Giải pháp tăng cường hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ suy giảm kinh tế hiện nay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) - Chi nhánh Tây Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước là sự bùng nổ về số lượng các doanh nghiệp mà chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theosố liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống kê, kể từ khi Luật Doanh Nghiệp của nước ta được ban hành và đưa vào thực hiện, từ năm 2000 đến cuối năm 2003 đã có hơn 72.000 doanh nghiệp được thành lập, và chỉ tính riêng năm 2008, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) đã là 52.162 doanh ng

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ suy giảm kinh tế hiện nay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) - Chi nhánh Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp, vượt mức tổng số doanh nghiệp trước giai đoạn 2000. Với sự đa dạng về thành phần sở hữu, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, các DNVVN ở nước ta còn có nhiều hạn chế, đặc biệt là qui mô quá nhỏ bé so với quy mô doanh nghiệp thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi, mà nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn.Điều này gây khó khăn lớn cho các DNVVN nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Như chúng ta đã biết, vốn là một trong 4 yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Nhưng hiện nay, việc các DNVVN tiếp cận các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi còn phải dùng tới nguồn tín dụng đen với lãi suất cắt cổ. Vì vậy trong quá trình thực tập tại NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội,em đã chọn đề tài nghiên cứu “Giải pháp tăng cường hỗ trợ vốn cho các DNVVN trong thời kỳ suy giảm kinh tế hiện nay tại NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội”.Với đề tài nghiên cứu này, em hi vọng được đóng góp một phần nhỏ bé trong việc giải quyết vấn đề kinh tế bức xúc nhất hiện nay đó là hỗ trợ vốn cho các DNVVN để phát triển kinh tế đất nước. Tuy đã có nhiều cố gắng song bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn thực tập và các bạn để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Lê Huy Đức và các anh chị tại phòng Kế hoạch Tổng hợp của NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội đã có nhiều cố gắng giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. CHƯƠNG I SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG HỖ TRỢ VỐN CHO DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1. Khái niệm về Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) Có rất nhiều ý kiến khác nhau khi đưa ra khái niệm về SMEs.Hiện nay trên thế giới có rất nhiều loại hình Doanh nghiệp đa dạng và phong phú trong nền kinh tế, nếu chúng ta căn cứ vào qui mô hoạt động của các Doanh nghiệp thì các loại hình Doanh nghiệp được chia ra làm 2 loại: doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các tiêu chuẩn xác định qui mô Doanh nghiệp nhìn chung ở các quốc gia đó là: số lượng lao động, tổng nguồn vốn (tổng tài sản) và doanh thu trung bình hàn năm. Nhưng nhìn chung có thể hiểu SMEs theo nghĩa thông thường là những cơ sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ, qui mô không lớn lắm, có tư cách pháp lý, chuyên môn hóa thấp, qui mô vốn thấp, số lượng lao động và doanh thu hàng năm thấp.Tuy nhiên khó có thể đưa ra khái niệm chuẩn về SMEs cụ thể bởi vì qui mô lớn hay nhỏ ở mỗi quốc gia lại phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia đó, hơn nữa cách xác định SMEs trong từng ngành nghề kinh doanh là khác nhau, ví dụ như Doanh Nghiệp công nghiệp có thể coi là nhỏ trong khi một Doanh Nghiệp thương mại cùng cỡ là Doanh nghiệp vừa và lớn bởi vì Doanh nghiệp Công nghiệp cần nhiều lao động hơn. Trên thế giới, khái niệm SMEs đã được biết đến từ những năm đầu của thế kỷ XX, và được quan tâm phát triển từ những năm 50 của thế kỷ XX. Và theo định nghĩa của World Bank, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân chia theo qui mô như bảng sau: Bảng 1.1: Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Loại hình DN Số lao động Doanh thu hàng năm (USD) Tổng tài sản (USD) DN siêu nhỏ 1 – 9 < 0,1 triệu < 0,1 triệu DN nhỏ 10 – 49 < 3 triệu < 3 triệu DN vừa 50 – 300 < 15 triệu < 15 triệu (Nguồn: ) Đây là cách phân loại chung được World Bank đưa ra sau khi thu thập số liệu về SMEs ở hầu hết các quốc gia trên Thế giới.Còn cách phân loại SMEs ở các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU) như sau: Bảng 1.2. Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hội đồng EU Loại hình DN Số lao động Doanh thu hàng năm (EURO) Tổng tài sản (EURO) DN siêu nhỏ 1 – 9 <2 triệu <2 triệu DN nhỏ 10 – 49 < 10 triệu < 10 triệu DN vừa 50 – 249 < 50 triệu < 43 triệu DN lớn > 250 > 50 triệu > 43 triệu (Nguồn: ) Tuy nhiên ở Việt Nam khái niệm SMEs chỉ bắt đầu được biết đến từ năm 1990 trở lại đây.Ở Việt Nam những năm gần đây, khi vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được khẳng định thì những quan điểm về tiêu thức xác định SMEs cũng không thống nhất. Ngày 20/6/1998, Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KNT qui định tiêu chí tạm thời xác định SMEs là những Doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động bình quân dưới 200 người. Việc áp dụng một trong 2 tiêu chí hay cả 2 tiêu chí lại tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng vùng, từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực. Đây có thể là văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định SMEs, là cơ sở để thực hiện các biện pháp hỗ trợ khu vực này. Đến ngày 23/11/2001, Chính Phủ ban hành nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển SMEs thì SMEs được định nghĩa như sau :” Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động hàng năm không quá 300 người”. Đây được coi là văn bản chính thức qui định về SMEs, là cơ sở cho các chính sách và biện pháp hỗ trợ của cơ quan nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước.Sự phân loại này tồn tại cho đến nay.Căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội của từng ngành, từng địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng cả 2 tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong 2 tiêu chí nói trên. Theo nghị định này thì các SMEs bao gồm : Các Doanh nghiệp nhà nước có qui mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp. Các Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, công ty tư nhân qui mô vừa và nhỏ. Các hợp tác xã có qui mô vừa và nhỏ hoạt động theo luật hợp tác xã. Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định số 02/2000/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh. Như vậy, 2 tiêu thức chính để xác định SMEs là vốn đăng ký và lao động trung bình hàng năm : Vốn đăng ký : Đối với Doanh Nghiệp nhà nước thì vốn đăng ký là vốn điều lệ được nhà nước cấp, đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vốn đăng ký là vốn ghi trên đăng ký kinh doanh, giấy phếp đầu tư. Lao động trung bình hàng năm : là số lao động bình quân mà Doanh nghiệp đăng ký với cơ quan quản lý lao động và có tham gia bảo hiểm xã hội (không bao gồm số lao động mà Doanh nghiệp ký hợp đồng thời vụ, hợp đồng công việc). SMEs ở Việt Nam có một hệ thống thể chế hỗ trợ hoạt động dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ được thành lập theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Các cơ quan ban ngành của Chính phủ ở Trung ương phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đại diện cho khu vực tư nhân và các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân cũng như nhà nước hỗ trợ SMEs nâng cao năng lực cạnh tranh. 2. Đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ SMEs là một thực thể kinh tế và nó mang những đặc điểm riêng biệt xuất phát từ qui mô của nó. SMEs ở Việt Nam bên cạnh những đặc điểm giống với các quốc gia khác trên thế giới còn có những điểm riêng biệt đặc trưng của một nước có nền kinh tế đang phát triển. SMEs Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức Doanh Nghiệp như đã nêu ở phần trên.Trong một thời gian dài các Doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau không dược đối xử bình đắng. Chính điều này ảnh hưởng đến phong cách kinh doanh của các Doanh Nghiệp hiện nay, đồng thời cũng tạo ra những điểm xuất phát về tiệm cận nguồn lực không giống nhau. Bên cạnh đó theo đánh giá chung, hành lang pháp lý cũng như môi trường kinh doanh như hiện nay vẫn chưa đáp ứng được xu thế phát triển nhanh và đa dạng của SMEs. Đây là một thách thức lớn, giống như một vật cản trong tiến trình phát triển của SMEs tại Việt nam. Mặc