MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Kinh tế Quốc dân, các thầy cô giáo khoa Kế hoạch và Phát triển đã cung cấp cho em một nền tảng kiến thức vững chắc để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo, TS.Nguyễn Ngọc Sơn, người đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới KS. Vũ Xuân Thuyên (Chuyên viên cao cấp, Cục Phát tr
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, giai đoạn 2010 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) các anh chị trong Cục Phát triển Doanh nghiệp và thư viện Bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, tìm hiểu thực tế để hoàn thành khóa luận này.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNNVV
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng Thương mại
VCCI
Phòng Công nghiệp và Thương Mại Việt Nam
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1: Phân loại DNNVV theo phân ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ. 6
Bảng 2: Số lượng các doanh nghiệp thành lập mới theo từng năm 26
giai đoạn 2001 – 2007. 26
Bảng 3: Số lượng và tỷ lệ các DNNVV trong tổng số doanh nghiệp 28
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2006. 28
Bảng 4a: Số lượng các DNNVV xét theo quy mô lao động và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 – 2006. 29
Bảng 4b: Cơ cấu các DNNVV xét theo quy mô lao động và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 – 2006. 30
Bảng 5a: Số lượng các doanh nghiệp phân theo quy mô lao động giai đoạn 2000 – 2006. 31
Bảng 5b: Tỷ lệ các doanh nghiệp phân theo quy mô lao động giai đoạn 2000-2006. 31
Bảng 6: Số lượng và tỷ lệ các DNNVV trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam xét theo quy mô vốn giai đoạn 2000 – 2006. 32
Bảng 7a: Số lượng DNNVV xét theo quy mô vốn và hình thức sở hữu 33
giai đoạn 2000 – 2006. 33
Bảng 7b: Tỷ lệ DNNVV xét theo quy mô vốn và hình thức sở hữu 33
giai đoạn 2000 – 2006. 33
Bảng 8a: Số lượng các DNNVV phân theo quy mô nguồn vốn giai đoạn 2000 – 2006. 34
Bảng 8b: Tỷ lệ các DNNVV phân theo quy mô nguồn vốn giai đoạn 34
2000 – 2006 34
Bảng 9: Số lượng đăng ký của doanh nghiệp phân theo hình thức pháp lý giai đoạn 2001 – 2006. 36
Bảng 10a: Số lượng DNNVV phân theo ngành, nghề kinh doanh giai đoạn 2000 – 2006. 37
Bảng 10b: Tỷ lệ DNNVV phân theo ngành, nghề kinh doanh giai đoạn 2000 – 2006. 38
Biểu đồ 1: Phân bố các doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh theo các vùng kinh tế trong cả nước năm 2007. 40
Bảng 11: Địa phương có trên 3.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh giai đoạn 2000 – 2007. 41
Biểu đồ 2: Tổng dư nợ tín dụng ngân hàng giai đoạn 2005 – 2008 50
Bảng 12: Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. 53
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng chiếm trên 96% tổng số doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cả nước, các DNNVV đóng góp đáng kể vào Tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trong quá trình vận hành, các DNNVV đã tạo ra một đội ngũ doanh nhân và công nhân, với kiến thức và tay nghề dần được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu mới trong thời kỳ hội nhập.
Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển các DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Trong thời gian qua, với việc ra đời hàng loạt các Luật, Nghị định, Văn bản hướng dẫn… đặc biệt là Luật Doanh nghiệp 2000, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 đã có tác động tích cực đến việc phát triển DNNVV ở Việt Nam, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNNVV gặp phải không ít những khó khăn: thiếu vốn, trình độ công nghệ còn yếu, khó khăn trong việc gia nhập thị trường, phân biệt đối xử, cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… Đặc biệt là tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào Việt Nam khiến cho các DNNVV càng gặp nhiều bất lợi trong hoạt động sản xuất. Yêu cầu đặt ra là cần phải có một cơ chế chính sách cụ thể để hỗ trợ các DNNVV ở Việt Nam phát triển, vượt qua khủng hoảng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, em chọn đề tài “Giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, giai đoạn 2010 - 2015” làm khóa luận tốt nghiệp. Thực hiện nghiên cứu đề tài này giúp em tìm hiểu thực trạng phát triển DNNVV ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu các chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ, đề xuất các giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển các DNNVV để khu vực doanh nghiệp này nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc suy giảm kinh tế hiện nay, vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
2. Mục đích và nội dung nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình hình thành và phát triển của DNNVV ở Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm hỗ trợ phát triển DNNVV của các nước trên thế giới và khu vực, qua đó đề xuất một số giải pháp trợ giúp phát triển DNNVV trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay, định hướng cho các năm tiếp theo. Nội dụng của nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất, tham khảo khái niệm về DNNVV của các quốc gia trên thế giới, qua đó tìm ra tiêu chí phân loại, định nghĩa DNNVV đối với Việt Nam. Tìm hiểu vai trò của DNNVV trong nền kinh tế. Sự cần thiết phải hỗ trợ phát triển DNNVV. Phân tích kinh nghiệm hỗ trợ phát triển DNNVV trên thế giới. Trên cơ sở đó định hình được các chính sách trợ giúp DNNVV ở nước ta.
- Thứ hai, phân tích thực trạng các chính sách hỗ trợ DNNVV của Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra được những điểm còn vướng mắc cần giải quyết trong thời gian tới.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp trợ giúp DNNVV ở Việt Nam để vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam đã được ban hành trong những năm vừa qua.
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ DNNVV (căn cứ theo Luật Doanh nghiệp 2005) đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng đựơc vận dụng tổng hợp từ các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, suy luận logic.
- Nguồn thông tin dữ liệu được lấy từ nhiều ngồn như từ các cuộc khảo sát về DNNVV, các báo cáo hàng năm về DNNVV, bài viết của các nhà nghiên cứu, thông tin trên web, dữ liệu trên Tổng cục Thống kê và trên Cục Phát triển doanh nghiệp…
5. Kết cấu của chuyên đề:
Tên đề tài: Giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, giai đoạn 2010 - 2015.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu chuyên đề gồm có 3 chương như sau:
- Chương 1: Lý luận chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chương 2: Thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian qua.
- Chương 3: Giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam giai doạn 2010 - 2015.
CHƯƠNG 1LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1 Tổng quan chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs- Small and Medium enterprises).
Việc đưa ra khái niệm về DNNVV có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định đúng đối tượng được hỗ trợ. Bởi vậy, hầu hết các nước đều nghiên cứu và đưa ra các định nghĩa về DNNVV dựa theo các tiêu thức phân loại cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
- Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia trên thế giới.
Nhìn chung, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng tiêu thức số lao động để xác định doanh nghiệp nào là DNNVV. Tuy vậy, một số nước còn sử dụng một số các tiêu thức khác như số vốn, doanh thu, tổng giá trị tài sản... kết hợp với tiêu chí lao động để xác định DNNVV.
Các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu truyền thống có cách định nghĩa về DNNVV của riêng họ, ví dụ như ở Đức, DNNVV được định nghĩa là những doanh nghiệp có số lao động dưới 500 người, trong khi đó ở Bỉ là 100 người. Nhưng cho đến nay Liên minh Châu Âu (EU) đã có khái niệm về DNNVV chuẩn hóa hơn. Những doanh nghiệp có dưới 50 lao động được gọi là doanh nghiệp nhỏ còn những doanh nghiệp có trên 250 lao động được gọi là những doanh nghiệp vừa. Ngược lại, ở Mỹ những doanh nghiệp có số lao động dưới 100 người được gọi là doanh nghiệp nhỏ, dưới 500 người là doanh nghiệp vừa.
Thực tế cho thấy, DNNVV chiếm đa số ở các nước trên thế giới. Ở EU, DNNVV chiếm khoảng 99% và thu hút số lao động lên đến 65 triệu người. Trong một số khu vực kinh tế, DNNVV giữ vai trò chủ đạo trong công cuộc cải tạo và là động lực phát triển của nền kinh tế. Trên phạm vi thế giới, DNNVV chiếm trên 99% tổng số doanh nghiệp và đóng góp 40% - 50% Tổng thu nhập quốc dân (GDP).
Ở Mỹ, cách định nghĩa về DNNVV có ý nghĩa rộng hơn ý nghĩa nội tại của DNNVV. Và ở các quốc gia Châu Phi họ cũng có cách định nghĩa riêng và các định nghĩa này là khác nhau ở các quốc gia. EU thì dùng định nghĩa về DNNVV chuẩn như trên. Sự khác nhau về định nghĩa khiến cho việc nghiên cứu về DNNVV trở nên khó khăn hơn.
- Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Ở nước ta, tiêu chí xác định DNNVV được dựa trên điều kiện thực tiễn của Việt Nam (là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý còn hạn chế, thị trường chưa phát triển, chưa có chuẩn mực đo quy mô doanh nghiệp một cách chính thức) và khung khổ pháp luật hiện hành nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Theo đó, việc phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chủ yếu dựa vào hai tiêu chí là lao động bình quân và vốn đăng ký, vì các lý do sau đây:
- Tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức này.
- Có thể xác định tiêu thức này ở mọi cấp độ: toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp.
- Trong điều kiện thực trạng thống kê về các doanh nghiệp còn chưa đầy đủ của Việt Nam thì hai tiêu chí này ta có thể xác định chính xác trị số của chúng.
Trên cơ sở đó, ta có thể lượng hóa được tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với hai lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp và thương mại qua bảng dưới đây.
Bảng 1: Phân loại DNNVV theo phân ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Công nghiệp
Thương mại, dịch vụ
DNNVV
Trong đó: DN nhỏ
DNNVV
Trong đó: DN nhỏ
Vốn đăng ký
Dưới 10 tỷ đồng
Dưới 5 tỷ đồng
Dưới 5 tỷ đồng
Dưới 3 tỷ đồng
Lao động thường xuyên
Dưới 300 người
Dưới 100 người
Dưới 200 người
Dưới 50 người
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, DNNVV có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhưng còn có nhiều hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tại điều 3 của Nghị định đã quy định cụ thể về DNNVV như sau:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh lao động theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế- xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, Chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên.
DNNVV ở Việt Nam có những điểm khác so với DNNVV ở các nước. Ở các nước Châu Âu, doanh nghiệp có một vài ngàn công nhân và nhân viên, quy mô vài chục triệu đô la Mỹ (USD) cũng được coi là DNNVV, nhưng có khi không có nhiều công nhân vẫn được xem là doanh nghiệp lớn. Chẳng hạn như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Nano, công nghệ cao không cần thiết phải có nhiều công nhân.
1.1.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tuy cách định nghĩa DNNVV ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung các DNNVV ở các quốc gia đều có đặc điểm chung đó là:
- Quy mô về vốn nhỏ bé, gặp phải nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn chính thức.
- Trình độ khoa học công nghệ, tay nghề lao động, trình độ quản lý nói chung là thấp so với các doanh nghiệp lớn.
