Giải pháp tăng cường công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - Xã hội của huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La giai đoạn 2011-2015

Tài liệu Giải pháp tăng cường công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - Xã hội của huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La giai đoạn 2011-2015: ... Ebook Giải pháp tăng cường công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - Xã hội của huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La giai đoạn 2011-2015

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - Xã hội của huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La giai đoạn 2011-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Một thời gian dài, Việt Nam duy trì một nền kinh tế tập trung bao cấp với sự điều tiết nền kinh tế thông qua các pháp lệnh từ trung ương. Các hoạt động của cấp địa phương đều tiến hành theo những chỉ tiêu cụ thể do nhà nước giao. Ngày nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước thì yêu cầu đặt ra là phải đổi mới các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô chủ yếu, đặc biệt là công tác kế hoạch hóa. Công tác kế hoạch hóa là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng và có tác động đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong công tác kế hoạch hóa thì theo dõi và đánh giá là một công cụ quản lý của nhà nước nhằm giúp giám sát và điều chỉnh kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Huyện Phù Yên là một huyện nghèo của tỉnh Sơn La, nền kinh tế chậm phát triển và còn phụ thuộc nhiều vào sự trợ cấp của nhà nước. Công tác kế hoạch hóa vẫn là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng nền kinh tế của huyện, giúp huyện nhận biết được các nguồn lực và đặt ra các mục tiêu phát triển. Trong công tác kế hoạch hóa của huyện thì khâu lập kế hoạch thường rất đúng qui trình, nội dung và phương pháp của một bản kế hoạch thông thường. Nhưng khi phòng kế hoạch tổng hợp những đánh giá về tiềm năng và thực trạng, chỉ tiêu đề ra của từng nghành, từng xã thường thiếu khâu kiểm tra sự chính xác, sự phù hợp với thực tế. Các chỉ số và chỉ tiêu cho từng lĩnh vực, từng ngành tuy đã được xây dựng đầy đủ nhưng thường không sát với thực tế của địa phương dẫn đến khi thực hiện thường gặp nhiều khó khăn. Dẫn đến khi phòng kế hoạch xây dựng bản kế hoạch 5 năm, 1 năm thường không có nhiều căn cứ để so sánh, các mục tiêu thường không rõ ràng. Ở huyện hiện nay, công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch được thể hiện thông qua các báo cáo của các cơ quan trong từng lĩnh vực, các xã theo từng quí, từng năm. Từ những số liệu trong báo cáo đó, huyện lấy làm căn cứ để đánh giá các mục tiêu trong từng lĩnh vực, của từng xã theo từng giai đoạn. Như vậy, công tác kế hoạch hóa của huyện đã có nhiều điểm còn tồn tại ngay từ khâu lập kế hoạch khi không đề ra được một hệ thống chỉ số để so sánh, không có một bộ phận chuyên trách về theo dõi và đánh giá từng lĩnh vực. Nguyên nhân, phòng kế hoạch – tài chính là cơ quan chuyên trách của huyện về công tác kế hoạch hóa nhưng thiếu bộ phận có chức năng theo dõi và đánh giá. Ngoài ra tại huyện khi lập kế hoạch tuy có sự tham gia của cộng đồng nhưng sự đóng góp ý kiến về các mục tiêu, lĩnh vực vẫn còn ít, thường không chính xác với tình hình địa phương. Từ những lý do đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu ” GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI CỦA HUYỆN PHÙ YÊN – TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN 2011 – 2015”. Bài viết kết cầu gồm 3 chương: CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận cho công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. CHƯƠNG II: Thực trạng công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch 5 năm tại huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La giai đoạn 2006 – 2010. CHƯƠNG III: Định hướng và các giải pháp đổi mới công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển tại huyện Phù Yên – tỉnh Sơn La. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Hoa, đồng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và phát triển đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm tài liệu và viết bài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng xong không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong có được sự đóng góp ý kiến từ người đọc. Tôi xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TD&ĐG: Theo dõi và đánh giá KTXH: Kinh tế - xã hội KHH: Kế hoạch hóa PTĐP: Phát triển địa phương MỤC LỤC CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Xà HỘI 5 NĂM I.Một số vấn đề cơ bản về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1. Phân biệt kế hoạch hóa và kế hoạch 1.1 Khái niệm Kế hoạch: Được hiểu theo cách chung nhất là sự thể hiện mục đích, kết quả cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai. Cách hiểu này đúng cho tất cả các loại kế hoạch, có thể là kế hoạch cho một hoạt động, một công việc, một dự án; có thể là kế hoạch cho sự phát triển tương lai của một các nhân, gia đình hay của một tổ chức xã hội… Kế hoạch hóa: Là phương thức quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế, các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những mục tiêu thống nhất; dự kiến trước phương hướng cơ cấu, tốc độ phát triển và có những biện pháp tương ứng bảo đảm thực hiện, nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. 1.2. Những điểm khác biệt của kế hoạch hóa và kế hoạch Kế hoạch hóa là sự tác động có ý thức của chính phủ, cơ quan nhà nước vào nền kinh tế, nhằm định hướng và điều khiển sự biến đổi của những biến số kinh tế chính. Công tác kế hoạch hóa bao gồm các bộ phận cấu thành mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: Chiến lược phát triển KTXH, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển, chương trình và dự án phát triển. Như vậy, kế hoạch hóa là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận, còn công tác kế hoạch chỉ là một bộ phận nằm trong hệ thống kế hoạch hóa. Còn công tác kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai, là nhịp cầu nối từ hiện tại tới chỗ chúng ta muốn đến trong tương lai. Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó xác định một cách hệ thống những hoạt động nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo những mục tiêu, chỉ tiêu và các cơ chế chính sách được sử dụng trong một thời kỳ nhất định. Công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường đang được cải tiến dần theo hướng chuyển từ hoạch hoá tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hoá gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, các công cụ kinh tế vĩ mô để dẫn đến nền kinh tế theo định hướng đề ra cho từng giai đoạn. Ở công tác kế hoạch hóa, cơ quan nhà nước chú trọng hơn vào việc nghiên cứu chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn, trung hạn, bảo đảm các quan hệ cân đối tổng hợp nền kinh tế và xây dựng chính sách, biện pháp để xây dựng kế hoạch nhà nước đề ra. Nhà nước cũng có thể triển khai thực hiện kế hoạch thông qua các chương trình mục tiêu, các dự án cụ thể. Công tác kế hoạch hiện nay là sự cụ thể hoá của chiến lược và quy hoạch phát triển, là một công cụ định hướng được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu, mục tiêu, các biện pháp và các giải pháp, chính sách cơ bản áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Kế hoạch phát triển bao gồm kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch phát triển gồm có ba khâu quan trọng là: Lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, theo dõi và đánh giá. Sản phẩm của công tác lập kế hoạch là một văn bản cụ thể cung cấp kế hoạch chi tiết cho hoạt động trong tương lai, các chỉ tiêu, mục tiêu cho từng lĩnh vực, ngành hay tổng thể nền kinh tế. 2. Giới thiệu hệ thống kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội( theo nội dung) 2.1 Hệ thống kế hoạch hóa hiện nay Kế hoạch hóa, phân chia theo góc độ nội dung, bao gồm một hệ thống gồm có các bộ phận cấu thành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là: Chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển và các chương trình và dự án phát triển. Các bộ phận này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống thống nhất của KHH. Vì vậy, đối với các địa phương khi thực hiện các công tác KHH này phải đầy đủ các bộ phận và nội dung phải bổ sung cho nhau. Bảng 1: Hệ thống kế hoạch hóa phát triển KTXH theo nội dung Chiến lược phát triển Chương trình và dự án phát triển Kế hoạch phát triển Quy hoạch phát triển (Nguồn: Kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội – NXB ĐHKTQD) 2.2 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2.2.1 Tổng quan về kế hoạch phát triển Khái niệm và đặc trưng: Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó xác định một các hệ thống những hoạt động nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo những mục tiêu, chỉ tiêu và các cơ chế chính sách sử dụng trong một thời kỳ nhất định. Đặc trưng của kế hoạch được thể hiện thông qua sự so sánh với chiến lược: Tính phân đoạn của kế hoạch chặt chẽ hơn: Đó là khi xây dựng kế hoạch phải có khung thời gian rõ ràng, thời gian thực hiện kế hoạch thường được chia thành: 5 năm, 3 năm, hàng năm, quý, tháng. Trong những thời gian cụ thể ấy, chúng ta phải thực hiện được một số mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể nhằm thực hiện các bước đi của kế hoạch và chiến lược. Tính định lượng cụ thể hơn: Kế hoạch bao gồm cả mặt định tính và định lượng, nhưng mặt định lượng là đặc trưng cơ bản của kế hoạch. Tính định lượng của kế hoạch được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu phản ánh mục tiêu, kết quả, đầu ra hay hoạt động cần đạt được trong giai đoạn kế hoạch. Tính kết quả và hiệu quả rõ ràng hơn: Mục tiêu của chiến lược chủ yếu vạch ra các hướng phát triển chủ yếu còn mục tiêu của kế hoạch là sự thể hiện về kết quả. Do đó các mục tiêu, các chỉ tiêu của kế hoạch chi tiết hơn, đầy đủ hơn và trên một mức độ nào đó nó còn thể hiện một tính pháp lệnh, tính cam kết nhất định. Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển: Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được của thời kì kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được nhà nước sử dụng để thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. hiện nay có nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch: Đứng trên góc độ phạm vi quản lý, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu kế hoạch kế hoạch quốc gia như: Chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển kinh tế đất nước, các dự báo kinh tế - xã hội, các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, nguồn ngân sách chính phủ và tài chính nhà nước. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố bao gồm các chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển của vùng và ngân sách địa phương. hệ thống các chỉ tiêu phát triển của từng ngành, nội bộ ngành như công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông, bưu chính viễn thông. Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu kinh tế đặt ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những cân đối nguồn nhân lực chủ yếu. Các chỉ tiêu xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề như: Xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế, giáo dục và các mục tiêu xã hội khác. Đứng trên góc độ quản lý: Hệ thống kế hoạch có các chỉ tiêu pháp lệnh, các chỉ tiêu hướng dẫn và các chỉ tiêu dự báo. Chỉ tiêu pháp lệnh được chính phủ và quốc hội phê duyệt, trở thành bắt buộc phải hoàn thành trong thời kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu hướng dẫn thường mang tính định hướng hoạt động của các ngành, địa phương, các đơn vị kinh tế và dùng để phân tích so sánh đánh giá mức độ phát triển của các đối tượng kế hoạch. Các chỉ tiêu dự báo ở tầm vĩ mô làm cơ sở luận chứng cho chỉ tiêu pháp lệnh phê duyệt và được xem như các số liệu , thông tin kinh tế cho các đơn vị kinh tế, các ngành, các địa phương và các cơ quan có liên quan tham khảo. Theo phạm vi đơn vị đo lường: Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch gồm có các chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của sản xuất, được đo lường bằng các đơn vị đo hiện vật, có tác dụng xác định cụ thể quy mô của sản xuất và dịch vụ. Chỉ tiêu giá trị đo lường các nhiệm vụ, mục tiêu và quy mô phát triển của nền kinh tế dưới hình thái tiền tệ, nó được sử dụng để hình thành các cân đối vĩ mô, các con số phản ánh tổng hợp nội dung phát triển. 2.2.2 Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội a. Khái niệm và vị trí Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hóa các chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch xác định các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Kế hoạch 5 năm được xác định là trung tâm trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển, điều đó được giải thích bởi các lý do sau: Thông thường các dự án đầu tư bắt đầu có lợi tức sau 1 năm hoặc vài năm sau so với thời điểm bắt đầu xây dựng, vì vậy thời hạn 5 năm là khoảng thời gian đủ để có thể đánh giá chính xác hiệu quả các dự án đầu tư, hiệu ứng của các giải pháp, chính sách phát triển kinh tế xã hội. Yêu cầu của kế hoạch là phải xác định hệ thống chỉ tiêu một cách cụ thể, đo lường nhiệm vụ cần đạt được trong một thời kỳ nhất định, vì vậy những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường bảo đảm đưa ra những chỉ tiêu chính xác hơn, dể thực thi hơn những kế hoạch có thời gian dài hạn. Kế hoạch 5 năm thường được xác định trong một nhiệm kỳ Đại hội Đảng và trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ. Vì vậy coi kế hoạch 5 năm là trung tâm là quan điểm gắn lãnh đạo chính trị với lãnh đạo kinh tế, cho phép xác định rõ ràng hơn trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính trị và tạo thuận lợi cho việc đánh giá chính xác hiệu quả, hiệu lực của bộ máy lãnh đạo chính trị. b. Nội dung chủ yếu của kế hoạch 5 năm Nội dung chủ yếu của kế hoạch 5 năm cụ thể như sau: Phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá thực hiện kế hoạch thời kỳ trước: Nêu ra các tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh , nêu ra các điểm mạnh, điểm yếu, những yếu tố làm được và chưa làm được thời kỳ qua. Để đánh giá chính xác tiềm năng thực trạng phát triển làm cơ sở cho định hướng phát triển, cần đặt nó trong việc dự báo điều kiện môi trường hoàn cảnh trong nước và quốc tế của thời kỳ kế hoạch 5 năm. Xác định các phương hướng phát triển trong thời kỳ kế hoạch: Xây dựng hệ thống quan điểm phát triển, xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm. Các mục tiêu thường hướng tới bao gồm: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mục tiêu ổn định tài chính quốc gia tăng khả năng và tiềm lực tài chính, xử lý hài hòa tích lũy với tiêu dùng, tăng khả năng đầu tư; kiềm chế và khống chế lạm phát, bảo đảm giá trị đồng tiền, cải thiện cán cân thanh toán; tăng khả năng kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu và thu hút nguồn vốn bên ngoài, bảo đảm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, phát triển dân trí và nâng cao phúc lợi xã hội. Xác định các chương trình và các lĩnh vực phát triển. các vấn đề được đưa vào chương trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực sự phải là vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế . Các chương trình phát triển chính là cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của kỳ kế hoạch 5 năm. Để thực hiện các nội dung trên, nhất là xác định các chỉ tiêu kế hoạch cần phải dự báo nhiều phương án khác nhau, việc lựa chọn phương án cần trên cơ sở các mục tiêu đặt ra, gắn cụ thể với khả năng nguồn lực và theo quan điểm chủ động khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế đa thành phần sở hữu và mở cửa hội nhập. Xây dựng các cân đối vĩ mô và giải pháp lớn bao gồm các nội dung cơ bản sau: Thứ nhất là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: cân đối vốn đầu tư, cân đối xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đổi sức mua toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn cả trong nước và quốc tế, đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hóa, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số vật tư hàng hóa chủ yếu. Thứ hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện. c. Phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm Hiện nay nhiều nước đã áp dụng thành công phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm theo hình thái”cuốn chiếu”. Theo đó, kế hoạch 5 năm sẽ xác định các mục tiêu tổng thể, bao gồm kế hoạch chính thức 1 năm đầu, kế hoạch thực hiện dự tính cho năm thứ hai và dự báo kế hoạch cho các năm tiếp theo. Mức độ chi tiết, cụ thể và chính xác của nội dung kế hoạch của những năm sau phụ thuộc vào số lượng và độ tin cậy của thông tin có được. Kế hoạch 5 năm sẽ được xem xét vào thời gian cuối mỗi năm, khi ủy ban kế hoạch hoàn tất năm đầu kế hoạch, họ bổ sung những dự trù, những dự án, mục tiêu cho các năm tiếp theo. 2.2.3 Kế hoạch hàng năm phát triển kinh tế xã hội(kế hoạch hàng năm) a. Khái niệm và vị trí Kế hoạch hàng năm là bước cụ thể hóa kế hoạch 5 năm, là công cụ điều hành các hoạt động mang tính tác nghiệp thường niên của nền kinh tế nhằm thực hiện được mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Vai trò đầu tiên của kế hoạch hàng năm là cụ thể hóa kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước thực hiện kế hoạch 5 năm. Quy mô và và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ yếu bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, những tiến trình trong những nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ trước. Kế hoạch hàng năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng vai trò độc lập quan trọng nó có thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chưa được dự kiến trong kế hoạch 5 năm, bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hóa nói chung. b. Nội dung của kế hoạch hàng năm Kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Nó vừa là công cụ để ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thực hiện các mục tiêu phát triển của năm đó trong nội dung của kế hoạch định hướng 5 năm. Đây chính là kế hoạch thực hiện của năm hiện hành trong kế hoạch 5 năm. Nó cũng bao gồm các nhiệm vụ chủ yếu của năm, các mục tiêu và các chỉ tiêu phấn đấu về phát triển kinh tế - xã hội cũng như các chính sách và giải pháp chủ yếu áp dụng trong năm kế hoạch. Các nội dung mang tính tác nghiệp thường niên cần nhấn mạnh trong kế hoạch hàng năm, gồm có: Thứ nhất, là kế hoạch ngân sách, bao gồm kế hoạch thu chi ngân sách, cân đối ngân sách hàng năm và xử lý bội chi ngân sách. Thứ hai, là kế hoạch cung ứng tiền tệ. Thứ ba, kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lý cán cân thanh toán quốc tế, kế hoạch nợ(vay và trả nợ bên ngoài). Thứ tư, kế hoạch giải quyết việc làm: Xác định nhu cầu, khả năng cung ứng lực lượng lao động xã hội, các chỉ tiêu lao động, việc làm, khống chế thất nghiệp và chính sách giải quyết việc làm. Xây dựng kế hoạch hàng năm phải gắn chặt với công tác chỉ đạo điều hành, rõ nét nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan kế hoạch: đó là kế hoạch, tài chính, ngân hàng. 2.3 Qui trình của của công tác kế hoạch hóa phát triển KTXH 5 năm Công tác kế hoạch hóa hiện nay là một quy trình gồm 4 bước, có mối liên hệ và ràng buộc chặt chẽ với nhau. Trong qui trình kế hoạch hóa, công tác theo dõi và đánh giá là một bước trong qui trình, có tầm quan trọng đối với quá trình đánh giá bước lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Ngoài ra thông tin thu thập được của công tác theo dõi và đánh giá sẽ được sử dụng để định hướng cho việc lập kế hoạch tiếp theo. Bảng 2: Qui trình của công tác kế hoạch hóa hiện nay Thực hiện kế hoạch Tổng kết, báo cáo và sử dụng thông tin Lập kế hoạch Theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch (Nguồn: Kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội – NXB ĐHKTQD) II. Một số vấn đề cơ bản về theo dõi và đánh giá (TD&ĐG) trong qui trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội Khái niệm và vai trò của theo dõi và đánh giá 1.1 Khái niệm       a. Theo dõi là gì? Theo dõi là một thuật ngữ có nghĩa là ”nhìn”, phát hiện những gì đang tồn tại, và tìm ra những gì đang thực sự diễn ra. Đây chủ yếu là một qui trình nội bộ của hoạt động quản lý, được tiến hành nhằm theo dõi các quá trình một cách thường xuyên trong suốt thời gian thực hiện một dự án, chương trình, hay kế hoạch.         