dù môi trường pháp lý trong những năm gần đây đã được cải thiện nhiều song chưa nhanh và chưa thực sự cách mạng. Việt Nam đứng thứ hạng 113/127 quốc gia do tạp chí Forbes xếp hạng về sự thuận lợi môi trường kinh doanh. Tạp chí Forbes xếp tới các yếu tố như mức độ năng động của nền kinh tế, tình trạng quan liêu tham nhũng. Việt Nam đứng cuối bảng trong số các nước Đông Nam Á được xếp hạng. Là những Doanh Nghiệp có qui mô vốn và lao động nhỏ, SMEs thường là những Doanh Nghiệp khởi sự thuộc khu vực tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các SMEs hoạt động tương đối khó khăn trong thời gian qua. Thứ nhất về nguồn tài chính, SMEs bị hạn chế về nguồn vốn và khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Đây là đặc điểm chính chi phối các đặc điểm khác của SMEs. Với đặc thù là qui mô vừa và nhỏ, trung bình tổng tài sản của một SMEs tại Việt Nam chỉ đạt khoảng 2 tỷ đồng (sơ đồ) Vấn đề tiếp cận nguồn tín dụng cũng gặp nhiều trở ngại. Đặc biệt là trong tình trạng kinh tế lạm phát hiện nay. SMEs với nguồn vốn hẻo, lại thêm những hạn chế do chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao, nên cơ hội tiếp cận càng khó hơn. Với mức lãi suất 21% hiện nay, nhiều DN khó làm việc hiệu quả để đảm bảo trả nợ và lãi ngân hàng. Trong khi tất cả các chi phí tăng cao, và tăng nhanh, lợi nhuận làm ra khó để đảm bảo DN có lãi. Mặt khác khi vay vốn Ngân hàng, SMEs gặp những thành kiến như ăn sâu vào rễ, cùng với những thủ tục cho vay rườm rà và phức tạp, yêu cầu cho vay khắt khe. Nguyên nhân các ngân hàng e ngại khi cho SMEs vay vốn với những lý do như sau : Thứ nhất là vì việc cho vay đối với SMEs khá khó do hệ thống pháp lý của chúng ta không chặt chẽ. Ví dụ, tại các nước khác, doanh nghiệp được nhìn nhận mức độ an toàn và rủi ro dựa trên các đánh giá về xếp hạng điểm tín dụng. Như, nếu doanh nghiệp không “sòng phẳng” trong thanh toán các công nợ, họ sẽ bị “đánh tụt” về điểm số, và điều này sẽ gây khó khăn với doanh nghiệp đó trong tương lai khi muốn tiếp cận nguồn vốn, vì vậy ý chí tuân thủ pháp lý của họ rất cao. Trong khi đó tại Việt Nam, một vài doanh nghiệp chưa hình dung được mức độ quan trọng của vấn đề này, nên tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng vẫn khá cao do các doanh nghiệp không có khái niệm trả nợ đúng hạn. Thứ hai, ở Việt Nam, thông tin tài chính của doanh nghiệp chưa thực sự công khai, nhiều doanh nghiệp vẫn “né tránh” việc kiểm toán, dẫn đến công tác thẩm định từ phía ngân hàng đối với doanh nghiệp thường mất nhiều thời gian và phức tạp. Ngoài ra, việc thiếu minh bạch trong kiểm toán tài chính doanh nghiệp cũng là lý do khiến ngân hàng thường đặt “nghi ngờ” đối với chính doanh nghiệp này. Thứ ba, độ chín của các SMEs Việt Nam trong nghề vẫn còn thấp, do các doanh nghiệp này thường là doanh nghiệp trẻ, chưa va vấp qua nhiều chu kỳ lên xuống, thăng trầm của nền kinh tế chính vì vậy kinh nghiệm ứng phó trong các hoàn cảnh cụ thể không cao, dẫn đến dễ đổ vỡ. Thứ tư là thiếu tài sản bảo đảm, Vốn tự có tham gia vào dự án, phương án của SMEs thấp nếu Ngân hàng cho vay, rủi ro với ngân hàng cao, do đó Ngân hàng yêu cầu các điều kiện về tài sản bảo đảm nghiêm ngặt hơn, nhưng phần lớn các Doanh Nghiệp lại thiếu tài sản bảo đảm. Doanh nghiệp thường dùng tài sản bảo đảm cho khoản vay là tài sản cá nhân, trang thiết bị của chính DN. Tài sản cá nhân thường có giá trị thấp nên không vay được nhiều, tài sản là trang thiết bị nên phần lớn Ngân hàng ngại vì khó kiểm soát. Cuối cùng là khối DNVVN chịu tác động mạnh nhất bởi tình hình kinh tế vĩ mô, sức khỏe của ngành tài chính. Do vậy, tác động lan tỏa từ biến cố kinh tế vĩ mô đến các doanh nghiệp khu vực này là rất lớn. Chính vì vậy ở Việt Nam, thông thường SMEs chủ yếu được thành lập dựa trên vốn tự có, sự vay mượn của gia đình bạn bè và người thân, do đó khả năng tài chính hạn chế, việc mở rộng sản xuất kinh doanh gặp nhiều trở ngại. Nhiều khi Doanh nghiệp còn phải tiếp cận tới cả nguồn tín dụng đen với lãi suất cắt cổ. Theo thống kê năm 2008, khoảng 50% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% doanh nghiệp có vốn dưới 2 tỷ đồng, và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng ( Nguồn : Cục phát triển SMEs – Bộ Kế hoạch và đầu tư năm 2008) Thứ hai về năng lực quản lý, SMEs có năng lực quản lý