- Thiếu thông tin, thị trường nhỏ bé, quan hệ kinh doanh hạn hẹp.
- Sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất ra là thấp, khó tiêu thụ, độ rủi ro cao.
- Hoạt động phân tán, rải rác khắp cả nước nên khó hỗ trợ.
Ở Việt Nam, DNNVV có những đặc điểm sau:
- Là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ, đây thường là những doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Với quy mô nhỏ và vừa các doanh nghiệp này rất linh hoạt, ứng biến nhanh nhạy với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường, thích hợp với điều kiện sử dụng trình độ kỹ thuật khác nhau như thủ công, nửa cơ khí, cơ khí để sản xuất ra những sản phẩm thích ứng với yêu cầu của nhiều tầng lớp dân cư có thu nhập khác nhau.
- Dễ khởi nghiệp, phát triển rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn, thông thường để thành lập một DNNVV cần vốn đầu tư ban đầu không lớn, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng vừa phải. Đặc điểm này làm cho DNNVV năng động, phát triển ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề; nó lấp vào khoảng trống, thiếu vắng của các doanh nghiệp lớn, tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân khai thác mọi tiềm năng, tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
- Là trụ cột của kinh tế địa phương, nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNNVV lại có mặt ở khắp các địa phương và là người góp phần quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Khai thác và huy động các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương và các nguồn tài chính của dân cư trong vùng. Việc thành lập các DNNVV không đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư, việc đẩy mạnh phát triển các loại hình DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động vốn sử dụng các khoản tiền đang phân tán, nằm im trong dân cư thành các khoản vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
- Khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp và trình độ tay nghề của người lao động thấp. Quản trị nội bộ của các DNNVV thường mang tính gia đình, người chủ sở hữu thường đồng thời là người quản lý, là người giám đốc, là người cán bộ kỹ thuật, … của doanh nghiệp. Nói cách khác người chủ sở hữu trong các DNNVV nước ta cùng một lúc thực hiện hàng loạt chức năng và vai trò khác nhau trong tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài quan hệ góp vốn kinh doanh, họ còn có quan hệ truyền thống, họ hàng, bạn bè hết sức thân thiết. Vì vậy, kỹ năng quản trị nội bộ rất yếu kém, thiếu cơ bản, chỉ dựa vào kinh nghiệm kinh doanh của bản thân. Lao động trong các DNNVV chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo cơ bản, thiếu kỹ năng, trình độ văn hóa thấp, đặc biệt với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
- Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai, nhiều doanh nghiệp có những công nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh nghiệp lớn mua với gía rẻ. Tuy nhiên, các DNNVV rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị dây truyền công nghệ thường thấp và họ thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này tạo nên sự khác biệt về sản phẩm đủ để các doanh nghiệp có thể tồn tại trên thị trường.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV thường là những doanh nghiệp mới hình thành, khẳ năng tài chính cho các hoạt động marketing là không có và họ cũng chưa có khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các DNNVV thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường khác là rất khó khăn.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế.
Trên thế giới, vai trò của các DNNVV đã được khẳng định là một thành phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Tùy theo đặc điểm của mỗi quốc gia mà vai trò của các DNNVV được thể hiện một cách khác nhau. Nhưng tựu lại, vai trò của các DNNVV được thể hiện ở các điểm sau đây:
Một là, các DNNVV tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một quốc gia. Đó có thể là sự cạnh tranh giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn; giữa các DNNVV với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hay giữa các DNNVV với nhau. Với quy mô nhỏ bé, các DNNVV rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng của sản phẩm. Điều này là một lợi thế của các DNNVV với các doanh nghiệp lớn – chi phí thay đổi công nghệ là rất lớn. Sản phẩm của các DNNVV đa dạng về mẫu mã thường đi theo thị hiếu của người tiêu dùng. Chính điều này tạo ra áp lực cho các doanh nghiệp lớn phải liên tục nâng cao chất lượng, kiểu dáng sản phẩm của mình mới có thể cạnh tranh được với các DNNVV. Số lượng các DNNVV chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp của mỗi một quốc gia làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này ngày càng mạnh mẽ, bởi doanh nghiệp nào không cạnh tranh được sẽ phải phá sản, nhường chỗ cho các doanh nghiệp khác.
Hai là, DNNVV còn là môi trường nuôi dưỡng những doanh nhân, những chủ doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong tương lai. Trên thế giới bất kỳ một doanh nghiệp, một tập đoàn kinh tế lớn nào đều xuất thân từ các DNNVV. Điểm khác biệt giữa những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn so với các doanh nghiệp khác là ở chỗ họ có những nhà lãnh đạo tài năng – người đưa doanh nghiệp của mình vượt qua được sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác từ lúc bắt đầu thành lập cho đến khi lớn mạnh. Chính môi trường cạnh tranh mà rất nhiều các DNNVV tạo ra đã sản sinh ra những doanh nhân giỏi, là tài sản đáng quý của mỗi quốc gia.
Ba là, các DNNVV tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho đại bộ phận người dân. Với số lượng lớn, chiếm 95% - 99% trong tổng số doanh nghiệp trong một quốc gia, các DNNVV thu hút một lượng lớn lao động làm việc trong khu vực của mình. Bên cạnh đó, DNNVV còn thu hút cả những lao động thất nghiệp trong các doanh nghiệp lớn do tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế, làm giảm áp lực về giải quyết việc làm đối với chính phủ. Trong khủng hoảng, DNNVV giống như một “chiếc đệm” cho nền kinh tế.
Bốn là, các DNNVV đóng góp phần lớn vào ngân sách chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp lớn thường không tập trung ở các địa phương mà thường tập trung ở các thành phố lớn. Do vậy, nguồn thu cho ngân sách cho chính quyền địa phương chủ yếu là từ các DNNVV.
Năm là, các DNNVV giúp xóa đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Yêu cầu về lao động của các DNNVV là không thật sự cao, do vậy những người nghèo, người thất nghiệp ở các nước đang phát triển có được cơ hội làm việc, có được thu nhập để cải thiện cuộc sống.
1.2 Sự cần thiết phải hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của các DNNVV đã được khẳng định, song trong quá trình hoạt động bộc lộ những điểm yếu cần phải có sự can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước và Chính phủ của các quốc gia, đó là:
Các DNNVV thường là yếu thế trên thị trường. Bởi vì, đặc điểm của các DNNVV là có nguồn vốn hạn hẹp, chủ yếu là vốn vay nên trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn cùng ngành thường bị chèn ép về giá cả, hoặc bị thâu tóm. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn đã tạo dựng được thương hiệu cho các sản phẩm của mình trên thị trường khiến cho các DNNVV gặp khó khăn hơn trong cạnh tranh.
Các DNNVV rất khó khăn trong việc tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, chi phí thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh đối với các DNNVV còn khá cao so với khả năng của doanh nghiệp, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng đất ở một số quốc gia còn gây mất thời gian, tốn chi phí cho doanh nghiệp.
Các DNNVV gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn lực sản xuất. Nguồn lực sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm vốn, công nghệ, nhân lực, các nguyên nhiên vật liệu… Trong các nguồn lực kể trên thì thiếu vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh là vấn đề nan giải của các DNNVV. Nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của DNNVV chủ yếu là vốn vay từ các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên do yếu kém trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, không có tài sản đảm bảo… khiến cho việc vay vốn từ ngân hàng trở nên khó khăn. Không có vốn, các DNNVV không thể mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến công nghệ, thu hút nhân lực có trình độ để cạnh tranh trên thị trường.
Các DNNVV mới thành lập gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường. Bởi vì, các doanh nghiệp lớn chiếm được phần lớn thị trường sẽ tìm mọi cách để cản trở, gây những khó khăn bất lợi; nhất là những thị trường độc quyền của các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, các doanh nghiệp mới khởi nghiệp còn chịu sự cạnh tranh của vô số các doanh nghiệp khác cùng loại khiến cho việc tiếp cận thị trường của họ ngày càng khó khăn hơn.
1.3 Kinh nghiệm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước.
1.3.1 Nhật Bản.
Trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế đất nước, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển khu vực DNNVV. Những thay đổi về chính sách nhằm đặt khu vực DNNVV vào vị trí phù hợp nhất và khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế. Xét một cách tổng quát, các chính sách phát triển DNNVV của Nhật Bản tập trung vào các mục tiêu chủ yếu sau đây:
- Thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các DNNVV.
- Tăng cường lợi ích kinh tế và xã hội của các nhà doanh nghiệp và người lao động tại các DNNVV.
- Khắc phục tính bất lợi của DNNVV gặp phải.
- Hỗ trợ tính tự lực của DNNVV.
Một số nội dung chủ yếu của các chính sách:
Cải cách pháp lý:
Luật cơ bản về DNNVV được ban hành năm 1999 hỗ trợ cho việc cải cách cơ cấu để tăng tính thích nghi của DNNVV với những thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi cho việc tái cơ cấu công ty. Các Luật tạo thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp mới và Luật hỗ trợ DNNVV đổi mới trong kinh doanh, khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập doanh nghiệp mới, tăng nguồn cung ứng vốn rủi ro, trợ giúp về công nghệ và đổi mới. Luật xúc tiến các hệ thống phân phối có hiệu quả ở DNNVV hỗ trợ cho việc tăng cường sức cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ thông qua công nghệ thông tin và xúc tiến các khu vực bán hàng. Một hệ thống cứu tế hỗ trợ cũng đã được thiết lập nhằm hạn chế sự phá sản của các DNNVV…
Hỗ trợ về vốn:
- Hỗ trợ có thể dưới dạng các khoản cho vay thông thường với lãi xuất cơ bản hoặc các khoản vay đặc biệt với những ưu đãi theo các mục tiêu chính sách.
Hệ thống hỗ trợ tăng cường cơ sở quản lý các DNNVV ở từng khu vực, các khoản vay được thực hiện tùy theo điều kiện của khu vực thông qua một quỹ được đóng góp chung bởi chính quyền trung ương và các chính quyền địa phương và được ký quỹ ở một thể chế tài chính tư nhân.
- Kế hoạch cho vay nhằm cải tiến quản lý của các doanh nghiệp nhỏ (kế hoạch cho vay Marukei) được áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ không đòi hỏi phải có thế chấp bảo lãnh.
- Hệ thống bảo lãnh tín dụng nhận bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn tại các thể chế tài chính tư nhân. Còn hiệp hội bảo lãnh tín dụng có chức năng mở rộng các khoản tín dụng bổ sung và bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Hệ thống bảo lãnh đặc biệt, đã hoạt động từ năm 1998, có chức năng như một mạng lưới an toàn, nhằm giảm nhẹ những rối loạn về tín dụng nhằm góp phần làm giảm các vụ phá sản của DNNVV.
- Công ty TNHH tư vấn và đầu tư DNNVV (SBIC), thành lập năm 1963, đã thực hiện nhiều kế hoạch và chương trình đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm góp vốn cổ phần, đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đầu tư cho các công ty R&D và các công ty đã trưởng thành.