Có hai hình thức theo dõi phổ biến là: Theo dõi mức độ tuân thủ (theo dõi quá trình) : Để bảo đảm rằng các hành động đã dự kiến phải được thực hiện. Theo dõi tác động: Để đo lường tác động của một hoạt động đối với việc đạt được các mục tiêu  đã đề ra.  Mục  đích của theo dõi là cung cấp một cách kịp thời, chính xác và hợp lý các thông tin về những gì hiện đang xảy ra, qua đó các kế hoạch có thể được điều chỉnh và các nguồn lực được quản lý sao cho phù hợp nhất với những đòi hỏi và cơ hội của tình trạng thực tế.  Nó cũng ghi nhận một cách chi tiết những gì đang xảy ra nhằm phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình hay cho việc đánh giá trong tương lai. b. Đánh giá là gì?       Đánh giá là một quá trình nhằm xác định và phản ánh kết quả của những gì đã được thực thi, và xét đoán giá trị của chúng. Đánh giá có thể được thực  hiện bởi những người có trách nhiệm quản lý (tự đánh giá) hay bởi những người bên ngoài có liên quan (đánh giá có sự tham gia) hoặc cả hai. .       Nhiệm vụ của đánh giá là đi xa hơn theo dõi một bước, nó là qui trình phản ánh về những gì đã xảy ra và đang xảy ra nhằm mục đích học hỏi cho tương lai.  Nó bao gồm việc xác định những lý do của cả thành công và thất bại, và việc học hỏi từ đó. 1.2 Vai trò của theo dõi và đánh giá 1.2.1 Vai trò của theo dõi Hiện nay, theo dõi các kết quả thực hiện kế hoạch phát triển, chính sách hoặc chương trình một cách liên tục có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nhà quản lý. Bởi vì theo dõi sẽ cung cấp các thông tin liên tục về tình hình thực hiện các chỉ tiêu đã được đề ra trong kế hoạch, chính sach, chương trình về sự thay đổi, mức độ thay đổi, sự tiến triển. Việc theo dõi có thể giúp phát hiện ra các thay đổi ngoài ý muốn. Ngoài ra việc kiểm soát việc thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án có vấn đề gì, tình hình biến chuyển đến đâu cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Tất cả các thông tin thu được từ theo dõi có tầm quan trọng đặc biệt vì nhờ đó các nhà quản lý, các bên liên quan hiểu được liệu kế hoạch, chương trình dự án, chính sách đã đi theo hướng đã xác định chưa. Đồng thời việc xây dựng một hệ thống theo dõi các chỉ số, chỉ tiêu phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng cho việc đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án. 1.2.2 Vai trò của đánh giá Đánh giá và quá trình đánh giá một kế hoạch phát triển, chính sách hoặc chương trình đang diễn ra hoặc đã hoàn thành nhằm mục đích để xác định mức độ phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, tác động và khả năng duy trì nó. Từ việc đánh giá này chúng ta sẽ rút ra các bài học để phục vụ cho quá trình quyết định các kế hoạch, chính sách, chương trình mới. Đánh giá cũng hỗ trợ cho công tác theo dõi và việc theo dõi phục vụ cho công tác đanh giá, mặc dù chức năng thực hiện 2 nhiệm vụ này là khác nhau, tuy nhiên theo dõi và đánh giá có mối liên hệ mật thiết với nhau. Theo dõi đưa ra các thông tin về tiến độ thực hiện của một kế hoạch, một chính sách, chương trình hay dự án tại bất kỳ thời điểm nào cùng với các chỉ tiêu phấn đấu và kết quả tương ứng. Đánh giá cung cấp các bằng chứng và phân tích về việc tại sao các chỉ tiêu phấn đấu và kết quả dự kiến đạt được hoặc không đạt được. Đánh giá cho thấy rõ các nguyên nhân và đây là vấn đề quan trọng, gợi mở cho ta thấy cần phải làm gì, điều chỉnh chính sách, hay tăng cường điều hành để thực hiện mục tiêu… Đánh giá nâng cao hiệu quả của công tác theo dõi: Khi một hệ thống theo dõi cho chúng ta biết những tín hiệu về các nỗ lực đang thực hiện là không đúng. Các thông tin đánh giá đúng có thể giúp làm rõ tại sao lại xảy ra những việc này, từ đó có những điều chỉnh kịp thời. Một điều quan trọng ở đây cần nhấn mạnh là chức năng đánh giá của hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả là cả một quá trình liên tục, khác hẳn cách tiếp cận theo phương pháp đánh giá truyền thống là đánh giá sau khi sự việc đã xảy ra. 1.3 Sự bộ trợ giữa theo dõi và đánh giá Theo dõi và đánh giá là hai quá trình diễn ra độc lập, nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. trong quá trình thực hiện, hai quá trình này có sự bổ trợ cho nhau và được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Sự bộ trợ của công tác theo dõi với đánh giá Theo dõi Đánh giá - Báo cáo tiến độ thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách, dự án đang triển khai - Phân tích xem tại sao đạt được hoặc không đạt được các kết quả dự tính? -  Sự gắn kết các hoạt động và nguồn lực với các mục tiêu - Đánh giá những đóng góp từ các hoạt động vào kết quả đạt được - Xác định các chỉ số và chỉ tiêu có liên quan đến các mục tiêu. - Phân tích quá trình thực hiện các chỉ tiêu. - Thu thập dữ liệu các chỉ số, so sánh các kết quả thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch. -  Tìm ra các kết quả hay hệ quả ngoài dự kiến - Báo cáo về tiến độ cho nhà quản lý và cảnh báo về các vấn đề liên quan. - Đưa ra các bài học, điểm cần chú ý về các kết quả quan trọng cũng như các tiềm năng của chương trình, đồng thời có những đề xuất để tiếp tục cải thiện tình hình. Các phương pháp theo dõi và đánh giá Theo dõi và đánh giá thực hiện Theo dõi thực hiện kế hoạch phát triển KTXH là việc thu thập một cách liên tục và có hệ thống những thông tin về quá trình triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển KTXH là việc xem xét mức độ thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nào đó trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn thực hiện hoặc khi kết thúc kỳ kế hoạch và từ đó rút ra bài học cho việc lập kế hoạch tiếp theo. Chủ thể của theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển KTXH là các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kế hoạch và các bên có liên quan. Đối tượng của theo dõi và đánh giá là quá trình thực hiện kế hoạch với chủ yếu là các hoạt động, đầu vào và đầu ra. Theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch là hai hoạt động độc lập nhưng có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động theo dõi thu thập thông tin về tình hình thực hiện từng mục tiêu kế hoạch. Như vậy mục đích của theo dõi là mô tả lại quá trình thực hiện các mục tiêu. Còn mục đích của đánh giá là tập trung xem xét mức độ hoàn thành của mục tiêu. Xét về hiệu quả nếu làm tốt công tác theo dõi thì có thể phòng chống được các rủi ro có thể phát sinh và bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu đề ra hoặc kịp thời điều chỉnh mục tiêu kế hoạch nào đó nếu có nguy cơ không đạt hay có diễn biến bất thường trong nền kinh tế. Theo dõi và đánh giá dựa theo kết quả: TD&ĐG dựa theo kết quả là một quá trình liên tục thu thập và phân tích số liệu về các chỉ số theo dõi để so sánh với các kết quả dự định, xem xét mức độ thực hiện của các mục tiêu kế hoạch. Đối tượng của TD&ĐG dựa trên kết quả bao gồm các hoạt động, đầu vào như nguồn lực tài chính, nguồn lực để thực hiện các kế hoạch và các đầu ra của kế hoạch, kết quả và tác động của thực hiện kế hoạch dựa trên mối liên hệ logic giữa các chỉ số giám sát. Cơ sở của TD&ĐG dựa trên kết quả là lý thuyết về quản lý dựa trên kết quả phát triển. Quản lý dựa trên kết quả phát triển là một chiến lược hay phương pháp mà các tổ chức sử dụng để đảm bảo rằng các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ của mình góp phần vào việc đạt được kết quả mong muốn. Trong quản lý dựa trên kết quả phát triển có sử dụng chuỗi kết quả bao gồm: Tác động: Là những thay đổi mang tính dài hạn trong cuộc sống người dân hoặc trong các tổ chức/ đoàn thể nhờ vào việc sử dụng các đầu ra. Tác động thường là những thay đổi có ảnh hưởng đến một bộ phận đông đảo người dân hoặc nhiều lĩnh vực xã hội. Kết quả: Là thay đổi ngắn hạn và trung hạn đạt được hoặc có khả năng đạt được do sử dụng các đầu ra. Kết quả không hoàn toàn phụ thuộc vào sự kiểm soát của các cơ quan cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Đầu ra: Là các hàng hóa và dịch vụ do một hoạt động tạo ra.