Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Tài liệu Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội: DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1:Tình hình biến động vốn huy động .32 Bảng 2: Tình hình cho vay theo thời hạn .34 Bảng 3: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn .39 Bảng 4: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền .42 Bảng 5: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động .45 Bảng 6: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng .50 Biểu đồ 1: Biến động vốn huy động .32 Biểu đồ 2: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn .40 Biểu đồ 3: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền .42 Biểu đồ 4: Cơ cấu vốn huy động theo hình thứ... Ebook Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c huy động .45 Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động .50 LỜI CẢM ƠN! Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này, em xin cảm ơn sâu sắc tới các cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình thực tập. Em xin chân thành cảm ơn tới T.S Hoàng Xuân Quế - người đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Cùng với vốn hiểu biết sâu sắc về Ngân hàng thương mại nói chung và huy động vốn ở Ngân hàng thương mại Nhà nước nói riêng, thầy đã hướng dẫn em tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu để thực hiện Luận văn tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn! LỜI MỞ ĐẦU Hệ thống ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước đang là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận khoa học và thực tiễn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước vận hội mới, thách thức mới của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đã, đang và chủ yếu trong tương lai là một bộ phận của chiến lược kinh tế toàn cầu, đối với các nhà kinh tế - đặc biệt là các nhà kinh tế trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng không thể không nhận thức và vận dụng các vấn đề về vốn, hình thức tạo vốn, thị trường vốn trong các nền kinh tế thị trường vào thực tiễn Việt Nam để trên cơ sở đó xác lập một chiến lược huy động vốn qua hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành “ kênh huy động vốn quan trọng ” đóng vai trò chủ chốt trong nhu cầu giao lưu vốn của nền kinh tế, thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình vì nguồn vốn huy động được còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với nguồn vốn của xã hội; Chất lượng tín dụng thấp; Tỷ lệ nợ quá hạn lớn…Bên cạnh đó, thị trường vốn phát triển chậm, tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn lớn, các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng chưa đa dạng. Nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Xung quanh những vấn đề tưởng như xưa cũ này của kinh tế thị trường lại đặt ra nhiều điều mới mẻ và cực kỳ bức xức đối với một nước bắt đầu bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới - đầy ắp những cạnh tranh, cam go và vận hội để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh đó chúng ta không thể không thành công trên con đường hiện đại hóa nền kinh tế đất nước nếu không sử dụng linh hoạt và phù hợp các công cụ về vốn. Do đó, để đủ sức cạnh tranh hội nhập khu vực và quốc tế các ngân hàng thương mại cả nước nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng phải có chiến lược về huy động vốn, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng. Nhất là tại thành phố lớn như thủ đô Hà Nội, bên cạnh sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại thì nhu cầu vốn để phục vụ nhu cầu của khách hàng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là rất lớn. Trong bối cảnh đó, dù bản thân Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn luôn giữ vững vị trí quan trọng và đóng góp lớn trong sự phát triển của cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng. Nhưng nếu ngân hàng không có sự mở rộng quy mô vốn không có cơ cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì không thể tồn tại và phát triển được. Chính vì thế, huy động vốn là vấn đề nóng bỏng đối với Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong quá trình phát triển của mình. Do đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ChươngIII: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Do còn hạn chế về mặt lý luận cũng như kiến thức thực tiễn nên Luận văn tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, em rất mong được sự chỉ bảo góp ý của cô chú và các thầy cô giáo để Luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng phải có một số vốn nhất định. Đây là điều kiện không thể thiếu được để một ngân hàng thành lập và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản Có của ngân hàng. Vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn huy động tiền gửi, vốn từ phát hành tín phiếu….. Như vậy, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư hay đáp ứng các nhu cầu khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của ngân hàng mà chúng ta quan tâm chủ yếu là nguồn vốn huy động trong quá trình hoạt động. Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: 1.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép thành lập ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn chủ sở hữu là yếu tố quyết định quy mô vốn và quy mô tài sản có. Xét về đặc điểm, nguồn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng (khoảng 5% - 8%) nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng bởi vì nó không những thể hiện thực lực quy mô của ngân hàng mà còn là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và đây cũng là nguồn vốn khởi đầu tạo nên uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Theo đà phát triển như hiện nay thì nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi nền kinh tế và hoạt động ngân hàng gặp khó khăn. Vốn tự có càng lớn thì khả năng sinh lời càng lớn vì nó có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, có nhiều cơ hội để kinh doanh hơn trên cơ sở nguồn vốn sẵn có của mình. Tuy nhiên, không phải vốn tự có càng lớn càng tốt bởi vốn này quá lớn sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có càng nhỏ. Vốn này cũng không nên quá nhỏ vì sẽ làm mất đi tính chủ động và gây trở ngại cho hoạt động của ngân hàng Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại rất đa dạng tuy theo tính chất sở hữu của Ngân hàng thương mại đó. 1.1.1.1 Vốn điều lệ Vốn điều lệ là vốn đã được cấp hoặc được đóng góp của các chủ sở hữu. Tuỳ theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh vốn điều lệ là vốn do ngân sách cấp dưới hình thức bằng tiền và trái phiếu chính phủ. Nếu là ngân hàng cổ phần vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh góp, nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc sở hữu tư nhân. 1.1.1.2 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Thứ nhất: Nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại trong điều kiện thu nhập ròng dương, chủ ngân hàng thường có 2 xu hướng là chi trả cổ tức cho các cổ đông và tăng vốn bằng cách chuyển thu nhập đó thành vốn để đầu tư. Trong trường hợp số lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ đáp ứng các nhu cầu thì đây chính là hình thức vốn cổ phần tốt nhất mà ngân hàng nên sử dụng. Nhưng để sử dụng phương thức này thì ngân hàng phải đảm bảo có thể đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn của mình mà không làm tổn hại đến các cổ đông hoặc giá cổ phiếu. Lợi nhuận để lại không phải là một nguồn vốn cho không (chi phí của lợi nhuận để lại sẽ bao gồm cả giá trị cao hơn của số cổ tức được trả bằng tiền mặt hôm nay so với mức cổ tức sẽ nhận được trong những năm sắp tới và giá cổ phiếu có thể thấp hơn do mức chi trả cổ tức bằng tiền mặt giảm đi). Nhưng dù sao thì đây vẫn là nguồn vốn có chi phí thấp hơn so với việc phát hành cổ phiếu phổ thông mới, đồng thời phải chịu sự kiểm soát trực tiếp của người quản lý. Thứ hai: Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, vốn góp thêm, cấp thêm…Để tăng thêm vốn chủ sở hữu các ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung đối với các ngân hàng đã phát hành cổ phiếu ra công chúng. Ngoài ra, nếu là ngân hàng quốc doanh có thể gia tăng vốn chủ bằng cách xin nhà nước cấp thêm. Đây là hình thức tăng vốn để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn chủ của Ngân hàng thương mại. Đặc điểm của hình thức tăng nguồn vốn này là không thường xuyên, song lại giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. 1.1.1.3 Các quỹ Ngân hàng có một số loại quỹ, trong đó mỗi quỹ đều có mục đích riêng. Trước tiên là: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp tổn thất xảy ra. Theo quy định của Việt Nam, nguồn bù đắp tổn thất tín dụng bao gồm dự phòng để xử lý rủi ro và quỹ dự phòng tài chính. Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Bao gồm 2 khoản chính là các khoản trích từ lợi nhuận hàng năm và phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu. Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,…Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ không thể sử dụng lâu dài. 1.1.2 Nguồn vốn huy động Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng thương mại. Khi các ngân hàng hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ các khách hàng. Bằng cách đó, ngân hàng huy động tiền từ các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau: 1.1.2.1 Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư Đây là một hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn như các kỳ hạn khác nhau, mở cho mỗi người nhiều chuyên mục tiết kiệm ( hoặc sổ tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm không thể dùng để mua hàng nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn ngân hàng . 1.1.2.2 Vốn huy động từ tiền gửi thanh toán Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm mục đích nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi tiêu của khách hàng sẽ được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền mặt của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của các khoản tiền gửi thanh toán thấp hơn các hình thức gửi tiền khác, nhưng thay vào đó, chủ tài khoản sẽ được sử dụng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tài khoản có thể phát hành séc cho khách hàng với thủ tục rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ được thanh toán trong phạm vi số dư trên tài khoản. Ngân hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – vượt mức số dư có của tài khoản tiền gửi ). Một ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình thức tài khoản thanh toán nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. 