- Hỗ trợ về công nghệ và đổi mới: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể nhận được các chính sách hỗ trợ cho hoạt động R&D hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mới dựa trên công nghệ. Các khoản trợ cấp, bảo lãnh vốn vay và đầu tư trực tiếp cho DNNVV được tiến hành theo các quy định của Luật xúc tiến các hoạt động sáng tạo của DNNVV. Các DNNVV thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới muốn tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần và trái phiếu công ty được hỗ trợ bởi các quỹ rủi ro bởi các địa phương. Còn Hệ thống nghiên cứu đổi mới kinh doanh nhỏ ở Nhật Bản (SBI) cung cấp tài chính cho DNNVV có hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới trong các giai đoạn đầu thiết kế sản phẩm hoặc các quy trình sản xuất mới. Để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua áp dụng công nghệ thông tin, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực truyền bá thông tin và ứng dụng các phần mềm tin học được hỗ trợ bởi chính quyền địa phương, bao gồm các dịch vụ tư vấn và dịch vụ phát triển doanh nghiệp kiểu mẫu.
Hỗ trợ về quản lý:
- Hoạt động tư vấn quản lý kinh doanh được thực hiện thông qua Hệ thống đánh giá DNNVV. Mỗi quận, huyện, chính quyền của 12 thành phố lớn đánh giá các điều kiện quản lý của DNNVV, đưa ra các khuyến nghị cụ thể và cung cấp hướng dẫn.
- Viện Quản lý kinh doanh nhỏ và Công nghệ thực hiện các chương trình đào tạo cho các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật của DNNVV và đội ngũ nhân sự của các quận huyện. Việc tăng cường tiếp cận DNNVV là một ưu tiên của Chính phủ. Sách trắng của DNNVV được xuất bản hàng năm chứa đựng nhiều thông tin về khu vực doanh nghiệp này dựa trên các cuộc điều tra về thực trạng trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
Xúc tiến xuất khẩu:
- Chính phủ Nhật Bản cung cấp những hướng dẫn và dịch vụ thông tin cho các DNNVV nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chương trình môi giới tư vấn và kinh doanh tạo cơ hội cho các DNNVV của Nhật Bản cũng như của nước ngoài có thể đăng ký trực tiếp vào cơ sở dữ liệu trên mạng Internet và quảng cáo các loại liên kết kinh doanh hoặc liên minh chiến lược mà doanh nghiệp tìm kiếm.
1.3.2 Hàn Quốc
Quá trình định hướng và hỗ trợ của Bộ DNNVV trải qua nhiều giai đoạn với chiến lược và giải pháp khác nhau. Có thể rút ra một số bài học bổ ích cho định hướng phát triển DNNVV của Việt Nam như sau:
- Xây dựng tầm nhìn và mục tiêu chiến lược cho NNVV trong nước.
- Thực hiện chiến lược tăng cường hỗ trợ phù hợp với các đặc tính của từng giai đoạn tăng trưởng. Chính sách này tập trung vào 3 giai đoạn đầu đời của doanh nghiệp: Khởi nghiệp – Nuôi dưỡng thúc đẩy tăng trưởng – Tăng trưởng, toàn cầu hóa.
- Thực hiện nhóm chính sách cân bằng tăng trưởng cho DNNVV và các tập đoàn.
1.3.3 Cộng hòa Liên Bang Đức.
Thứ nhất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động. Do doanh nghiệp nhỏ ở CHLB Đức chủ yếu thuộc ngành tiểu thủ công nghiệp. Năm 1953 Quốc hội CHLB Đức đã thông qua quy chế tiểu thủ công nghiệp, quy định về mặt pháp lý từ khái niệm, nội dung hoạt động và các điều khoản liên quan đến ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
Thứ hai, hoạt động tư vấn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động tư vấn gồm các nội dung chủ yếu về quản lý kinh doanh, về pháp lý, về thuế, về kỹ thuật, về tư vấn đối ngoại,..
Thứ ba, hỗ trợ về tài chính. Cấp đất với giá rẻ để lập doanh nghiệp có thể sản xuất với giá ưu đãi hơn giá thị trường tự do, nhưng không được chuyển nhượng kiếm lời. Nhà nước đưa ra các dự án phát triển kinh tế và cấp kinh phí cho dự án, ai tham gia sẽ được lợi, hỗ trợ kinh phí cho tư vấn và đào tạo, cấp tiền để thuê văn phòng đại diện trong vòng nửa năm đầu không phải trả tiền thuê phòng. Hoạt động quan trọng nhất về hỗ trợ tài chính là cấp tín dụng và bảo lãnh vay tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.4 Philippines, Indonexia và Thái Lan.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân, vì thế ở mỗi nước đều có chính sách hỗ trợ phát triển loại hình doanh nghiệp này. Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Philippines, Indonexia, Thái Lan đều tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tạo cơ sở pháp lý đối với các DNNVV.
Hai là, hỗ trợ về tài chính cho các DNNVV, mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng.
Ba là, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm hàng hóa: Đối với DNNVV tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là một khó khăn lớn nhất, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế. Để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của DNNVV, vấn đề cơ bản là hỗ trợ về khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng – sản phẩm, coi trọng các sản phẩm mang tính truyền thống dân tộc độc đáo.
Bốn là, hỗ trợ về khoa học – công nghệ, đào tạo tư vấn, thông tin: Việc hỗ trợ khoa học – công nghệ cho DNNVV chủ yếu là chuyển giao công nghệ, đào tạo nâng cao chất lượng tay nghề lao động và người quản lý, cung cấp thông tin cần thiết. Như vậy, vừa nâng cao năng suất và hiệu quả, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm hàng hóa của DNNVV.
Năm là, tạo mối quan hệ hợp tác giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn, đẩy mạnh quan hệ hợp tác trong các DNNVV. Các nước đều coi trọng tạo mối quan hệ hợp tác DNNVV và các doanh nghiệp lớn, có quy định pháp lý bắt các doanh nghiệp lớn phải hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, cả vốn, kỹ thuật, công nghệ và hoạt động kinh doanh; còn DNNVV trở thành vệ tinh, tham gia chế tạo các phụ tùng, phụ kiện cho doanh nghiệp lớn. Ở Indonexia còn quy định mỗi doanh nghiệp lớn có trách nhiệm hỗ trợ một số doanh nghiệp vừa và một số doanh nghiệp vừa có trách nhiệm hỗ trợ một số doanh nghiệp nhỏ. Các nước rất coi trọng các hình thức tổ chức hợp tác của các doanh nghiệp nhỏ và vừa do yêu cầu của sản xuất kinh doanh, giúp nhau giải quyết đầu vào và đầu ra cho DNNVV, đặc biệt tạo thuận lợi cho vay vốn ngân hàng. Do tính cấp thiết của DNNVV về mặt hợp tác, ở Indonexia đã thành lập Bộ hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ.
Sáu là, thành lập các cơ quan quản lý, đại diện hỗ trợ DNNVV. Các nước đều có cơ quan chuyên quản và hỗ trợ DNNVV.
1.4 Một số bài học kinh nghiệm của nước ngoài về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Việc phát triển DNNVV ở các nước không phải là mục đích tự thân vận động, mà là một chiến lược tăng trưởng hiệu quả trên cơ sở kết hợp hài hòa chiến lược tạo việc làm với chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, để giải quyết đồng thời hai vấn đề kinh tế là:
- Sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước, trong đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất.
- Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu để tạo nguồn ._.ngoại tệ cho đổi mới thiết bị và công nghệ, tức là để hiện đại hóa nền kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu giải quyết những vấn đề sau:
- Tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Sự yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ.
- Máy móc thiết bị kém hiệu quả.
- Năng suất lao động thấp.
- Mức độ giá trị gia tăng thấp.
- Mức vốn trung bình cho mỗi lao động thấp.
Sau đây là một số nội dung cơ bản về chính sách hỗ trợ đối với các DNNVV đã được áp dụng với các nước trên trong thời gian qua:
Khung khổ pháp lý về doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Một số nước đã ban hành đạo luật riêng về DNNVV. Luật về doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định khung khổ chung nhưng không mâu thuẫn với các Luật khác về kinh doanh và thương mại. Sở dĩ khung khổ luật pháp về DNNVV không mâu thuẫn với các đạo luật kinh doanh khác là vì luật DNNVV chỉ quy định những vấn đề riêng có liên quan trực tiếp đến DNNVV, như xác định quy mô nào là DNNVV, đường lối chính sách chủ yếu đối với DNNVV. Luật ở các nước không quy định quy trình thành lập và đăng ký DNNVV, cũng không quy định cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng chính sách, thực thi chính sách, phối hợp các hoạt động về DNNVV giữa các tổ chức và cơ quan vì mục đích chung là phát triển DNNVV.
Chính sách khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Đơn giản tối đa các thủ tục đăng ký kinh doanh.
- Chính phủ thành lập quỹ “khởi sự” để các doanh nghiệp mới thành lập vay vốn kinh doanh.
- Xây dựng các khu công nghiệp tập trung dành cho DNNVV để khuyến khích các DNNVV phát triển sản xuất, tránh sự tập trung quá mức ở các đô thị và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hỗ trợ tập trung khác, cũng như để kiểm soát môi trường.
Chính sách thị trường và cạnh tranh:
- Ngăn chặn tình trạng cạnh tranh quá mức giữa các DNNVV với nhau cũng như giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn.
- Xác định loại sản phẩm dành riêng cho DNNVV sản xuất, các doanh nghiệp lớn dù có năng lực, thậm chí sản xuất với hiệu quả kinh tế có thể cao hơn nhưng không được sản xuất sản phẩm đó.
- Yêu cầu các doanh nghiệp lớn thầu phụ với DNNVV thích hợp: quy định hạng mục các sản phẩm mà các cơ sở công nghiệp lớn phải cho các DNNVV làm thầu phụ.
- Xác định danh sách các DNNVV tham gia làm thầu phụ.
- Thành lập Hội đồng khuyến khích thầu phụ gồm đại diện Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, các doanh nghiệp lớn và đại diện của các DNNVV.
- Yêu cầu cơ quan nhà nước phải mua sản phẩm, dịch vụ của DNNVV.
- Khuyến khích các DNNVV liên kết trong việc cùng mua nguyên vật liệu, cùng bán sản phẩm ra thị trường cho Nhà nước.
Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Miễn hoặc giảm thuế cho DNNVV với các loại sau: Thuế thu nhập, thuế môn bài, thuế lợi tức công ty, thuế tài sản với mức tối đa đến 50%, thời hạn từ 2 đến 5 năm kể từ khi thành lập.
- Cho phép khấu trừ 15% doanh thu chịu thuế trước khu tính thuế để khuyến khích đầu tư mới.
- Cho phép áp dụng chế độ khấu hao chung là 50%, ở các ngành đặc biệt được áp dụng khấu hao 100%.
- Cho phép trừ thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu gấp đôi so với mức áp dụng cho một doanh nghiệp bình thường để khuyến khích xuất khẩu.