đầu ra hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của cơ quan cung cấp hàng hóa và dịch vụ đó. Hoạt động: Là công việc thực hiện mà thông qua đó các đầu vào như vốn, hỗ trợ kỹ thuật và các loại nguồn lực khác được huy động để tạo ra các đầu ra cụ thể. Đầu vào: Nguồn lực tài chính, nhân lực và nguyên vật liệu cần thiết để tạo ra những đầu ra dự kiến thông qua việc thực hiện các hoạt động theo kế hoạch. Chuỗi kết quả cho thấy các hoạt động, thông qua chuỗi quan hệ nhân quả trung gian, sẽ giúp thực hiện các mục tiêu của dự án, chương trình và chính sách đó như thế nào. Quản lý dựa trên kết quả có thể áp dụng để quản lý ở cấp độ cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu suất làm việc của các cá nhân, ở cấp độ tổ chức như doanh nghiệp, các ban quản lý/chương trinh, các cơ quan nhà nước và ở cấp độ chính sách như trong chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực thực hiện chính sách. So sánh sự khác nhau giữa theo dõi và đánh giá thực hiện với theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả TD&ĐG thực hiện có đối tượng trọng tâm là quá trình triển khai thực hiện kế hoạch, với các đầu vào và đầu ra. Trong khi đó đối tượng trọng tâm của theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả bao gồm cả đầu vào, đầu ra, tác động và kết quả. Những điểm khác biệt của theo dõi và đánh giá thực hiện với theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả: Theo dõi và đánh giá thực hiện Tập trung vào việc theo dõi và đánh giá xem một kế hoạch, chương trình, chính sách, dự án đã thực hiện chưa hoặc được thực hiện như thế nào? Thường gắn kết việc thực hiện với một đơn vị chịu trách nhiệm. Không giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các bên liên quan hiểu được mức độ thành công hay thất bại của dự án, chương trình, chính sách đó. Các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập kế hoạch và các bên liên quan không đủ thông tin để khẳng định rằng bản kế hoạch, chương trình hoặc chính sách đưa ra đã mang đến những kết quả khả quan này hay do những nguyên nhân khác. Theo dõi và đánh giá dựa theo kết quả Việc theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả các kế hoạch, chương trình và chính sách cho thấy với các đầu vào và đầu ra, đã đem lại những thay đổi gì cho xã hội, thay đổi gì cho đời sống nhân dân. Từ đó cho phép xác định chương trình, chính sách nào mang lại kết quả tốt, liệu có nên được tiếp tục không; chương trình, chính sách nào không thành công và cần thay đổi hoặc điều chỉnh cho phù hợp. Trách nhiệm của các bên rõ ràng, cụ thể hơn và có sự gắn kết với các đơn vị bên trong cơ quan, lẫn bên ngoài. Các phương thức thực hiện Theo dõi và đánh giá nội bộ Phương pháp này dựa trên cơ sở các thông tin theo dõi từ bên trong để đưa ra một bức tranh về những gì tổ chức hoặc chính quyền địa phương đã đạt được trong việc tuân thủ các qui trình và thực hiện các hoạt động đã lên kế hoạch. Phương pháp này sử dụng các qui ._.trình nội bộ và người đánh giá cũng chính là người nội bộ của tổ chức. Việc tự đánh giá giúp cho nhiệm vụ đánh giá có thể được thực hiện nhanh hơn, ít tốn kém hơn nhưng lại dẫn đến một nguy cơ là các xét đoán cuối cùng mất đi sự chính xác. Bởi vì người đánh giá thường lại chính là người thực hiện nên họ hay làm nhẹ đi(trong trường hợp kết quả đánh giá là bất lợi) hoặc thổi phồng lên (trong trường hợp kết quả đánh giá là có lợi), dẫn đến điều này làm mất đi tính khách quan của các kết quả đánh giá. Theo dõi và đánh giá bên ngoài(có sự tham gia) Đánh giá có sự tham gia là một cơ hội cho cả những người bên trong và người bên ngoài nhìn nhận và suy nghĩ về những kết quả quá khứ nhằm học hỏi và phục vụ cho việc ra quyết trong tương lai. Đánh giá có sư tham gia cung cấp cho người bên trong những thông tin xác đáng và hữu ích, giúp họ quyết định xem các mục tiêu hay hoạt động có thể được giữ nguyên hay thay đổi. đánh giá có sự tham gia tăng cường sự giao tiếp qua lại giữa cộng đồng và các nhà quản lý địa phương. III. Qui trình thực hiện theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển KTXH Bảng 4: Qui trình thực hiện TD&ĐG kế hoạch phát triển KTXH (Nguồn: Xây dựng hệ thống Giám sát & Đánh giá thế nào để hoàn thiện công tác quản lý của nhà nước, Keith Mackay, 2008 NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA) Chuẩn bị cho việc theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển địa phương Mức độ sẵn sàng của chính quyền địa phương trong việc thực hiện công tác theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả Khi xem xét mức độ sẵn sàng cần rà soát lại những vấn đề sau: Địa phương có thực sự có nhu cầu và mong muốn áp dụng hệ thống theo dõi và đánh giá theo phương pháp mới chưa? Các điều kiện vật chất và năng lực cán bộ: Trang thiết bị, nguồn tài chính, hệ thống dữ liệu, kỹ năng quản lý và kỹ thuật ra sao? Phân công trách nhiệm và việc tổ chức thực hiện theo dõi và đánh giá kết quả của địa phương như thế nào? Xem xét mức độ sẵn sàng của chính quyền địa phương trong việc theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương hay các chương trình, chính sách đã đáp ứng yêu cầu để thiết lập hoặc có thể thực hiện hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả hay chưa? Các nhà lãnh đạo, người đứng đầu các địa phương phải thể hiện quyết tâm cao đối với công tác theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả này thì việc triển khai mới có thể đem lại kết quả khả quan. Đồng thời, để việc theo dõi và đánh giá đạt chất lượng ngày càng cao phải thu hút được sự quan tâm của người dân và cộng đồng địa phương đối với việc đo lường kết quả hoạt động của chính quyền địa phương. Xem xét mức độ sẵn sàng của chính quyền địa phương, cũng cần phải rà soát lại năng lực bộ máy và cán bộ so với yêu cầu của công tác theo dõi và đánh giá. Qua đó, nghiên cứu xem có cần bổ sung các hoạt động nhằm nâng cao năng lực theo dõi và đánh giá hay không? Năng lực cán bộ, công nghệ, nguồn tài chính, hệ thống dữ liệu, kỹ thuật quản lý của địa phương, việc đánh giá mức độ sẵn sàng là điều kiện quan trọng xem xét địa phương có thể áp dụng được hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả hay không? Việc tổ chức thực hiện công tác này có gặp vướng mắc gì cần phải tháo gỡ không? Nhìn chung, để có thể bắt đầu cho việc thực hiện theo dõi và đánh giá, các địa phương phải trả lời các câu hỏi nói trên để từ đó biết được các điểm mạnh, điểm yếu của địa phương mình, xây dựng được các phương án thực hiện cụ thể, phù hợp. Lập kế hoạch triển khai thực hiện theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả Sau khi xem xét về mức độ sẵn sàng của chính quyền địa phương trong việc triển khai công tác theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả, từng cấp, từng đơn vị của địa phương thì các công việc tiếp theo của để chuẩn bị cho việc theo dõi và đánh giá là: Lập kế hoạch chung về theo dõi và đánh giá. Thiết lập và áp dụng hệ thống máy tính hỗ trợ cho công tác thu thập số liệu. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ theo dõi, đánh giá cho cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị. Tăng cường công tác trao đổi thông tin theo dõi và đánh giá giữa các bộ phận trong và ngoài đơn vị hoặc các đơn vị khác. Lập kế hoạch chung về theo dõi và đánh giá Để đảm bảo cho việc tổ chức theo dõi và đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách một cách hiệu quả, cần thiết phải xây dựng một kế hoạch theo dõi và đánh giá. kế hoạch theo dõi và đánh giá bao gồm: Xác định các thành viên tham giá, thời gian, nội dung và nguồn lực để thực hiện. Một khía cạnh quan trọng trong việc thiết lập hệ thống theo dõi và đánh giá hiện nay đang được quan tâm đó là theo dõi và đánh giá có sự tham gia. Sự tham gia của cộng đồng và các đối tượng có liên quan khác rất quan trọng đối với việc theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả. Trong kế hoạch theo dõi và đánh giá, cần phải quy định rõ sự phân công, ai sẽ chịu trách nhiệm thu thập và phân tích thông tin ở từng khâu vào thời gian nào và thực hiện chế độ báo cáo theo định kỳ. Đối với từng mục tiêu, từng chỉ số, chỉ tiêu của các kế hoạch, chương trình, chính sách, dự án sẽ có thời gian thu thập, theo dõi vào các thời điểm khác nhau. Do vậy, lập kế hoạch theo dõi và đánh giá cũng cần xác định thời gian theo dõi và đánh giá, báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách, dự án đồng thời quy định rõ các nguồn thông tin và sự phân công các cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm trong từng khâu công việc. b. Thiết lập và áp dụng hệ thống máy tính hỗ trợ cho công tác thu thập số liệu Một yếu tố quan trọng để thực hiện tốt việc theo dõi và đánh giá là xây dựng năng lực và quy trình cho việc tổ chức thu thập và lưu giữ các kết quả theo dõi và đánh giá. Để làm tốt công tác tổ chức thông tin này, các địa phương có thể lưu giữ hoặc thu thập các kết quả theo dõi bằng cách ghi chép thành văn bản, ghi chép vào các ổ cứng, ổ đĩa hoặc lưu trữ, thu thập thông qua hệ thống máy tính....Các thông tin này sẽ được cung cấp kịp thời và có đầy đủ các thông tin một cách có hệ thống. Từ đó, tác động tích cực tời việc điều hành kế hoạch và lập kế hoạch trong tương lai. c. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ theo dõi, đánh giá Để đảm bảo việc thực hiện theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả ở địa phương đạt được kết quả, yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong các đơn vị tại các cấp là hết sức cần thiết. Để đảm bảo nâng cao năng lực cán bộ, các cấp chính quyền địa phương cần: Tạo mọi điều kiện và khuyến khích cán bộ trong đơn vị và các cấp, các ngành được học hỏi các phương pháp quản lý mới. Làm rõ những yêu cầu của đơn vị, các cấp đặt ra cho mỗi cán bộ tại địa phương. Bố trí, phân công công tác của các cán bộ cần duy trì ổn định, hạn chế xáo trộn. Lựa chọn được cán bộ có trình độ thực hiện công tác theo dõi và đánh giá. Căn cứ vào vị trí công tác và yêu cầu công việc của từng cán bộ các địa phương sẽ xây dựng kế hoạch đào tạo cho cán bộ của địa phương mình. Để có đủ nguồn nhân lực có chất lương phục vụ cho công tác theo dõi, đánh giá có thể thực hiện một số giải pháp sau: Đào tạo cán bộ(qua các khóa đào tạo nội bộ hoặc gửi đi đào tạo). Thuê người được đào tạo hoặc chuyên gia nước ngoài. Đối với các trường hợp lần đầu tiên áp dụng việc theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả thì việc xây dựng kế hoạch đào tạo về theo dõi và đánh giá cho tất cả các đối tượng liên quan là nhiệm vụ quan trọng nhất quyết định sự thành công của việc áp dụng phương pháp theo dõi và đánh giá mới này. Việc đào tạo có thể kết hợp 3 hình thức sau đây: Các khóa đào tạo bên ngoài Các khóa đào tạo nội bộ, phù hợp với các đối tượng cụ thể và gắn với việc xây dựng kế hoạch theo dõi và đánh giá. Chuyên gia đào tạo tại chỗ hướng dẫn qua công việc hoặc xây dựng mối quan hệ với các tổ chức theo dõi và đánh giá khác có kinh nghiệm hơn. d. Tổ chức trao đổi thông tin Để các kết quả TD&ĐG được thực hiện một cách khách quan và chính xác thì công tác trao đổi thông tin sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc trao đổi thông tin cần thực hiện ngay giữa nội bộ trong đơn vị, giữa các đơn vị và các cấp tại địa phương. Nếu việc trao đổi thông tin các kết quả theo dõi và đánh giá được thực hiện tốt sẽ giúp các đơn vị có đầy đủ các thông tin đa chiều. từ đó, việc điều hành kế hoạch, chương trình, chính sách sẽ được phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, các cấp và kế hoạch, chương trình, chính sách sẽ được thực hiện tốt hơn. Ngoài việc thực hiện trao đổi các thông tin trong nội bộ các địa phương, thì việc trao đổi thông tin với các địa phương khác cũng sẽ góp phần cho việc lập kế hoạch theo dõi và đánh giá kế hoạch, chương trình, chính sách của địa phương ngày càng tốt hơn do có thể học tập các kinh nghiệm tốt và tránh được những vướng mắc nếu có. Xem xét về nội dung kế hoạch phát triển của địa phương để phục vụ cho việc theo dõi và đánh giá Muốn theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển theo kết quả thì kế hoạch trước hết phải được xây dựng theo một cấu trúc hợp lý, rõ ràng. Do đó, điểm khởi đầu quan trọng của bất kỳ một hệ thống theo dõi và đánh giá là phải bám sát các mục tiêu và các kết quả mong muốn của bản kế hoạch, chương trình, chính sách đề ra. Các mục tiêu trong bản kế hoạch phải được xây dựng rõ ràng, cụ thể Đối với một bản kế hoạch phát triển với các mục tiêu rõ ràng là rất quan trọng, từ đó định hướng được các chương trình, chính sách phù hợp với các nguồn lực(nhân lực, tài chính, đầu tư...) để đạt được các mục tiêu. Khi xác định các mục tiêu kế hoạch phát triển địa phương phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thể hiện được ý chí và nguyện vọng của cộng đồng dân cư và có tính khả thi; Cụ thể và dễ hiểu; Không nên có quá nhiều mục tiêu, các mục tiêu được lựa chọn phải phù hợp với địa phương; Cần sắp xếp các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên phù hợp với điều kiện của địa phương. Mục tiêu cụ thể và dễ hiểu để tất cả các đối tượng khi đọc có thể hiểu được các cấp chính quyền địa phương mong muốn đạt được kết quả gì trong thời gian sắp tới. Các mục tiêu trong kế hoạch phải được sắp xếp theo các cấp độ một cách có hệ thống Mục tiêu của kế hoạch phát triển KTXH phải được trình bày theo những cấp độ và liên kết chặt chẽ với nhau, bao gồm mục tiêu tổng quát (mục tiêu cuối cùng), mục tiêu chính (mục tiêu trung gian), mục tiêu cụ thể(mục tiêu trực tiếp). Một kế hoạch phát triển có thể có một hoặc một số mục tiêu tổng quát. Từng mục tiêu tổng quát có một số mục tiêu chính và mỗi mục tiêu chính lại được thể hiện qua một số mục tiêu cụ thể và các mục tiêu này có sự liên hệ với nhau. Việc thực hiện các mục tiêu cụ thể, mục tiêu chính sẽ bảo đảm cho việc thực hiện thành công mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển. Ngược lại, mục tiêu tổng quát là đích để hướng tới trong quá trình thực hiện các mục tiêu ở cấp độ thấp hơn. Việc sắp xếp các mục tiêu theo các cấp độ rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các chỉ số/ chỉ tiêu để theo dõi và đánh giá quá trình thực hiện bản kế hoạch. Tuy nhiên, khi thiết kế một bản kế hoạch, nếu đó là bản kế hoạch cấp tỉnh mang tính tổng hợp, bao quát, chi tiết tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường. còn kế hoạch cấp huyện chỉ nên đưa ra một số ít mục tiêu, coi đó là những vấn đề ưu tiên cần tập trung nguồn lực để thực hiện. Sử dụng khung logic để kết nối các mục tiêu và các hoạt động Sau khi xác định các mục tiêu ưu tiên thì cần xác định các chương trình, hoạt động trong phạm vi nguồn lực có thể huy động được để thực hiện mục tiêu. Việc kết nối các mục tiêu và các hoạt động trong một bản kế hoạch là hết sức cần thiết. Sự kết nối giữa các mục tiêu, các hoạt động và các kết quả mong muốn trong một bản kế hoạch cần được xây dựng theo một khung logic. Với một bản kế hoạch được xây dựng trên cơ sở một khung logic sẽ dễ dàng đánh giá được các tác động cụ thể đối với một kết quả được thực hiện từ hoạt động này hay nhiều hoạt động khác nhau. Thực chất, khung logic kết nối giữa các mục tiêu và các hoạt động đầu vào của khung logic”nguyên nhân và kết quả” với một chuỗi các đầu vào, hoạt động được thể hiện các tác động mong muốn đối với những đối tượng thụ hưởng. Khung logic chính là một công cụ để truyền đạt một cách rõ ràng và súc tích những nội dung chính của bản kế hoạch vµo, ho¹t ®éng ®­îc thÓ hiÖn c¸c t¸c ®éng mong muèn ®èi víi nh÷ng ®èi t­îng thô h­ëng. Do ®ã, khung logic trë thµnh mét tµi liÖu tham kh¶o chÝnh trong suèt qu¸ tr×nh ®iÒu hµnh thùc hiÖn kÕ ho¹ch. Xây dựng khung theo dõi và đánh giá dựa theo kết quả kế hoạch phát triển địa phương Sau khi đã hiểu rõ các mục tiêu của địa phương cần hướng tới, các chương trình, chính sách để thực hiện các mục tiêu, chúng ta cần xây dựng khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả bản kế hoạch. Khung theo dõi và đánh giá sẽ là căn cứ cho việc theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển của địa phương để biết rõ quả trình thực hiện và khả năng đạt được các mục tiêu đề ra. Lựa chọn các chỉ số then chốt để theo dõi và đánh giá: Gắn kết các chỉ số với mục tiêu của kế hoạch: Các chỉ số này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông tin phản hồi cần thiết cho hệ thống quản lý. Thông qua việc đo lường bằng các chỉ số này sẽ giúp cho các nhà quản lý đánh giá các mục tiêu đề ra có đạt được hoặc không đạt được các kết quả như dự tính và nguyên nhân của nó là gì. Số lượng chỉ số được lựa chọn không nên quá nhiều và từ những thông tin có sẵn, cần xây dựng một vài chỉ số đáng tin cậy, phục vụ tốt cho quá trình phân tích. Bảng 5: Mối quan hệ của mục tiêu của kế hoạch và chỉ số TD&ĐG Mục tiêu của kế hoạch Chỉ số TD&ĐG Mục tiêu tổng quát Chỉ số 1 Mục tiêu trung gian Chỉ số 2 Mục tiêu cụ thể Chỉ số 3 Chỉ số 4 3.1.2 Các bước lựa chọn chỉ số Sau khi đã hiều rõ các mục tiêu của kế hoạch phát triển địa phương, phải sắp xếp các mục tiêu theo các cấp độ khác nhau, từ mục tiêu tổng quát, tới mục tiêu chính và mục tiêu cụ thể. Với mỗi mục tiêu cụ thể cần phải xác định các chỉ số đầu vào, đầu ra, kết quả và tác động để đo lường việc thực hiện từng mục tiêu cụ thể này. Cụ thể như sau: Thứ nhất: Các nhà quản lý phải xem xét để đạt được từng mục tiêu cụ thể đề ra, cần phải có các hoạt động, chính sách và đầu vào nào để thực hiện. Để theo dõi và đánh giá chung, phải xác định các chỉ số đầu vào, chỉ số hoạt động để đo lường việc thực hiện các hoạt động, đầu vào đó như thế nào? Thứ hai: Khi đã lựa chọn được các chỉ số hoạt động và đầu vào để đo lường được việc thực hiện mục tiêu, chúng ta sẽ phải xác định các chỉ số đầu ra ở đây là gì? Các chỉ số đầu ra ở đây phải luôn gắn kết với kết quả thực hiện của chỉ số đầu vào và hoạt động đã lựa chọn. Thứ ba: Sau khi đã lựa chon được các chỉ số đầu vào và đầu ra, chúng ta phải lựa chịn tiếp các chỉ số kết quả. Các chỉ số kết quả này phải luôn gắn kết với các chỉ số đầu ra. có đâu ra như vậy sẽ tác động như thế nào tới người dân. Thứ tư: Với các chỉ số kết quả đã được lựa chọn, thì sẽ tác động lâu dài như thế nào tới cuộc sống người dân. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ lựa chọn được chỉ số tác động. Khi lựa chọn các chỉ số cần phải tiến hành theo mối quan tâm của các bên hữu quan. Các nhà quản lý sẽ quyết định việc lồng ghép lợi ích của các bên hữu quan vào trong các chỉ số kết quả. 3.3 Kiểm tra tiêu chuẩn của các chỉ số xem có phù hợp với tiêu chuẩn SMART hoặc CREAM 3.3.1 Các tiêu chuẩn để lựa chọn chỉ số tốt Bảng 6 : Tiêu chuẩn SMART và CREAM Tiêu chuẩn SMART Tiêu chuẩn CREAM Specific(cụ thể) Không mơ hồ và chung chung Clear(rõ ràng) Rõ ràng và không mập mờ Measurable(có thể đo đếm được) Có thể đo đếm được hoặc ít nhất cũng quan sát được. Relevant(phù hợp) Phù hợp đối với đối tượng đang xét Affordable(có khả năng thực hiện) Có khả năng thực hiện và không quá tốn kém để thực hiện Economic(tiết kiệm) Có chi phí phải chăng Relevant(phù hợp) Phù hợp với mục tiêu Adequate(thỏa đáng) Thỏa đáng với mục tiêu để ra Timebound(có mốc thời gian cụ thể) Khả thi trong kỳ kế hoạch Monitorable(theo dõi được) Thuận tiện cho việc kiểm chứng độc lập (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp) 3.3.2 Kiểm tra các chỉ số theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế địa phương có đáp ứng yêu cầu một chỉ số tốt Với mỗi mục tiêu, sau khi đã lựa chọn các chỉ số theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả kế hoạch phát triển của địa phương, chúng ta phải xem xét lại các chỉ số có thỏa mãn tiêu chuẩn SMART hoặc CREAM không? Nếu không thỏa mãn được các tiêu chí đó thì các chỉ số lựa chọn sẽ không có tính khả thi cao và không đáp ứng yêu cầu của việc theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả kế hoạch phát triển của địa phương. Xác định các chỉ tiêu bổ sung để theo dõi và đánh giá Đối với các chỉ tiêu đã có trong kế hoạch đã được phê duyệt, chúng ta sẽ không phải thực hiện bước này nữa. Tuy nhiên đối với yêu cầu của công tác TD&ĐG dựa trên kết quả thì có thể có các chỉ tiêu cần thiết, nhưng chưa được thể hiện trong kế hoạch phát triển, nhất là các chỉ tiêu kết quả. Trong trường hợp này, nhiệm vụ của chúng ta là phải xác định các chỉ tiêu phản ánh kết quả đó trên cở sở mức độ tình trạng ban đầu và các mức cải thiện mong muốn đề có thể thực hiện việc TD&ĐG kế hoạch phát triển. Tuy nhiên, việc xác định các chỉ tiêu mới bổ sung nói trên không phải tiến hành từ đầu như khi xây dựng kế hoạch, mà được đặt trong các mối liên hệ với kết quả đạt được của kỳ kế hoạch trước đó và trong kế hoạch đã được duyệt, nhất là mối liên hệ gắn với các chỉ tiêu đầu vào, các chính sách phát triển và các yếu tố tác động khác. Xác định các chỉ tiêu phản ánh kết quả Mức độ đạt được của kỳ gốc + Mức độ cải thiện trong kỳ kế hoạch = Chỉ tiêu kết quả 3.3.4 Hình thành khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả thực hiện kế hoạch phát triển địa phương Đầu tiên, chúng ta xem xét các mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển địa phương là gì? Với mục tiêu tổng quát sẽ có những mục tiêu chính gì? Với từng mục tiêu chính thì có những mục tiêu cụ thể nào? Nếu bản kế hoạch có nhiều mục tiêu khác nhau thì chúng ta cần phải thiết lập các mục tiêu theo các cấp bậc. Tiếp theo, với từng mục tiêu cụ thể chúng ta sẽ xác định các chỉ số đầu vào, đầu ra, kết quả, tác động để đo lường việc đạt được các mục tiêu đó. Việc lựa chọn các chỉ số theo dõi và đánh giá phải được xem xét các chỉ số lựa chọn có đáp ứng các tiêu chuẩn SMART hoặc CREAM hay không? Các chỉ số phải đảm bảo tính logic có sự liên hệ lẫn nhau từ đầu vào, cho đến đầu ra, kết quả và tác động. Cuối cùng, sắp xếp các cấp bậc mục tiêu và các chỉ số/chỉ tiêu để hình thành khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả kế hoạch phát triển địa phương. Bảng 7: Khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả Mục tiêu Chỉ số/chỉ tiêu Đầu vào Đầu ra Kết quả Tác động Mục tiêu tổng thể 1 Mục tiêu chính 1 Mục tiêu cụ thể 1 Chỉ số/chỉ tiêu đầu vào Chỉ số/chỉ tiêu đầu ra Chỉ số/chỉ tiêu kết quả Chỉ số/chỉ tiêu tác động Mục tiêu cụ thể 2 Chỉ số/chỉ tiêu đầu vào Chỉ số/chỉ tiêu đầu ra Chỉ số/chỉ tiêu kết quả Chỉ số/chỉ tiêu tác động .......... (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp) 4.Triển khai việc thực hiện theo dõi và đánh giá Triển khai thực hiện theo dõi và đánh giá, trước hết chúng ta phải phân công xem ai sẽ là người chịu trách nhiệm thu thập các thông tin, dữ liệu liên quan đến việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã ghi trong khung theo dõi và đánh giá. Từ đó thực hiện việc theo dõi và báo cáo kết quả; căn cứ vào các kết quả theo dõi để thực hiện việc đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch địa phương. 4.1 Xác định nguồn dữ liệu phân công trách nhiệm thu thập tần suất thu thập dữ liệu 4.1.1 Các nguồn dữ liệu Các loại chỉ số/chỉ tiêu khác nhau sẽ có các nguồn dữ liệu khác nhau. Một chỉ số/chỉ tiêu có thể là chỉ tiêu trung gian(đầu vào/hoạt đông hoặc đầu ra) hoặc là chỉ tiêu cuối cùng(kết quả,tác động). Các chỉ số/chỉ tiêu trung gian có thể được đo lường bằng các dữ liệu từ hệ thống báo cáo hành chính của cơ quan quản lý, còn các chỉ tiêu cuối cùng lại cần có thêm các nguồn thông tin độc lập như: Điều tra mức sống hộ gia đình, điều tra môi trường kinh doanh, điều tra khu vực doanh nghiệp... 4.1.2 Tầm quan trọng của nguồn dữ liệu độc lập Bên cạnh việc sử dụng các báo cáo hành chính của các cơ quan nhà nước cấp địa phương, việc thu thập dữ liệu về khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ từ điều tra khảo sát thâm vấn độc lập là rất quan trọng. Các dữ liệu này, vì thế cần phải được thu thập thông qua một cơ quan không phải là cơ quan thực hiện các chương trình hay chính sách và phải độc lập. Dữ liệu điều tra cần phải được thu thập có sự cộng tác chặt chẽ với những người sử dụng dữ liệu để đảm bảo đáp ứng được yêu cầu. Các dữ liệu cũng phải dễ tiếp cần hơn đối với người sử dụng và công chúng để phục vụ cho các phân tích sâu hơn. 4.1.3 Xác định nguồn dữ liệu, phân công trách nhiệm thu thập và tần suất báo cáo Tùy từng loại chỉ tiêu và đặc điểm của từng ngành, lĩnh vực để quyết định các nguồn thông tin cần thiết để thực hiện việc thu thập. Phần lớn các chỉ số/ chỉ tiêu liên quan đến nguồn lực đầu vào, đầu ra đều có thể thu thập trực tiếp từ các cơ quan chủ trì thực hiện; các chỉ số/chỉ tiêu về kết quả tác động đánh giá khi kết thúc kế hoạch phải được thực hiện qua việc khảo sát, điều tra và cơ chế thu thập dữ liệu cụ thể. 4.2 Theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch phát triển địa phương a. Yêu cầu chất lượng dữ liệu Cần phải thiết lập một hệ thống để thu thập các thông tin dữ liệu cho tất cả các chỉ số/chỉ tiêu(trung gian và cuối cùng) đáp ứng đồng thời cả ba tiêu chí: Đáng tin cậy, có giá trị và kịp thời. Các tiêu chí chính để thu thập số liệu có chất lượng: Đáng tin cậy, có giá trị, kịp thời. b. Cách thức tiến hành thu thập số liệu Đối với các chỉ số/chỉ tiêu đã có sẵn hệ thống thu thập thông tin một cách hợp lý, thì sử dụng ngay hệ thống sẵn có. Đối với những chỉ tiêu mới chưa có cơ quan nào thực hiện thu thập hoặc việc thu thập chưa đầy đủ, chưa có hệ thống, thì phải chuẩn bị cho việc thu thập một cách kỹ lưỡng hơn. Cụ thể: Phải lập một kế hoạch chi tiết cho việc thu thập thông tin, dữ liệu Tiến hành thu thập dữ liệu Phân tích dữ liệu c. Lưu trữ thông tin Để có được các thông tin số liệu cần thiết thì cần phải tổ chức lưu giữ thông tin. Tuy nhiên, các thông tin thường rất nhiều, nhưng có một số thông tin không cần thiết và không có đối tượng sử dụng. Do đó, khi quyết định tổ chức lưu giữ thông tin theo dõi và đánh giá, cần trả lời các câu hỏi sau: Cần lưu giữ thông tin nào? Ai cần đến thông tin đó và khi nào/ Cần lưu trữ thông tin bằng hình thức nào- bằng văn bản hay dữ liệu có thể nhập vào máy tính và lưu giữ tập trung? Cần thường xuyên đánh giá xem cần giữ thông tin nào có thể không cần lưu giữ để giảm bớt các chi phí không cần thiết. Tuy nhiên, trước khi loại bỏ các thông tin không cần thiết, nên lưu trữ các dữ liệu thô trong một thời gian nhất định. 4.3 Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển địa phương a. Mục đích của việc đánh giá Là làm rõ tình hình và mức độ hoàn thành các mục tiêu kế hoạch, chỉ ra được các nguyên nhân thành công và chưa thành công của các chính sách đã được áp dụng. Qua việc đánh giá cũng đồng thời xác định sự phù hợp của các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra trong bối cảnh hiện tại. Từ đó hình thành các giải pháp, chính sách khắc phục các khiếm khuyết trong quản lý điều hành nhằm thúc đầy phát triển hoặc gợi ra các ý kiến cần thiết điều chỉnh mục tiêu kế hoạch. b. Các loại hình đánh giá kế hoạch phát triển Xét theo qui trình xây dựng và thực hiện kế hoạch, đánh giá được phân ra 3 loại chính sau: Đánh giá giữa kỳ: Là việc đánh giá định kỳ tiến độ thực hiện kế hoạch, kiểm tra tính phù hợp và khả năng tạo ra những đầu ra hoặc tác động ảnh hưởng, mong đợi của kế hoạch Đánh giá cuối kỳ: Là việc đánh giá được tiến hành khi kết thúc kỳ kế hoạch nhằm đánh giá các kết quả đạt được, tổng kết toàn bộ quá trình thực hiện, rút ra những bài học kinh nghiệm, xem xét khả năng phải điều chỉnh kế hoạch kỳ tiếp theo nhằm đảm bảo cac mục tiêu trung hạn và dài hạn. Đánh giá tác động: Là đánh giá được tiến hành tại một thời điểm thuận lợi sau khi kết thúc kỳ kế hoạch, xem xét việc thực hiện kế hoạch có tạo ra được tác động như mong muốn hay không? c. Tổ chức đánh giá kế hoạch phát triển địa phương Kế hoạch phải dự kiên được: Các thành viên nào tham gia vào việc đánh giá kế hoạch phát triển: Trong nội bộ đơn vị, các đơn vị bên ngoài, sự tham gia của người dân trong cộng đồng. Phân công trách nhiệm cho từng thành viên trong việc triển khai quy trình đánh giá kế hoạch phát triển. Trong từng thời điểm và từng hoàn cảnh khác nhau, lựa chọn hình thức đánh giá phù hợp. khi nào sử dụng đánh giá nhanh, đánh giá kết quả, đánh giá tổng hợp.... Xác định các công cụ thực hiện việc đánh giá Thời điểm công bố các kết quả đánh giá. 5. Báo cáo kết quả theo dõi và đánh giá và sử dụng các thông tin phát hiện Những phát hiện trong quá trình theo dõi và đánh giá phải được thông báo kịp thời cho những người có trách nhiệm, làm cơ sở để đưa ra các quyết định quản lý phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo hướng tới thực hiện mục tiêu kế hoạch. Trong phân quá trình tìm tòi các phát hiện từ việc theo dõi và đánh giá đang diễn ra, điều quan trọng là phải đảm bảo được rằng tất cả mọi người đều được thông báo tiến độ. Kết quả theo dõi và đánh giá cần được truyền bá không ngừng nhằm cung cấp những thông tin phản hồi cho những người ra quyết định.các hình thức liên lạc không chính thống(điện thoại, thư điện tử, fax, đối thoại) và chính thống (báo cáo sơ bộ, trình bày, báo cáo bằng văn bản) đều có thể sử dụng được. Dữ liệu cần được trình bày một cách ngắn gọn, chính xác và liên quan đến các đỗi tượng mục tiêu. Cụ thể, nếu chuỗi ra mệnh lệnh càng ở cấp độ cao thì càng ít cần những thông tin quá chi tiết; các số liệu tổng hợp, súc tích liên quan đến một vấn đề cụ thể sẽ thích hợp hơn. báo cáo liên tục về các phát hiện có thể và nên được mở rộng để định hướng cho người ra quyết định thông qua quá trình thực hiện các đề xuất. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH 5 NĂM TẠI HUYỆN PHÙ YÊN – TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN 2006 – 2010: Giới thiệu tổng quan về công tác kế hoạch hóa tại huyện Phù Yên Vài nét về công tác kế hoạch hóa Khái quát về huyện Phù Yên 1.1.1. Vị trí địa lý Phù yên là một huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Sơn La, cách Hà Nội 158 km và thành phố Sơn La 135 km. Có diện tích 123655 ha, chiếm 8,7% diện tích toàn tỉnh. Huyện có 27 xã và thị trấn, tổng dân số năm 2008 là 106.505 người, mật độ dân số trung bình 85 người/km2. Vị trí địa lý của huyện: Phía Nam giáp tỉnh Yên Bái Phía Đông giáp tỉnh Phú Thọ và Hòa Bình Phía Tây giáp huyện Bắc Yên Phía Bắc giáp huyện Mộc Châu. 1.1.2 Nguồn nhân lực a. Dân số, dân tộc Theo thống kê năm 2008, dân số toàn huyện là 106.505 người, mật độ dân số bình quân là 85 người/km2. Về dân tộc, huyện có 5 dân tộc anh em chủ yếu cùng chung sống bao gồm: Dân tộc Thái 29.696 người, chiếm 28,2% dân số toàn huyện, dân tộc Mông 9.783 người, chiếm 9,29%, dân tộc Kinh 13.784 người, chiếm 13,09%, dân tộc dao 5.444 người, chiếm 5,17%, dân tộc Mường 46.218 người, chiếm 43,89%. Phần lớn các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp, đời sống còn dư canh, du cư. b. Lao động và việc làm Lao động: Lực lượng lao động ở huyện khá dồi dào với 50.057 người, chiếm 47,0% dân số toàn huyện. Lao động trong ngành nông - lâm nghiệp có 43.800 người, chiếm 87,5% tổng số lao động toàn huyện, chất lượng lao động nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo, tỷ lệ lao động được đào tạo có kỹ thuật còn rất thấp. Trong thời gian tới để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì việc đào tạo, nâng cao chất lượng trình độ lao động cần được quan tâm và chú trọng đầu tư, đây là vấn đề quan trọng hàng đầu để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Việc làm: Trong những năm qua huyện Phù Yên đã gắn giải quyết việc làm với thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng tiểu vùng, từng xã. Chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và các loại ngành nghề thích hợp. Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của các chương trình kinh tế - xã hội để tham gia giải quyết việc làm, khuyến khích phát triển các tổ hợp sản xuất, các hợp tác xã, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở những vùng có điều kiện khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế trang trại để thu hút lao động, giải quyết việc làm. Năm 2008 huyện Phù Yên đã giải quyết việc làm mới cho trên 1.150 lao động, trong đó có 687 lao động đi làm tại các doanh nghiệp, các đơn vị trong huyện, 50 lao động đi xuất khẩu lao động còn lại là lao động nghành nghề nông thôn và lao động khác. Tỷ lệ thất nghiệp ở thị trấn, thị tứ năm 2008 là 12,0%; Tỷ lệ thiếu việc làm 6,5,%; Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 70%...   Thực trạng phát triển kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm GDP trên địa bàn huyện năm 2008 đạt 389,85 tỷ đồng(giá so sánh 1994) tăng 2,65 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện năm 2009 đạt 15,8%. Bảng 8: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện Phù Yên qua các năm. Chỉ tiêu ĐVT 2000 2005 2008 Nhịp độ tăng trưởng 2000 - 2008 GDP(Gía 1994) Tr.đ 150,50 272,64 398,85 13,0 - NN Tr.đ 97,83 128,14 170,63 7,2 - CN – XD Tr.đ 15,35 57,25 85,65 24,0 - Dịch vụ Tr.đ 37,32 87,25 142,57 18,2 Cơ cấu % 100 100 100 - NN % 65,0 47,0 42,8 - CN – XD % 10,2 21,0 21,5 - Dịch vụ % 24,8 32,0 35,7 (Nguồn: Bản quy hoạch huyện Phù Yên giai đoạn 2009 - 2020) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân/ năm thời kỳ 1996 – 2000 là 10%/ năm, thời kỳ 2001 – 2009 là 13%/năm. Như vậy, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh của ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại - dịch vụ. Giai đoạn 2001 – 2009 bình quân ngành công nghiệp xây dựng tăng trưởng 24,0%/năm, ngành thương mại – dịch vụ tăng 18,2% và năm 2008 tốc độ Giai đoạn 2001 – 2008 bình quân ngành công nghiệp xây dựng tăng trưởng 24,0%/năm, ngành thương mại - dịch vụ tăng 18,2% và năm 2008 tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp – xây dựng tăng 32,3%, ngành thương mại - dịch vụ tăng 16,6%. GDP ngành n._.mô và tiềm lực kinh tế của huyện đã được mở rộng và tăng cường một bước mới. d) Công cuộc cải cách hành chính đã giúp nâng cao năng lực quản lý điều hành của bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ công chức các cấp; việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cấp trên khẩn trương, nghiêm túc và triệt để; các biện pháp quản lý, điều hành, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KT - XH đặt ra trong huyện ngày càng nhạy bén, kịp thời, hợp lý và đi vào trọng tâm. Những hạn chế, yếu kém: 1) Chất lượng tăng trưởng chưa cao, năng suất lao động xã hội, hiệu quả sử dụng tài nguyên đất, rừng, vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Sản xuất cơ bản vẫn dựa trên lao động thủ công, công nghệ giản đơn; sức cạnh tranh của sản phẩm thấp. Sự phát triển còn phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư, các chính sách ưu tiên ưu đãi của Nhà nước; chủ trương chính sách thu hút đầu tư, xã hội hoá đầu tư phát triển của TW và Tỉnh triển khai trên địa bàn chưa có kết quả đáng kể; hiệu quả khai thác, phát huy các chương trình dự án, các hạng mục công trình (đầu tư hỗ trợ từ bên ngoài) chưa đạt kết quả như mục tiêu đề ra. 2) Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nhìn chung còn chậm; tỉ trọng của lĩnh vực nông lâm nghiệp tuy có giảm trong cơ cấu GDP nhưng cơ cấu các ngành trong lĩnh vực này chưa có chuyển dịch lớn. Các chương trình kinh tế như: Trồng rừng kinh tế, trồng chè chất lượng cao, phát triển cây vụ đông, phát triển chăn nuôi bò lai... do nhiều nguyên nhân khác nhau chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Giá trị sản xuất trên đơn vị đất canh tác tăng chậm và còn thấp so với mức bình quân của cả Tỉnh. 3) Đời sống nhân dân tuy được nâng lên một bước nhưng vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với mức bình quân cả nước; đặc biệt đời sống người dân vùng cao, vùng hồ, dân di chuyển tái định cư từ vùng hồ Sông Đà còn nhiều khó khăn. 4) An ninh chính trị - TTATXH được đảm bảo nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn như di dịch cư tự do, học truyền đạo trái pháp luật, vi phạm lâm luật, tai nạn giao thông, tệ nạn về ma tuý... Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên là: a) Sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa trên cơ sở những chuyển biến hạn hẹp, những nhân tố từ bên ngoài, không mang tính ổn định lâu dài như tăng vốn đầu tư XDCB của nhà nước; tăng hoạt động thương mại, dịch vụ nhờ hoạt động giao thông qua huyện tăng nhất thời trong thời gian thi công nâng cấp Quốc lộ 6; tăng năng suất, sản lượng nhờ đưa giống mới đối với một số cây trồng truyền thống như lúa, ngô - vốn chỉ có thể tăng chậm và khó có thể tăng hơn nữa do phương thức canh tác vẫn còn lạc hậu, tốc độ rửa trôi, xói mòn, thoái hoá đất đang tăng nhanh. b) Các cơ sở nội tại đảm bảo cho sự phát triển ổn định, bền vững của huyện còn nhiều yếu kém trong đó cơ sở sản xuất TTCN còn quá thô sơ; cơ sở công nghiệp hầu như chưa có gì; việc ứng dụng khoa học công nghệ chưa giúp tạo được một bước tiến mới trong sản xuất nông lâm nghiệp, chưa có bước đột phá trong việc tăng giá trị sản lượng trên đơn vị đất canh tác thông qua thử nghiệm và áp dụng thành công những giống cây trồng vật, nuôi mới. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên địa bàn chưa đủ mạnh để có thể làm chức năng "đỡ đầu" cung ứng vốn, vật tư, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân... c) Các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với sự nghiệp phát triển KT - XH địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong đó có huyện Phù Yên. Tuy nhiên, do những vùng này còn có quá nhiều khó khăn, các chủ trương chính sách đầu tư hỗ trợ cần mạnh mẽ, đồng bộ, triệt để hơn nữa mới có thể giúp tạo ra những thay đổi rõ rệt trong thời gian tương đối ngắn về sản xuất và đời sống của nhân dân trong vùng. d) Trình độ, năng lực quản lý điều hành, tinh thần trách nhiệm trong công tác của cán bộ công chức các cấp, các ngành tuy có được nâng lên một bước nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Một số cán bộ công chức ban, ngành, cơ sở chưa hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao; chưa gương mẫu thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương... e) Trình độ nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Một số còn trông chờ ỉ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước; chưa lo tìm cách làm ăn; chưa thật sự cần cù, nỗ lực tăng gia sản xuất để có được cuộc sống ấm no hơn. Những bài học kinh nghiệm được đúc rút: 1) Cần triển khai thưc hiện tốt hơn nữa các chủ trương chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển KT - XH miền núi của Đảng và nhà nước; tập trung tổ chức, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các chương trình dự án đầu tư. 2) Tìm kiếm, xây dựng và hình thành những nhân tố mới mang tính đột phá giúp tăng tốc tăng trưởng kinh tế bao gồm: thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đầu tư; hình thành các cơ sở kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm; có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có năng lực phát triển đủ sức hỗ trợ các hoạt động kinh tế trong huyện, nhất là trong lĩnh vực nông lâm nghiệp; khuyến khích phát triển dịch vụ, du lịch... Tiếp tục nghiên cứu và áp dụng vào sản xuất những giống cây, con có giá trị kinh tế cao. 3) Cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân cả về chính sách pháp luật, nếp sống sinh hoạt cộng đồng và nếp nghĩ nếp làm trong sản xuất kinh doanh. Đặc biệt cần đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền về những điển hình sản xuất kinh doanh giỏi, những gương sáng về mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, vượt khó, khắc phục hoàn cảnh vươn lên làm giàu; hỗ trợ và xây dựng một phong trào thi đua sản xuất kinh doanh rộng khắp trong cộng đồng nhân dân trong huyện. 