Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Tỉnh Hưng Yên

lời nói đầu Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Và hoạt động cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất không những đối với Ngân hàng, mà còn là còn đối với các doanh nghiệp , tổ chức, cá nhân, hộ gia đình. Trong giai đoạn kinh tế đang phát triển như hiện nay. Nếu các doanh nghiệp không đầu tư vốn để mở rộng sản xuất thì khó mà tồn tại lâu dài. Các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức thiếu vốn nếu không vay vốn tạo điều kiện phục vụ các nhu

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu cần thiết cho công việc, cuộc sống của mình thì sẽ gặp nhiều khó khăn. Với Ngân hàng, hoạt động cho vay là hoạt động đem lại phần lớn thu nhập cho Ngân hàng, cùng với nhiều vai trò khác thì hoạt động cho vay là một trong những hoạt động có tính chiến lược của Ngân hàng . Trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều Ngân hàng cùng tồn tại và phát triển, tạo nên sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Trong hoạt động cho vay của Ngân hàng tuy đã đạt được những thành tựu, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Do đó vấn đề “Tăng cường hoạt động cho vay” nhằm nâng cao, mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng hàng có thể tăng cường hoạt động kinh doanh của mình, hội nhập với nền tài chính trong khu vực là rất cần thiết. Qua quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Tỉnh Hưng Yên, em đã có thời gian thực tế, tìm hiểu về các hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay. Kết hợp với những kiến thức đã được học, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công Thương Tỉnh Hưng Yên” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: chươngI: Hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại chươngII: thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên ChươngIII: Các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên Chương I hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại I. các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại 1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng. Ngân hàng thương mại có một quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nhiệm vụ hoạt động của nó rất đơn giản nhưng càng về sau theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá, tổ chức của các Ngân hàng cũng như nhiệm vụ của nó ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tiếp nhận các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp, tư nhân, hộ gia đình, các nhà xuất nhập khẩu. Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau: Ngân hàng thương mại giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ, hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện chủ yếu bằng cách thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay. Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn phần lớn là tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của Ngân hàng thương mại là không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong các hoạt động kinh doanh của mình như cho vay, mua bán chứng khoán. Hơn nữa nguồn vốn sở hữu của Ngân hàng thương mại chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Trong khi đó các loại hình kinh tế khác lại sử dụng chủ yếu nguồn vồn sở hữu vào các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt của Ngân hàng thương mại với các định chế tài chính khác là Ngân hàng thương mại có quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mỗi khi cân vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Công ty tài chính thì hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn sở hữu của mình, nếu thiếu các công ty tài chính có thể vay trên thị trường các công ty cổ phần, muốn tăng nguồn vốn huy động của mình thì có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Không có một định chế tài chính nào ngoài Ngân hàng thương mại có thể nhận tiền gửi từ các tổ chức cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế. Khách hàng của Ngân hàng thương mại là những người đóng vai trò hai mặt đối với Ngân hàng. Thứ nhất, họ là những người cung cấp các điều kiện để Ngân hàng hoạt động. Họ là những người tạo nguồn vốn cho Ngân hàng. Thứ hai, họ là những khách hàng sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng, như cho đi vay, sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng. Phần lớn, những khách hàng này, lại sử dụng chính những đồng tiền mà họ đã gửi vào. Vì vậy, khách hàng chính là những người cung cấp đầu vào cho Ngân hàng và họ cũng chính là người sử dụng sản phẩm đầu ra của Ngân hàng. Ngân hàng là một đơn vị doanh nghiệp theo cách phân nghành kinh tế. 2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại 2.1. Hoạt động huy động vốn 2.1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm 2.1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu Để bắt đầu hoạt động của Ngân hàng chủ Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Nguồn vốn hình thành ban đầu: tuỳ theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn vốn hình thành vốn ban đầu khác nhau: do ngân sách nhà nước cấp ,do các bên liên doanh đóng góp, hoặc vốn thuộc sở hữu tư nhân Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: nguồn từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần,góp thêm cấp thêm. Các quỹ 2.1.1.2. nguồn tiền gửi Tiền gửi thanh toán: là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng giữ hộ, thanh toán. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tài khoản nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời với các tài khoản. Tiền gửi của các Ngân hàng khác 2.1.1.3. Nguồn đi vay và các nghiệp vụ đi vay của Ngân hàng thương mại Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại tuy nhiên, khi cần Ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm. Vay Ngân hàng nhà nước (vay Ngân hàng trung ương): đây là các khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), Ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng nhà nước. Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn Ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Vay trên thị trường vốn: như phát hành các giấy nợ Các nguồn khác: nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán 2.1.2. Hoạt động huy động vốn Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư. Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng. Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các Ngân hàng khác. Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có lãi và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng mong muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay Ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở Ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo. Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập lớn hơn. Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người dân. Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của Ngân hàng. Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi Ngân hàng . 2.2. Hoạt động sử dụng vốn: Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng đầu tư trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản,Ngân hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm chí Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt chẽ. Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư . Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...) So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới quan tâm mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình. Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của khách hàng. 2.3. Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần. Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản này đến tài khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng phát triển toàn diện.Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro. Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai trò chung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các Ngân hàng thương mại . II. Vai trò của hoạt động cho vay Hoạt động cho vay là một phần của hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hoạt động này ra đời từ buổi đầu của Ngân hàng và đã trở thành một trong hai nhiệm vụ cơ bản của Ngân hàng. Đây cũng là ngiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng bởi vì chỉ có lãi cho vay mới bù đắp lại các chi phí phát sinh của Ngân hàng như chi phí trung gian, chi phí quản lý, chi phí dự trữ... thực tế trong quá trình phát triển của Ngân hàng cho thấy lợi nhuận từ các khoản cho vay chiếm phần lớn thu nhập của Ngân hàng, lượng tiền gửi tăng lên đáng kể, các hình thức cho vay cũng phong phú. Cho vay là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Khi định nghĩa về hoạt động cho vay, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng nói tóm lại, có thể định nghĩa hoạt động cho vay của Ngân hàng là hoạt động cung ứng tiền cho tất cả các khách hàng có nhu cầu về tiền để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng. Và hoạt động cho vay với vị trí khá quan trọng của mình có vai trò như sau: *Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng và thúc đẩy các hoạt động khác của Ngân hàng: Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động lớn của Ngân hàng doanh thu từ hoạt động này thường chiếm 70% doanh thu, ở các nước phát triển, hay đến 90% doanh thu của Ngân hàng, ở các nước đang phát triển. Hiện nay 80% doanh thu của các Ngân hàng thương mại là từ hoạt động tín dụng, mà hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn. Mặt khác, nhờ có hoạt động cho vay, mà các đơn vị kinh tế có thể vay của Ngân hàng để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận thu được không những doanh nghiệp đủ tiền trả cho Ngân hàng mà còn có tiền gửi vào Ngân hàng, nghĩa là làm tăng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Mặt khác khi sản xuất kinh doanh phát triển, xã hội phát triển thì các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển. * Hoạt động cho vay góp phần điều hoà cung- cầu dịch vụ hàng hoá: Doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh, hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh mà thiếu vốn thì doanh nghiệp phải vay vốn của Ngân hàng. Nhưng doanh nghiệp chỉ thu được lợi nhuận cũng như có khả năng trả nợ Ngân hàng khi doanh nghiệp tiêu thụ được hết số sản phẩm hàng hoá đã sản xuất ra, hay phải có một bộ phận những người tiêu dùng mua và có khả năng mua sản phẩm đó. Về phía người tiêu dùng, với một mức thu nhập nhất định, họ không thể có đủ số tiền để mua hàng hoá mình muốn. Họ chỉ có đủ khả năng mua sau một thời gian dài tích luỹ. Đó là nguyên nhân dẫn đến chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn của doanh nghiệp bị ngưng trệ. Doanh nghiệp sẽ không thu hồi đủ tiền để thực hiện vòng quay sản xuất. Do đó Ngân hàng cho vay là giải pháp có lợi đôi bên. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thì sẽ có nhiều hàng hoá. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay sẽ thoả mãn nhu cầu hàng hoá. Như vậy hoạt động cho vay của Ngân hàng đã góp phần điều hoà cung cầu sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế. * Hoạt động cho vay góp phần điều tiết và phân phối các nguồn vốn: vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện qua các hình thức khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, tạo thành chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một vòng tuần hoàn này thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình sản xuât kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi nguồn vốn của doanh nghiệp luôn đồng thời tồn tại ở ba giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có những đơn vị tạm thời thiếu vốn. Đây là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kì nền kinh tế nào, làm nảy sinh nhu cầu ngày càng bức thiết phải giải quyết được vấn đề điều hoà vốn. Ngân hàng thương mại với vai trò là một trung gian tài chính đứng ra tập trung phân phối lại tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp, đã góp phần điều tiết lại nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không bị gián đoạn. * Hoạt động cho vay góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nhiều thành phần kinh tế, phần lớn nguồn vốn đi vay từ Ngân hàng để bắt tay vào ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn (Ví dụ kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tới trên 70%). Do vậy bằng các chính sách cho vay, định hướng chung của nhà nước góp phần tạo cho nền kinh tế một cơ cấu kinh tế hợp lý, cân đối. Bằng những công cụ tín dụng Ngân hàng, Ngân hàng có thể cho vay ưu đãi những nghành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. * Hoạt động cho vay góp phần giúp các thành phần kinh tế