- Cho phép khấu trừ 1,5% thu nhập hay khoảng 20% doanh thu trước khi tính thuế để khuyến khích phát triển công nghệ.
Chính sách tài chính, tín dụng, đầu tư trong lĩnh vực này là:
- Hỗ trợ tài chính cho việc hiện đại hóa máy móc thiết bị.
- Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập có áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và phân tích kinh tế.
- Hỗ trợ tài chính cho DNNVV mới thành lập ứng dụng công nghệ mới.
- Cho phép quỹ đầu tư bỏ vốn vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạng lưới thông tin tiếp thị.
- Ngoài các quỹ, Chính phủ còn lập các Ngân hàng để cung cấp tài chính cho các DNNVV.
Các quỹ của chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghiệp cho DNNVV.
- Quỹ hỗ trợ DNNVV mới thành lập
- Quỹ bảo lãnh tín dụng nói chung giúp các DNNVV sử dụng công nghệ mới và phát triển công nghệ.
- Cho phép các DNNVV liên kết với nhau để lập ra Quỹ tương trợ trên cơ sở cùng đóng góp thêm vào phần tài trợ ban đầu của Nhà nước để ngăn chăn tình trạng phá sản dây truyền do khách hàng bị phá sản và để cấp vốn cho các hoạt động cùng mua cùng bán.
Thông thường khi lập qũy, Nhà nước đóng góp toàn bộ hoặc phần lớn. Nếu hoạt động của Quỹ mang lại hiệu quả cho các bên (doanh nghiệp, hiệp hội, ngân hàng…) thì các bên này sẽ tự nguyện tham gia bằng cách góp thêm vốn vào các quỹ đó. Lúc này, Nhà nước có thể rút bớt vốn của mình khỏi các quỹ để làm công việc khác.
Thông tin, công nghệ:
- Hỗ trợ về thông tin thị trường, tiếp thị.
- Thành lập Viện công nghệ chuyên nghiên cứu hỗ trợ phát triển công nghệ cho DNNVV.
- Chính phủ lập kế hoạch phát triển công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc dành một số vốn ngân sách sản xuất sản phẩm mới; liên quan tới sản xuất và sử dụng nguyên vật liệu mới; liên quan đến tự động hóa hay các máy móc thiết bị có năng suất cao; liên quan đến các phần mềm tin học…
Phát triển nguồn nhân lực:
- Chương trình đào tạo thường có nội dung nâng cao năng lực kinh doanh để chủ doanh nghiệp nhận biết thời co và chớp được thời cơ.
- Các tổ chức hỗ trợ DNNVV của Nhà nước tuyển chuyên gia về công nghệ, kỹ thuật và quản lý nước ngoài để hỗ trợ cho DNNVV.
- Lựa chọn và tổ chức đội ngũ chuyên gia trong nước để đáp ứng nhu cầu tư vấn cho DNNVV.
- Chọn một số tổ chức nghiên cứu, các trường đại học làm “các đơn vị hướng dẫn chuyên ngành” và khuyến khích các cơ quan này tự tổ chức và cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM
2.1 Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Theo các tài liệu lịch sử, DNNVV ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá trình ra đời của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng và nổi tiếng phần lớn ra đời từ rất lâu, vài trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa vừa mang tính sáng tạo nghệ thuật.
Thời kỳ năm 1954 đến năm 1975, DNNVV ở hai miền có sự phát triển khác nhau. Ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh nên các DNNVV của tư nhân tiến hành cải tạo, chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc xóa bỏ. Còn ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Đồng Nai, Cân Thơ, Đà Nẵng được phát triển, mặt khác các DNNVV thuộc sở hữu tư nhân, cũng được khuyến khích phát triển mạnh.
Sau ngày đất nước thống nhất, trong thời kỳ 1976 – 1985, các DNNVV ở miền Nam hoặc là được quốc hữu hóa, hoặc là được cải tạo, xóa bỏ. DNNVV ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã, công tư hợp danh… Cho tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và phát triển.
Từ năm 1986 đến năm 1995, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết số 16 của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam (1988), Nghị định 27, 28, 29 của Hội đồng Bộ trưởng (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HĐBT về hộ kinh doanh cá thể và ban hành các luật như: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước… đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các DNNVV phát triển.
Trong thời kỳ đổi mới (1986 – 1995), số lượng doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số doanh nghiệp nhà nước giảm đi đáng kể, riêng ngành công nghiệp từ 3.141 đơn vị ( năm 1986) xuống còn 2.002 đơn vị (năm 1994), khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh từ 567 doanh nghiệp (năm 1986) lên 959 doanh nghiệp (năm 1995). Ngoài ra, còn có khoảng 1,88 triệu hộ và nhóm kinh doanh, chủ yếu là doanh nghiệp rất nhỏ, có vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 50 người trong ngành thương mại dịch vụ.
Từ năm 2001 đến năm 2005, Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích các DNNVV phát triển. Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2000) đã đi vào thực tiễn đã tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo bước đột phá về cải cách hành chính, nâng cao đáng kể tính nhất quán, tính thống nhất, minh bạch và bình đẳng của khuôn khổ pháp luật về kinh doanh ở nước ta. Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2001 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nước ta quy định việc trợ giúp các DNNVV. Cuối năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để quản lý nhà nước và điều phối các hoạt động của Chính phủ liên quan tới xúc tiến phát triển DNNVV. Năm 2003, Hội đồng Khuyến khích Phát triển DNNVV được thành lập theo Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm tham vấn cho Thủ tướng về cơ chế chính sách khuyến khích sự phát triển của DNNVV ở Việt Nam.
Giai đoạn này, DNNVV đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã hội (GDP), 31% gía trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 – 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Từ năm 2005 trở lại đây, cơ chế chính sách đối với các DNNVV tiếp tục được hoàn thiện. Luật Doanh nghiệp năm 2005 (được Quốc hội thông qua vào ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006) đã kế thừa những thành công của Luật Doanh nghiệp 1999, đồng thời phát triển thêm nhiều mặt. Luật Doanh nghiệp 2005 đã tạo ra khung pháp lý chung, thống nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, bao gồm cả DNNVV và doanh nghiệp không thuộc nhóm DNNVV, công ty trong và ngoài nước, công ty Nhà nước và tư nhân.
Ngoài ra, Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006 – 2010 (đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ) đã xác định mục tiêu quan trọng, định hướng cho các hoạt động phát triển DNNVV và tạo ra một cấu trúc thông qua đó phối hợp các hoạt động để đạt hiệu quả tối ưu, nhằm hỗ trợ cho việc hình thành một khu vực DNNVV lớn mạnh ở Việt Nam. Kế hoạch xác định mục tiêu tổng thể cho phát triển DNNVV là: “Đẩy nhanh tốc độ phát triẻn DNNVV, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, các DNNVV đóng góp ngày càng cao vào tăng trưởng kinh tế”
2.1.2 Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua.
Luật doanh nghiệp 1999 là văn bản pháp lý quan trọng mở ra sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Thời điểm trước khi Luật doanh nghiệp ra đời, cả nước có khoảng 12.000 DNNN thì hiện nay các doanh nghiệp ở Việt Nam đã đa dạng hơn, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Ngoài 3.700 DNNN, khoảng trên 4.200 doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nước ta còn có một bộ phận lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bao gồm: hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và công ty cổ phần, với số lượng trên 123.000 doanh nghiệp.
Bảng 2: Số lượng các doanh nghiệp thành lập mới theo từng năm
giai đoạn 2001 – 2007.
Đơn vị: Doanh nghiệp
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
Với cơ chế mới thông thoáng hơn, các DNNVV đã phát triển nhanh chóng, hàng năm đều có một số lượng lớn các doanh nghiệp đăng ký mới, nếu như năm 2001 mới chỉ có 19.800 doanh nghiệp đăng ký mới thì chỉ sau 5 năm số lượng các doanh nghiệp đăng ký mới đã tăng lên 51.000 doanh nghiệp đăng ký mới vào năm 2007.
Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 đã có hơn 17.300 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký lên tới gần 140.000 tỷ đồng.
2.1.3 Cơ cấu của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
2.1.3.1Cơ cấu theo quy mô lao động.
Dựa theo tiêu chí quy đinh tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Nghị định 90), xét theo quy mô lao động (dưới 300 lao động) ta có được số lượng các DNNVV như ở trên Bảng 3. Điều dễ nhận thấy là các DNNVV chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu như năm 2000 cả nước ta có 38.987 DNNVV thì chỉ sau 5 năm (2006) số lượng các DNNVV đã gấp gần 4 lần với 127.600 doanh nghiệp, chiếm 97,12% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Đây là một bước tiến vượt bậc của DNNVV của Việt Nam về mặt số lượng (Xem bảng 3).
Bảng 3: Số lượng và tỷ lệ các DNNVV trong tổng số doanh nghiệp
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng số doanh nghiệp
42.288
51.680
62.908
72.012
91.756
112.850
131.332
DNNVV
38.897
49.062
59.853
68.687
88.222
109.336
127.600
Tỷ lệ (%)
94,34
94,93
95,14
95,38
96,12
96,89
97,12
(Nguồn: Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Cục Phát triển doanh nghiệp))
Phân chia số lượng các DNNVV theo hình thức sở hữu ta có thể thấy rằng, các DNNVV của Việt Nam không chỉ là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà một phần không nhỏ trong đó là các DNNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nhìn vào Bảng 3, ta thấy các DNNVV là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các DNNVV (từ 88% - 90%), hơn nữa tỷ lệ này ngày càng tăng, nếu như năm 2000 chiếm 88,67% thì đến năm 2006 đã là 95,51%. Bên cạnh sự tăng lên trong tỷ trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đó là sự giảm sút về tỷ trọng của các DNNN (năm 2000 chiếm 10,78% thì đến năm 2006 giảm xuống còn 1,93%). Các DNNVV là doanh nghiệp có vốn ĐTNN chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số các DNNVV, số lượng các doanh nghiệp cũng ngày một tăng lên, đến năm 2006 đã có hơn 3.200 doanh nghiệp.
Bảng 4a: Số lượng các DNNVV xét theo quy mô lao động và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
DNNN là DNNVV
4.194
3.752
3.653
3.145
2.959
2.675
2.464
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV
34.490
43.664
54.400
63.523
82.840
103.792
121.875
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV
1.213
1.646
1.800
2.019
2.423
2.869
3.216
Tổng số
38.897
49.062
59.853
68.687
88.222
109.336
127.600
Bảng 4b: Cơ cấu các DNNVV xét theo quy mô lao động và hình thức sở hữu giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vi: %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
DNNN là DNNVV
10,78
7,64
6,10
4,58
3,35
2,45
1,93
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV
88,67
88,99
90,89
92,48
93,90
94,93
95,51
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV
0,55
3,37
3,01
2,94
2,75
2,62
2,16
Tổng số
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
(Nguồn: Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Cục Phát triển doanh nghiệp)
Để có cái nhìn chi tiết hơn, ta phân chia các DNNVV theo tiêu chí về lao động như sau:
Bảng 5a: Số lượng các doanh nghiệp phân theo quy mô lao động giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dưới 5 lao động
10.169
11.932
12.079
13.091
17.977
23.188
16.834
Từ 5 – 9 lao động
10.900
13.896
18.139
20.438
26.459
34.632
57.980
Từ 10 – 49 lao động
12.071
15.737
20.718
25.220
32.443
38.957
39.366
Từ 50 – 199 lao động
5.633
6.304
7.541
8.531
9.808
10.933
11.683
Từ 200 – 299 lao động
1.124
1.193
1.354
1.407
1.535
1.626
1.737
Tổng số
39.897
49.062
59.831
68.687
88.222
109.336
127.600
Bảng 5b: Tỷ lệ các doanh nghiệp phân theo quy mô lao động giai đoạn 2000-2006.