còn hạn chế, Các ông chủ của SMEs thường là những người lao động bình thường hoặc là những kỹ sư, kỹ thuật viên có vốn tự có đứng ra thành lập doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh. Những ông chủ, bà chủ này vừa là người quản lý đồng thời cũng là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vận hành máy móc tạo ra sản phẩm… nên trình độ chuyên môn hóa trong quản lý không cao. Phần lớn những người chủ này điều hành Doanh nghiệp theo cảm tính và kinh nghiệm mà không qua một trường lớp nào về quản lý Doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra năm 2008 về thực trạng SMEs do Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ KHĐT) tiến hành với sự tham gia của hơn 63.000 doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc.Theo số liệu thống kê, có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự thiếu hiểu biết về kiến thức quản lý kinh tế, pháp luật, đã khiến các SMEs gặp những khó khăn trong việc hoạch định một chiến lược kinh doanh rõ ràng, chưa xây dựng cho mình những bước đi trong tiến trình hội nhập khi Việt Nam gia nhập WTO. Điều này cũng chính là một thách thức lớn cho SMEs khi Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập WTO, khi mà trình độ quản lý của SMEs Việt Nam còn tụt hậu xa so với các nước trên thế giới. Thứ ba về lao động, Số lượng, trình độ học vấn cũng như trình độ tay nghề của lao động trong SMEs còn có nhiều hạn chế. Số lượng lao động trung bình trong mỗi Doanh nghiệp cũng không lớn. Theo số liệu thống kê cuối năm 2004, trong tổng số 88.222 SMEs hoạt động có 2.211.895 lao động tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi Doanh nghiệp có 25 lao động. Như vậy qui mô về cả vốn và lao động của SMEs ở Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là một bất lợi lớn khi Việt Nam gia nhập WTO. Với qui mô quá nhỏ bé như vậy, chưa kể đến trình độ công nghệ lạc hậu đã buộc SMEs Việt Nam bỏ lỡ những hợp đồng lớn. Trình độ của lao động tại SMEs còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông với trình độ khoa học kỹ thuật thấp, khả năng ứng dụng công nghệ kỹ thuật không cao. Mặt khác do không thể trả lương cao, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chọn giải pháp là tuyển những nhân viên tiềm năng, sau đó sẽ trang bị và đào tạo cho họ những kỹ năng để làm việc hiệu quả. Điều có lợi nhất cho các doanh nghiệp ấy là chi phí "đào tạo" thấp và nhân viên thích ứng với công việc dễ dàng hơn, song khi những nhân viên này được dày công đào tạo, họ lại bị lôi kéo bởi những lời mời hấp dẫn hơn từ các công ty khác. Điều này đã gây ra hiện tượng chảy máu chất xám từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ sang các doanh nghiệp lớn có uy tín. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do SMEs có qui mô vốn nhỏ, qui mô hoạt động sản xuất nhỏ và doanh nghiệp không có đủ khả năng tài chính cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn để thuê và giữ chân những người lao động có trình độ cao. Mặt khác các ông chủ cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của người lao động có trình độ tay nghề cao, do đó họ có chính sách đãi ngộ chưa tương xứng với công sức của những lao động trình độ cao đóng góp cho công ty. Bên cạnh đó theo tâm lý của người lao động, họ không muốn làm việc tại SMEs cũng chi phối tới trình độ lao động trong loại hình Doanh nghiệp này. Thứ tư là về công nghệ, Trình độ sản xuất của Doanh nghiệp, khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường mạnh hay yếu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố công nghệ. Nhìn chung công nghệ tại SMEs ở Việt Nam còn lạc hậu và chưa được quan tâm. Về trình độ sử dụng công nghệ, một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ KHĐT) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 ngàn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc vào cuối năm 2007, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp là rất thấp. Theo kết quả điều tra đánh giá trên, hệ thống máy móc, thiết bị trong SMEs lạc hậu khoảng 10 – 20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, và khoảng 70% công nghệ ngành dệt may dã được sử dụng 20 năm. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%. Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia thương mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp còn rất thấp, chưa tương xứng với mong muốn phát triển thương mại điện tử của Chính phủ. Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý; trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị ở Việt Nam chỉ đang ở mức 5 – 7%, quá thấp so với mức bình quân 20% trên Thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1.5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, chưa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và công nghệ. Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường. Số liệu tổng hợp cũng cho thấy một sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp của các nước khác. Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới quan tâm hàng đầu về các thông tin công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, thị trường cung cấp và tiêu thụ thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến các thông tin về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến các thông tin về kỹ thuật và công nghệ. Công nghệ, năng lực sử dụng công nghệ liên quan mật thiết đến năng lực quản lý của Doanh nghiệp. Các Doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt thường là những Doanh nghiệp thường xuyên có những thay đổi (cải tiến, đổi mới) công nghệ và cần nhiều vốn. SMEs ở Việt Nam có trình độ công nghệ lạc hậu cũng do họ gặp khó khăn về vốn. Họ không có đủ tiềm lực tài chính để nhập những công nghệ hiện đại, do đó họ thường sử dụng những công nghệ cũ kỹ lạc hậu hiệu quả không cao. Thậm chí có những Doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu tới hàng chục năm. Việc sử dụng công nghệ lạc hậu đã dẫn đến sản phẩm làm ra thiếu tính đa dạng, không đáp ứng được chất lượng và mẫu mã sản phẩm, qui trình sản xuất kéo dài, tốn kém nhiên liệu, do đó giá thành sản phẩm cao, sản phẩm kém tính cạnh tranh trên thương trường. Mặt khác hoạt động nghiên cứu, triển khai ở SMEs cũng ít có khả năng thực hiện mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn và cán bộ giỏi. Do đó khó có khả năng hình thành công nghệ mới, hoặc những phát minh sang chế được hình thành cũng khó được thực hiện, và do đó những phát minh, sáng chế này bị các doanh nghiệp lớn mua lại với giá rẻ mạt. Trên đây tôi đã đi nghiên cứu về bốn đặc điểm chính của SMEs Việt Nam đó là : Vốn, Lao động, Năng lực quản lý, Công nghệ. Ngoài những đặc điểm chính đó, còn có một số đặc điểm khác bị chi phối bởi bốn đặc điểm đã kể trên : SMEs thường sử dụng chính diện tích đất riêng của mình để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế nếu Doanh nghiệp muốn mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh đều rất khó khăn vì nằm trong tình trạng thiếu đất để sử dụng mặt bằng. Việc xin cấp đất hoặc thuê đất của SMEs gặp nhiều trở ngại bởi hồ sơ thủ tục khá phức tạp. Số địa phương cố gắng tạo điều kiện thuận lợi đang còn rất ít. Và khi Doanh nghiệp thuê được đất thì lại gặp nhiều trở ngại trong việc giải phóng mặt bằng, đền bù. Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chính là SMEs do năng lực tài chính hạn chế nên hoạt động Maketing không được chú trọng và phát triển. Những khách hàng của họ chủ yếu là những khách hàng quen thuộc trong phạm vi địa lý nhỏ hẹp. việc mở rộng thị trường mới tương đối là khó khăn. Việt Nam gia nhập WTO, theo qui định, Việt Nam phải mở rộng thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối nước ngoài. Với qui mô lớn, mạng lưới phân phối toàn cầu và có tính chiến lược cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối thủ lớn, đe dọa sự tồn tại của SMEs Việt Nam. Theo điều tra của Cục Phát Triển Doanh Nghiệp, có 66.95% doanh nghiệp cho biết họ thường gặp khó khăn về tài chính, 50.62% Doanh nghiệp thường gặp khó khăn về việc mở rộng thị trường, 41.74% Doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mở rộng mặt bằng sản xuất, 24.23% doanh nghiệp gặp khó khăn về các ưu đãi thuế, 19.47% Doanh nghiệp khó khăn vì thiếu thông tin, 25.22% Doanh nghiệp gặp khó khăn về cắt giảm chi phí sản xuất, 17.56% Doanh nghiệp gặp khó khăn về đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước cũng gặp nhiều khó khăn, chỉ có khoảng 5.2% số Doanh nghiệp được tham gia, 23.12% số Doanh nghiệp khó được tham gia và 71.67% số Doanh nghiệp không được tham gia. SMEs bày tỏ nhu cầu về đào tạo trong nhiều lĩnh