mở rộng ứng dụng công nghệ mới Với những doanh nghiệp trình độ trang bị kĩ thuật còn thấp kém, công nghệ thấp kém, chắp vá, thiếu đồng bộ làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp , làm cho các doanh nghiệp đó kém phát triển. Thông qua vốn vay của Ngân hàng, doanh nghiệp dùng đồng vốn này để đầu tư, tìm kiếm những công nghệ hiện đại, đổi mới dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm thoả mãn nhu cầu trong và ngoài nước. Như vậy hoạt động cho vay mở rộng ứng dụng công nghệ mới vào các doanh nghiệp, thông qua đó giúp doanh nghiệp sản xuất ngày càng có hiệu quả, mở rộng sản xuất kinh doanh. III. Các hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại Dựa theo mục đích sử dụng tiền vay có 2 hình thức cho vay là cho vay tiêu dùng và cho vay để kinh doanh. * Cho vay tiêu dùng: Mục đích của loại cho vay này là người đi vay phải sử dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản cố định nhằm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân. Khi thực hiện hình thức cho vay này, cán bộ tín dụng đã phải tính đến nguồn tiền được dùng trả nợ Ngân hàng chính là thu nhập cá nhân của người vay tiền. Hình thức cho vay này chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển và những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, khiến giới tư bản sản xuất đã phải bỏ đi bao nhiêu hàng hoá khi mà nhu cầu tiêu dùng có nhưng không có cầu thực sự. Hình thức phổ biến nhất của loại hình này là cho vay trả góp, một loại hình đã được áp dụng rất thành công ở các nước phát triển. Ngân hàng có thể cho các công chức vay để họ mua sắm ô tô, xe máy, trả góp nhà. ở các nước phương Tây và Mỹ thì một người có thể mua ô tô để đi lại trở lên rất dễ dàng trong khi tài khoản của anh ta không cần phải có 100% hay 50% giá trị của chiếc xe đó. Điều này đã giúp cho việc tiêu thụ hàng hoá trở lên thuận lợi hơn, do vậy nó thúc đẩy sản xuất phát triển. * Cho vay để kinh doanh: Mục đích của loại cho vay này là Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng một nhu cầu nào đó về tiền của doanh nghiệp. Dựa vào đặc điểm của từng ngành mà Ngân hàng sẽ thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức cho vay, cách thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền bán hàng của doanh nghiệp. Có thể phân chia loại hình này theo tiêu thức cho vay doanh nghiệp sản xuất và cho vay thương mại hay có thể cho vay theo các ngành nghề kinh tế: Cho vay ngành công nghiệp, ngành nông nghiệp, cho vay ngành dịch vụ. 2. Dựa theo thời hạn cho vay có 2 hình thức là cho vay ngắn hạn và cho vay trung-dài hạn. *Cho vay ngắn hạn: Hình thức cho vay này nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Cho vay ngắn hạn trong những trường hợp sau: Ngân hàng cho nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Hình thức phổ biến hiện nay là Ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc phát hành. Khả năng hoàn trả của nhà nước rất cao, song cũng không loại trừ có những trường hợp Nhà nước mất khả năng chi trả khi đến hạn. Ngân hàng cho vay đối với các tổ chức tài chính như các Ngân hàng, các công ty tài chính, quỹ tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Một số công ty chứng khoán vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng thương mại trong quá trình bảo lãnh và phân phối chứng khoán cho công ty phát hành. Phần lớn các khoản cho vay này đều dựa trên uy tín của người vay. Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các Ngân hàng thương mại. Phần lớn các khoản cho vay này có thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng theo thời vụ là khách hàng chủ yếu của Ngân hàng. Các doanh nghiệp cần vay Ngân hàng để xây dựng, mở rộng cải tiến sửa chữa tài sản cố định. Các khoản vay này có thời hạn dưới một năm. Ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng cho vay để phát triển đất đối với các công trình xây dựng và phát triển đô thị. Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng. *Cho vay trung và dài hạn: Doanh nghiệp có nhu cầu vay trung và dài hạn để mua trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao. Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển. Ngân hàng mua các trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho các quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp , các kế hoạch tương lai đều được Ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định, nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay Ngân hàng. Một trong những yêu cầu cho vay của Ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư, cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Thẩm định dự án là điều kiện để Ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoà trả của doanh nghiệp 3. Dựa theo hình thức đảm bảo của các khoản vay có 2 hình thức cho vay là cho vay có đảm bảo và cho vay không có đảm bảo. *Cho vay có đảm bảo : Đây là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho khách hàng vay vốn, Ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Quá trình cung ứng vốn của Ngân hàng thương mại, không kể dưới hình thức nào đều làm tăng khối lượng tiền vào nền kinh tế, làm tăng khối lượng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra khi thực hiện việc cho vay Ngân hàng không trực tiếp quản lý nguồn vốn của mình vì thế có rất nhiều rủi ro xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ vốn vay là rất cao vì thế các Ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu người vay phải có tài sản bảo đảm cho khoản vay. Trong cho vay kinh doanh nguồn thu lợi thứ nhất là doanh thu đối với vay vốn lưu động, hoặc là khấu hao, lợi nhuận đối với những khoản vay trung và dài hạn. Cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá các hoạt động của khách hàng, nếu Ngân hàng nhận thấy là nguồn thu nhập thứ nhất không có cơ sở chắc chắn thì Ngân hàng phải yêu cầu thiết lập thêm chính sách pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai, chính là tài sản đảm bảo cho khoản vay đó. *Các khoản cho vay không có đảm bảo : Là khoản cho vay mà Ngân hàng không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Những điều kiện này có thể là: người đi vay không được giao dịch với Ngân hàng nào khác, hoạt động kinh doanh của người đi vay phải được Ngân hàng quản lý. Có như vậy Ngân hàng mới quản lý được tình hình tài chính của người đi vay. Thông thường chỉ có những khách hàng có quan hệ lâu năm với Ngân hàng hoặc những khách hàng có uy tín, hay những khách hàng mà Ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay không có đảm bảo. 4. Dựa theo hình thức hình thành khoản vay có hai hình thức cho vay là cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp. *Cho vay trực tiếp: Phần lớn cho vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp. Đây là các khoản cho vay khi khách hàng trực tiếp đến Ngân hàng và xin vay vốn. Ngân hàng trực tiếp chuyển giao tiền cho khách hàng sử dụng trên cơ sở những điều kiện mà hai bên thoả thuận. Khi khách hàng có tài sản thế chấp, có uy tín cao mà không cần phải thông qua trung gian nào thì họ thường vay trực tiếp Ngân hàng. * Cho vay gián tiếp Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm, như nhóm sản xuất hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ ...Các tổ chức này thường xuyên liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giầu, xoá đói giản nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trìmh sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa Ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ ...) Cho vay trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro chi phí của Ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu Ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá cho người vay vốn. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. 1. Các nhân tố ảnh hưởng thuộc về bản thân Ngân hàng. Hoạt động cho vay Ngân hàng ngày càng tăng cường phụ thuộc phần lớn vào các nhân tố tạo nên sức mạnh của Ngân hàng. * Nguồn vốn của Ngân hàng._.: Một Ngân hàng cũng như một doanh nghiệp, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có vốn. Hai nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng là vốn tự có và vốn huy động. Ngân hàng thương mại nằm trong hệ thống Ngân hàng chịu sự tác động của chính sách tiền tệ, chịu sự quản lý của Ngân hàng trung ương và tuân thủ các qui định của luật Ngân hàng. Một Ngân hàng chỉ được huy động một số vốn gấp 20 lần số vốn tự có. Điều đó có nghĩa là nếu vốn tự có càng lớn, khả năng được phép huy động vốn càng cao, và Ngân hàng càng dễ dàng hơn trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Đặc điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của thương mại và các doanh nghiệp phi tài chính là các Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ các thành phần kinh tế còn các doanh nghiệp khác hoạt động bằng nguồn vốn tự có là chính. Ta biết Ngân hàng cho vay bằng nguồn vốn huy động của mình. Mà hoạt động cho vay của Ngân hàng ngày càng được tăng cường, số lượng và chất lượng cho vay càng lớn khi mà nguồn vốn của Ngân hàng phải lớn mạnh. khi nguồn vốn của Ngân hàng tăng trưởng đều đặn, hợp lý thì Ngân hàng có thêm nhiều tiền cho khách hàng vay, điều đó cũng có nghĩa là hoạt động cho vay của Ngân hàng được tăng cường và mở rộng. Còn nếu lượng vốn ít thì không đủ tiền cho khách hàng vay, Ngân hàng sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư, lợi nhuận của Ngân hàng sẽ không cao và việc tăng cường hoạt động cho vay sẽ bị hạn chế. Nhưng nếu vốn quá nhiều, Ngân hàng cho vay ít so với lượng vốn huy động (hệ số sử dụng vốn thấp) thì sẽ gây ra hiện tượng tồn đọng vốn. Lượng vốn tồn đọng này không sinh lời và lãi suất phải trả cho nó sẽ làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Vì vậy việc nghiên cứu tình hình huy động vốn của Ngân hàng là quan trọng khi muốn tăng cường hoạt động cho vay. * Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố giới hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, phương thức cho vay, hướng giải quyết phần khách hàng vay vượt giới hạn, xử lý các khoản vay có vấn đề...tất cả các yếu tố đó có tác dụng trực tiếp và mạnh mẽ đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng. Nếu như tất cả những yếu tố thuộc chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng về vốn thì Ngân hàng đó sẽ thành công trong việc tăng cường hoạt động cho vay, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng tín dụng. Ngược lại, những yếu tố này bất hợp lý, cứng nhắc, không theo sát tình hình thực tế sẽ dẫn đến khó khăn trong việc tăng cường hoạt động cho vay của mình. Ngân hàng càng đa dạng hoá các mức lãi suất phù hợp với từng loại khách hàng, từng kỳ hạn cho vay và chính sách khách hàng hấp dẫn thì càng thu hút được khách hàng, thực tốt mục tiêu mở rộng hoạt động cho vay. Nhưng nếu lãi suất không phù hợp quá cao hay quá thấp, không có lãi suất ưu đãi thì sẽ không thu hút được nhiều khách hàng và như vậy sẽ hạn chế hoạt động cho vay của Ngân hàng * Thông tin tín dụng khó có thể tưởng tượng nổi một doanh trong môi trường luôn biến động và cạnh tranh gay gắt như ngày nay mà không cần đến thông tin. Thông tin trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu được với mọi doanh nghiệp nói chung, Ngân hàng thương mại nói riêng. Trong hoạt động cho vay,Ngân hàng cho vay chủ yếu dựa trên sự tin tưởng đối với khách hàng. Mức độ chính xác của sự tin tưởng này lại phụ thuộc vào chất lượng thông tin mà Ngân hàng có được. Để ngày càng cường hoạt động cho vay đạt hiệu quả, chất lượng cao, Ngân hàng thương mại phải nắm bắt những thông tin cả bên trong và bên ngoài của Ngân hàng (những thông tin bên ngoài gồm có: khách hàng, những biến đổi của môi trường kinh tế, dân số, văn hoá, xã hội, chính trị, luật pháp, tự nhiên công nghệ,đối thủ cạnh trạnh nhu cầu khách hàng,... ). Luồng thông tin bên trong cung cấp cho biết rõ những điểm mạnh, yếu của các nguồn lực khác nhau trong Ngân hàng mình. Yêu cầu thông tin : đầy đủ, chính xác, kịp thời. Nếu một Ngân hàng nắm bắt kip thời những thông tin về kinh tế, xã hội, thị trường thì Ngân hàng đó sẽ đưa ra những phương hướng hoạt đồng kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay nói riêng phù hợp. Những thông tin về khách hàng chính xác thì hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với từng khách hàng sẽ hợp lí hơn và chủ động hơn. Điều đó sẽ giúp cho Ngân hàng không bỏ lỡ nhiều cơ hội cho vay tốt, đồng thời hạn chế được những rủi ro cho những khoản cho vay của mình. Ngược lại nếu thông không kịp thời, chính xác thì Ngân hàng sẽ cho vay không hợp lí. Cho vay qúa thấp sẽ hạn chế khả năng sản xuất của doanh nghiệp do lượng vốn đi vay chưa đủ để doanh nghiệp đầu tư toàn diện. Nhưng nếu cho vay quá cao so với nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng do thông tin về khách hàng này là tốt trong khi thực tế thì không phải như vậy, cho nên khi khách hàng làm ăn thua lỗ sẽ không có khả năng trả hết nợ. Thực tế ở Việt Nam, tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ là khó khăn. Và khả năng cho vay còn nhiều hạn chế. * Năng lực điều hành của ban lãnh đạo Yếu tố này có vai trò khá quan trọng. Thực tế chứng minh, nhiều Ngân hàng thương mại tuy có được những nguồn lực khan hiếm và giá trị mà đối thủ cạnh tranh không có như trụ sở khang trang đặt ở vùng tập trung nhiều khách hàng, vốn tự có lớn, thu nhận được nhiều cán bộ giỏi. Song do cán bộ điều hành lãnh đạo không sắc sảo, nhạy bén, không nắm bắt, điều chỉnh hoạt động Ngân hàng theo kịp các tín hiệu thông tin, không sử dụng nhân viên đúng sở trường,... dẫn đến lãng phí các nguồn lực Ngân hàng mình có, giảm hiệu quả chi phí, tất nhiên hạ thấp đi hoạt động cho vay của Ngân hàng . Năng lực lãnh đạo của những người điều hành ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nó thể ở các mặt sau: -Khả năng chuyên môn: có được khả năng này, người lãnh đạo sẽ dễ dàng hơn trong công tác quản lý và điều hành, vì kiến thức và kinh nghiện của nhà lãnh đạo luôn tạo được uy tín tuyệt đối không chỉ với cấp dưới mà nhiều khi đối với cả đối thủ cạnh tranh. -Khả năng phân tích và phán đoán: dự đoán chính xác những thay đổi trong môi trường kinh doanh tương lai từ đó hoạch định chính xác các chiến lược, xác định các chính sách, kế hoạch kinh doanh phù hợp. -Khả năng, nghệ thuật đối nhân xử thế: là khả năng giao tiếp cũng như khả năng tổ chức nhân sự trong mối quan hệ không chỉ đối với nhân viên, đồng nghiệp, cấp trên, khách hàng. Nó còn gồm những khĩ năng khác về lãnh đạo, tổ chức phỏng đoán, quyết toán công việc. * Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên Ngân hàng chính là hình ảnh của Ngân hàng. Cho nên những kiến thức, kinh nghiệm, chuyên môn của mình, nhân viên Ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị dịch vụ. Đa số các ý tưởng cải tiến hoạt động kinh doanh được đề xuất bởi nhân viên Ngân hàng. Nhân viên Ngân hàng là lực lượng chủ yếu truyển thông tin từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách Ngân hàng . Cơ sở vật chất thiết bị cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Nếu cơ sở vật chất thiết bị mà lạc hậu thì các công việc của ngân hàng sẽ được xử lý kém, chậm chạp; các hoạt động của ngân hàng được thực hiện khó khăn. Điều đó làm cho Ngân hàng tụt hậu, kém phát triển, không thu hút được nhiều khách hàng sẽ làm hạn chế hoạt động cho vay. Ngược lại việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiến phù hợp với phạm vi và quy mô hoạt động, phục vụ kịp thời các nhu cầu khách hàng với chi phí cả hai bên đều có thể chấp nhận được sẽ giúp Ngân hàng tăng cường khả năng cạnh tranh, thực hiện tốt mục tiêu tăng cường hoạt động cho vay. * Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Ngân hàng muốn tồn tại, phát triển thì phải có phương hướng, chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh càng phù hợp thì hoạt động cho vay ngày càng được mở rộng. Trên cơ sở các quyết định, chính sách của cấp trên, thông tin về khách hàng, về đối thủ khách hàng, xác định vị thế của Ngân hàng trên địa bàn hoạt động; Ngân hàng phải xác định nên tăng cường hoạt động cho vay hợp lý, nên chú trọng hơn vào những hướng nào có hiệu quả, tìm hiểu thêm những lĩnh vực mới tiềm năng giúp mở rộng hoạt cho vay của Ngân hàng 2. Đối thủ cạnh tranh Các Ngân hàng thương mại hoạt động trong môi trường có nhiều đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh là một động lực tốt để Ngân hàng ngày càng hoàn thiện, vì để ngày càng phát triển thì Ngân hàng luôn phải cố gắng không để mình tụt hậu so với đối thủ cạnh tranh và phải nâng cao, tăng cường các hoạt động của mình vượt đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, khách hàng có sự lựa chọn của mình khi gửi tiền, sử dụng dịch vụ và vay tiền của Ngân hàng nào có lợi cho họ. Nếu như đối thủ cạnh tranh mà chiềm ưu thế hơn so với Ngân hàng thì sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn Ngân hàng thậm chí khách hàng của Ngân hàng cũng chuyển sang đối thủ cạnh tranh. Do đó để mở rộng hoạt động cho vay thì việc nghiên cứu tìm hiểu đối thủ cạnh tranh để ngày càng chiếm ưu thế hơn là vô cùng quan trọng. Quá trình phân tích đối thủ cạnh tranh gồm có: xác định các nguồn thông tin về đối thủ cạnh tranh, phân tích các thông tin đó, dự đoán chiến lược của các đối thủ cạnh tranh và đánh giá khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong việc mở rộng hoạt động cho vay. 3.Sự phát triển của nền kinh tế Sự phát triển của nền kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Nó tạo môi trường rất thuận lợi để mở rộng hoạt động cho vay. Bất cứ một Ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của các chu kì kinh tế. Trong giai đoạn nền kinh tế phát triển ổn định, doanh nghiệp làm ăn tốt thì xã thì xã hội có nhiều nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nên nhu cầu vay vốn tăng. Mặt khác nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng, thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân và tạo khả năng tiết kiệm do đó tạo triển vọng cho vay tiêu dùng. Ngược lại nền kinh tế suy thoái, dẫn đến nền kinh tế giảm khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế giảm do đó dư thừa ứ đọng vốn, không những hoạt động cho vay không được mở rộng mà còn bị thu hẹp. 4. Hệ thống pháp luật Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ của pháp luật. Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, có nhiều kẽ hở thì sẽ rất khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Với những văn bản pháp luật đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực cho vay. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng khiếu lại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra. Điều đó giúp Ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay . Sự thay đổi những chủ chương chính sách về Ngân hàng cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu một cách đột ngột gây sáo chộn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiêu thụ hết được sản phẩm hay chưa có phương án kinh doanh mới dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiếu sơ hở. Nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ, năng lực quản lý dẫn đến rủi ro, thua lỗ, làm giảm chất lượng tín dụng. Do đó hệ thống pháp luật cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Chương II thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên I. Khái quát về Ngân hàng Công Thương chi nhánh tỉnh Hưng Yên. 1. Sự ra đời và phát triển. Ngân hàng Công thương Việt Nam là Ngân hàng thương mại nhà nước lớn tại Việt Nam với tổng tài sản chiếm trên 20 % thị phần trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng công thương Việt Nam có hệ thống mạng lưới kinh doanh rộng khắp, có nhiều chi nhánh, điểm giao dịch tại các tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Ngân hàng Công Thương tỉnh Hưng yên là một trong những chi nhánh tại Hưng Yên của Ngân hàng công thương Việt Nam. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng công thương tỉnh Hưng Yên có quá trình phát triển của mình như sau: Trước năm 1988: Ngân hàng Nhà nước Thị xã Hưng Yên Từ năm 1988 đến cuối năm1996: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Thị xã Hưng yên. Từ ngày 1/1/1997 đến nay: Chi nhánh Ngân hàng công Thương Tỉnh Hưng Yên. Đến nay Ngân hàng Công Thương Tỉnh Hưng Yên có tổng số cán bộ là 71 cán bộ. * Các dịch vụ của Ngân hàng Công Thương tỉnh Hưng Yên: -Nhận tiền gửi có kì hạn và không có kì hạn bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ , kinh doanh ngoại tệ, thực hiện các dịch vụ mua bán chuyển đổi ngoại tệ -Dịch vụ chi trả kiều hối cho mọi đối tượng nước ngoài gửi về cho thân nhân. -Dịch vụ thanh toán chuyển tiền , mở L/C cho khách hàng với tất cả các nước trên thế giới. -Đầu tư, cho vay mọi thành phần kinh tế. -Các dịch vụ khác. Các công việc trên được thực hiện trên máy vi tính an toàn bí mật, nhanh chóng, chính xác. *Địa chỉ: Số 1 Điện Biên I- Phường Lê Lợi- Thị xã Hưng Yên- Tỉnh Hưng Yên. 2. Nhiệm vụ và bộ máy tổ chức Ban lãnh đạo gồm có một giám đốc và một phó giám đốc. Ngân hàng Công Thương chinhánh tỉnh Hưng Yên gồm có 8 phòng ban -Phòng kinh doanh -Phòng kế toán -Phòng nguồn vốn - kinh doanh ngoại tệ -Phòng Ngân quỹ -Phòng tổ chức hành chính -Phòng kiểm soát -Phòng giao dịch số 03 -Ngày 1/1/03 Phòng giao dịch số 07 chuyển thành chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vưc mỹ Hào Sơ đồ cơ cấu tổ chức: giám đốc phó giám đốc phòng kinh doanh phòng tổ chức hành chính phòng kiểm soát phòng kế toán phòng giao dịch số 03 phòng nguồn vốn,kinh doanh ngoại tệ phòng Ngân quỹ phòng giao dịch số 07 Nhiệm vụ: * Phòng kinh doanh: Phòng gồm có một trưởng phòng và hai phó phòng và có tất cả là 13 người -Nhiệm vụ chủ yếu của phòng là cho vay vốn (quốc doanh và ngoài quốc doanh). Khi khách hàng đến vay vốn có đủ điều kiện được vay thì cán bộ Ngân hành tại phòng làm thủ tục cho vay và ngoài ra trong quá trình đó có thể giúp đỡ, hướng dẫn khách hàng tư vấn thêm về cách vay nào sao cho đạt hiệu quả tốt nhất. Phòng kinh doanh ngày càng phải cải tiến quy trình nghiệp vụ đảm bảo tính chặt chẽ , giảm bớt các thủ tục giấy tờ không cần thiết , giảm thời gian và chi phí cho khách hàng trong việc làm thủ tục cho vay luôn được quan tâm . giảm thời gian giao dịch cho khác hàng.Ngân hàng ngày càng chủ động tìm kiếm khách hàng, những thông tin về khách hàng. *Phòng kế toán: -Tính toán ghi chép tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo thứ tự thời gian, tại địa điểm nhất định bằng thước đo tiền tệ một cách đầy đủ chính xác, khách quan kịp thời và dễ hiểu. -Xử lí nghiệp vụ phù hợp với công nghệ nhân hàng đảm bảo chất lượng các hoạt động kinh doanh-dịch vụ Ngân hàng liên quan. -Qua tính toán, ghi chép và xử lí nghiệp vụ theo một trình tự nhất định để kế toán thực giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn, hình thành nguồn vốn và đảm bảo tính hiệu quả đồng vốn đầu tư góp phần thực hiện tốt chế độ, chính sách trong hoạt động của Ngân hàng *Phòng nguồn vốn -kinh doanh ngoại tệ Thanh toán nghiệp vụ đối ngoại được thực hiện bằng ngoại tệ và tiền nội địa, thường xuyên phải tính toán chuyển đổi từ ngoại tệ này sang ngoại tệ khác, từ ngoại tệ thành tiền nội địa vàngược lại; Nhiệm vụ của phòng kinh doanh đối ngoại là mở L/C cho khách hàng,thanh toán L/C xuất, thu đổi và mua bán ngoại tệ, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Kinh doanh ngoại tệ trong nước thường gồm 3 nghiệp vụ phổ biến: mua ngoại tệ, bán ngoại tệ và chuyển đổi ngoại tệ trong nước. -Phòng nguồn vốn: Nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn từ tiền gửi của dân cư và các doanh nghiệp. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng, trong hoạt động Ngân hàng đã xác định đi vay để cho vay và đầu tư vốn phải đảm bảo có hiệu quả kinh tế cho cả Ngân hàng và khách hàng Ngân hàng có các quỹ tiết kiệm, các quỹ tiết kiệm được thực hiện đúng quy trình, tạo sự yên tâm cho người gửi tiền, đưa ra các thông báo đầy đủ về lãi suất, những thông tin khác về tiền gửi. với mức lãi suất tiền gửi khác nhau có các mức lãi suất khác nhau để khuyến khích gửi tiền . *Phòng Ngân quỹ: Thực hiện các hoạt động dự trữ tiền mặt, thu chi tiền mặt, chuyển tiền, thu chi trong nội bộ Ngân hàng Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ- xuất quỹ, thực hiện các phân tích giúp cho Ngân hàng đảm bảo được các mục tiêu, đảm bảo chi trả. Xác định mức dự trữ, mức thu chi dể báo cáo lên cấp trên và nhận mức kinh phí do được điều động *Phòng tổ chức hành chính: Thực hiện các nhiệm vụ về mặt tổ chức như giải thể, sát nhập, nhân sự, thi đua… và về mặt hành chính như mua sắm , sửa chữa. -Nhiệm vụ của phòng là ngày càng nâng cao chất lượng cán bộ, vật chất,công nghệ thông tin để phòng ngày càng hiện đại về cách thức tổ chức hành chính giúp cho Ngân hàng có bộ máy, cách thức hoạt động phù hợp, ninh động và ngày càng hoàn thiện và hiện đại. *Phòng kiểm soát: Phòng kiểm soát thực hiện kiểm tra trực tiếp các hoạt động, nhiệm vụ trên các lĩnh vực, kiểm toán các hoạt động nhiệm vụ từng thời kì, từng lĩnh vực. Báo cáo kịp thời với ban lãnh đạo và đưa ra những kiến, khắc phục những khuyết diểm, tồn tại. *Phòng giao dịch: Có nhiệm vụ huy động vốn và đầu tư cho vay mọi thành phần kinh tế, thanh toán, chuyển tiền, mở L/C cho khách hàng. Nhân viên giao dịch phải có phong cách làm việc minh bạch, trung thực, kĩ năng làm việc nhanh gọn, thái độ với khách hàng đúng đắn, nhẹ nhàng. 