Đơn vị: %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dưới 5 lao động
25,49
24,32
20,19
19,06
20,37
21,21
13,19
Từ 5 – 9 lao động
27,32
28,31
30,31
29,75
29,99
31,67
45,44
Từ 10 – 49 lao động
30,26
32,06
34,63
36,72
36,77
35,63
30,85
Từ 50 – 199 lao động
14,12
12,85
12,60
12,42
11,12
9,99
9,16
Từ 200 – 299 lao động
2,81
2,46
2,27
2,05
1,75
1,50
1,36
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
(Nguồn: Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Cục Phát triển doanh nghiệp)
Nhìn vào hai bảng trên ta thấy, số lượng các DNNVV Việt Nam phân chia theo quy mô lao động có xu hướng tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, quy mô lao động của DNNVV thường dưới 49 lao động (chiếm trên 80% trong tổng số DNNVV ở Việt Nam); số lượng các doanh nghiệp có quy mô từ 10 – 49 lao động là lớn nhất, chiếm từ 30% - 35%; tiếp theo là các doanh nghiệp có quy mô từ 5 – 9 lao động, chiếm từ 27% - 30%. Mặc dù số lượng các doanh nghiệp có quy mô dưới 5 lao động và từ 200 – 299 lao động là tăng trong các năm qua nhưng có thể thấy xu hướng giảm dần về tỷ trọng trong tổng số các DNNVV. Nếu như năm 2000 tỷ trọng của hai loại hình quy mô lao động này lần lượt là 25,49% và 2,81% thì đến năm 2006 tỷ lệ là 13,19% và 1,36%.
2.1.3.2 Cơ cấu theo quy mô vốn.
Căn cứ theo Nghị định 90, phân chia các DNNVV theo quy mô vốn (dưới 10 tỷ VND) ta có được bảng sau.
Bảng 6: Số lượng và tỷ lệ các DNNVV trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam xét theo quy mô vốn giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng số doanh nghiệp
42.288
51.680
62.908
72.012
91.756
112.850
131.332
DNNVV
36.305
44.670
54.216
61.977
79.420
98.205
114.340
Tỷ lệ (%)
85,85
84,44
86,18
86,06
86,56
87,02
87,06
(Nguồn: Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Cục Phát triển doanh nghiệp)
Cũng giống như tiêu chí về quy mô lao động, các DNNVV vẫn chiếm đa số trong tổng số doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam với tỷ lệ 85% - 87%. Số lượng các DNNVV xét theo tiêu chí này cũng liên tục tăng qua các năm, năm 2000 chỉ có 36.305 doanh nghiệp thì năm 2006 đã là 114.340 doanh nghiệp.
Bảng 7a: Số lượng DNNVV xét theo quy mô vốn và hình thức sở hữu
giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
DNNN là DNNVV
2.496
2.040
1.763
1.346
1.091
874
740
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV
33.433
41.967
51.770
59.888
77.374
96.177
112.321
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV
376
663
683
743
955
1.181
1.279
Tổng số
36.305
44.670
54.216
61.977
79.420
98.205
114.340
Bảng 7b: Tỷ lệ DNNVV xét theo quy mô vốn và hình thức sở hữu
giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
DNNN là DNNVV
6,88
4,57
3,25
2,17
1,37
0,89
0,65
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là DNNVV
92,09
93,95
65,49
96,63
97,42
97,93
98,23
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là DNNVV
1,03
1,48
1,26
1,2
1,21
1,18
1,12
Tổng số
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục phát triển doanh nghiệp)
Phân chia các DNNVV theo tiêu chí hình thức sở hữu ta cũng thu được kết quả gần giống với kết quả ở phần trên. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp. Năm 2006 chiếm tới 98,23 % trong tổng số các DNNVV. Qua đó, một lần nữa khẳng định sự phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 8a: Số lượng các DNNVV phân theo quy mô nguồn vốn giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dưới 0,5 tỷ
16.276
18.326
18.591
18.790
23.187
26.687
15.908
Từ 0,5 – 1tỷ
6.534
8.403
10.994
12.954
16.191
20.434
21.808
Từ 1 – 5 tỷ
10.759
14.556
20.141
24.737
32.739
41.856
63.954
Từ 5 – 10 tỷ
2.745
3.385
4.490
5.496
7.303
9.255
12.670
Tổng số
36.305
44.670
54.216
61.977
79.420
98.232
114.340
Bảng 8b: Tỷ lệ các DNNVV phân theo quy mô nguồn vốn giai đoạn 2000 – 2006
Đơn vị: %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dưới 0,5 tỷ
44,83
41,03
34,29
30,31
29,16
27,35
13,91
Từ 0,5 – 1tỷ
18,0
18,81
20,27
20,90
20,39
20,80
19,07
Từ 1 – 5 tỷ
29,64
32,58
37,15
39,91
41,22
42,60
55,93
Từ 5 – 10 tỷ
7,53
4,58
8,29
8,89
9,23
9,25
11,08
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
Một điều đáng chú ý đó là, các DNNVV ở Việt Nam mặc dù đông về số lượng nhưng quy mô về vốn lại rất nhỏ bé. Nhìn vào Bảng 8b có thể nhận thấy rằng đa phần các doanh nghiệp có số vốn từ 0,5 đến 5 tỷ đồng; trong khi số doanh nghiệp có nguồn vốn lớn từ 5 – 10 tỷ đồng lại rất ít, chỉ chiếm 11,08% (năm 2006). Bảng trên cũng thể hiện sự thay đổi trong quy mô vốn của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 0,5 tỷ đồng dần giảm xuống (13,91% của năm 2006 so với 44,83% năm 2000) trong khi các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hơn ngày một tăng về số lượng và tỷ lệ trong tổng số các DNNVV. Điều này thể hiện rằng khu vực DNNVV đang phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp hiện nay có nhiều vốn hơn trước nên dễ dàng hơn trong việc đầu tư sản xuất kinh doanh.
2.1.3.3 Cơ cấu theo hình thức pháp lý của doanh nghiệp.
Hiện nay, ở Việt Nam các DNNVV thường tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp như sau:
- Doanh nghiệp tư nhân (DNTN).
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (Cty TNHH).
- Công ty cổ phần (CTCP).
- Công ty hợp danh (CTHD).
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Cty TNHH 1Tv).
- Doanh nghiệp nước ngoài (DNNN).
Số lượng của các DNNVV phân theo loại hình doanh nghiệp được trình bày ở bảng dưới đây.
Bảng 9: Số lượng đăng ký của doanh nghiệp phân theo hình thức pháp lý giai đoạn 2001 – 2006.
2001
2002
% so với 2001
2003
% so với 2002
2004
% so với 2003
2005
% so với 2004
2006
% so với 2005
DNTN
7.100
6.532
92,00
7.813
119,61
10.405
133,18
9.295
89,33
10.246
110,23
Cty TNHH
11.121
12.627
113,54
15.781
124,98
20.190
127,94
22.341
110,65
25.777
115,38
CTCP
1.550
2.305
148,71
4.058
176,05
6.497
160,10
8.010
123,29
9.664
120,65
CTHD
2
0
0,00
1
7
700,00
13
185,71
4
30,77
Cty TNHH 1Tv
0
59
98
166,10
125
127,55
292
233,60
906
310,27
DNNN
27
12
44,44
20
166,67
6
30,00
8
133,33
9
112,50
Tổng số
19.800
31.535
67,81
27.771
216,30
37.230
16,33
39.959
2001,47
46.606
198,55
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
Qua bảng trên ta thấy, tỷ trọng các loại hình doanh nghiệp có sự thay đổi. Doanh nghiệp tư nhân ngày càng ít được lựa chọn là loại hình để nhà đầu tư thành lập, trong khi đó, loại hình Cty TNHH, CTCP ngày càng được lựa chọn nhiều hơn như là một hình thức đầu tư để gia nhập thị trường. Nếu như trong năm 2000, loại hình DNTN chiếm tới 36%, Cty TNHH chiếm 56% và CTCP chiếm 8% trên tổng số doanh nghiệp thành lập và đăng ký kinh doanh thì trong năm 2006, tỷ lệ này lần lượt là 22%, 55,3%, 20,7% và trong năm 2007 là 17,2%, 43,8%, 25%.
2.1.3.4 Cơ cấu theo ngành nghề kinh doanh.
Theo ngành nghề kinh doanh thì các DNNVV ở Việt Nam được chia thành các ngành sau: Nông nghiệp và lâm nghiệp; Thủy sản; Công nghiệp khai thác mỏ; Công nghiệp chế biến; Xây dựng; Thương mại; Khách sạn và nhà hàng; Giao thông vận tải; Các ngành khác.
Thống kê về các DNNVV phân theo ngành nghề kinh doanh được thể hiện ở bảng dưới đây.
Bảng 10a: Số lượng DNNVV phân theo ngành, nghề kinh doanh giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: Doanh nghiệp
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nông nghiệp và lâm nghiệp
925
875
972
939
1.015
1.071
1.092
Thủy sản
2.453
2.563
2.407
1.468
1.354
1.358
1.307
Công nghiệp khai thác mỏ
427
634
879
1.029
1.193
1.277
1.369
Công nghiệp chế biến
10.399
12.353
14.794
16.916
20.531
24.017
26.863
Xây dựng
3.999
5.693
7.845
9.717
12.315
15.252
17.783
Thương mại
17.547
20.722
24.794
28.369
36.090
44.656
52.505
Khách sạn và nhà hàng
1.919
2.405
2.843
3.287
3.957
4.730
5.116
Giao thông vận tải
1.796
2.545
3.242
3.976
5.351
6.754
7.695
Các ngành khác
2.823
3.890
5.132
6.311
9.950
13.835
17.602
Bảng 10b: Tỷ lệ DNNVV phân theo ngành, nghề kinh doanh giai đoạn 2000 – 2006.