1.1.2.3 Vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy thuận tiện cho thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Do đó, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kỳ hạn, theo đó người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán giống như tiền gửi thanh toán, nếu cần chi tiêu khách hàng phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tiền gửi có kỳ hạn mặc dù không thuận tiện bằng tiền gửi thanh toán nhưng có ưu điểm là có lãi suất cao hơn. 1.1.2.4 Vốn huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các ngân hàng thương mại có thể gửi tiền ở các ngân hàng khác nhưng quy mô của nguồn này thường không lớn, nó phụ thuộc vào tình hình cân đối và khả năng thanh khoản của Ngân hàng nhận vốn . 1.1.3 Nguồn vốn vay Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại nhưng Ngân hàng thương mại có thể phải đi vay nếu thấy cần thiết. Tại nhiều quốc gia, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. 1.1.3.1 Vay Ngân hàng Trung ương Đây là khoản vay nhằm mục đích giải quyết các nhu cầu chi trả cấp bách của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán ) ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu là Ngân hàng Trung ương tái chiết khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu ( tái chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng thương mại đem các thương phiếu này lên Ngân hàng Trung ương tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm giảm thương phiếu của ngân hàng thương mại và dự trữ của Ngân hàng Trung ương tăng lên. Ngân hàng Trung ương điều hành quá trình này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Trung ương chỉ tái chiết khấu đối với những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung ương trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Trung ương cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. 1.1.3.2 Vay các tổ chức tín dụng khác Các ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng không có dự trữ vượt mức do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Trung ương. Quá trình vay mượn rất đơn giản: Ngân hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng đại lí ( hoặc Ngân hàng Trung ương ). Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. 1.1.3.3 Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn. Nhiều ngân hàng thiếu nguồn tiền trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn sẽ vay được nhiều hơn, còn các ngân hàng nhỏ khó vay trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ này tương đối phức tạp: ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất, bảo quản hộ…cũng được quan tâm. 1.1.4 Nguồn vốn khác Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác. 1.1.4.1 Tiền uỷ thác Ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả đã hình thành nguồn uỷ thác làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. 1.1.4.2 Tiền trong thanh toán Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các nguồn trong thanh toán như: séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C…những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong hợp đồng tài trợ có kết dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay… 1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Sự cần thiết của huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại hay còn gọi là nghiệp vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm thu hút vốn từ các tổ chức và cá nhân trong trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình. 1.2.1.1 Vốn là cơ sở để các ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, các ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác.Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn dồi dào về nguồn vốn trung và dài hạn thì nó sẽ tập trung cho vay và đầu tư vào những dự án lớn có khả năng sinh lời cao trong khi đó các ngân hàng có nguồn vốn nhỏ thì ngược lại. Do vậy, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình. 1.2.1.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với các ngân hàng ít vốn. Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng.Theo luật các tổ chức tín dụng thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng tối đa không quá 15% vốn tự có của NHTM. Do vậy các ngân hàng lớn nhiều vốn phạm vi hoạt động sẽ rộng hơn, cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng hơn các ngân hàng nhỏ. Chính vì thế càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.2.1.3 Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường Các ngân hàng lớn trên thế giới đều là các ngân hàng có uy tín, luôn được ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính là vốn của ngân hàng.Có nhiều vốn khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng. Trong nền kinh tế bất ổn như hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các ngân hàng quan tâm hàng đầu và để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn. 1.2.1.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp các ngân hàng mở rộng quy mô hoạt, tăng cường quan hệ với các đối tác đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng mà lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh được với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi ….Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và thực hiện tốt hơn. Do vai trò then chốt của vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải cực kỳ nhanh nhạy trong việc điều hành vốn, tránh xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. 1.2.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng là tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Bất cứ ngân hàng nào mà thường xuyên làm cho khách hàng thất vọng thì ngân hàng đó khó có khả năng đứng vững trên thị trường nếu không tìm ra giải pháp để cải thiện được thực trạng đó. Nếu ngân hàng không đủ vốn mà phải từ chối yêu cầu xin vay của khách hàng thì cũng đồng nghĩa với sự lãng phí về một khoản tiền gửi và cũng bỏ phí một cơ hội kinh doanh nào đó trong tương lai với khách hàng do họ đã bị thất vọng và không còn tín nhiệm đối với ngân hàng đó nữa. Như vậy, việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp linh hoạt là điều rất cần thiết đối với Ngân hàng thương mại. Có thể phân loại vốn huy động của ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau: 1.2.2.1 Theo đối tượng huy động a) Vốn huy động từ dân cư Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm,kiếm lời và để thanh toán. Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn và khá ổn định đối với ngân hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng vừa chuẩn bị cho những công việc trong tương lai của mình, đồng thời cũng muốn khoản tiền đó sinh lãi. Nguồn vốn này rất đa dạng, vì thế nó có thể huy động dưới nhiều hình thức để phục vụ mục tiêu phát triển của ngân hàng.Tiền gửi của dân cư gồm 2 loại sau: - Tiền gửi tiết kiệm Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi được ngân hàng giao cho một sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền, sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu để vay vốn ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau. - Tiền gửi thanh toán Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ cũng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng các nhu cầu thanh toán cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của ngân hàng. Trên thực tế tiền gửi của dân cư luôn chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng luôn chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi nhưng lĩnh nhiều nơi…với lãi suất hợp lý. b) Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận vốn nhàn rỗi tạm thời như: Khấu hao đã trích nhưng chưa đến lúc sử dụng; Tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên liệu, trả lương; Các quỹ đầu tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến … Để đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể gửi số vốn đó vào ngân hàng. Hoặc để thuận tiện cho quá trình sử dụng vốn, đơn vị có thể thanh toán qua ngân hàng cũng như sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác. Khi đó, họ cần phải gửi vốn vào ngân hàng. Tổ chức kinh tế có thể gửi vốn vào ngân hàng dưới hình thức: Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau. Đồng thời ngân hàng sẽ mở cho các đơn vị các tài khoản tương ứng để thuận tiện trong việc sử dụng. Tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ phải thoả mãn các nhu cầu đó. Loại tiền gửi này có mục đích chính là để thanh toán. Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút có thể thực hiện vào bất kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp, thậm chí có những khoản tiền gửi ngân hàng không phải trả lãi. Cho nên nguồn vốn này giúp cho ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư. Tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã thoả thuận, nhưng trên thực tế để thu hút loại tiền gửi này có thời hạn dài, các ngân hàng thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ được lãi suất không kỳ hạn hoặc hưởng lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do ngân hàng định. Nguồn vốn này có độ ổn định cao, ngân hang chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy, để có thể thu hút nhiều hơn loại tiền gửi này, các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau phù hợp với thời gian vốn nhàn rỗi ở các đơn vị, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn bằng hình thức đi vay các ngân hàng thương mại khác và các tổ chức tín dụng. Loại vốn này lãi suất có lúc cao hơn lãi suất từ các nguồn tiền gửi hay huy động từ dân cư. Tuy nhiên, nó cũng hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu dự trữ, chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể vay mượn mà không cần phải đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán của kho bạc. c) Vốn huy động khác Đây là những nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được khi thực hiện chức năng làm trung gian thanh toán hoặc làm đại lý, tiếp nhận vốn tài trợ uỷ thác đầu tư. Vốn trong thanh toán được tạo lập từ các tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản bảo lãnh…mà chưa đến hạn thanh toán, thực hiện nghiệp vụ đại lý, tiếp nhận vốn tài trợ uỷ thác đầu tư thì Ngân hàng thương mại cũng tạo lập một lượng nguồn vốn nhất định … 1.2.2.2 Theo hình thức huy động a) Vốn huy động qua tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại hình tiền gửi khác nhau và mỗi công cụ huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có nhưng đặc điểm riêng. Để gia tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động phong phú: ² Tiền gửi không kỳ hạn: ( tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi phát séc ) Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào để đáp ứng nhu cầu sử dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó của khách hàng vào bất cứ lúc nào khi khách hàng yêu cầu dù ngân hàng đang gặp khó khăn về vốn hay thị trường đang không ổn định gây bất lợi cho ngân hàng. Qua nghiệp vụ này cả khách hàng và ngân hàng cả hai bên sẽ đều có lợi. Đối với khách hàng, nhờ gửi tiền vào ngân hàng mà thu được lãi tiền gửi, nhưng vẫn có thể rút tiền bất cứ lúc nào hoặc khi thực hiện các dịch vụ tiện lợi của ngân hàng như thanh toán bằng chuyển khoản. Còn đối với ngân hàng thì tiền gửi thanh toán như một khoản nợ mà ngân hàng sẽ phải trả cho khách hàng gửi tiền vào bất cứ lúc nào họ yêu cầu, nếu chậm trễ hoặc không đầy đủ coi như ngân hàng vi phạm thoả thuận và phải chịu phạt theo quy định của luật pháp. Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi thanh toán này để cho vay, tuy nhiên việc cho vay phải có mức độ, phải có dự trữ nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ các yêu cầu của khách hàng và chấp hành quy định của Ngân hàng nhà nước. ² Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào ngân hàng có sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng về lãi suất tiền gửi và thời hạn rút tiền. Thông thường ngân hàng quy định khách hàng không được rút tiền trước thời hạn; Tuy nhiên do áp lực cạnh tranh hiện nay các ngân hàng vẫn phải chấp nhận cho khách hàng rút ra trước hạn nhưng người gửi chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất đã thoả thuận ban đầu hoặc chịu một mức phạt nhất định tuỳ thuộc vào chính sách huy động vốn của ngân hàng và loại tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định và ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh. Do đó để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Với mỗi kỳ hạn ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc: kỳ hạn càng dài thì mức lãi suất càng cao và với nhiều điều khoản hấp dẫn khách hàng để tạo sự khác biệt. ² Tiền gửi tiết kiệm Là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền được nhận sổ tiết kiệm, đó là chứng từ đảm bảo tiền gửi, là giấy chứng nhận khách hàng đã tiền gửi vào ngân hàng và người có sổ tiết kiệm có thể mang sổ này đến ngân hàng cầm cố để vay vốn. Tiền g._.ửi tiết kiệm của dân cư cũng có 2 loại đó là: Tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền tiết kiệm mà khách hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng với mục tiêu nhờ ngân hàng giữ hộ tiền là chủ yếu. Với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ngân hàng chỉ trả cho người gửi tiền lãi suất bằng lãi suất tiền gửi thanh toán. Nguồn vốn này mang lại cho ngân hàng nguồn lợi cao hơn vì lãi suất thấp, tuy vậy nguồn vốn này không ổn định mà thường xuyên biến động . Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định cao nên ngân hàng rất chú trọng huy động nguồn vốn theo hình thức này. Các Ngân hàng thương mại nhà nước thường đưa ra nhiều loại sản phẩm với các loại kỳ hạn khác nhau như loại 1, 2, 3 tháng đến 1, 2, 3 năm…nhằm thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầy tiềm năng này. Mỗi lần gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn ngân hàng phải giao cho khách hàng một sổ tiết kiệm có kỳ hạn, một người gửi nhiều lần thì ngân hàng phải phát hành nhiều sổ tiết kiệm và người gửi tiền phải lưu giữ và bảo quản nhiều sổ tiết kiệm đó, đối với ngân hàng sẽ chi phí cao hơn trong việc in ấn sổ tiết kiệm, khó khăn trong việc hạch toán và theo dõi; đối với khách hàng thì việc bảo quản cũng không thuận lợi lại không được mua bán chuyển nhượng trên thị trường đồng thời không được hưởng các dịch vụ ngân hàng từ tài khoản tiết kiệm này. b) Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá ² Trái phiếu ngân hàng: Là một trong nhiều công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử dụng do đó nó cho phép ngân hàng có được lượng vốn dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn. Tuy vậy lãi suất lại phụ thuộc vào thời gian huy động trái phiếu, thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại. ² Kỳ phiếu ngân hàng: Là hình thức huy động vốn có ưu thế hơn so với trái phiếu vì kỳ hạn ngắn hơn và thường có lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm, nó được sử dụng tuỳ vào tình hình cụ thể của vốn ngân hàng. Đây là công cụ có tính lỏng cao, dễ chuyển nhượng thành tiền mặt khi cần cho nên nó được các nhà đầu tư rất ưa thích. ² Chứng chỉ tiền gửi: Là một giấy biên nhận có hưởng lãi, xác nhận về khoản vốn gửi tại ngân hàng. Khi Ngân hàng thương mại phát hành chứng chỉ tiền gửi nhằm vay tiền mặt trên thị trường, chứng chỉ là giấy xác nhận khoản vay này. Như thế, nó là phiếu nợ, là phiếu vay tiền do các Ngân hàng thương mại phát ra. Trước đây, lãi suất của chứng chỉ tiền gửi là cố định, hiện nay các chứng khoán này mang lãi suất thoả thuận, tức là nó có thể thay đổi theo điều kiện của thị trường. Đây cũng được coi như là một loại tiền gửi của khách hàng nhưng khác ở chỗ nó chỉ có thể đổi thành tiền khi đến hạn, nên nó tạo cho ngân hàng một nguồn vốn khá ổn định, giúp ngân hàng chủ động hơn trong kinh doanh. Chứng chỉ này trở thành loại đầu tư ngắn hạn hấp dẫn nhất đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình, vì nó được sử dụng và chấp nhận không khác gì séc hay tiền mặt mà có lãi suất, trong khi séc và tiền mặt không có lãi suất. 1.2.2.3 Theo thời gian huy động Việc phân loại vốn theo thời gian có thể giúp cho ngân hàng có thể chủ động được hoạt động tín dụng của mình. Tuỳ theo kỳ hạn tương ứng mà ngân hàng có thể đề ra các giải pháp cụ thể để điều chỉnh nguồn vốn của mình. a) Vốn huy động ngắn hạn: Là những khoản tiền có thời hạn dưới 1 năm mà ngân hàng áp dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng có thể chia nhỏ từng kỳ hạn thành nguồn 3, 6, 9, 12 tháng với mức lãi suất phù hợp và thấp hơn so với loại có kỳ hạn dài hơn. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động được của ngân hàng. b) Vốn huy động trung hạn: Để phục vụ chủ yếu cho các khoản vay trung hạn, các Ngân hàng thương mại đã tạo ra các sản phẩm với các mức kỳ hạn từ 1 đến 5 năm. Do thời gian huy động khá dài cho nên nguồn này không được nhiều sự ưa chuộng của khách hàng. Vì nguồn vốn này đóng vai trò rât quan trong trong hoạt động kinh doanh của mình, cho nên ngân hàng cần phải thực hiện có hiệu quả các giải pháp để thu hút được nhiều hơn nguồn vốn này. c) Vốn huy động dài hạn: Là những khoản tiền mà ngân hàng huy động có thời hạn từ 5 năm trở lên, được dùng cho các dự án đầu tư dài hạn mang tính khả thi. Đây là nguồn vốn ổn định mà ngân hàng huy động nhưng các ngân hàng cũng phải trả mức lãi suất cao hơn cho những khoản vốn này. 1.2.2.4 Phân theo loại tiền a) Vốn huy động bằng VNĐ: Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông qua tất cả các hình thức huy động khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau. Trong nguồn vốn ngân hàng huy động được thì nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của ngân hàng. Bởi vì: Trong các kênh để dành và tiết kiệm như mua vàng và cất trữ ngoại tệ trong nhà và gửi đồng Việt nam vào ngân hàng thì kênh đầu tư vào tiền gửi ngân hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả. Bởi vì đầu tư vào vàng quá nhiều rủi ro bởi biến động giá bất thường. Mua ngoại tệ để cất trữ trong nhà thì rõ ràng bị thiệt vì tỷ giá USD/VNĐ ít biến động. Nhiều người lựa chọn gửi USD vào ngân hàng nhưng xu hướng chung nhiều nguời vẫn thích gửi nội tệ bởi vì so với gửi nội tệ, lãi suất gửi USD chỉ bừng 1/2 thậm chí thấp hơn so với gửi đồng Việt Nam do đó tốc độ tăng tiền gửi nội tệ vẫn cao hơn tiền gửi ngoại tệ. b) Vốn huy động bằng ngoại tệ: Ngoài huy động bằng VNĐ, ngân hàng cũng tiến hành huy động vốn bằng ngoại tệ nếu quy ra VNĐ cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong hoạt động của ngân hàng. Mục đích huy động vốn bằng ngoại tệ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cũng như các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng cũng như của ngân hàng. 1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM 1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan Những nhân khách quan thuộc về môi trường bên ngoài ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại chỉ có thể nhận biết và tìm cách hạn chế tác động tiêu cực của chúng mà không thể thay đổi các nhân tố này được. 1.3.1.1 Môi trường kinh tế - xã hội Một nền kinh tế ổn định luôn là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng. Nền kinh tế được coi là ổn định khi lạm phát được kiểm soát, không có dấu hiệu của khủng hoảng hay suy thoái, mức sống của người dân được bảo đảm…Khi đó đời sống của người dân ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nguồn vốn sẽ chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Với một nền kinh tế ổn định, giá cả hàng hoá - dịch vụ cũng như sức mua của đồng tiền tạo cho người dân cảm giác tin tưởng thì họ mới an tâm gửi tiền vào ngân hàng. Ngược lại, một nền kinh tế suy thoái hay có lạm phát cao thì người dân sẽ có xu hướng giữ tiền mặt hoặc mua vàng hay ngoại tệ mạnh để dự trữ. Bên cạnh các yếu tố vĩ mô như lạm phát hay suy thoái…hoạt động huy động vốn còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như mật độ dân cư trong địa bàn hoạt động, thu nhập trung bình của dân cư, của các tổ chức kinh tế trong địa bàn…Nếu ngân hàng có địa bàn hoạt động ở khu vực tập trung đông dân cư và các tổ chức kinh tế thì sẽ có khả năng huy động được nhiều vốn hơn các ngân hàng hoạt động ở địa bàn miền núi hay hải đảo xa xôi. Mức thu nhập của dân cư cũng là tác nhân quyết định đến quy mô của nguồn vốn huy được, điều này có thể dễ dàng thấy được rằng nếu như người dân có thu nhập tương đối cao, sau khi đã chi trả cho các nhu cầu của cuộc sống mà vẫn còn lại một khoản tiền thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng. Ngoài ra còn một yếu tố đó là thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của người của người dân. Ví dụ như Việt Nam là một quốc gia mà người dân vẫn quen giao dịch bằng tiền mặt, một phần là do trình độ khoa học công nghệ, luật pháp ở Việt nam chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thanh toán qua chuyển khoản nhưng nhìn chung tâm lý của người Việt Nam vẫn “thích” tiền mặt hơn là sử dụng các loại dịch vụ ngân hàng và điều này cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhất là trong lĩnh vực thanh toán. 1.3.1.2 Môi trường chính trị - pháp lí Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế chứ không phải chỉ riêng ngành ngân hàng. Chính trị và kinh tế là hai phạm trù có sự tác động qua lại, ảnh hưởng đến nhau rõ rệt. Chính trị ảnh hưởng tới nền kinh tế và các hoạt động chính trị cũng mang mục đích kinh tế và tạo ra những biến động về chính trị. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính trị cũng có thể tạo ra một tác động to lớn với nền kinh tế. Tình hình chính trị ổn định tạo điều kiện cho kinh tế vận hành trôi chảy và ổn định. Nếu tình hình chính trị bất ổn sẽ tạo ra tâm lý hoang mang trong dân cư, việc họ rút tiền ồ ạt hoặc chuyển tiền ra các ngân hàng nước ngoài là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động ngân hàng còn chịu sự chi phối của hành lang pháp lý bao gồm thể chế trong và ngoài quốc gia (đối với các ngân hàng có phạm vi hoạt động mở rộng ra ngoài biên giới ). Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một ngành có ảnh hưởng quan trọng đối với cả nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng còn mang tính xã hội hoá cao. Do đó, sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ thống ngân hàng gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, thậm chí gây ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngân hàng cần phải được quản lí chặt chẽ, nghiêm ngặt để tránh hậu quả đáng tiếc cho nền kinh tế. Khung pháp lý áp dụng đối với ngành ngân hàng cần phải đảm bảo mức độ an toàn cho các ngân hàng, ngăn ngừa ngân hàng tham gia vào các vụ đầu tư và hoạt động mạo hiểm có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Pháp luật về ngân hàng thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt các chức năng của mình và kinh doanh có hiệu quả. Một môi trường pháp lí không rõ ràng minh bạch, nhiều trở ngại cho nhiều hoạt động ngân hàng chắc chắn sẽ gây ra khó khăn cho các Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động của mình. Bên cạnh các quy định của pháp luật còn phải nhắc đến các quy định của Ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại. Quy định về quy mô các khoản vay, về điều kiện tín dụng, phát hành các loại giấy nợ…đều gây ra ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại. 1.3.1.3 Các nhân tố thuộc về khách hàng Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại đó là những người gửi tiền vào ngân hàng, người vay tiền và các khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Khách hàng vừa là nguồn cung về vốn tín dụng đồng thời cũng là nguồn cầu vốn vay. Với tư cách là bên cung về vốn tín dụng, họ mong nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi, dịch vụ liên quan. Vì chất lượng tạo vốn phụ thuộc vào cả 3 yếu tố khách hàng, ngân hàng và uy tín của ngân hàng. Ngân hàng có uy tín càng cao thì càng thu hút được càng nhiều khách hàng đến với mình. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, khách hàng càng có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư của mình. Họ chỉ tìm đến địa chỉ để gửi hay để vay tiền ở những nơi họ thấy thuận tiện nhất. Trong điều kiện ít có sự khác biệt như hiện nay nếu ngân hàng nào đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với thái độ thân thiện, thủ tục đơn giản sẽ thu hút được nhiều khách hàng tốt tạo điều kiện cho hoạt động huy vốn được thuận lợi, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng sẽ cao. 1.3.1.4. Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi và cạnh tranh được coi là động lực của sự phát triển trong bất kỳ lĩnh vực nào. Ngày nay, môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng khốc liệt khi thị trường tài chính ngày càng đa dạng, phức tạp do có sự tham gia của nhiều ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Để cạnh tranh được với các đối thủ các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ các điều kiện thị trường và đưa ra mức lãi suất phù hợp, cải tiến chất lượng phục vụ… Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản cũng là yếu tố cạnh tranh đối với hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Sự phát triển của những thị trường này đã giúp người dân ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn các hình thức đầu tư. Để làm cho tài sản của mình sinh lời họ không nhất thiết phải gửi tiền vào ngân hàng mà họ có thể đầu tư vào bất động sản hay chứng khoán…Thậm chí, những thị trường này còn mở ra cho họ những cơ hội có thu nhập cao hơn đầu tư vào ngân hàng. Vì vậy cạnh tranh vừa là thách thức vừa là cơ hội thúc đẩy sự phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng. 1.3.2 Nhóm nhân tố chủ quan 1.3.2.1 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lược kinh doanh cần được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống ngân hàng, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn, các nguồn lực được khai thác tối đa thì huy động vốn của ngân hàng sẽ phát huy hiệu quả cao nhất. Hệ thống chính sách liên quan đến huy động vốn bao gồm: üChính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, chi phí dịch vụ được gọi chung là chính sách giá cả các sản phẩm, dịch vụ tài chính. üCác chính sách liên quan đến sản phẩm, dịch vụ tiền gửi của ngân hàng. Nhóm chính sách này thể hiện chất lượng các loại sản phẩm dịch vụ cung ứng : chất lượng tài khoản, kỳ hạn, các dịch vụ liên quan… üCác chính sách trong phục vụ và giao tiếp khách hàng để thấy được hình ảnh của ngân hàng. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, hệ thống thanh toán được bố trí một cách khoa học là những điều cần thiết để giữ vững khách hàng truyền thống và có thêm khách hàng mới 1.3.2.2 Uy tín của ngân hàng Uy tín là tài sản vô hình quý giá của Ngân hàng thương mại đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, không phải bất cứ ngân hàng nào cũng có uy tín mà nó được tạo dựng lâu dài trong quá trình hoạt động. Khách hàng bao giờ cũng tìm đến ngân hàng có uy tín cao để gửi tiền với hy vọng ngân hàng có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mình và hạn chế rủi ro. Thậm chí, ngân hàng có uy tín đưa ra mức lãi suất thấp hơn đôi chút so với các ngân hàng khác nhưng người gửi tiền vẫn lựa chọn ngân hàng đó. Ngân hàng có uy tín bao giờ cũng thu hút được nhiều khách hàng hơn những ngân hàng khác. Vì vậy, ngân hàng lớn sẵn có uy tín trong nhiều năm sẽ có ưu thế trong huy động vốn và giúp ngân hàng có khả năng ổn định lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động. Uy tín không chỉ ảnh hưởng tới quá trình huy động vốn mà còn ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động khác của ngân hàng. 1.3.2.3 Lãi suất huy động vốn và cho vay Đối với người gửi tiền là các doanh nghiệp, họ gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thanh toán thì lãi suất không phải là vấn đề mà họ quan tâm lớn nhất. Điều mà họ quan tâm lớn nhất đó là việc sử dụng các dịch vụ từ ngân hàng và loại tiền gửi này gọi là tiền gửi không kì hạn. Bên cạnh tiền gửi không kì hạn thì vốn huy động của ngân hàng bao gồm cả tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Bộ phận tiền gửi này gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi nên lãi suất là vấn đề mà họ rất quan tâm và bộ phận tiền gửi này rất nhạy cảm với lãi suất. Để tạo được nhiều vốn đáp ứng được nhu cầu sử dụng của mình, các Ngân hàng thương mại phải có chính sách lãi suất hợp lý sao cho lãi suất huy động vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền vừa phù hợp với lãi suất cho vay. Hiện nay, một số ngân hàng để thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền đã sử dụng chính sách lãi suất rất linh hoạt, chia nhỏ lãi suất theo thời hạn khác nhau. Tuy nhiên, sự tăng giảm này chỉ giới hạn trong một biên độ nhất định vì nó phải đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng có lãi. 1.3.2.4 Mạng lưới phục vụ và các hình thức huy động vốn Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần với trung tâm thương mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động của các ngân hàng thường được thể hiện thông qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm, Phòng giao dịch. Khi công chúng có tiền nhàn rỗi họ thường tới quỹ tiết kiệm gần nhất để gửi tiền. Mạng lưới huy động rộng rãi sẽ tạo điều kiện thu hút tiền gửi tiết kiệm của nhân dân. Do vậy việc mở thêm điểm giao dịch là quan trọng hàng đầu nhưng vị trí đặt ở đâu để huy động vốn hiệu quả nhất còn quan trọng hơn. Thông thường các chi nhánh thường được mở ở mặt đường quốc lộ, nơi đông dân cư để thuận tiện cho người dân gửi tiền. Để thu hút tối đa các nguồn lực trong nền kinh tế thì Ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá các hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ huy động và các nguồn huy động được cũng phong phú hơn. 1.3.2.5 Trình độ và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng Con người vẫn là yếu tố quyết định đến việc thành bại của một ngân hàng; chính con người gây dựng uy tín của ngân hàng với khách hàng. Một ngân hàng với đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao với tác phong làm việc vui vẻ, lịch sự, thái độ phục vụ tận tình, chu đáo sẽ gây ấn tượng tốt đẹp với khách hàng. Đặc biệt nhân viên giao dịch được coi là “bộ mặt” của ngân hàng, hình ảnh của họ trong mắt khách hàng phản ánh hình ảnh của ngân hàng. Khách hàng có quyền lựa chọn, vì vậy họ sẽ chọn ngân hàng nào làm họ hài lòng nhất để gửi tiền, vay tiền và sử dụng các dịch vụ khác do ngân hàng cung ứng. Đối với nhà quản lí thì năng lực và trình độ của họ là yếu tố quyết định hàng đầu đến tất cả hoạt động của ngân hàng trong đó có huy động vốn. Vì vậy, con người với khả năng và trình độ ngày càng khẳng định vị trí của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và đó chính là nhân tố cạnh tranh không thể thiếu được trong hoạt động của mỗi ngân hàng. 1.3.2.6 Trình độ công nghệ ngân hàng Trang thiết bị cũng là một nhân tố không thể thiếu được để không ngừng nâng cao hiệu quả huy động vốn. Trong những năm qua nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin đã có nhiều sản phẩm, dịch vụ mới có liên quan đến hoạt động của ngân hàng như máy rút tiền tự động ATM, dịch vụ ngân hàng tại nhà, hệ thống thanh toán điện tử…Như vậy, một ngân hàng được trang bị đầy đủ các trang thiết bị công nghệ hiện đại, phù hợp với năng lực và khả năng tài chính, phạm vi, quy mô hoạt động sẽ giúp cho sự thành công của hoạt động ngân hàng. Do đó, ngân hàng sẽ kịp thời phục vụ yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ một cách chính xác, nhanh chóng và chi phí hợp lí. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆPVÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI 2.1 KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI 2.1.1 Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 51- QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam hiện nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đến cuối năm 2006, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có 11 phòng ban và 11 chi nhánh cấp 2 trực thuộc và 38 phòng giao dịch hoạt động theo quy chế 454/QĐ/HĐQT - TCCB ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Ban giám đốc: Gồm 1 giám đốc và các Phó giám đốc trực tiếp quản lý điều hành toàn diện hoạt động kinh doanh tại trung tâm và các chi nhánh trực thuộc. MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NÔI GIÁM ĐỐC P.GIÁM ĐỐC P.GIÁM ĐỐC P.GIÁM ĐỐC P.GIÁM ĐỐC HÀNH TCCB KẾ TÍN KTOÁN VI T.TOÁN THẨM KIỂM TIẾP THẺ CHÍNH Đ.TẠO HOẠCH DỤNG N.QUỸ TÍNH Q.TẾ ĐỊNH SOẤT THỊ ĐỐNG THANH BA TAM HAIBÀ HÀNG HOÀN TRÀNG NGHĨA CHỢ TDH ĐA XUÂN ĐÌNH TRINH TRƯNG ĐÀO KIẾM TIỀN ĐÔ HÔM PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD PGD F Mạng lưới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội Là một Chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất trên địa bàn thủ đô Hà Nội, cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội lại thường xuyên có sự biến động, Tháng 9 năm 1991, 7 Chi nhánh Ngân hàng huyện thị Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phú Thọ, Thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú và Hà Tây Tháng 10/1995, có 5 Chi nhánh Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm trở thành đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Lúc này Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội chỉ hoạt động trong phạm vi nội thành Hà Nội Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần đổi mới nông thôn ngoại thành, đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế Thủ đô Hà Nội. Do đó, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tìm các giải pháp tích cực khai thác được nhiều nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trước hết đã chủ động mở rộng mạng lưới để huy động và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng). Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm). Năm1996 thành lập các Ngân hàng Quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân. Năm 1997 thành lập Ngân hàng Quận Cầu Giấy. Năm 2000 thành lập Ngân hàng Quận Đống Đa và Khu vực Tam Trinh. Năm 2001 thành lập thêm 10 phòng giao dịch trong các khu dân cư. Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền PLAZA và 11 phòng giao dịch. Năm 2004 thành lập 3 chi nhánh Hàng Đào, Nghĩa Đô và Chợ Hôm. Tháng 12 năm 2004 bàn giao 2 chi nhánh Chương Dương và Tây Hồ cho NHNo &PTNT Long Biên và Quảng An. Năm 2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng. Đến cuối năm 2006 Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có 11 chi nhánh cấp 2 và 38 điểm giao dịch với 398 lao động. Sau 18 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và các hoạt động khác. Từ khi thành lập cho đến nay, các chi nhánh thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ huy động vốn, đầu tư tín dụng, thanh toán quốc tế…đồng thời triển khai các loại hình dịch vụ tiện ích phục vụ các thành phần kinh tế. Có thể nói, việc phát triển màng lưới kinh doanh đã góp phần không nhỏ vào kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong những năm qua. ðChức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội üVừa quản lý điều hành, chỉ đạo hoạt động kinh doanh của các chi nhánh trực thuộc vừa trực tiếp kinh doanh tại trụ sở. üHuy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tất cá các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước và ngoài nước trên địa bàn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ dưới nhiều hình thức linh hoạt. üPhát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động khác nhau theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. üĐược phép vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. üTiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. üCho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng Việt nam đồng và bằng ngoại tệ đối với tất cả các thành phàn kinh tế để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. üThực hiện thu chi tiền mặt, cân đối điều hoà vốn cới các chi nhánh NHNo &PTNT trực thuộc. üThực hiện kinh doanh mua bán, thu đổi ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại tệ theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. üCung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng như dịch vụ thẻ, ATM, dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước, bảo lãnh, L/C, két sắt, môi giới, cầm cố chứng từ có giá, vàng và bất động sản, thu chi hộ, dịch vụ tư vấn, dịch vụ kiều hối, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ngân quỹ và các dịch vụ khác. üThực hiện đầu tư dưới các hình thức hùn vốn kinh doanh và các hình thức khác với các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nền kinh tế. üThực hiện công tác thanh tra kiểm tra kiểm toán nội bộ và với các chi nhánh ngân hàng trực thuộc. 2.1.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ( 2004 – 2006 ) Trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tận dụng thuận lợi, khắc phục khó khăn để góp phần phát triển kinh tế Thủ đô theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV đề ra. Với mục tiêu không ngừng hỗ trợ các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngân hàng đã liên tục khai thác nguồn vốn, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, mở rộng và nâng cấp mạng lưới, mở rộng đầu tư tín dụng đặc biệt đầu tư cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra, trong năm 2006 ngân hàng cũng không ngừng mở rộng các loại hình dịch vụ, khai thác nguồn ngoại tệ, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu, cung ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Do đó sẽ là hợp lý khi phân tích kết quả hoạt động kinh doanh chính – huy động vốn và tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong thời kỳ 2004-2006 2.1.2.1 Huy động vốn Đến 31/12/2006, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã có nguồn vốn huy động 12.846 tỷ VND, tăng 1. 245 tỷ so với năm 2005 đạt 105% kế hoạch Trung ương giao. Trong đó: ü Tiền gửi VND đạt 11.487 tăng 1.406 tỷ so với năm 2005, chiếm 85% tổng nguồn vốn huy động. ü Tiền gửi bằng ngoại tệ (quy đổi) đạt 1.358 tăng 362 tỷ so với năm 2005, chiếm 15 % trong tổng nguồn vốn huy động. Thời kỳ 2004 – 2006 tuy có gặp nhiều khó khăn thách thức nhưng Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn giữ vững mục tiêu khinh doanh của mình, hoạt động huy động vốn đạt kết quả như sau: Bảng 1: Tình hình biến động nguồn vốn huy động thời kỳ 2004 -2006 Đơn vị: tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tổng nguồn vốn huy động 9.276 11.601 12.846 Tăng trưởng ( Tỷ đồng ) - 472 + 2.325 + 1.245 Tăng trưởng (%) - 4,8% + 25% + 13% ( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006) Biểu đồ 1: Biến động vốn huy động Biểu đồ trên đây cho thấy nguồn vốn huy động tăng trưởng đáng kể. Năm 2004 nguồn vốn huy động đạt 9.276 tỷ, giảm 472 tỷ so với 2003 (- 4,8% ). Năm 2005 nguồn vốn đạt 11.601 tỷ, tăng 2.325 tỷ ( 25% ) so với năm 2004. Năm 2006 nguồn vốn huy động 12.846 tỷ, tăng 1.245 tỷ (13%) so với năm 2005. Để có nguồn vốn trên đây, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội thường đã đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích đối với khách hàng gửi tiền phù hợp với cơ chế thị trường, vừa huy động bằng VNĐ vừa huy động bằng ngoại tệ như USD, EURO; áp dụng nhiều hình thức trả lãi như trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi hàng tháng, trả lãi hàng quý với nhiều hình thức huy động vốn như: tiết kiệm, kỳ phiếu, tiền gửi, gửi góp, gửi bậc thanh…đồng thời chi nhánh đã chủ động điều chỉnh linh hoạt lãi suất phù hợp với mặt bằng lãi suất huy động vốn trên địa bàn. Không những thế phong cách giao dịch được thay đổi ngày càng tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng. 2.1.2.2 Sử dụng vốn Cho vay là chức năng kinh tế quan trọng hàng đầu của các Ngân hàng thương mại nói chung và của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng. Hoạt động cho vay của ngân hàng có hiệu quả có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế của thủ đô Hà Nội, bởi cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo sức sống mới cho nền kinh tế. Bảng 2: Tình hình cho vay theo thời hạn của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội thời kỳ 2004-2006 Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số tiền 04/03 (%) Số tiền 05/04 (+%) Số tiền 06/05 (+%) Doanh số cho vay 3.710 -13 5.452 47 18.460 + 239 Ngắn hạn 2.769 -7 3.816 +38 11.978 + 214 - Tỷ trọng(%) 74,6 70,1 64.8 Trung hạn 635 -20 981 +55 2.533 + 158 - Tỷ trọng(%) 17,1 17,9 13.7 Dài hạn 306 -35 655 +114 3.949 + 503 - Tỷ trọng(%) 8,3 12,1 21.5 Doanh số thu nợ 3.369 -2 5.901 +75 18.471 + 213 Ngắn hạn 2.583 +11 4.131 +60 12.169 + 195 - Tỷ trọng(%) 76,7 70 65.8 Trung hạn 673 -2 1.234 +83 2.405 + 95 - Tỷ trọng(%) 19,9 20,9 13 Dài hạn 113 -78 536 +374 3.897 +627 - Tỷ trọng(%) 3,4 9,1 21.2 Tổng dư nợ 3.139 +12 2.690 -14 2.457 -8,7 Ngắn hạn 1.946 +10 1.631 -16 1.336 -18 - Tỷ trọng(%) 62 60,6 54,3 Trung hạn 636 -6 383 -40 432 12,8 - Tỷ trọng(%) 20,3 14,2 17,6 Dài hạn 557 +53 676 +21 689 1,91 - Tỷ trọng(%) 17,7 25,2 28,1 Đơn vị: Tỷ đồng ( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006) Số liệu trên cho thấy doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất ( trên 70% ). Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã không ngừng củng cố, duy trì các mối quan hệ với khách hàng truyền thống, nghiên cứu thị trường để tìm khách hàng mới, đồng thời chú trọng đổi mới phong cách giao dịch, luôn cập nhật thông tin để tư vấn thị trường trong và ngoài nước cho khách hàng…Điều này giúp cho ngân hàng vừa tránh được rủi ro về tín dụng, vừa đảm bảo được khả năng thanh toán. Cho vay ngắn hạn vừa giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro về tín dụng và lãi suất vừa đảm bảo khả năng thanh toán. Những nỗ lực đó._. các nhà đầu tư. Những lợi thế về mạng lưới hoạt động, về khách hàng, về lãi suất… sẽ không còn, mà thay vào đó là những khó khăn, các ngân hàng trong nước phải đương đầu với những ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính khổng lồ, có cách thức quản lý tiên tiến, công nghệ hiện đại, sản phẩm và dịch vụ phong phú đa dạng…Không những thế, tại Việt Nam các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các công ty bảo hiểm bưu điện, các công ty cho thuê tài chính cũng sẽ ra đời với nhiều hình thức hoạt động mới trong đó có cả huy động vốn. Trong môi trường cạnh tranh đầy “lửa” như thế buộc các Ngân hàng Thương mại nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng phải có định hướng phát triển rõ ràng cụ thể. Trên cơ sở quán triệt chiến lược phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trước những yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội của đất nước, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã xây dựng kế hoạch, phương hướng hoạt động trong thời gian tới như sau: 3.1.1 Định hướng chung ðThứ nhất: Cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng ü Sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tuân thủ chiến lược khách hàng, không coi trọng mở rộng chi nhánh mà cần coi trọng tính chuyên nghiệp để nắm chắc đặc điểm động thái của từng nhóm khách hàng, từng loại nghiệp vụ để phát triển thị trường trên cơ sở phát triển các “quầy” giao dịch và tận dụng tối đa thành tựu của khoa học công nghệ. ü Phát triển hệ thống “ngân hàng bán lẻ” hay còn gọi là “giao dịch một cửa”, hệ thống kênh phân phối điện tử nhằm năng động hoá quá trình phát triển dịch vụ, chuyển hướng thị trường hay thay đổi nhóm khách hàng. ðThứ hai: tăng cường năng lực hoạt động và quản lý kinh doanh ü Tập trung huy động nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế và các tổ chức xã hội khác. Chú trọng huy động vốn trung và dài hạn cả nội tệ và ngoại tệ. ü Mở rộng cho vay các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, dự án khả thi, tình hình tài chính lành mạnh, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vay vốn. Tiếp tục tìm mọi giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, rà soát hoàn chỉnh hồ sơ 100% khách hàng đang còn dư nợ. ü Triển khai các loại hình dịch vụ, sản phẩm dịch vụ toàn diện có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu thị trường. ü Tập trung triển khai toàn diện có chất lượng công tác quảng cáo, quảng bá toàn diện kịp thời các mặt hoạt động nghiệp vụ ngân hàng nhằm nâng cao thương hiệu uy tín vị thế của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nói chung. ðThứ ba: Tăng cường năng lực tài chính ü Tăng vốn tự có bằng lợi nhuận để lại, phát hành trái phiếu huy động vốn dài hạn trên thị trường vốn. ü Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm trong sạch bảng cân đối kế toán, xây dựng cơ chế hạn chế gia tăng nợ xấu. 3.1.2 Định hướng huy động vốn Trên cơ sở phát huy những thành tích đã đạt được trong thời gian qua trong công tác huy động vốn, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã đề ra các định hướng huy động vốn như sau: ðMột là: Thực hiện chương trình huy động vốn theo chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là phát huy nội lực, huy động vốn trong nước là chính; đồng thời điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. ðHai là: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng vốn huy động ở mức cao; tập trung huy động nguồn vốn chú trọng huy động nguồn vốn nội, ngoại tệ, nguồn vốn trung và dài hạn; đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. ðBa là: Xác định huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn đáp ứng nhu cầu thanh toán, nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng đã ký và giữ vững nền vốn. Ngân hàng coi việc huy động vốn từ tiền gửi khách hàng cần được đẩy mạnh thường xuyên để có quy mô vốn tăng trưởng. Vì vậy, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng các dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, bố trí mạng lưới phù hợp với điều kiện cụ thể. ðBốn là: Tranh thủ mọi nguồn vốn trong dân cư, bám sát nhu cầu của thị trường để đưa ra các mức lãi suất phù hợp, phát triển các loại dịch vụ ngân hàng cả về bề rộng lẫn bề sâu, nâng cao các loại hình dịch vụ hiện có đồng thời tiếp tục triển khai các sản phẩm huy động vốn mới như: Tiết kiệm mở thưởng và trúng vàng 3 chữ A….. ðNăm là: Bên cạnh việc mở rộng nguồn vốn huy động, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chú trọng công tác cân đối hợp lý giữa tài sản Nợ và tài sản Có; đồng thời nhấn mạnh sự tăng trưởng, an toàn và hiệu quả, chú trọng tới phát triển vốn theo xu hướng tích cực, tăng vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế. 3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI Để công tác huy động nguồn vốn ngày càng tăng trưỏng ổn định vững chắc, huy động được nhiều nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội nhằm thoả mãn tối đa các nhu cầu về vốn và dịch vụ ngân hàng ngày càng phong phú của nền kinh tế và đời sống Thủ đô, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ áp dụng các giải pháp tích cực dưới đây trong công tác huy động nguồn vốn : 3.2.1 Mở rộng mạng lưới kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ + Rà soát lại toàn bộ màng lưới các chi nhánh cấp 2 và các phòng giao dịch đã có và điều chỉnh, xắp xếp lại màng lưới vừa phù hợp với yêu cầu vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh, + Kiện toàn, nâng cấp các điểm giao dịch theo hướng hiện đại, sẽ đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam cho phép mua lại các địa điểm kể nhà dân để cải tạo làm văn phòng làm việc hoặc đầu tư vốn liên kết vào các khu cao ốc để tạo khu văn phòng giao dịch ổn định lâu dài gắn với dân cư và doanh nghiệp. + Chuẩn hoá các điểm giao dịch theo hướng vừa có chỗ cho nhân viên giao dịch làm việc vừa có không gian cho khách hàng chờ giao dịch. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ tiếp tục tìm địa điểm mở rộng mạng lưới, đồng thời thường xuyên kiểm tra, nâng cấp, thay đổi địa điểm các Phòng giao dịch hoạt động hiệu quả thấp, phân tích và tìm nguyên nhân để có giải pháp thích hợp kịp thời. + Đổi mới trang bị các phương tiện làm việc hiện đại, cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn để nâng cao chất lượng phục vụ. + Tiếp tục ứng dụng các công nghệ tin học, thông tin hiện đại để sử dụng nhiều hình thức thanh toán trực tiếp qua tài khoản, khuyến khích sử dụng nhiều tài khoản séc cho nhiều đối tượng đặc biệt là đối tượng có thu nhập ổn định, tài khoản tiền gửi cho các hộ kinh doanh, mở rộng cho vay theo phương thức thấu chi cho các đối tượng có thu nhập cao. Đặc biệt tăng cường lắp đặt các máy rút tiền tự động ở các điểm tập trung đông dân cư để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi. Tất nhiên chi phí lắp đặt máy ATM là rất lớn do đó để đạt hiệu quả trong huy động vốn từ dân cư từ hình thức này Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội cần phai tính toán hợp lý để đồng vốn được quay vòng nhanh nhất. 3.2.2. Điều chỉnh linh hoạt lãi suất huy động vốn. Trong cơ chế thị trường phải chấp nhận cạnh tranh là tất yếu, trong hoạt động Ngân hàng thì cạnh tranh về lãi suất là phổ biến mà các ngân hàng thường hay dùng. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội tuy được Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cho phép được chủ động điều chỉnh lãi suất huy động vốn, nhưng phải chấp nhận mức phí điều động vốn chung của toàn ngành, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội phải tính tổng hoà các loại nguồn vốn sao cho vừa thu hút được các loại nguồn vốn vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Để đảm bảo các nguyên tắc trong huy động vốn, đó là : - Lãi suất phải phù hợp với thị trường đảm bảo quyền lợi của khách hàng. - Lãi suất huy động phải được xây dựng trên cơ sở lãi suất đầu ra, bù đắp được chi phí và có lãi. - Phản ánh đúng cung – cầu trên thị trường vốn. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ linh hoạt áp dụng lãi suất huy động vốn đối với từng loại khách hàng như sau: + Sẽ phân loại khách hàng theo nhiều nhóm khác nhau để áp dụng lãi suất chẳng hạn như khách hàng vừa có tiền gửi, vừa có tiền vay, lại thường xuyên sử dụng các dịch vụ của ngân hàng mở L/C nhập khẩu, các dịch vụ bảo lãnh trong nước…thì được áp dụng lãi suất tiền gửi ưu đãi hơn các khách hàng khác. + Đối với nhóm khách hàng dân cư sẽ thường xuyên khảo sát thị trường để vận dụng lãi suất linh hoạt, đồng thời sẽ đưa ra những sản phẩm tiền gửi với lãi suất luỹ tiến theo số dư tiền gửi; tiền tiết kiệm; kỳ phiếu có thưởng… + Khi công nghệ cho phép sẽ triển khai gửi một nơi lĩnh nhiều nơi. 3.2.3 Thực hiện giờ giao dịch linh hoạt Sự phát triển sôi động của nền kinh tế như hiện nay đã ngày càng làm cho đời sống của nhân dân được nâng lên. Khi cuộc sống không còn phải lo cái ăn cái mặc hàng ngày, có tiền để tích trữ thì người dân có rất nhiều nhu cầu. Do đó ngân hàng không thể hoạt động mà quên đi các nhu cầu đó của khách hàng và trong phương châm hoạt động của mình ngân hàng phải luôn coi khách hàng là mục tiêu hoạt động của mình. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nắm bắt được điều đó ngoài việc tìm mọi biện pháp để thoả mãn nhu cầu của khách hàng thì ngân hàng cũng phải tạo ra được các sản phẩm mà có lợi nhất cho khách hàng và cho cả ngân hàng. Nhưng mong muốn và đòi hỏi của khách hàng thì ngày càng nhiều mà Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội thì chỉ có thể áp dụng được trong mấy tiếng đồng hồ một ngày (8h/ngày) và làm việc 5 ngày trong tuần. Khoảng thời gian này là quá ít và thực sự là không hợp lý đặc biệt là nó làm mất đi một khoản tiền rất lớn thu được từ người dân cũng làm việc theo giờ hành chính như ngân hàng. Vì thế để đáp ứng nhu cầu gửi và lĩnh tiền của các tầng lớp dân cư, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tổ chức thực hiện tuần giao dịch 6 ngày kể cả ngày thứ 7, thời gian làm việc hàng ngày thường muộn hơn để đáp ứng các nhu cầu của dân chúng. Qua thực tiễn cho thấy người gửi tiền hầu hết là phụ nữ và người già đã nghỉ hưu là những người nội trợ trong gia đình, họ muốn trên đường đến công sở thì tạt qua ngân hàng để thực hiện một giao dịch gửi hoặc lĩnh tiền. Trong thời gian tới Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ tổ chức thêm quầy giao dịch đầu giờ buổi sáng để thoả mãn nhu cầu này của dân chúng. Đồng thời cũng giành một quầy giao dịch vào cuối giờ buổi chiều để phục vụ những khách hàng đi làm về muộn mà cần gửi hoặc lĩnh tiền. 3.2.4 Nâng cao chất lượng sản phẩm huy động Ngoài việc mở rộng quy mô hoạt động thu hút thêm khách hàng và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để thực hiện các chiến lược của mình thì Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và mở rộng các sản phẩm huy động vốn của ngân hàng. Các hình thức huy động vốn mà Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đang áp dụng đều là những sản phẩm truyền thống đã và đang phát huy tác dụng nhất định trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Chính vì vậy Chi nhánh sẽ chú trọng nâng cao chất lượng của các sản phẩm này nhất là đối với Tài khoản tiết kiệm: ü Trước hết, Ngân hàng cần duy trì và điều chỉnh các hình thức huy động vốn từ dân cư như tiết kiệm học đường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm bằng vàng…và khi cần thiết nó có thể dễ dàng chuyển đổi được. Đa dạng hoá các hình thức huy động tiết kiệm để tiếp cận với thị trường đầy tiềm năng như địa bàn Hà Nội. ü Hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội chỉ mới huy động vốn bằng loại hình tiết kiệm 3, 6, 9, 12, 24, 36 tháng do đó chưa thực sự hấp dẫn với khoản vốn có kỳ hạn nhỏ hay lớn hơn rất nhiều. Vì thế trong thời gian gần đây Chi nhánh sẽ có thêm các sản phẩm có kỳ hạn ngắn hơn như: 1, 2, 3 tuần hay kỳ hạn lớn hơn như: 5, 10 năm nhằm làm tăng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn trung và dài hạn đang là một thách thức đối với ngân hàng. üBên cạnh đó, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội cần phải tăng trưởng nguồn vốn huy động bằng cách huy động nguồn tiết kiệm ngoại tệ. Cần phải đa dạng hoá các loại tiền huy động có thể cả USD, DEM…tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong bối cảnh hội nhập của đất nước. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì để thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn dư thừa trong nền kinh tế Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ngoài việc hoàn thiện các hình thức thu hút tiền gửi mà còn phải bổ sung điều chỉnh các hình thức huy động mới cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thứ nhất: Gửi một nơi rút nhiều nơi – đây là hình thức đòi hỏi cần có hệ thống ngân hàng mang tính thống nhất với các công nghệ máy móc hiện đại trang bị đầy đủ đảm bảo an toàn, thuận tiện cho khách hàng với phạm vi hoạt động rất lớn. Trong điều kiện như hiện nay Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội thì có thể thực hiện trong phạm vi các chi nhánh, các Phòng giao dịch trực thuộc và tiến tới trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Thứ hai: Gửi hẹn rút – đây là hình thức mà khi khách hàng đến ngân hàng không phải khách hàng nào cũng dự tính được việc sử dụng khoản tiền của mình. Nếu ngân hàng cho ra sản phẩm mà khách hàng có thể chủ động được ngày rút tiền với lãi suất xấp xỉ bằng lãi suất có kỳ hạn thì khách hàng sẽ sử dụng hình thức này của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Thứ ba: Gửi một lần rút nhiều lần – Hiện nay hình thức này đang áp dụng với tiền gửi tiết kiệm bậc thang; trong tương lai gần Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ trình Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cho phép áp dụng thí điểm đối với các khoản tiền có kỳ hạn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người gửi tiền. 3.2.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Suy cho cùng, hoạt động kinh doanh của một ngân hàng đi đến thành công hay thất bại là phụ thuộc nhiều vào trình độ, tinh thần trách nhiệm của tập thể cán bộ, nhân viên làm trong đó. Một đội ngũ cán bộ vững vàng về trình độ chuyên môn, nhiệt huyết với công việc sẽ đưa ra được những chính sách, chiến lược đứng đắn, xử lý nhanh chóng và chính xác các nghiệp vụ phát sinh, nhờ đó tăng uy tín cho ngân hàng. Ngược lại, với đội ngũ cán bộ nhân viên yếu kém về năng lực, thái độ thiếu nghiêm túc trong công việc sẽ làm cho ngân hàng dần đánh mất khách hàng và đôi khi chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể mang lại hậu quả khôn lường. Chính vì vậy, đào tạo nhân lực là một chiến lược mà tất cả các ngân hàng đều phải theo đuổi để nhằm nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tạo phong cách làm việc khoa học và nhanh chóng. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã đang và sẽ chú trọng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực: ü Khuyến khích cán bộ đi học để hoàn thiện kiến thức, đi học cao học, nghiên cứu sinh tại các trường kinh tế… để trau dồi trình độ chuyên môn, nắm vững những nguyên lý, lý thuyết cơ bản, để giải quyết những vấn đề thực tiễn tránh những sai lầm đáng tiếc gây thiệt hại cho ngân hàng. ü Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ vào thứ bảy, chủ nhật về chuyên môn, chăm sóc khách hàng, kỹ thuật nghiệp vụ của các chuyên ngành cụ thể…cho cán bộ nhân viên để nắm vững hơn về nghiệp vụ tại ngân hàng mình. ü Ngoài việc đào tạo trong nước, hàng năm ban lãnh đạo có thể sắp xếp bố trí cho những người có năng lực đi tham quan học tập kinh nghiệm của các Ngân hàng trong khu vực vừa để nâng cao kiến thức, vừa để học hỏi thêm những kinh nghiệm quý báu của nước bạn về vận dụng phục vụ cho ngân hàng mình. ü Riêng cán bộ phụ trách hoạt động huy động vốn, ngân hàng có thể mời chuyên gia về giảng dạy và mở thêm các lớp huấn luyện về lĩnh vực này nhằm tăng cường kiến thức và kinh nghiệm cho họ. Với nhân viên giao dịch, bên cạnh cần phải cải thiện nghiệp vụ cần thường xuyên nhắc nhở họ có thái độ niềm nở, nhiệt tình và chu đáo với khách hàng, hướng dẫn, tuyên truyền nhằm tạo thói quen dể khách hàng sử dụng các tiện ích của ngân hàng về cảm giác an toàn, về động thái vừa được giao dịch, vừa được bảo mật số dư tiền gửi. 3.2.6 Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng Huy động vốn và cho vay là hai mặt của một vấn đề, giữa chúng có mối quan hệ qua lại rất mật thiết. Một nguồn vốn dồi dào và ổn địn là tiền đề vững chắc cho hoạt động cho vay được thực hiện một cách chủ động và có hiệu quả. Ngược lại, hiệu quả cho vay cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn. Thật vậy, cho vay vốn có hiệu quả sẽ mang lại những khoản thu nhập lớn cho ngân hàng, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến gửi tiền. Mặt khác, hoạt động cho vay sẽ hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trở nên dồi dào hơn và do đó có cơ hội để mở rộng nguồn vốn của ngân hàng sẽ lớn hơn. Vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng thì ngân hàng sẽ thực hiện đúng và đầy đủ quy trình thẩm định, nêu cao tình thần trách nhiệm và trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng đồng thời không ngừng cải tiến thủ tục cho vay, cải tiến phương thức phục vụ, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân tiếp cận và vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất- kinh doanh. 