lại cho các đối tác chiến lược sau khi đã được cổ đông hiện tại mua đã không thực hiện được. Bên cạnh đó, chiến lược phân phối cổ phiếu mới của công ty chỉ dừng lại ở cổ đông hiện tại và các đối tác chiến lược mà không tính đến các cổ đông mới đã thể hiện sự dè dặt của công ty trong huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Thứ hai, trong phương thức huy động nợ từ ngân hàng và tổ chức tín dụng, công ty quá dựa vào Công ty tài chính Bưu điện, đây là hạn chế vì công ty có thể không tiếp cận được nguồn vốn lớn hơn và đa dạng hơn, bởi vì Công ty tài chính bưu điện không thể có được nguồn vốn dồi dào như tại các ngân hàng thương mại thêm vào đó công ty không chỉ phục vụ riêng Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội và với nguồn vốn hạn chế như vậy Công ty tài chính bưu điện không thể đáp ứng kịp nhu cầu vốn ngày càng tăng của công ty . Thứ ba, lượng vốn huy động từ tín dụng thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trước tiên, việc quá dựa vào nguồn vốn tín dụng thương mại khiến công ty bị thụ động trong kinh doanh vì các chủ đầu tư không ứng vốn kịp thời và việc thi công các công trình chỉ được tiến hành khi chủ đầu tư cấp vốn, do đó ảnh hưởng đến việc đấu thầu các công trình mới khác. Tiếp theo, công ty mua chịu hàng hóa từ các nhà cung cấp sẽ phải chịu giá cao hơn là thanh toán ngay, do vậy việc dựa vào nguồn tín dụng từ các nhà cung cấp của công ty sẽ khiến chi phí nguyên, vật liệu của công ty tăng ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm và lợi nhuận của công ty. Thứ tư, nguồn vốn huy động từ nợ và huy động từ chủ sở hữu không cân đối. Công ty sử dụng chủ yếu các phương thức huy động nợ và huy động khối lượng vốn lớn hơn nhiều so với khối lượng vốn chủ sở hữu huy động, chứa đựng nhiều rủi ro. Nợ tuy có chi phí thấp, có khả năng nâng cao tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cho công ty nhưng vốn chủ sở hữu là nguồn nội lực của công ty, là tấm lá chắn bảo vệ công ty trước nguy cơ mất khả năng thanh toán và nguy cơ phá sản. Vì vậy, nếu công ty không có chính sách tăng cường các phương thức huy động vốn chủ thì công ty sẽ gặp nhiều khó khăn. Thứ năm, công ty không có một kế hoạch cụ thể về lượng vốn cần phải có trong tương lai, do đó không dự tính trước được phương thức huy động vốn nên thiếu đi sự linh hoạt trong việc sử dụng các phương thức huy động, nhiều khi bỏ qua những cơ hội để có những nguồn vốn với chi phí thấp hoặc nhiều ưu đãi. Tóm lại, trong thời gian vừa qua, Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội đã sử dụng hết khả năng hiện có của mình để thu hút các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh cũng như đầu tư phát triển dài hạn của công ty, những nỗ lực đó thật đáng ghi nhận. Tuy nhiên trong hoạt động huy động vốn của công ty vẫn còn tồn tại những hạn chế mà công ty cần khắc phục để hoạt động huy động vốn ngày càng hiệu quả và tạo nên lực đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của công ty. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP BƯU ĐIỆN HÀ NỘI Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội trong thời gian qua có nảy sinh những điểm bất cập. Sau đây là những định hướng hoạt động, kế hoạch phát triển của công ty trong thời gian tới cùng với một vài ý kiến góp phần tăng cường hơn nữa hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội . 3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG, KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TYCỔ PHẦN XÂY LẮP BƯU ĐIỆN HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI Có thể nói một doanh nghiệp không có các định hướng hoạt động cũng như kế hoạch phát triển trong ngắn hạn và dài hạn là một doanh nghiệp chết. Bởi vì, định hướng hoạt động và kế hoạch phát triển là kim chỉ nam soi đường, thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động theo đúng quỹ đạo. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội luôn quan tâm đến việc hoạch định phương hướng hoạt động của công ty trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Cụ thể như sau: Chiến lược mở rộng thị trường - Với hoạt động xây lắp, dịch vụ tiềm năng của Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội gồm: + Xây dựng, lắp đặt hệ thống đường cột mạng lưới thông tin nông thôn các tỉnh miền Trung, miền Nam, miền Bắc. + Thi công, lắp đặt đường dây, các thiết bị phụ trợ và các nhà trạm, nguồn điện, trạm chuyển tiếp thông tin. Bên cạnh đó, công ty chủ trương đẩy mạnh cung cấp dịch vụ xây lắp cho các dự án cáp quang hóa, các tuyến truyền dẫn nội tỉnh, liên tỉnh. Đối với thị trường này, công ty sẽ tập trung cho hoạt động xây dựng và lắp đặt hệ thống đường dây cáp quang và cáp đồng cho khoảng 1/2 số tỉnh, thành phố của Việt Nam chưa thực hiện cáp quang hóa thông tin. Đây là mảng hoạt động mà công ty có thế mạnh với nhiều năm kinh nghiệm thi công mạng lưới cáp quang tại nội thành Hà Nội. - Với hoạt động sản xuất và lắp đặt cột ăng ten thu phát sóng vi ba. Cùng với việc đầu tư mới thiết bị cho xưởng sản xuất nguyên vật liệu và nâng cao trình độ công nhân, công ty đã có khả năng sản xuất và lắp đặt những cột ăng ten cao 120m với chất lượng cao. Đây là sự mở đầu cho việc mở rộng và phát triển thị trường cho hoạt động này. - Với hoạt động cung cấp dịch vụ thiết kế đối với các các công trình bưu chính-viễn thông. Công ty đã thành lập và đăng ký kinh doanh cho đơn vị trực thuộc của công ty là Xí nghiệp thiết kế. Đây là điều kiện cần thiết để công ty có thể tham gia vào lĩnh vực có lợi nhuận khá cao mà trước đây chỉ dành cho một số ít các đơn vị thiết kế của Tổng công ty Bưu chính-Viễn thông Việt Nam. - Với hoạt động cung cấp dịch vụ xây lắp phát thanh-truyền hình. Để có đủ điều kiện tham gia xây lắp các công trình phát thanh-truyền hình, công ty đã chủ động đăng ký kinh doanh và tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Chiến lược phát triển dài hạn - Đẩy mạnh những hoạt động kinh doanh chính, phát triển những hoạt động kinh doanh có thị trường tiềm năng, đa dạng hóa loại hình hoạt động nhằm tránh được những biến động bất lợi của thị trường và rủi ro của ngành nghề. - Tách các xí nghiệp trực thuộc hạch toán riêng nhằm tăng tính chủ động của cơ sở. - Hoàn thiện cơ cấu tổ chức để vừa tiết kiệm chi phí vừa tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Đối với những hoạt động kinh doanh chính: + Chủ động bám sát kế hoạch đầu tư của Tổng công ty Bưu chính -Viễn thông Việt Nam, nâng cao năng lực đấu thầu, chất lượng xây lắp công trình, rút ngắn tiến độ thi công công trình nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các chủ đầu tư. + Giữ vững và phát triển thị trường, đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh. + Tăng cường công tác quản lý để giảm chi phí, hạ giá thành sản xuất, tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. + Tiếp cận và mở rộng thị trường đặc biệt là thị trường khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng đồng bằng Nam Bộ. + Đầu tư các trang thiết bị, tài sản cố định cần thiết, chủ động áp dụng các công nghệ thi công tiên tiến nhất theo phương châm đi trước một bước so với các đơn vị trong ngành nhằm đảm bảo chất lượng thi công cao nhất và thời gian thi công ngắn nhất. - Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua các chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn, chuẩn bị và hoàn thiện những điều kiện cần thiết để được cấp chứng chỉ theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000. - Xây dựng kế hoạch, hướng tới phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn bổ sung cho nhu sản xuất kinh doanh. Kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn - Hoàn thành kế hoạch sản sản kinh doanh năm 2006 với các chỉ tiêu đề ra như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch cả năm Doanh thu 115 tỷ Lợi nhuận 9 tỷ Lãi cổ tức 15% - Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên trên 4 triệu đồng/tháng - Căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư năm 2004, 2005 của Tổng công ty Bưu chính-Viễn thông Việt Nam, tiếp tục tham gia đấu thầu dành công trình gối đầu cho năm tài chính 2006, 2007. - Hoàn tất việc xây dựng nhà trung cư cao 12-15 tầng tại khu đất Láng Trung-Hà Nội. - Phát hành thêm cổ phiếu để cơ cấu lại tài chính và nâng vốn điều lệ lên khoảng 25 tỷ đồng đến 30 tỷ đồng. - Tăng cường công tác quyết toán và thanh toán tiền công trình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, phát triển kinh doanh chứng khoán. Kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn - Duy trì tốc độ tăng trưởng doanh thu đối với mảng xây lắp (3%-5%/năm), phấn đấu nâng cao tốc độ tăng trưởng doanh thu lên 7%/năm . - Hoạt động xây lắp vẫn là hoạt động chủ lực. Công ty sẽ đầu tư nâng cao năng lực để có thể tiếp cận những dự án lớn của Tổng công ty, mở rộng hình thức xây lắp đến các lĩnh vực lắp đặt cột ăng ten, cột bê tông, truyền hình vệ tinh. - Mở rộng hoạt động sang xây lắp dân dụng phục vụ trực tiếp cho kinh doanh nhà, phát triển hoạt động xây lắp chuyên ngành phát thanh-truyền hình đáp ứng nhu cầu hội tụ của lĩnh vực viễn thông, tin học và phát thanh-truyền hình. - Đẩy mạnh hoạt động thiết kế thi công. 3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP BƯU ĐIỆN HÀ NỘI Để tăng cường hoạt động huy động vốn nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội nên thực hiện theo các nhóm giải pháp sau: Nhóm một là các giải pháp về hoàn thiện phương thức huy động vốn và kế hoạch hóa nguồn vốn, nhóm hai là các giải pháp về bộ máy tổ chức và quản lý của công ty, nhóm ba là các biện pháp khác. 3.2.1 Hoàn thiện phương thức huy động vốn và kế hoạch hóa nguồn vốn. Điều chỉnh cân đối các phương thức huy động vốn chủ sở hữu với các phương thức huy động nợ. Thực trạng huy động vốn cho thấy, nguồn vốn công ty dựa quá nhiều vào vay nợ (nợ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn) hay nói cách khác công ty sử dụng các phương thức huy động nợ không cân đối với các phương thức huy động vốn chủ. Vấn đề này dễ dẫn đến việc công ty phải “chịu gánh nặng nợ” nần lớn, làm cho khả năng thanh toán của công ty chưa cao và ảnh hưởng đến sự lành mạnh tài chính của công ty. Vì vậy, công ty nên sử dụng nhiều hơn nữa các phương thức huy động vốn chủ như tăng cường hơn nữa nguồn vốn từ lợi nhuận để lại, phát huy mạnh hơn nữa lợi thế huy động vốn chủ sở hữu trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu. Để tăng cường huy động vốn chủ từ lợi nhuận để lại, các biện pháp mà công ty cần sử dụng là: Tăng cường hơn nữa kiểm tra, kiểm soát tiến độ thi công các trình một mặt nhằm nâng cao hơn chất lượng công trình, mặt khác khắc phục tình trạng thất thoát nguyên, vật liệu trong quá trình sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi nhuận sau thuế và tăng lợi nhuận để lại cho vốn chủ sở hữu. Đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm công trình và nâng cao chất lượng tham gia đấu thầu để số lượng công trình được công ty thi công tăng hơn nữa, nhằm duy trì và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn nữa. Lập và thực hiện chính sách phân phối cổ tức phù hợp với mục tiêu vừa đảm bảo lợi ích của các cổ đông vừa đảm bảo nguồn lợi nhuận giữ lại tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Để phát huy mạnh hơn nữa lợi thế huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu, công ty nên: Tăng thêm số lượt phát hành cũng như số lượng cổ phiếu phát hành trong từng đợt để vừa tăng nhanh nguồn vốn chủ sở hữu vừa giảm chi phí phát hành cho từng đợt. Tăng cường bám sát, nghiên cứu sự biến động của thị trường chứng khoán và nắm bắt nhu cầu của các nhà đầu tư để từ đó có kế hoạch phát hành cổ phiếu thích hợp nhất. Sử dụng thêm các loại cổ phiếu khác như cổ phiếu ưu đãi để phát hành trên thị trường chứng khoán nhằm tăng thêm tính hấp dẫn cho cổ phiếu của công ty. Sử dụng