Đơn vị: %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nông nghiệp và lâm nghiệp
2,2
1,7
1,5
1,3
1,1
0,9
0,8
Thủy sản
5,8
5,0
3,8
2,0
1,5
1,2
1,0
Công nghiệp khai thác mỏ
1,0
1,2
1,4
1,4
1,3
1,1
1,0
Công nghiệp chế biến
24,6
23,9
23,5
23,5
22,4
21,3
20,5
Xây dựng
9,5
11,0
12,5
13,5
13,4
13,5
13,5
Thương mại
41,5
40,1
39,4
39,4
39,3
39,5
40,0
Khách sạn và nhà hàng
4,5
4,7
4,5
4,6
4,3
4,2
3,9
Giao thông vận tải
4,2
4,9
5,2
5,5
5,8
6,0
5,9
Các ngành khác
6,7
7,5
8,2
8,8
10,8
12,2
13,4
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
Nhìn vào bảng trên ta thấy được có khoảng 40% các DNNVV ở Việt Nam thuộc lĩnh vực thương mại, 20% trong lĩnh vực sản xuất, và 14% trong lĩnh vựa xây dựng. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng thể hiện rõ trong ngành nghề kinh doanh của các DNNVV. Tỷ lệ các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp lâm nghiệp ( từ 2,2% năm 2000 xuống còn 0,8% năm 2006), và thủy sản (từ 5,8% năm 2000 xuống còn 1,0% năm 2006). Trong khi tỷ lệ các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tăng đều qua các năm (từ 9,5% năm 2000 đến 13,5% năm 2006).
2.1.4 Phân bố của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam có 64 tỉnh thành phố được phân thành 6 vùng kinh tế lớn bao gồm:
- Trung du và miền núi phía Bắc (14 tỉnh): Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái.
- Vùng đồng bằng sông Hồng (15 tỉnh thành): Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Hà Tây.
- Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (10 tỉnh): Bình Định, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
- Tây Nguyên (4 tỉnh): Đắk Lak, Đắk Nông, Kon Tum, Gia Lai.
- Vùng Đông Nam Bộ và kinh tế trọng điểm phía Nam (8 tỉnh thành): Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh.
- Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh thành): An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Đông Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long.
Dựa theo số liệu của Trung tâm thông tin Doanh Nghiệp – Cục Phát triển Doanh nghiệp, Bộ Kế hoach và Đầu tư, ta có được biểu đồ phân bố các DNNVV ở các vùng trong cả nước như sau (Xem biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Phân bố các doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh theo các vùng kinh tế trong cả nước năm 2007.
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
Các DNNVV ở Việt Nam không phân bố một cách đồng đều, phần lớn các DNNVV tập trung ở vùng Đông Nam Bộ và khu kinh tế trọng điểm phía Nam, sau đến là vùng Đồng bằng sông Hồng. Tây Nguyên là khu vực có ít DNNVV nhất trong cả nước. Giữa các tỉnh thành với nhau cũng có sự khác biệt rất lớn. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhiều nhất, với 17.313 doanh nghiệp trong khi đó Bắc Kạn chỉ có 71 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, theo thống kê của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp có tới gần 55% doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tập trung ở 3 thành phố lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội , Hải Phòng. Đây cũng là 3 địa phương dẫn đầu trong cả nước về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong giai đoạn 2000 – 2007.
Bảng 11: Địa phương có trên 3.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh giai đoạn 2000 – 2007.
STT
Địa phương
Số lượng doanh nghiệp
1
Thành phố Hồ Chí Minh
82.591
2
Hà Nội
53.339
3
Hải Phòng
9.852
4
Đà Nẵng
6.625
5
Bình Dương
5.564
6
Đồng Nai
5.290
7
Khánh Hòa
3.962
8
Cần Thơ
3.720
9
Quảng Ninh
3.708
(Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp - Cục Phát triển doanh nghiệp)
2.2 Đánh giá vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam.
2.2.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu.
Sự phát triển mạnh mẽ của các DNNVV trong thời gian qua đã khơi dậy một sức sản xuất rất lớn và giải quyết một số lượng lớn lao động xã hội, kể cả ở vùng xâu vùng xa. Tổng giá trị sản xuất hàng hóa của thành phần này tăng mạnh, đóng góp đáng kể vào GDP. Ở Việt Nam, các DNNVV đã tạo ra một khối lượng sản phẩm chiếm 45% GDP (Niên giám thống kê 2007).
Số lượng các DNNVV tăng lên kéo theo đó là các mặt hàng trở nên phong phú hơn, sức cạnh tranh cao hơn khiến chất lượng các hàng hóa dịch vụ tăng lên, thị trường sôi động hơn. DNNVV còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn, thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc. Nhờ phát huy lợi thế của DNNVV nên thời gian qua, tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của DNNVV đạt khá cao.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, với chính sách mở rộng và khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. DNNVV đã năng động đầu tư vào các ngành nghề có nhiều lợi thế, chủ động tìm kiếm và khai thác thị trường quốc tế qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ của đất nước, chủ yếu qua hình thức xuất khẩu gián tiếp nhất là các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủ công – mỹ nghệ, chế biến nông sản, thủy sản.
2.2.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước.
Với một lực lượng doanh nghiệp hùng hậu hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị mà các DNNVV mang lại cho nền kinh tế là rất lớn, là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thông qua các chính._.h nghiệp. Tiêu chí về vốn cũng không phân biệt các ngành nghề mặc dù giữa các ngành có sự khác nhau.
2.4.3 Nguyên nhân của những yếu kém trên.
2.4.3.1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
- Về mặt nhận thức: mặc dù Đảng và Nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số phân biệt giữa các DNNVV với các DNNN.
- Về thể chế chính sách: Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng để phù hợp với hòan cảnh mới, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa ổn định, chồng chéo, thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao làm cho các DNNVV gặp nhiều khó khăn khi tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Cải cách hành chính diễn ra chậm khiến doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian và tiền bạc.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương đối với việc khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển DNNVV còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ công chức thực hiện nhiêm vụ còn thiếu và yếu, nhất là đối với các cơ quan cấp huyện, xã, một số cán bộ còn sách nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Ở một số khâu, bộ máy còn xảy ra tình trạng thiếu các phương tiện làm việc, dẫn đến sự quá tải, chậm chễ trong việc giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp.
- Nhà nước vẫn dồn một số lượng lớn vốn đầu tư vào các DNNVV trong khi các DNNVV được rất hạn chế. Quỹ bảo lãnh tín dụng được vận hành kém, không hiệu quả.
- Công tác quản lý doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh còn nhiều hạn chế, thường xuyên không thống kê được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, số các doanh nghiệp ngưng hoạt động và giải thể.
2.4.3.2 Từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Phần lớn các DNNVV chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và còn thiếu kế hoạch kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể.
- Các DNNVV còn lúng túng trong việc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một ngành nghề để cùng nhau phát triển. Hoạt động của một số các Hiệp hội DNNVV còn thiếu hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu.
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
3.1 Định hướng và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
3.1.1 Những yếu tố tác động tới sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cơ hội và thách thức.
3.1.1.1 Tình hình quốc tế.
Kinh tế thế giới trong hai năm trở lại đây đang ở trong tình hình khủng hoảng nặng nề. Tất cả các nước đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc thoát ra khỏi khủng hoảng. Viễn cảnh nền kinh tế thế giới còn ảm đạm trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đánh giá chung thì nền kinh tế thế giới sẽ dần được phục hồi và phát triển, sẽ mang lại những cơ hội và thách thức mới.
Quá trình hội nhập toàn cầu và khu vực nhất là sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO dẫn đến việc xuất hiện nhanh chóng các cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như các thách thức trong cạnh tranh quốc tế đối với sự phát triển của công đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng.
Các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới không ngừng được phát minh và đưa vào thực tế sản xuất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
3.1.1.2 Tình hình trong nước.
Nước ta được thế giới đánh giá cao về sự ổn định cao về kinh tế - xã hội; nền kinh tế thị trường bước đầu được hình thành và vận hành có hiệu quả.
Chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng được phát triển bình đẳng, cam kết tạo điều kiện mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đã bắt đầu thích nghi với hội nhập.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng trong các năm qua, một số tập đoàn xuyên quốc gia đã có mặt tại Việt Nam, đây là một trong những yếu tố kích thích phát triển doanh nghiệp trong nước thông qua tiếp quản kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ,…
3.1.1.3 Những thách thức đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới.
Tuy đã đạt được một số thành tựu trong việc phát triển kinh tế xong thực tế xuất phát điểm của Việt Nam còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng (đường xá, thông tin liên lạc, điện nước..) còn thiếu và yếu; mặt bằng sản xuất kinh doanh còn nhỏ bé lại xen lẫn các khu dân cư dẫn đến khó cung cấp các tiện ích công cộng và cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khung pháp lý hỗ trợ đối với các DNNVV đã có xong vẫn chưa hoàn thiện, chưa được xây dựng một cách đẩy đủ. Các văn bản còn nhiều mâu thuẫn nhau, có khi mâu thuẫn giữa luật và các văn bản dưới luật.
Thị trường nội địa kém phát triển và chưa hoàn chỉnh, tuy nhu cầu của dân cư là rất lớn, nhưng thu nhập hiện nay lại chưa cao nên các doanh nghiệp có ít cơ hội để đầu tư phát triển.
Thiếu sân chơi bình đẳng cho các DNNVV phát triển, điều này thể hiện ở điểm Nhà nước vẫn giành nhiều ưu đãi hơn đối với các DNNN, gây tâm lý đối với các chủ doanh nghiệp.
Hội nhập quốc tế khiến các doanh nghiệp phải chịu nhiều cạnh tranh hơn. Nhưng so sánh với các doanh nghiệp quốc tế thì DNNVV của Việt Nam thua thiệt về mọi mặt, khiến cho họ khó lòng cạnh tranh nếu như không có một cơ chế hỗ trợ kịp thời.
Cải cách hành chính nhà nước diễn ra chậm, thiếu kiên quyết, bộ máy hành chính nặng nề hoạt động kém hiệu quả khiến các doanh nghiệp gặp nhiêu khó khăn khi giải quyết các vấn đề liên quan.
3.1.2 Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước.
Theo Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm 2006 – 2010, quan điểm của Nhà nước ta về phát triển DNNVV như sau:
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển.
- Phát triển DNNVV theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Phát triển DNNVV gắn với các mục tiêu quốc gia, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Chú trọng phát triển DNNVV ở cá c vùng xâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, ưu tiên phát triển các DNNVV do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người tàn tật, … làm chủ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển DNNVV đầu tư sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.
- Hoạt động hỗ trợ của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các DNNVV.
- Gắn hoạt động kinh doanh với bảo vệ môi trường, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
- Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.3 Mục tiêu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Số doanh nghiệp thành lập mới khoảng 320.000 (hàng năm tăng khoảng 20%).
- Tỷ lệ doanh nghiệp mới thành lập tại các tỉnh khó khăn là 15% đến năm 2010.
- Tỷ lệ trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3% - 6% trong tổng số các DNNVV.
- Có thêm 165.000 lao động kỹ thuật làm việc tại các DNNVV.