3.2.7 Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng Trong cơ chế cạnh tranh phức tạp như hiện nay, ngân hàng nào cũng đưa ra những sản phẩm giống nhau như thế. Nếu Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội không tìm cách tạo nên sự khác biệt thì khó có thể tồn tại và phát triển hơn nữa. Marketing là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một lĩnh vực sản xuất – kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường. Theo thống kê chi phí cho hoạt động Marketing là rất lớn song lợi ích mà nó mang lại lớn hơn gấp nhiều lần. Marketing được coi là chiếc cầu nối giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng. Còn trong kinh doanh ngân hàng – một lĩnh vực rát nhạy cảm thì Marketing càng trở nên quan trọng bởi sản phẩm của chúng mang tính đơn điệu, khách hàng có thể lựa chọn ngân hàng này hoặc là ngân hàng khác để tiếp cận dịch vụ ngân hàng mà gần như không có sự khách biệt nhất là những dịch vụ truyền thống: Gửi tiền, vay tiền. Trong điều kiện các ngân hàng ngày càng có nhiều đối thủ như hiện nay, họ không thể tồn tại và phát triển nếu không chú trọng đến hoạt động này. Vì vậy, để mở rộng hoạt động huy động vốn nói riêng, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung trong thời gian tới các ngân hàng sẽ chú trọng hơn nữa đến hoạt động Marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín. Cụ thể là: ðTăng cường các hình thức quảng cáo, ngoài quảng cáo trên báo còn quảng cáo trên truyền hình để tạo lập hình ảnh về ngân hàng với đông đảo quần chúng. Ngoài ra, tham gia tài trợ cho các giải bóng đá, cho giáo dục, y tế … cũng là cách rất tốt để xây dựng hình ảnh và khuyếch trương danh tiếng cho ngân hàng. ðChi nhánh sẽ đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác nghiên cứu và phân đoạn thị trường. Việc phân đoạn thị trường sẽ giúp ngân hàng đưa ra được những chính sách phù hợp nhất với từng đối tượng khách hàng. Phân đoạn thì trường còn giúp ngân hàng xác định được thị trường mục tiêu để tập trung nguồn lực của mình vào thị trường này, tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn hẳn đối thủ. Ngoài ra, Chi nhánh quán triệt đến toàn bộ cán bộ, nhân viên rằng Marketing không phải là việc của riêng ai mà là việc chung của cả tập thể ngân hàng. Tất cả các phòng ban cần phối hợp để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Tuy nhiên để hoạt động Marketing hoạt động một cách có hiệu quả, chuyên sâu hơn Chi nhánh sẽ tạo lập phòng Marketing với đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm. Hoạt động Marketing nếu được thực hiện tốt sẽ không chỉ đem lại những hiệu ứng tích cực đến hoạt động huy động vốn mà còn tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đặc biệt trong hoạt động Marketing Ngân hàng cần chú trọng đến khách hàng và việc chăm sóc khách hàng. Việc chăm sóc khách hàng sau khi cung cấp sản phẩm cũng rất quan trọng. Nó sẽ làm cho khách hàng có ấn tượng tốt về sự chu đáo, chuyên nghiệp của ngân hàng. Tuy nhiên công việc này chưa được thực hiện ở nhiều ngân hàng Việt Nam do họ chưa ý thức được tầm quan trọng của công việc này, một phần do lượng khách của ngân hàng quá đông. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ nghiên cứu và đưa vào áp dụng một trong các biện pháp chăm sóc khách hàng: ð Có thư cảm ơn tới khách hàng đã sử dụng sản phẩm của ngân hàng. Vào các dịp lễ, tết, lãnh đạo ngân hàng gửi thiệp chúc mừng, cảm ơn và những tặng phẩm lưu niệm tới những khách hàng truyền thống, những khách hàng có lượng tiền gửi lớn…Đây sẽ là những món quà vô giá thể hiện sự tôn trọng khách hàng làm khách hàng và ngân hàng hiểu nhau hơn có tác dụng rất lớn trong việc giữ chân khách hàng. ð Mỗi khi triển khai đợt huy động vốn, sản phẩm mới…sẽ tuyên truyền rộng rải không chỉ ở trụ sở, phòng giao dịch mà nên đăng báo, phát tờ rơi đến tay khách hàng. Bên cạnh đó việc điều tra thăm hỏi ý kiến của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ mới cũng là điều rất nên làm. ð Ngân hàng không chỉ chăm lo đến khách hàng đặc biệt mà phải chăm lo đến tất cả các đối tượng khách hàng đến giao dịch ngay từ những điều đơn giản nhất như: phục vụ nước uống đầy đủ, trông nom, giữ gìn cẩn thận phương tiện đi lại của khách, tạo tâm lý thoải mái và yên tâm cho khách mỗi khi khách đến giao dịch với ngân hàng. Những việc làm này tuy nhỏ nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc giữ chân khách hàng vì nó thể hiện sự quan tâm của ngân hàng đối với khách hàng của mình. 3.2.8 Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng bao gồm cả công nghệ vật chất kỹ thuật lẫn công nghệ quản lý. Ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO theo quy định các ngân hàng nước ngoài được phép vào Việt Nam hoạt động, chắc chắn các Ngân hàng thương mại của Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn khi mà họ rất mạnh cả về công nghệ máy móc và trình độ quản lý. Muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh đẩy “lửa” này các Ngân hàng thương mại cần phải không ngừng cải tiến và áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến, các mô hình quản lý hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Công nghệ ngân hàng hiện đại, tạo sự thuận tiện cho khách hàng chính là sợi dây rằng buộc giữ chân khách hàng ở lại với ngân hàng. Đồng thời sử dụng công nghệ cao cũng giúp cho ngân hàng có thể giảm bớt thậm chí loại bỏ nhiều chi phí, tăng lợi nhuận. Đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán, tốc độ thanh toán nhanh, chính xác góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời, trong thời gian tới Chi nhánh sẽ chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ phát triển và trở nên phổ biến. Tuy nhiên, trong khi lựa chọn công nghệ để áp dụng, cần phải xem xét tránh không lãng phí, dùng hết công suất của công nghệ mua về, công nghệ không sử dụng được do quá hiện đại chưa phù hợp thì nên xem xét, nghiên cứu phát triển sau. 3.3 KIẾN NGHỊ 3.3.1 Đối với Chính phủ Thứ nhất: Hoàn thiện môi trường kinh tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn mà các thành phần kinh tế chưa đủ năng lực. Giải phóng vốn khỏi những hoạt động, những khu vực có hiệu quả kinh tế thấp để đầu tư vào các dự án có khả năng sinh lời và hiệu quả hơn đối với nền kinh tế. Cùng với việc cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước là thực hiện công tác kiểm tra, kiểm toán theo các tiêu chuẩn quốc tế để có các thông tin công khai minh bạch về tình hình tài chính các doanh nghiệp, giúp ngân hàng có thông tin chính xác để có quyết định đầu tư đúng đắn. Thứ hai: Thiết lập môi trường pháp lý đồng bộ, ổn định để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng thực hiện đầu tư dự án, đảm bảo nguồn tiền gửi ổn định cho ngân hàng và thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam. Thứ ba: Cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các Ngân hàng thương mại hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới của nền kinh tế đất nước. Thứ tư: Có những biện pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán và NHTM thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước *Thứ nhất: Tập trung xây dựng và hoàn thiện các chính sách tiền tệ, tín dụng thúc đẩy phát triển nghiệp vụ ngân hàng. Do hoạt động khai thác vốn của Ngân hàng thương mại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ do vậy các công cụ chính sách tiền tệ phải sử dụng linh hoạt phù hợp để đẩy mạnh việc cung ứng cho nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế. Với công cụ dự trữ bắt buộc luôn được điều chỉnh hợp lý giữa dự trữ bắt buộc tiền gửi nội tệ, ngoại tệ. Quan tâm tạo cơ sở vật chất, tiếp tục tuyên truyền và bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ thị trường mở cho các tổ chức tín dụng đế khuyến khích các tổ chức tín dụng đủ điều kiện tham gia thị trường mở. Nâng cao chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự kết hợp chặt chẽ giữa các vụ, ngành, bộ có liên quan. *Thứ hai: Cơ cấu lại hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật mọi nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng của các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng lành mạnh ổn định và bền vững. Sớm thành lập công ty định mức tín nhiệm để đánh giá các tổ chức tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn, xếp hạng tín dụng giúp ngân hàng trong thẩm đinh dự án cho vay. *Thứ ba: Củng cố, lành mạnh hóa và không ngừng nâng cao vị thế của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Lành mạnh hóa tình hình tài chính của các Ngân hàng thương mại quốc doanh, các Ngân hàng nhà nước cổ phần. Công khai hiệu quả hoạt động và năng lực tài chính của từng ngân hàng theo định kỳ để người gửi tiền lựa chọn ngân hàng phục vụ mình. *Thứ tư: Phát triển thị trường liên ngân hàng Tiền gửi vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên không phải lúc nào nguồn vốn cũng đáp ứng được nhu cầu sử dụng của ngân hàng. Do đó, Ngân hàng nhà nước cần có những giải pháp cần thiết để tạo điều kiện cho thị trường liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Với việc làm này, các ngân hàng có thể dễ dàng huy động vốn bằng cách vay của các tổ chức tín dụng khác khi cần thiết mà không cần tới sự trợ giúp của Ngân hàng Nhà nước. KẾT LUẬN Vốn có vai trò rất quan trọng. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vai trò tạo vốn của ngành ngân hàng được coi là hoạt động then chốt. Hoạt động huy động vốn đã, đang và sẽ là một trong những hoạt động có tầm quan trọng hàng đầu của các Ngân hàng thương mại. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và nó đóng vai trò quan trọng đối với mọi hoạt động ngân hàng. Ngày nay các ngân hàng cạnh tranh gay gắt trong công tác huy động vốn. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại không ngừng đổi mới hoạt động, đưa ra các giải pháp và biện pháp thích hợp với từng khu vực kinh tế, từng khu vực dân cư trên đất nước để huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước, đặc biệt là các nguồn vốn trong nước nhằm phát huy nội lực của nền kinh tế góp phần ổn định và thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có những chính sách, biện pháp hỗ trợ cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, để cho hoạt động ngân hàng ngày càng tác động tích cực vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Với kiến thức đã được trang bị trong trường đại học và kết hợp với quá trình thực tập tìm hiểu thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ”. Vì đây là một vấn đề hết sức phong phú, phức tạp và bản thân là một sinh viên mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu lý luận là chủ yếu, về thực tế còn hạn chế, cho nên Luận văn tốt nghiệp của em còn nhiều hạn chế. Em kính mong nhận được sự nhận xét, góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo để em tiếp tục bổ sung và hoàn thiện Luận văn tốt nghiệp của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách tham khảo - Giáo trình quản trị và nghiệp vụ NHTM – Phan Thị Thu Hà - Các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – David Cox - Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter Rose - Quản trị Ngân hàng thương mại – Nguyễn Văn Tiến 2. Tạp chí, báo - Tạp chí Ngân hàng - Tạp chí thị trường tài chính – tiền tệ - Thông tin tài chính - Thời báo kinh tế và phát triển - Thời báo Ngân hàng 3. Các văn bản pháp luật - Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004 - Nghị định 49/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại 4. Luận văn tốt nghiệp của các khóa 42, 43, 44 NH-TC 5. Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội các năm 2004-2006 6.Sổ tay tín dụng của Agribank. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10390.doc
Tài liệu liên quan