các phương thức huy động nợ khác nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào tín dụng thương mại. Công ty đã dựa quá lớn vào tín dụng thương mại để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, công ty nên đẩy mạnh hơn nữa việc huy động từ tín dụng ngân hàng và tín dụng bằng phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Sở dĩ như vậy là vì, nguồn tín dụng thương mại quá lớn tiềm ẩn rủi ro lớn và chỉ đáp ứng được nhu cầu vốn ngắn hạn của công ty, việc sử dụng các phương thức huy động nợ khác vừa đảm bảo được nguồn vốn cho công ty đồng thời tìm kiếm được những ưu đãi hơn từ các phương thức huy động nợ khác. Mặt khác, phát hành trái phiếu để huy động vốn chính là việc công ty tận dụng thế mạnh của một công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Phát hành trái phiếu và tìm kiếm các nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại là các phương thức công ty cần sử dụng nhằm đảm bảo nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu phát triển của công ty trong giai đoạn tiếp theo. Lập kế hoạch nguồn vốn và dự kiến các phương thức huy động sẽ tiến hành Việc dự đoán và lập kế hoạch nguồn vốn là việc công ty dự tính nhu cầu vốn trong tương lai về số lượng, thời hạn, chi phí để từ đó công ty đưa ra các phương thức huy động vốn phù hợp nhất. Việc lập kế hoạch nguồn vốn và dự kiến các phương thức huy động giúp công ty chủ động được vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh đồng thời có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn dồi dào hơn, đa dạng hơn, chi phí thấp hơn. Để thực hiện biện pháp này công ty nên theo qui trình sau: Đầu tiên là trả lời câu hỏi: Trong kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo công ty cần bao nhiêu vốn ngắn hạn, bao nhiêu vốn dài hạn? Câu trả lời cho câu hỏi này dựa trên doanh thu dự tính của công ty trong kỳ tới, khả năng tự tài trợ của công ty cho kỳ tới ( bao gồm: lợi nhuận sau thuế dự tính là bao nhiêu?, chính sách phân phối cổ tức như thế nào?), các dự án dài hạn nào công ty phải thực hiện? Trên cơ sở các câu trả lời và các số liệu về tài sản và nguồn vốn của thời kỳ quá khứ, công ty sẽ sử dụng các phương pháp dự toán nhu cầu vốn như phương pháp tỷ lệ % doanh thu, phương phápdự toán vốn bằng các chỉ tiêu đặc trưng tài chính, phương pháp hồi quy…. Tiếp theo là: Liệt kê các phương thức huy động vốn ngắn hạn và vốn dài hạn mà công ty có thể thực hiện được, đồng thời xem xét liệu có tiến hành được các phương thức huy động trên thị trường hay không. Ví dụ: Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu là phương thức công ty được phép sử dụng và có điều kiện để thực hiện vì công ty đã niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán nhưng trong điều kiện thị trường như hiện nay công ty khó áp dụng. Giải thích cho vấn đề này như sau: Các nhà đầu tư không quan tâm đến trái phiếu của một công ty khiêm tốn như Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội, trái phiếu Chính Phủ và tái phiếu của các ngân hàng thương mại lớn hay của các công ty tài chính trực thuộc các tổng công ty chiếm tỷ trọng lớn thị trường trái phiếu nên trái phiếu mà công ty phát hành sẽ không thể cạnh tranh với các loại trái phiếu trên, thêm vào đó chưa có công ty niêm yết nào phát hành trái phiếu chứng tỏ thị trường trái phiếu công ty còn nhiều rủi ro. Chính vì vậy, tại thời điểm này công ty chưa nên sử dụng phương thức phát hành trái phiếu để huy động vốn. Sau nữa là: So sánh chi phí sử dụng vốn giữa các phương thức và với suất sinh lời có thể có từ việc tài trợ từ các nguồn vốn đó. So sánh chi phí sử dụng vốn giữa các phương thức huy động giúp công ty lựa chọn được nguồn vốn rẻ, đồng thời so sánh chi phí này với suất sinh lời dự tính giúp công ty không những trang trải được chi phí mà còn thu được lợi nhuận từ việc đầu tư cho kinh doanh. Trong bước này công ty nên cân nhắc giữa sử dụng phương thức huy động nợ và vốn chủ sở hữu dựa vào