3.2 Các nhóm giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3.2.1 Tăng cường quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Từ nhận thức, quản lý của Nhà nước là sự tác động của Nhà nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung, doanh nghiệp nói riêng, bằng hệ thống luật pháp, chính sách tổ chức, các chế tài về kinh tế - tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế - chính trị - xã hội đất nước. Ở mỗi quốc gia nền kinh tế thị trường có sự giống nhau là đều chịu sự tác động và chi phối của các quy luật kinh tế và các quy luật đặc thù của xã hội đó. Nhà nước nhận thức, vận dụng các quy luật đố vào quản lý điều hành nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện. Tùy bản chất kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và trình độ khác nhau về sự nhận thức, vận dụng các quy luật kinh tế của Nhà nước mà nền kinh tế của nước đó phát huy hiệu lực và hiệu quả khác nhau. Song cũng có sự khác nhau cơ bản xuất phát từ bản chất của mỗi quốc gia.
Như vậy, việc vận hành cơ chế quản lý nhà nước ở nước ta đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và DNNVV nói riêng, không nằm ngoài những chính sách và cơ chế quản lý phải:
- Một là, khuyến khích được những nhân tố tích cực trong đội ngũ doanh nhân nước ta – lực lượng chủ yếu làm giàu cho dân, cho nước.
- Hai là, phát hiện, hạn chế những mặt sai trái của cơ chế thị trường, kịp thời phát hiện và sử lý những hành vi, vi phạm pháp luật, gây nên những tiêu cực tổn hại cho nền kinh tế.
Căn cứ vào thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay, yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với DNNVV là:
- Thứ nhất, tập trung sức để phát triển mạnh và xã hội hóa lực lượng sản xuất, từng bước chuyển nền kinh tế nước ta từ kém hiệu quả phát triển lên phát triển ổn định vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thứ hai, tập trung xây dựng nội lực trong xu hướng hội nhập. Đây là tiền đề và là điều kiện để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2.1.1Nội dung tăng cường quản lý nhà nước.
Hiện nay, còn những vấn đề tồn tại, nổi cộm trong cơ chế quản lý nhà nước và tổ chức bộ máy quản lý đối với các DNNVV. Vấn đề đặt ra là cần phải đạt sự thống nhất chung về chủ trương xóa bỏ cơ chế cấp hành chính chủ quản đối với các tổ chức kinh tế, trong đó có DNNVV, trên cơ sở thống nhất về nội dung quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng. Nhà nước cần thực hiện vai trò chủ thể trong quản lý đối với nền kinh tế - xã hội bằng những văn bản được thể chế hóa về pháp luật một cách thống nhất, đồng bộ, ổn định và rõ ràng.
Để khắc phục những vấn đề còn tồn tại, nổi cộm trong quản lý nhà nước trong thời gian qua, nội dung quản lý Nhà nước đối với DNNVV bao gồm những vấn đề sau đây:
Xây dựng chiến lược phát triển các DNNVV ở Việt Nam trong từng thời kỳ, gắn chặt với các quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ thể về phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực nói riêng.
Tiếp tục xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNNVV phù hợp với tình hình kinh tế mới bám sát định hướng mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn và tùy theo đặc điểm của từng loại doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ của từng ngành, từng lĩnh vực. Đặc biệt chú ý khuyến khích các phát triển các DNNVV trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đồng thời khuyến khích phát triển các loại hình DNNVV trong một số ngành nghề truyền thống, có khả năng xuất khẩu cao.
Hoàn thiện một số chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn hiện nay cho DNNVV như: tăng sức mua của dân cư, khuyến khích xuất khẩu; chính sách đất đai và mặt bằng kinh doanh với đầy đủ quyền sử dụng để doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài; phát triển các Quỹ Bảo lãnh tín dụng ở một số vùng khó khăn; ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp mới khởi sự.
Xây dựng, ban hành, hướng dẫn và thực hiện các quy chế liên kết giữa DNNVV và các doanh nghiệp lớn, giữa các DNNVV với nhau để nâng cao tính cộng đồng, bảo vệ lợi ích quốc gia và lợi ích của chính các doanh nghiệp.
Đẩy mạnh việc hình thành các trung tâm hỗ trợ DNNVV ở các địa phương, từ đó tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp về chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật…
Xây dựng cơ chế chính sách để theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để kịp thời chỉ đạo hướng dẫn các doanh nghiệp trong lúc khó khăn.
3.2.1.2 Nâng cao năng lực cho các cơ quan tổ chức trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
-Ở cấp Trung ương: Theo Nghị định 90/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp DNNVV, Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (nay đổi tên thành Cục phát triển doanh nghiệp) là cơ quan trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển DNNVV, định hướng công tác xúc tiến DNNVV, xây dựng hoặc tham gia xây dựng các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về xúc tiến DNNVV và trình cấp có thẩm quyền ban hành… Tuy nhiên, để đảm đương nhiệm vụ được quy định trong Nghị định 90/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ cần phải được tăng cường năng lực về nhiều mặt như: bổ sung cán bộ có trình độ, đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ Cục cũng như cả hệ thống trợ giúp từ Trung ương đến địa phương để có thể thích ứng trước tình hình mới. Hỗ trợ các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ Cục.
- Ở cấp địa phương: Tăng cường năng lực quản lý điều hành của Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Yêu cầu các tỉnh nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội các DNNVV để tạo ra được chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh; nâng cao sự gắn kết giữa các doanh nghiệp với nhau.
3.2.2 Tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các doanh doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay, vốn là một vấn đề then chốt giúp các doanh nghiệp phát triển. Không có vốn các doanh nghiệp không thể đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng lao động để từ đó nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Đặc biệt, trong thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay, bài toán vốn cho sản xuất kinh doanh của các DNNVV lại càng khó khăn. Vấn đề mấu chốt ở đây đó là làm sao để các doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay, giảm bớt thời gian vay vốn để có thể mau chóng đưa vốn vào sản xuất.
3.2.2.1 Phương hướng hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tăng cường hỗ trợ tính dụng cho các DNNVV, trước hết cần nhất quán một số quan điểm chung như sau:
Một là, cần thiết và tất yếu phải tăng cường hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV, bởi vì các doanh nghiệp này có vai trò vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiếm một tỷ lệ lớn trong nền kinh tế, nhưng quy mô còn nhỏ bé, thu hút lực lượng lao động lớn nhưng chủ yếu lại là lao động chưa qua đào tạo, trình độ hạn chế, sản xuất kinh doanh chưa phát triển lại ở trong vị thế bất lợi vì thiếu vốn.
Hai là, phải có sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng giữa các DNNVV với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Ba là, thủ tục vay vốn cần được giảm thiểu, đơn giản, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng các phương án kinh doanh khả thi để làm cơ sở vay vốn.
Bốn là, trong trường hợp thật sự cần thiết có thể có chính sách ưu đãi tín dụng đối với các DNNVV, như ưu đãi lãi suất, ưu đãi thời gian trả nợ…còn nói chung nên hỗ trợ tư vấn, về đào tạo, về thông tin tạo khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng, không ưu đãi kiểu bao cấp.
Năm là, thành lập hệ thống bảo lãnh tín dụng để giúp cho các doanh nghiệp khắc phục điều kiện vay vốn, khi doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp.
3.2.2.2 Giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hỗ trợ tín dụng đối với các DNNVV là một yêu cầu khách quan, rất cấp bách hiện nay, nhưng để việc hỗ trợ hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự tác động một cách đồng bộ của các loại chính sách hỗ trợ khác. Cần có sự phân loại, tập trung hỗ trợ cho các DNNVV một cách thiết thực và hiệu quả.
3.2.2.2.1 Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các DNNVV phải xây dựng phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cao làm cơ sở vay vốn, do đó các DNNVV cần phải chú ý nguyên tắc 5C sau đây:
5C – Character, Capacity, Capital, Collateral, Conditions.
- Tính cách (Character): đó là các vấn đề như động cơ huy động vốn, lịch sử tín dụng và thành tích kinh doanh trong các năm trước khi huy động vốn là tốt.
- Khả năng trả nợ (Capacity): hay phương án kinh doanh khả thi. Phương án đầu tư được đề xuất có doanh thu lớn hơn chi phí, có lãi và có khả năng trả nợ. Như vậy, muốn huy động được vốn, bản thân các doanh nghiệp cần phải có các phương án đầu tư khả thi – là các phương án có khả năng thực hiện và thực hiện có hiệu quả.
- Tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn đầu tư (Capital): tỷ lệ này từ 50% trở lên thì các doanh nghiệp rất dễ dàng huy động vốn. Với những phương án đầu tư có triển vọng thì tỷ lệ này có thể ít hơn.
- Thế chấp (Collateral): Thông thường để huy động một đồng vốn thì doanh nghiệp phải thế chấp một đồng vốn. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn tín dụng, các ngân hàng thường chỉ cho vay từ 70% -80% giá trị tài sản thế chấp. Đây được coi là một cản trở cho đầu tư của doanh nghiệp. Nó làm hạn chế năng lực tài chính của doanh nghiệp khiến các doanh nghiệp không thể thực hiện được các dự án có quy mô tối ưu.
- Các điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường cho việc huy động vốn (Conditions): đó là các điều kiện về thị trường, pháp lý, ngành, vùng, trong nước và quốc tế… càng thuận lợi thì việc huy động vốn càng dễ dàng.
3.2.2.2.2 Đối với các ngân hàng
Cơ chế thế chấp, tín chấp cần có sự đổi mới, chỉnh sửa pháp lệnh về đăng ký giao dịch đảm bảo. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức đảm bảo bằng các khoản phải thu của doanh nghiệp chỉ cần doanh nghiệp cam kết thu tiền hàng qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản của doanh nghiệp mở tại ngân hàng. Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách trích trừ vào tại khoản của doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp do thiếu thông tin nên chưa am hiểu các điều kiện và thủ tục vay của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng phải mở rộng thông tin, hướng dẫn thủ tục cho doanh nghiệp trên các phương tiện truyền thông hoặc qua các cuộc hội thảo,…
Trợ giúp các doanh nghiệp trong khâu lập dự án kinh doanh: Các ngân hàng có thể trực tiếp gửi cán bộ tín dụng xuống trợ giúp các doanh nghiệp trong quá trình lập dự án kinh doanh.
Nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm dịch vụ cho vay ưu đãi hơn đối với các DNNVV.
3.2.2.2.3 Đối với Nhà nước
Tiếp tục xây dựng, bổ sung và hòan thiện hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý minh bạch, tạo điều kiện cho các DNNVV để tiếp cận các nguồn vốn tín dụng thuận lợi.
Phát triển thị trường tín dụng thuê mua. Tín dụng thuê mua là một hình thức đầu tư cơ bản, là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng, nhưng vì tài sản sử dụng thuộc quyền sở hữu của Công ty thuê mua nên trong thực tế các doanh nghiệp thuê quyền sử dụng. Đây là thuận lợi cho các DNNVV ít vốn hoặc không có tài sản thế chấp dễ dàng có được tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh.