vực, trong đó có 33.64% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán, 31.62% số nhu cầu đào tạo về quản trị Doanh nghiệp, 24.14% có nhu cầu đào tạo về phát triển thị trường, 20.17% số Doanh nghiệp có nhu câuuf về đào tạo lập kế hoạch, chiến lược khinh doanh, 12.89% có nhu cầu đào tạo về phát triển sản phẩm mới, 13.5% có nhu cầu đào tạo về phát triển kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đông kinh tế, 11.62% có nhu cầu đào tạo về quản lý nguồn nhân lực, 10.85% Doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp Rõ ràng là các Doanh nghiệp đã nhân thấy nhu cầu rất lớn về đào tạo nhưng chưa được đáp ứng. Đây là vấn đề mà cá cơ quan chức năng cần tập trung hỗ trợ đồng thời cũng là một thị trường đang cần nhiêu dịch vụ đào tạo chất lượng cao. Xét trong dài hạn, trước áp lực cạnh tranh của thị trường trong nước và quốc tế, SMEs sẽ phải tích cực nâng cao năng lực quản lý, đổi mới công nghệ, chú trọng sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng, nâng cao năng lực tài chính, cải thiện văn hoá doanh nghiệp cho các nhân viên để làm việc một cách hiệu quả. Có như vậy mới có thể phát triển doanh nghiệp bền vững hơn trong môi trường cạnh tranh quốc tế bởi nếu không doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và sẽ bị phá sản, đánh bật ra khỏi thị trường nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh khốc liệt như hiện nay 3. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế SMEs đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là với một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. SMEs đang phát huy tích cực và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Ở mỗi nền kinh tế, quốc gia hay lãnh thổ, SMEs có thể giữ những vai trò khác nhau với mức độ khác nhau. Ở Việt Nam với đường lối kinh tế đúng đắn, SMEs ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Nhìn chung SMEs có những vai trò chính trong nền kinh tế đang phát triển như sau : Là một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế,ở Việt Nam SMEs chiếm khoảng 97% trong tổng số khoảng 200.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, và 26% lực lượng lao động trong cả nước. Tại nhiều quốc gia, kể cả những nước phát triển, những nước đang phát triển, những nước có nền kinh tế trong thời kì quá độ, và những nước kém phát triển, tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là một con số đáng kể. Với một nước có nền kinh tế phát triển, theo nước Mỹ có đến 99.7% tổng số hãng kinh doanh có thuê nhân công là doanh nghiệp nhỏ, tạo ra được 75 % số việc làm mới và chiếm 96% tổng số các nhà xuất khẩu hàng hóa. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là nước có nền kinh tế khá tiêu biểu, theo điều tra của Tập đoàn tài chính công nghiệp Thái Lan, năm 2002, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 95% số doanh nghiệp công nghiệp, tuyển dụng từ 85%-90% lực lượng lao động, đóng góp trên 50% GDP, có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và xuất khẩu, phát triển kinh tế ở các vùng lạc hậu ở Thái Lan, là một kết cấu hạ tầng quan Theo Nguyễn Ngọc Phúc (2005) doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chiếm khoảng 97% trong tổng số khoảng 200.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, và 26% lực lượng lao động trong cả nước. Tại nhiều quốc gia, kể cả những nước phát triển, những nước đang phát triển, những nước có nền kinh tế trong thời kì quá độ, và những nước kém phát triển, tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là một con số đáng kể. Với một nước có nền kinh tế phát triển, theo nước Mỹ có đến 99.7% tổng số hãng kinh doanh có thuê nhân công là doanh nghiệp nhỏ, tạo ra được 75 % số việc làm mới và chiếm 96% tổng số các nhà xuất khẩu hàng hóa. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là nước có nền kinh tế khá tiêu biểu, theo điều tra của Tập đoàn tài chính công nghiệp Thái Lan, năm 2005, SMEs chiếm khoảng 95% số doanh nghiệp công nghiệp, tuyển dụng từ 85%-90% lực lượng lao động, đóng góp trên 50% GDP, có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và xuất khẩu, phát triển kinh tế ở các vùng lạc hậu ở Thái Lan, là một kết cấu hạ tầng quan trọng cho các công ty lớn xuyên quốc gia trong và ngoài nước hoạt động tại Thái Lan. Ngày nay, tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được quốc tế thừa nhận, hoạt động và sự phát triển của chúng đóng vai trò lớn trong sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Tạo việc làm cho người lao động: trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới, mức độ sử dụng lao động của các doanh nghiệp nhỏ tăng gấp 4-10 lần, thu hút nhiều lao động. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam, một nước có số dân hơn 80 triệu, nguồn lao động vẫn tăng liên tục và sức ép dân số tạo ra hiện tượng di cư vào đô thị gây ra những khó khăn không nhỏ về xã hội, giải quyết việc làm là một nhu cầu bức bách. Đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập dân cư: ở hầu hết các quốc gia các doanh nghiệp và nhỏ thường đóng góp khoảng 20 -50% thu nhập quốc dân. Một khía cạnh khác là các doanh nghiệp này chủ yếu phục vụ cho thị trường nội địa, hoạt động dựa trên nguồn lực, phát triển các công nghệ và kỹ năng trong nước, điều này có ý nghĩa đòn bẩy giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm thiểu gánh nặng từ những tiêu cực xã hội. Đảm bảo tính năng động cho nền kinh tế: với quy mô kinh doanh gọn nhẹ, vốn nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh phù hợp với nhu cầu thị trường mà ít gây biến động lớn, ít chịu ảnh hưởng và có khả năng phục hồi nhanh sau những cuộc khủng hoảng kinh tế trên góc độ kinh tế quốc gia. Số lượng loại hình doanh nghiệp này gia tăng sẽ góp phần tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thúc đẩy phát triển ý tưởng và kỹ năng mới, thúc đẩy sự đầu tư giữa các nền kinh tế trong và ngoài khu vực. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội sản xuất nhiều loại hàng hóa, đa dạng phù hợp với quy mô và dung lượng thị trường phân tán, có khả năng giải quyết công ăn việc làm tại chỗ, khai thác các nguồn nguyên liệu địa phương, đóng góp đáng kể trong quá trình phân bổ thích hợp cho lực lượng lao động đặc biệt là lao động nông nhàn, giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa các khu vực, góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài ra, sự phát triển của loại hình doanh nghiệp còn tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyên môn hóa và đa dạng hóa các ngành nghề, duy trì và phát triển các nghề thủ công truyền thống giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời góp phần xây dựng và rèn luyện một lực lượng trẻ mới có năng lực và khả năng thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường. Ngày nay, tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được quốc tế thừa nhận, hoạt động và sự phát triển của chúng đóng vai trò lớn trong sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Bảng 1.3: tỷ trọng doanh thu của Doanh Nghiệp vừa và nỏ qua các năm gần đây Năm Tổng doanh thu (Tỷ đồng) Tỷ trọng doanh thu DNV&N (%) Theo quy mô lao động (%) <5 5 - 200 200-300 2002 364844 86,5 4,9 74,2 4,4 2003 485104 82,0 4,2 70,6 7,3 2004 640087 81,5 4,4 72,5 4,6 Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2005 Tạo công ăn việc làm cho người lao động: trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới, mức độ sử dụng lao động của các doanh nghiệp nhỏ tăng gấp 4-10 lần, thu hút nhiều lao động. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam, một nước có số dân hơn 80 triệu, nguồn lao động vẫn tăng liên tục và sức ép dân số tạo ra hiện tượng di cư vào đô thị gây ra những khó khăn không nhỏ về xã hội, giải quyết việc làm là một nhu cầu bức bách. Bên cạnh đó khu vực nhà nước đang thực hiện sắp xếp lại, nên không những không thể thu hút thêm lực lượng lao động mà còn tinh giảm biên chế để bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, nên tăng thêm lực lượng lao động dôi dư. Khu vực đầu tư nước ngoài hàng năm cũng chỉ tạo ra khoảng 30.000 chỗ làm mới, một tỷ lệ không đáng kể. Mặt khác lao động Việt Nam với trình độ học vấn, chuyên môn và tay nghề chưa cao, chính vì vậy phần lớn số người tham gia vào lực lượng lao động này trông chờ vào khu vực nông thôn và khu vực SMEs. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2006 cho thấy, SMEs chiếm tới 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lưc lượng lao động phi nông thôn. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là SME._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22201.doc
Tài liệu liên quan