tình hình tài chính hiện tại của công ty. Nếu tỷ số nợ của công ty quá lớn thì dù nợ có chi phí thấp hơn vốn chủ cũng không nên huy động nợ vì điều đó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng thanh toán của công ty. Cuối cùng là: Công ty đưa ra danh sách về các phương thức huy động vốn cùng với khối lượng vốn dự tính sẽ huy động trong từng phương thức. Dùng phương thức nào để huy động nợ? Khối lượng huy động là bao nhiêu ? Dùng phương thức nàu huy động vốn chủ? Lượng vốn cần huy động như thế nào? Việc kế hoạch hóa nguồn vốn và dự kiến các phương thức huy động cần có sự phối hợp chặt chẽ của toàn công ty. Đại hội cổ đông quyết định hướng phát triển dài hạn của công ty, Hội đồng quản trị trên cơ sở định hướng phát triển đó quyết định chiến lược trung và ngắn hạn, bao gồm cả chiến lược về nguồn vốn cho sự phát triển đó. Hội đồng quản trị giao trách nhiệm cho Ban giám đốc tiến hành, chỉ đạo và kiểm soát việc thực hiện các chiến lược đề ra. Ban giám đốc phân công cho từng bộ phận chức năng thực hiện, cụ thể: Phòng tài chính cùng với phòng kế hoạch tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh, đánh giá tình hình tài chính của công ty và khả năng đáp ứng vốn kinh doanh của các kỳ trước, đồng thời dự đoán nhu cầu vốn của công ty trong kỳ tiếp theo, việc dự đoán này dựa trên các số liệu trong quá khứ, các mục tiêu trong tương lai và tập hợp nhu cầu vốn từ các xí nghiệp trực thuộc. Sau đó, kế hoạch này sẽ được trình Ban giám đốc phê duyệt, đối với trường hợp phải huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu hoặc huy động vay dài hạn với khối lượng lớn phải trình Hội đồng quản trị phê duyệt. Phát huy hơn nữa khả năng huy động từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Cán bộ công nhân viên trong công ty có thể là đối tượng tài trợ cho công ty dưới hình thức mua cổ phiếu hoặc cho vay. Cán bộ công nhân viên trong công ty không những là những người lao động mà họ còn là những nhà đầu tư, họ cũng muốn đồng tiền mình làm ra có thể sinh sôi ra nhiều hơn nữa, do đó họ muốn đầu tư. Việc mua cổ phiếu, cũng như cho vay với công ty mình làm việc là hình thức đầu tư có hiệu quả, có nghĩa là đồng tiền họ bỏ ra đầu tư không những đem lại cho họ giá trị tăng thêm mà còn ít rủi ro hơn mua cổ phiếu hay cho vay với các công ty khác vì những nhà đầu tư này hiểu rõ tình hình công ty và họ có thể dự đoán chính xác rủi ro của việc đầu tư này. Không chỉ có lợi cho người lao động mà chính bản thân công ty cũng được lợi khi huy động vốn theo cách thức này. Thứ nhất, công ty sẽ có vốn phục vụ hoạt động kinh doanh. Thứ hai, công ty không phải chia sẻ quyền kiểm soát cho các nhà đầu tư ngoài công ty. Thứ ba, người lao động sẽ gắn bó hơn với công ty vì họ là một trong những người chủ công ty, đồng thời họ sẽ hăng hái làm việc hơn vì họ muốn đồng tiền họ cho công ty vay thực sự sinh lợi. Chính vì những nguyên nhân trên mà công ty cần đẩy mạnh huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Để thực hiện được điều này công ty phải tạo ra sự hấp dẫn cho các khoản đầu tư này đối với người lao động. Ví dụ như bán cổ phiếu với giá ưu đãi hơn với người lao động, vay với lãi suất có thể cao hơn thị trường một chút, thực hiện các biện pháp để người lao động thấy rằng khi bỏ tiền đầu tư vào công ty không những thu được lợi nhuận mà thu nhập của họ cũng tăng lên nhờ hoạt động kinh doanh có hiệu quả của công ty từ nguồn đầu tư đó. Tóm lại, công ty muốn huy động nguồn vốn này thật nhiều thì phải cho người lao động thấy rằng họ nhận được nhiều lợi ích từ việc đầu tư này hơn là những rủi ro có thể gặp phải và công ty thực sự là ngôi nhà thứ hai đối với họ, là nơi họ có thể đặt niềm tin. Mở rộng các phương thức huy động vốn khác Mặc dù công ty đã sử dụng nhiều phương thức huy động vốn khác nhau nhưng còn nhiều phương thức huy động khác mà công ty nên tham khảo và sử dụng trong thời gian tới, nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu vốn cho kinh doanh. Các phương pháp khác công ty có thể sử dụng là: Thuê tài chính, phát hành trái phiếu, vay từ các doanh nghiệp khác…Tuy nhiên trước khi áp dụng các phương thức này công ty cần nắm rõ nhu cầu vốn của mình, tình hình huy động trên thị trường, tâm lý và nhu cầu của các nhà đầu tư để sử dụng biện pháp hợp lý nhất, tránh tình trạng huy động tràn lan gây lãng phí vốn mà hiệu quả lại không cao. 3.2.2 Các giải pháp đối với bộ máy tổ chức nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội Đại hội cổ đông: Cần có những định hướng cụ thể cho hoạt động của công ty trong dài hạn như: Tốc độ tăng trưởng doanh thu? Thị trường nào cần mở rộng? Ngành nghề nào cần bổ sung? Dự án dài hạn nào sẽ được đầu tư? Có phát hành thêm cổ phiếu không?....Những định hướng như vậy sẽ giúp công ty dự đoán nhu cầu vốn và phương thức huy động vốn cần sử dụng. Hội đồng quản trị: Cụ thể hóa các định hướng của Đại hội cổ đông thành các mục tiêu ngắn hạn như: Doanh thu trong kỳ tới là bao nhiêu? Nguồn vốn cần là bao nhiêu? Huy động nợ bao nhiêu? Huy động vốn chủ bao nhiêu? Phương thức nào được sử dụng? Ban giám đốc: Thi hành các quyết định của Hội đồng quản trị về số lượng và phương thức huy động vốn, Ban giám đốc phân công cho từng đơn vị, phòng ban chức năng thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Ví dụ: Các xí nghiệp cùng với phòng kế hoạch tìm kiếm các hợp đồng để đạt được doanh thu đề ra, phòng tài chính sử dụng các phương thức thích hợp để huy động vốn. Ban kiểm soát: Giám sát việc thực hiện công việc của Hội đồng quản trị và ban giám đốc, đánh giá việc thực hiện đã đạt yêu cầu chưa? Nếu chưa đạt phải đôn đốc thực hiện theo đúng yêu cầu đề ra. Các xí nghiệp và phòng chức năng trong công ty: Phát huy hết khả năng để hoàn thành công việc chuyên môn nhằm đạt được mục tiêu mà Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị đề ra. Trong đó, phòng tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm các nguồn vốn, sử dụng các phương thức huy động thích hợp. 3.2.3 Các biện pháp khác Nâng cao hơn nữa trình độ của các cán bộ quản lý tài chính Trong công ty, ngoài các nhân viên kế toán làm tại Phòng tài chính của công ty còn có những nhân viên kế toán tại các xí nghiệp trực thuộc. Để thực hiện tốt công tác tài chính nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ phận này. Vì vậy, trình độ nhân viên của các bộ phận này đòi hỏi phải có sự tương quan, không quá chênh lệch. Ngoài ra, công ty có những chính sách khuyến khích các cán bộ quản lý tài chính nâng cao trình độ chuyên môn như cử đi học các lớp chuyên ngành dài hạn cũng như ngắn hạn, hỗ trợ kinh phí đi học cho cán bộ, đảm bảo rằng họ sẽ có vị trí tốt hơn sau khi học xong…Đồng thời công ty cũng tạo điều kiện để các cán bộ tài chính không ngừng tiếp cận với những cái mới, thường xuyên cập nhật thông tin thị trường đặc biệt là thị trường tài chính và các dịch vụ ngân hàng. Nâng cao định mức tín nhiệm của công ty Định mức tín nhiệm là uy tín của công ty trên thị trường, một công ty có định mức tín nhiệm cao sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn vì công ty đó tạo được sự tin tưởng cho các nhà tài trợ đặc biệt định mức tín nhiệm rất cần thiết đối với một công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, công ty cần nâng cao hơn nữa định mức tín nhiệm của mình trên thị trường bằng cách nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, minh bạch và lành mạnh hóa tình hình tài chính và tăng cường quảng bá hình ảnh của mình trên thị trường. Các biện pháp này giúp các nhà tài trợ và công chúng biết đến công ty và tạo niềm tin để họ thực hiện đầu tư. 3.3 KIẾN NGHỊ Với Tổng công ty bưu chính-viễn thông Việt Nam (nay là Tập đoàn bưu chính-viễn thông Việt Nam). Định hướng và lập kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn phát triển và mục tiêu của từng giai đoạn nhằm giúp Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội cũng