3.2.3 Đổi mới các chính sách về đất đai và mặt bằng kinh doanh cho doanh nghiệp.
Yêu cầu đổi mới chính sách đất đai đối với DNNVV nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, đồng thời phải thúc đẩy quá trình vận động và sinh lời của đất đai, mặt khác phải đảm bảo giữ gìn kỷ cương, pháp luật. Để hỗ trợ các DNNVV, việc hoàn thiện chính sách đất đai phải thực hiện một số vấn đề sau:
Nhà nước đứng ra thiết lập một thị trường bất động sản (trong đó có chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai). Cho phép các đối tượng sử dụng đất đai được chủ động sử dụng theo cơ chế thị trường và pháp luật quy định. Thiết lập một khung giá đất chung phù hợp với cơ chế thị trường.
Ban hành các văn bản dưới luật không được gây sự khó hiểu, không chồng chéo và mâu thuẫn nhau.
Thúc đẩy cải cách thủ tục, rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho doanh nghiệp.
Xúc tiến xây dựng các quy hoạch tổng thể phát triển từng địa phương để từ đó có căn cứ cho các DNNVV đầu tư phát triển.
Đối với đất ở trung du và miền núi, nhất là những vùng xâu, vùng xa nên giảm mức thuế, tăng thời gian cấp đất được sử dụng để khuyến khích các DNNVV đầu tư vốn. Kèm theo đó là việc xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút các chủ doanh nghiệp đầu tư sản xuất.
Nhà nước cần phải thực hiện kiểm kê toàn bộ đất đai và nhà ở do khu vực kinh tế nhà nước quản lý, sử dụng. Đến nay, vẫn còn hàng vạn mét vuông đất bỏ hoang, hàng vạn mét vuông nhà, xưởng chưa được sử dụng. Tạo điều kiện về cơ chế cho DNNVV thuê lại theo một hợp đồng chặt chẽ là việc làm có lợi cho cả doanh nghiệp, Nhà nước và toàn xã hội.
Tạo ra quỹ đất để giải quyết nhu cầu cho các DNNVV. Tránh tình trạng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xen kẽ với các nhà dân, vừa khó quản lý, vừa hạn chế cung cấp các dịch vụ công cộng.
3.2.4 Cải cách hệ thống thuế hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong sản xuất kinh doanh.
3.2.4.1 Yêu cầu đối với hệ thống thuế
Thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của các DNNVV, một hệ thống thuế đầy đủ và hoàn chỉnh sẽ giúp các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác, nghiêm túc hơn, kích thích các doanh nghiệp phát triển. Do đó, hệ thống thuế cần hướng tới:
Xây dựng hệ thống thuế hoàn chỉnh phù hợp với các cam kết hội nhập trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành hội nhập với thế giới và khu vực một cách sâu rộng kèm theo đó là hàng loạt những quy định về mở cửa thị trường, giảm thuế đối với các mặt hàng khác nhau. Một chính sách thuế phù hợp với những cam kết hội nhập sẽ giúp DNNVV thuận lợi hơn trong quá trình kinh doanh trên thị trường nước ngoài, hạn chế được sự kiện tụng, tranh chấp có thể gây bất lợi cho các DNNVV.
Đảm bảo việc xây dựng các chính sách thuế phải thực tiễn, đảm bảo tính khả thi, đặc biệt phải phù hợp với đối tượng nộp thuế.
Thuế phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thi hành. Cần giảm thiểu tính phức tạp của hệ thống chính sách thuế, đảm bảo cho người thu thuế và người nộp thuế đều hiểu các quy định một cách cụ thể, chính xác, thống nhất.
Đảm bảo công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Tính công bằng thể hiện ở mức huy động thuế phải phù hợp với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế. Không phân biệt đối xử, nhưng không có nghĩa là mọi doanh nghiệp đều phải ngang nhau mà phải có phương thức hợp lý, để các doanh nghiệp tự nguyện nộp thuế.
Giảm bớt số lượng các loại thuế không phù hợp gây khó dễ cho doanh nghiệp.
3.2.4.2 Cải cách hệ thống thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngoài những biện pháp đổi mới chính sách thuế đối với doanh nghiệp nói chung, chính sách thuế đối với DNNVV cần đi theo hướng: đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các loại quy mô khác nhau; xác định rõ đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi, đồng thời phải có các chính sách hỗ trợ DNNVV…
Chính sách thuế ưu đãi cần xác định đúng đối tượng và tiêu thức ưu đãi, ngoài việc nuôi dưỡng được nguồn thu và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích lũy để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô, việc ưu đãi cần hướng tới tính hiệu quả kinh tế, đầu tư chiều sâu, hiện đại hóa công nghệ, bảo vệ môi trường.
Tăng mức độ ưu đãi cho các DNNVV từ 4-5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào công nghệ sản xuất sản phẩm mới.
Chính sách thuế cho các DNNVV nên được đặt trong hệ thống chính sách hỗ trợ DNNVV nói chung để tạo được tác động tổng hợp thúc đẩy sự phát triển DNNVV ở nước ta.
Mở rộng hoạt động tuyên truyền về thuế, nhất là khi có sự thay đổi trong chính sách thuế.
3.2.5 Xúc tiến thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Một khó khăn của các DNNVV trong kinh doanh đó là thiếu thông tin về thị trường, đặc biệt là các thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp có thể hướng đến. Ngoài ra, việc quảng bá sản phẩm của các DNNVV là hạn chế bởi nguồn lực không đủ. Do đó, xúc tiến thương mại cho các DNNVV cần tập trung một số điểm như sau:
Tổ chức giới thiệu sản phẩm hàng hóa của DNNVV thông qua triển lãm trong và ngoài nước, nhất là các thị trường còn tiềm ẩn, chưa có cơ hội làm ăn. Hỗ trợ tư vấn thông tin về các thị trường nước ngoài cho các DNNVV. Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp với nhau trong việc tìm kiếm và tiếp cận các thị trường khác nhau.
Đào tạo bồi dưỡng kỹ năng hội nhập thị trường trong và ngoài nước để các doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với điều kiện hội nhập.
Cung cấp các ấn phẩm cần thiết về thị trường và hội nhập cho lãnh đạo các doanh nghiệp.
3.2.6 Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo lao động kỹ thuật, lãnh đạo.
Do hạn chế về quy mô cũng như nguồn vốn, các DNNVV rất khan hiếm lao động có trình độ để có thể nâng cao năng suất, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác cùng ngành và các doanh nghiệp nước ngoài. Hỗ trợ DNNVV trong đào tạo lao động kỹ thuật cần thực hiện một số điểm sau:
Nhà nước cân tăng cường hơn nữa nguồn vốn đầu tư cho việc đào tạo lao động cho doanh nghiệp, nhất là lao động kỹ thuật có trình độ cao. Đánh giá chương trình hỗ trợ đào tạo lao động cho các DNNVV giai đoạn 2004 – 2008 để từ đó tiếp tục xây dựng chương trình hỗ trợ đào tạo giai đoạn tiếp, trong đó nhấn mạnh việc thay đổi giáo trình, phương pháp dạy và các thiết bị phục vụ cho việc dạy học phù hợp với điều kiện hiện nay.
Cần sự phối hợp giữa các ngành, các cấp để xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các trường dạy nghề, các trường đại học với doanh nghiệp. Mục đích chính là đào tạo các sinh viên thuần thục các kỹ năng cần thiết để có thể làm việc, giảm bớt thời gian đào tạo lại gây lãng phí về nguồn lực.
Mở rộng các khóa đào tạo ngắn hạn kỹ năng quản lý cho người lãnh đạo các DNNVV.
3.2.7 Tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với các doanh nghiệp lớn.
Mối liên kết giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã được hình thành song còn lỏng lẻo thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa hai bên. Theo đó, tăng cường mỗi liên kết giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn cần thực hiện như sau:
Quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp lớn phải trợ giúp các DNNVV trong một ngành về công nghệ, quản lý, phối hợp với DNNVV để hình thành nên đầu mối cung cấp các sản phẩm phụ trợ cho doanh nghiệp lớn.
Thiết lập các cuộc hội thảo có sự tham gia của doanh nghiệp lớn và DNNVV để xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành và giữa các ngành với nhau.
3.2.8 Phát triển các Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV là hết sức cần thiết xong thực trạng hoạt động hiện nay của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng là không hiệu quả, cần có sự đổi mới theo hướng sau:
Rà soát lại hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng hiện có, thực hiện đánh giá và cơ cấu lại các Quỹ hoạt động không hiệu quả.
Trợ giúp các Quỹ Bảo lãnh tín dụng về nguồn nhân lực để hoạt động có hiệu quả hơn.
Phát triển các Quỹ tín dụng tại các địa phương có sự tham gia góp vốn của các doanh nghiêp trong địa bàn.
Thường xuyên thanh tra, kiểm tra hoạt động của Quỹ để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đặt ra của Quỹ, giao công tác thanh tra cho địa phương phối hợp cùng với doanh nghiệp
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cả nước nói chung, các DNNVV đã không ngừng lớn mạnh và trở thành một thành phần kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Với số lượng đông đảo, chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động trong cả nước các DNNVV đã và đang đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển của đất nước. Sự phát triển mạnh mẽ của các DNNVV trong thời gian quan không những mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNNVV đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của các DNNVV, Đảng và Chính phủ đã có những chính sách hỗ trợ các DNNVV phát triển trong thời gian qua. Đứng trước bối cảnh hội nhập và phát triển, sự khó khăn trong sản xuất – kinh doanh của các DNNVV do chịu tác động của khủng hoảng kinh tế đòi hỏi phải có chính sách mới hỗ trợ các DNNVV vượt qua được khó khăn trước mắt, tiếp tục phát triển.
Bằng những kiến thức đã học tại khoa Kế hoạch và Phát triển, cùng thười gian thực tập thực tế tại Cục Phát triển Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư và sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo – TS. Nguyễn Ngọc Sơn và sự chỉ bảo của cán bộ hướng dẫn – KS. Vũ Xuân Thuyên (Chuyên viên cao cấp, Cục Phát triển Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Giải pháp tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015”. Chuyên đề đã hệ thống những vấn đề lý luận chung về DNNVV và hỗ trợ phát triển DNNVV, phân tích thực trạng phát triển DNNVV ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để trợ giúp phát triển DNNVV. Tuy nhiên, do thời gian có hạn cũng như năng lực còn hạn chế nên chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi một số thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, chú Vũ Xuân Thuyên cũng như toàn thể các bạn để chuyên đề này được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo thường niên doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2008 của Cục Phát triển Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006 – 2010) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Bài viết “Khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam nhìn từ góc độ hiệu của chính sách” của PGS.TS. Nguyễn Đình Tài – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
4. Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
5. Luật Doanh nghiệp 2005
6. Luật sửa đổi đất đai Việt Nam 2004.
7. Website: www.mpi.gov.vn, www.business.gov.vn, …
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21215.doc