3. Kết quả kinh doanh của Ngân hàng công thương tỉnh Hưng Yên trong những năm vừa qua. 3.1. Huy động vốn: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng trong công tác huy động vốn như sau: Bảng 1: Tình hình huy động vốn (Đơn vị tỷ đồng) Chỉ tiêu Huy động vốn (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Tốc độ tăng (%) Năm 00 01 02 00 01 02 01 so 00 02 so 01 Vốn huy động 134 204 289,8 0,52 0,42 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 15 27 49,9 11,19 13,24 17,24 0,8 0,85 Tiền gửi dân cư 119 177 239,9 88,81 86,76 82,76 0,49 0,36 ( 2000:00 ; 2001: 01 ; 2002: 02; so: so sánh ) (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Qua đó ta nhận xét: -Ngân hàng có số huy động vốn ngày càng tăng theo các năm trong tổng nguồn vốn huy động và trong tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi dân cư. -Ta nhân thấy,tiền gửi dân cư chiếm tỷ lệ rất lớn so với tổng -Tuy nhiên Tỷ lệ này có giảm đi chút ít theo các năm, điều đó có nghĩa là các lượng tiền của các tổ chức kinh tế gửi vào tăng nhanh. -Tốc độ huy động vốn tăng năm trước so với năm sau. Tuy nhiên tốc độ tăng năm 2002 so với năm 2001 giảm so với tốc độ tăng năm 2001 so với năm 2000, do sự giảm về tốc độ trong tiền gửi dân cư. -Nhìn chung do phương thức huy động phong phú hơn về kì hạn, lãi suất nên nguồn vốn huy động của Ngân hàng tăng khá cao, nguồn vốn huy động được từ dân cư vẫn là rất lớn. Đây là một trong những ngiệp vụ quan trọng. Trong những năm qua huy động vốn đều tăng trưởng Với công tác huy động vốn của mình, Ngân hàng không những huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, hãng kinh doanh phục vụ mục đích kinh doanh của mình, mà còn giúp được khách hàng kiếm , tìm lợi nhuận(số lãi) từ chính tài sản của mình vừa tìm được nơi cất trữ an toàn, hệu quả nhất. 3.2. Hoạt động tín dụng: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng trong công tác cho vay vốn. Bảng 2: Doanh số cho vay, doanh số dư nợ, và thu nợ (Đơn vị tỷ đồng) Chỉ tiêu Doanh số cho vay Doanh số thu nợ Dư nợ Năm 00 01 02 00 01 02 00 01 02 Quốc doanh Ngoài quốc doanh 107 55 121 73 241 92 87 37 86 59 153 67 49 38 84 52 172 77 Ngắn hạn Trung và dài hạn 146 16 153 41 218 115 120 4 136 9 197 23 62 25 79 57 100 149 Tổng 162 194 333 124 145 220 87 136 249 ( 2000:00; 2001: 01; 2002: 02 ) (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Qua bảng trên ta có nhận xét: -Doanh số cho vay quốc doanh chiếm tỉ lệ là: Năm 2000: 66,049%; Năm 2001 : 62,37 %; Năm 2002: 72,372 % Ngân hàng cho vay quốc doanh chiếm tỷ lệ cao hơn so với cho vay ngoài quốc doanh -Và mức độ cho vay ngày càng tăng lên theo từng năm đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2002 thì doanh số cho vay tăng gần gấp đôi, dư nợ cho vay kinh tế quốc doanh gấp hơn 2 lần. -Cho vay ngoài quốc doanh cũng tăng lên theo các năm - Doanh số thu nợ hầu hết tăng theo năm, theo từng khu vực thu nợ Cơ cấu cho vay vốn có những thay đổi, tăng cường hơn vào cho vay trung và dài hạn dể cải tiến kỹ thuật, xây dựng kết cấu hạ tầng. Cho vay cá nhân, dân cư cũng tăng lên. Có thể nói hầu hết đồng vốn của Ngân hàng đã đi đến các thành phần của kinh tế có hiệu quả, cho vay và thu nợ ngày càng tăng. Từ nguồn vốn cho vay , Ngân hàng đã góp phần cho các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình, cá nhân không những trả nợ hết cho Ngân hàng mà còn đem một phần lợi nhuận của mình trở thành tiền gửi trong Ngân hàng 3.3. Dịch vụ thanh toán Ngân quỹ Kết quả và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng trong công tác Ngân quỹ: Bảng 3: Tổng thu, tổng chi, bội thu (Đơn vị: Tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng thu 484,5 318,6 178,1 Tổng chi 343 232,5 127,3 Bội thu 141,5 76,1 50,8 (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Qua số liệu trên cho thấy, các năm qua tổng thu luôn lớn hơn tổng chi qua các năm (luôn bội thu). Công tác Ngân quỹ từng bước được phát triển. Trong những năm qua Ngân hàng luôn cung cấp đủ tiền mặt trên địa bàn kể cả trong những dịp tết và những kỳ phải chi trả tiền mặt lớn. Ngân hàng không những đủ tiền mặt cung cấp cho nền kinh tế , mà còn hạch toán thu chi cho nội bộ Ngân hàng. Cán bộ làm công tác Ngân quỹ luôn luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm coi sự an toàn là nhiệm vụ cơ bản của cán bộ Ngân quỹ Phòng Ngân quỹ cung cấp các số liệu và tài liệu về thu ,chi giúp cho Ngân hàng có có thể căn cứ một phần vào đó để hoạch định chính sách thu chi cho hợp lí. *Về kết quả và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng trong hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại tệ: Ngân hàng phục vụ cho công tác thanh toán trong và ngoài tỉnh, thanh toán với nước ngoài. Trong thanh toán đã thực hiện thanh toán chuyển tiền điện tử,... , dã đem lại hiệu quả lớn không những cho bản thân Ngân hàng mà còn có tác dụng to lớn với nền kinh tế. *Kết quả và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế: Năm 2002: Mở 38 bộ L/C với số tiền 2343000 $ Thực hiện thanh toán : 4494000 $ Dư nợ ngoại tệ: 20,3 tỷ Tất cả các hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đều tăng lên có lợi cho Ngân hàng và khách hàng. 3.4. Các hoạt động khác và các công tác khác của Ngân hàng *Các hoạt động khác: Như góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật. * Một số công tác khác của Ngân hàng: Công tác tổ chức cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát trong Ngân hàng cũng được coi trọng; trang thiết bị vật chất,tin hoc. ...;công tác công đoàn cũng được triển khai thực hiện ngày càng tốt. II. Thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương chi nhánh tỉnh Hưng Yên Cùng với sự phát triển của tỉnh, Ngân hàng Công thương Tỉnh Hưng Yên cũng góp phần của mình vào sự phát triển đó. Công tác cho vay là công tác rất quan trọng, đưa lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nhưng lại là công tác dế phát sinh rủi ro nhất. Để công tác cho vay đem lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng phát triển bền vững và an toàn, từ đó mà hoạt động cho vay ngày càng được tăng cường, phát huy ngày càng hiệu quả vai trò của mình. Thì chi nhánh đã tích cực thực hiện nhiều giải pháp cụ thể : như sàng lọc khách hàng, thực hiện đúng và linh hoạt quy trình cho vay... Sau đây là những phân tích về thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương chi nhánh tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây. Doanh số cho vay Để có một cái nhìn cụ thể về hoạt động cho vay