như các đơn vị thuộc tập đoàn dựa vào đó để có kế hoạch phát triển cụ thể của riêng mình, góp phần quan trọng vào công tác kế hoạch hóa nguồn vốn và phương thức huy động vốn của công ty. Sở dĩ như vậy là do hoạt động của công ty gắn liền với hoạt động của Tập đoàn. Hoàn thiện công tác đấu thầu các công trình xây lắp viễn thông của Tập đoàn để các công ty xây lắp trực thuộc có thể tham dự đấu thầu và nhận thầu một cách công bằng, minh bạch, cạnh tranh khách quan bằng chính năng lực của mình. Làm tốt công tác này không những ngày càng nâng cao chất lượng các công trình mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty, đó chính là biện pháp giúp công ty phát triển lâu dài trong môi trường hội nhập như hiện nay. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát tiến độ thi công cũng như chất lượng các công trình xây lắp. Hỗ trợ cho công ty về kỹ thuật, trang thiết bị máy móc và đào tạo cán bộ để theo kịp sự phát triển nhanh chóng của bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin. Nâng cao hơn nữa khả năng đáp ứng vốn, cũng như các dịch vụ tài chính khác của Công ty tài chính bưu điện với các đơn vị trong Tập đoàn trong đó có Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội Với cơ quan quản lý nhà nước Thực hiện các biện pháp khuyến khích các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tăng cường các hình thức huy động vốn qua thị trường, một mặt vừa tăng khả năng huy động vốn cho công ty, một mặt tăng nguồn hàng cho thị trường. Các biện pháp khuyến khích có thể là: miễn giảm thuế, tư vấn miễn phí, nghiên cứu thị trường theo yêu cầu của doanh nghiệp với chi phí thấp, giảm chi phí phát hành cho doanh nghiệp… Tích cực tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho các nhà đầu tư và công chúng để thu hút họ vào các hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán. Sớm hoàn thiện các khung khổ pháp lý trên cơ sở ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi một số luật: Luật Chứng khoán, Luật Sử dụng vốn và kinh doanh, Luật phá sản, hướng dẫn thi hành Luật đất đai….tiến tới xóa bỏ hoàn toàn sự khác biệt về điều kiện kinh doanh với các loại hình doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiến hành các biện pháp kiểm tra kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải minh bạch hóa tình hình tài chính để tăng cường nguồn vốn và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Nắm bắt kịp thời các bức xúc cũng như nguyện vọng của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng để ngày càng nâng cao hơn hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trên đây là những giải pháp đưa ra khi nghiên cứu hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội cũng như những kiến nghị với cơ quan quản lý trực tiếp và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại công ty trong thời gian tới. KẾT LUẬN Thời gian thực tập và nghiên cứu thực hiện chuyên đề tốt nghiệp đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội”. Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài đã cho tôi những liên hệ quý báu giữa lý thuyết và thực tế nguồn vốn cũng như hoạt động huy động vốn tại một doanh nghiệp cụ thể, giúp tôi hiểu sâu hơn những lý thuyết mình được học tại trường đại học và thấy được việc áp dụng những lý thuyết trên vào thực tế. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Đặng Ngọc Đức đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi từ khi bắt đầu thực tập tốt nghiệp đến tìm đề tài và thực hiện đề tài chuyên đề tốt nghiệp. Tôi cũng chân thành cảm ơn chú Cao Đăng Thanh-Kế toán trưởng Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội và các chị trong Phòng tài chính công ty đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ tôi từ việc tìm kiếm tài liệu tại công ty cũng như giải đáp thắc mắc và hướng dẫn để tôi thực hiện tốt chuyên đề tốt nghiệp. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36770.doc
Tài liệu liên quan