của Ngân hàng, ta xem xét tình hình cho vay của Ngân hàng thông qua doanh số cho vay của Ngân hàng qua các năm về đối tượng và thời hạn được vay. Bảng 4.1: Tình hình cho vay Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Tỷ lệ (%) Năm 2001 Tỷ lệ (%) Năm 2002 Tỷ lệ (%) Doanh số cho vay 162 194 333 Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh 107 55 66,05 33,95 121 73 62,37 37,63 241 92 72,37 27,63 Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn 146 16 90,1 9,9 153 41 78,9 21,2 218 115 65,5 34,5 (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Qua các số liệu trên, ta có nhận xét: Doanh số cho vay tăng lên theo tất cả các năm cả về đối tượng cho vay và thời hạn cho vay Cho vay kinh tế quốc doanh chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ lệ này giảm đi ở năm 2001, nhưng lại tăng lên ở năm 2002 Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ rất cao so với cho vay dài hạn qua tất cả các năm, tuy nhiên tỷ lệ cho vay dài hạn chiếm tỷ lệ ngày càng tăng: năm 2000 là 9,9%; năm 2001 là 21,2%; năm 2002 đã tăng tới 35,4%. Bảng 4.1: Tốc độ tăng của doanh số cho vay Chỉ tiêu Tốc độ tăng năm 2001 so với năm 2000 (%) Tốc độ tăng năm 2002 so với năm 2001(%) Doanh số cho vay 19,8 71,7 Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh 13,1 32,7 99,2 26,03 Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn 4,8 156,3 42,5 180,5 (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Các số liệu trên cho thấy: Doanh số cho vay của Ngân hàng tăng lên ngày càng lớn hơn qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có giảm. Năm 2001, doanh số cho vay tăng 32 tỷ, tức là tăng19,8% so với năm 2000. Năm 2002, doanh số cho vay tăng 139 tỷ, tức là tăng 71,7 tỷ so với năm 2001. Tuy nhiên nếu xét theo đối tượng vay và thời gian vay thì doanh số cho vay khu vực kinh tế quốc doanh năm 2001 tăng so với năm 2000 là 14 tỷ, tức là tăng 13,1%. Đến năm 2002 lại tăng 120 tỷ, tức là tăng 92,2% so với năm 2001. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2001 tăng 18 tỷ, tức là tăng 32,7% so với năm 2000; đến năm 2002 tăng 19 tỷ tức là tăng 26,03% so với 2001. Tốc độ tăng cho vay dài hạn là lớn nhất, con số cho vay dài hạn năm 2000 là 16 tỷ, đến năm 2002 là 115 tỷ. Trong đó, cho vay dài hạn năm 2001 tăng 25 tỷ, tức là tăng156,3% so với năm 2000; năm 2002 tăng 74 tỷ, tức là tăng 180,5% so với năm 2001. Cho vay ngắn hạn: năm 2001 tăng 7 tỷ, tức là tăng 4,8% so với năm 2000; năm 2002 tăng 65 tỷ, tức là tăng 42,5% so với năm 2001. Tốc độ tăng của doanh số cho vay khu vực kinh tế quốc doanh và cho vay ngắn hạn rất có thay đổi rất lớn : từ 13,1 đến 99,2, từ 4,8 đến 42,5. 2.Doanh số thu nợ Quá trình cho vay và thu nợ của Ngân hàng phải được thực hiện kết hợp chặt chẽ với nhau. Nếu chỉ chú trọng đến việc cho vay mà không quan tâm đến việc thu hồi nợ thì sẽ sinh ra nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Tình hình thu nợ của Ngân hàng công thương tỉnh Hưng Yên như sau: Bảng 5.1: Tình hình thu nợ Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Tỷ lệ (%) Năm 2001 Tỷ lệ (%) Năm 2002 Tỷ lệ (%) Doanh số thu nợ 124 145 220 Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh 87 37 70,2 29,8 86 59 59,3 40,7 153 67 69,5 30,5 Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn 120 4 96,8 3,2 136 9 93,8 6,2 197 23 89,5 10,5 (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Ta có nhận xét: Trừ doanh số thu nợ khu vực kinh tế quốc doanh năm 2001 lại giảm so với năm 2001. Doanh số thu nợ tăng lên theo lên theo các năm với tất cả các đối tượng và các thời hạn. Doanh số thu nợ khu vực kinh tế quốc doanh và cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao hơn. Cho vay dài hạn chiếm tỷ lệ ngày càng tăng lên theo các năm. Bảng 5.2: Tốc độ tăng của doanh số thu nợ Chỉ tiêu Tốc độ tăng năm 2001 so với năm 2000 (%) Tốc độ tăng năm 2002 so với năm 2001 (%) Doanh số thu nợ 16,9 51,7 Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh -1,15 59,5 77,2 13,56 Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn 13,3 125 44,9 155.56 (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Qua bảng trên ta có nhận xét: Doanh số thu nợ của Ngân hàng nhìn trung có sự tăng trưởng đều đặn. Năm 2001, doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng lên 21 tỷ, tức là tăng 16,9% so với năm 2000. Năm 2002 doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng 75 tỷ, tức là tăng 51,7% so với năm 2001. Tuy nhiên nếu xét theo đối tượng vay và thời gian vay thì doanh số thu nợ khu vực kinh tế quốc doanh năm 2001 giảm so với năm 2000 là một tỷ, tức là giảm 1,15%. Nhưng đến năm 2002 lại tăng 67 tỷ, tức là tăng 77,2% so với năm 2001. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2001 tăng 22 tỷ, tức là tăng 59,5% so với năm 2000; đến năm 2002 tăng 8 tỷ tức là tăng 13,56% so với 2001, tốc độ tăng năm giảm đi. Còn cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn thì doanh số thu nợ có tốc độ tăng năm trước so với năm sau. Cho vay dài hạn tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng có tốc độ tăng khá cao (Năm 2001 là 125%, năm 2002 là 115,56%) 3.Tổng dư nợ Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, chỉ tiêu dư nợ là chỉ tiêu hàng đầu đánh giá về hoạt động cho vay mà bất kì Ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển cần phải quan tâm. Bảng 6.1: Tình hình dư nợ Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Tỷ lệ (%) Năm 2001 Tỷ lệ (%) Năm 2002 Tỷ lệ (%) Dư nợ 87 136 249 Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh 49 38 56,3 43,7 84 52 61,8 38,2 172 77 69,1 30,9 Cho vay ngắn hạn Cho vay trung dài hạn 62 25 71,3 28,7 79 57 58,1 41,9 100 149 40,2 59,8 (Nguồn: báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh-NHCT Tỉnh Hưng Yên) Ta có nhận xét: Tổng dư nợ của Ngân hàng tăng theo tất cả các năm cả về đối tượng cho vay và thời hạn cho vay. Dư nợ khu vực kinh tế quốc doanh luôn chiếm tỷ lệ cao hơn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, và tỷ lệ này ngày càng tăng lên theo các năm. Dư nợ cho vay ngắn hạn vẫn tăng lên theo các năm. Tỷ lệ dư nợ cho vay ngắn hạn ngày càng giảm đi theo các năm. Năm 2000, năm 2001 dư nợ cho vay ngắn hạn đều chiếm tỷ lệ cao hơn so với cho vay dài hạn, tuy nhiên năm 2001 tỷ lệ này lại giảm so với năm 2000. Đến ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24188.doc
Tài liệu liên quan