4) Tiếp tục công cuộc cải cách hành chính, sắp xếp bố trí cán bộ, chú trọng sử dụng cán bộ có năng lực, trình độ và phẩm chất tốt; chấn chỉnh kỷ luật kỷ cương, tăng cường phân cấp gắn với qui định rõ trách nhiệm đối với cương vị mà cán bộ đảm trách. Phần II : Kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm 2006 -2010 I- Dự báo những thuận lợi và khó khăn 1. Thuận lợi: - Xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng mạnh tạo những cơ hội phát triển mới về công nghệ, vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ. - Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà máy thuỷ điện Sơn La chính thức khởi công với những tác động có lợi, trở thành tiềm năng và cơ hội mới cho sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực nông lâm nghiệp - công nghiệp - du lịch dịch vụ. - Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: Diện tích đất lâm nghiệp rộng 53.153 ha với hệ thực vật phong phú thuận lợi cho phát triển rừng kinh tế; diện tích đất nông nghiệp 22.132 ha khá màu mỡ và có khả năng tưới tiêu thuận lợi; diện tích mặt nước rộng 3.159 ha là điều kiện tốt để phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản; có các loại khoáng sản: quặng vàng, đồng, cao lanh, đất sét với trữ lượng khá. - Nền văn hoá phong phú đa dạng, mang đậm bản sắc dân tộc; có các điểm di tích lịch sử, nhiều phong cảnh tự nhiên đẹp và hùng vĩ thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch. - Tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của toàn Đảng, toàn dân ngày càng được củng cố; trình độ dân trí, trình độ lao động ngày một được nâng lên tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới. - Các cơ sở hạ tầng thiết yếu như hệ thống điện lưới, đường giao thông, bưu chính viễn thông được đầu xây dựng khá hiện đại, đồng bộ. - Có chính sách đầu tư cũng như thu hút đầu tư phù hợp và thông thoáng. - An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững. 2. Khó khăn: - Nền kinh tế về cơ bản vẫn mang tính thuần nông, chất lượng phát triển, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. - Cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là chế biến nông lâm sản hầu như chưa có nên không thực sự kích thích phát triển sản xuất lớn, mở rộng thị trường. Một số hạng mục đầu tư phục vụ sản xuất và đời sống những năm qua tính hợp lý, đồng bộ và hiệu quả của công trình chưa cao (Nhất là các công trình thuỷ lợi). - Trình độ dân trí tuy đã được nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, nhất là tại vùng sâu, vùng xa gây khó khăn trong việc triển khai chủ trương chính sách cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Một bộ phận nhân dân vẫn còn mang tâm lý trông chờ, ỷ lại vào cơ chế chính sách của nhà nước, chưa tích cực, năng động trong sản xuất kinh doanh; lực lượng lao động dồi dào nhưng tỉ lệ được đào tạo thấp. - Thực tiễn sản xuất của nhân dân vùng hồ Sông Đà, nhân dân vùng cao chưa có hướng phát triển phù hợp do đó đời sống phần lớn nhân dân vùng này còn thấp và có những nhân tố bất ổn. II- Mục tiêu phát triển Trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2001 - 2005 của huyện và dự báo về những điều kiện khách quan, chủ quan trong 5 năm tới, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 của huyện Phù Yên được xác định là: - Khai thác có hiệu quả các nguồn nội lực, ngoại lực, khắc phục tối đa mặt hạn chế nhằm tiếp tục duy trì tốc độ phát triển kinh tế nhanh, tăng cường tính bền vững và chất lượng phát triển. Đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 13,2%/năm, tổng GDP năm 2010 đạt 948 tỷ đồng (Giá so sánh 1994) với cơ cấu kinh tế là: Nông lâm nghiệp: 39%, công nghiệp - TTCN: 26%, dịch vụ: 35%. - Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân; tiếp tục triển khai có hiệu quả công tác dân số - KHHGD, đến năm 2010 giữ ổn định tỷ lệ tăng dân số 1%. - Đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo, tạo thêm nhiều việc làm, thực hiện có hiệu quả công tác phúc lợi xã hội. III- nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 1. Ngành nông - lâm nghiệp: a, Nông nghiệp: * Trồng trọt: - Cây lương thực: Tổng diện tích gieo trồng đến năm 2010 là 11.846 ha, đạt tổng sản lượng khoảng 50.300 tấn. + Cây lúa nước: Tiếp tục khuyến khích khai hoang ruộng nước, đạt diện tích gieo trồng lúa nước đến năm 2010 là 3.946 ha, trong đó lúa lai 1.500 ha. Tiến hành tu bổ, xây dựng mới cơ bản đồng bộ hệ thống hồ thuỷ lợi, đập dâng, kênh mương nội đồng; bên cạnh đó tổ chức quản lý sử dụng và khai thác một cách hợp lý hệ thống này nhằm đáp ứng tốt nhu cầu tưới tiêu, giải quyết một cách có hiệu quả tình trạng thừa - thiếu nước tưới giữa các mùa và giữa các vùng. Phấn đấu đến 2010 đạt năng suất lúa chiêm xuân 69 tạ/ha, năng suất lúa mùa 62 tạ/ha, tổng sản lượng 2 vụ đạt 25.740 tấn. + Cây trên nương: Tổ chức triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nương định canh và các hình thức canh tác trên đất dốc khác theo nguồn vốn ĐCĐC, Dự án 1382, Dự án COS. Giảm diện tích lúa nương xuống còn 400 ha, tiếp tục gieo trồng giống chịu hạn có năng suất cao, đạt sản lượng lúa nương: 600 tấn. Cây ngô gieo trồng ổn định trên diện tích: 7.500 ha, trong đó diện tích vụ 3 là: 500 ha; thường xuyên tổ chức hướng dẫn, vận động bà con nông dân áp dụng đồng bộ các biện pháp thâm canh tăng năng suất, đến năm 2010 đạt năng suất 32 tạ/ha, sản lượng đạt 24.000 tấn. - Nhóm cây thực phẩm: Mở rộng diện tích trồng rau màu gối vụ trên ruộng lúa, đạt diện tích gieo trồng rau màu vụ đông 700 ha; chú trọng tăng nhanh diện tích rau sạch, rau có hàm lượng dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Đạt tổng diện tích gieo trồng rau đậu các loại năm 2010 là 900 ha, tổng sản lượng đạt khoảng: 9.000 tấn. - Trồng cỏ chăn nuôi: Bằng các nguồn vốn của các chương trình dự án, các doanh nghiệp triển khai chương trình trồng cỏ chăn nuôi đến hầu hết các cở sở xã, đến năm 2010 trồng đạt 300 ha. - Cây ăn quả: Cơ bản hoàn thành cải tạo vườn tạp, mở rộng diện tích trồng cây ăn quả chất lượng cao, hình thành vùng cây ăn quả tập trung trong đó có vùng cây ăn quả á nhiệt đới và cận ôn đới với sản lượng đủ lớn làm nguyên liệu cho các cơ sở bảo quản, chế biến. Đầu tư xây dựng vườn cây mẹ, vườn ươm tại các xã Gia Phù, Tân Phong và vùng Mường. Đến năm 2010 diện tích cây ăn quả đạt 4.500 ha, sản lượng quả tươi đạt 17.000 tấn. Trong đó + Vải thiều: Diện tích 700 ha, trồng chủ yếu ở vùng Mường và vùng hồ. + Nhãn, xoài: Diện tích 2.500 ha, trồng chủ yếu ở vùng 6 Huy và vùng hồ. + Cây có múi: Diện tích 1.100 ha, trồng chủ yếu ở vùng Mường, vùng cao. + Cây ăn quả á nhiệt đới và cận ôn đới: Trồng với diện tích 200 ha. - Nhóm cây công nghiệp: Mở rộng diện tích trồng chè chất lượng cao tại vùng Mường, đến năm 2010 đạt diện tích 700 ha, sản lượng chè búp tươI; 3.300 tấn; phát triển một cách hợp lý diện tích đỗ tương, đến năm 2010 đạt diện tích 4.000 ha, sản lượng đạt 6.000 tấn. * Chăn nuôi - thuỷ sản: Khai thác có hiệu quả lợi thế về đất đai, mặt nước xây dựng các trang trại chăn nuôi tập trung qui mô lớn, đồng thời khuyến khích phát triển chăn nuôi theo qui mô gia đình. Thực hiện các biện pháp đồng bộ về chuyển đổi cơ cấu, nâng cao chất lượng đàn vật nuôi, chú trọng khâu chế biến thức ăn, trồng cỏ và áp dụng kỹ thuật chăn nuôi - Tập trung phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ ở các xã Tiểu vùng I và Tiểu vùng IV; phát triển đàn lợn, gia cầm - thuỷ cầm, thuỷ sản ở Tiểu vùng II và Tiểu vùng III. Đến năm 2010 sind hoá 50% tổng đàn bò và chuyển đổi giống mới chất lượng cao 50% tổng đàn gia súc gia cầm trong huyện. b, Phát triển lâm nghiệp: - Kết hợp trồng rừng phòng hộ với trồng rừng kinh tế một cách hợp lý, mỗi năm trồng mới 1.500 ha, trong đó rừng kinh tế 1.000 ha. - Tiếp tục đầu tư bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên theo các chương trình dự án. Tăng cường công tác chăm sóc bảo vệ, phòng chống cháy rừng; ngăn chặn xử lý hiệu quả nạn phá rừng làm nương rẫy và khai thác lâm sản trái phép. - Kiểm tra kiểm soát chặt chẽ các hoạt động khai thác lâm sản, điều tiết tổ chức khai thác ở mức hợp lý đảm bảo vốn rừng nhất là rừng đã thành thục luôn tăng trưởng. Tổng diện tích rừng QLBV đến năm 2010 là 59.840 ha, độ che phủ đạt 48,8%. 2. Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp: - Triển khai có hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư, tìm kiếm đối tác và mời gọi các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp - TTCN trên địa bàn. Khảo sát, xây dựng nhà máy gạch tuy nen tại Huy Thượng (2006); xây dựng nhà máy chế biến chè tại Mường Cơi (2008), xây dựng nhà máy chế biến hoa quả tại Gia Phù (2008), xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc - phân vi sinh tại Gia Phù (2010), xây dựng nhà máy chế biến bột giấy (sơ chế) tại Tân Phong (2009). - Tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ đào tạo lao động, ưu đãi về lãi suất vốn vay nhằm đẩy mạnh phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như rèn, mộc, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt thổ cẩm, chế biến nông lâm sản, chú trọng địa bàn lòng chảo Thị trấn và vùng hồ Sông Đà. - Phát triển lưới điện đến tất cả các bản trong huyện, đầu tư nâng công suất cấp nước của trạm nước phù yên; tổ chức quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống lưới điện, hệ thống nước máy, phục vụ tốt nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân. Một số chỉ tiêu sản xuất chủ yếu đến năm 2010: + Điện thương phẩm: 13,91 triệu Kwh + Nước thương phẩm: 1 triệu m3 + Gạch nung các loại: 16 triệu viên. + Cát, sỏi các loại: 12.400 m3 + Đá xây các loại: 20.000 m3 4. Xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và bưu điện: - Thu hút và khai thác có hiệu quả nguồn vốn từ Trung ương, của Tỉnh và từ các chương trình dự án, đồng thời phát huy nội lực bằng nhiều hình thức thu hút vốn trong dân, vốn của các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ thuật cơ bản đồng bộ đáp ứng tốt các yêu cầu phục vụ phát triển sản xuất - vận chuyển - chế biến - lưu thông. Tăng cường công tác quản lý giám sát chất lượng công trình, chống thất thoát trong đầu tư xây dựng. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2006 - 2010 dự kiến khoảng: 493.850 tỷ đồng. - Tiếp tục đẩy mạnh phong trào làm đường giao thông nông thôn, nâng cấp đường ô tô đến trung tâm xã; phấn đấu đến hết năm 2010 có 21/27 xã có đường dải nhựa đến trung tâm xã, có đường xe máy đến tất cả các bản. Làm tốt công tác tác quản lý, bảo dưỡng bảo trì, nâng cao chất lượng và độ an toàn của các tuyến đường cũng như của phương tiện giao thông vận tải đường bộ, đường thuỷ. - Quản lý, khai thác tốt mạng điện thoại cố định, di động, mạng lưới chuyển phát thư tín, bưu phẩm, sách báo đáp ứng thông tin nhanh, chính xác, kịp thời đến mọi người dân ở mọi vùng trong huyện. Đến năm 2010 có 100% xã có nhà bưu điện văn hoá, nâng số thuê bao di động và cố định lên khoảng 9.000 thuê bao, đạt trung bình 83 thuê bao/1000 người dân. 5. Tài chính, tín dụng ngân hàng: * Hoạt động tài chính: Củng cố kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao năng lực cán bộ làm công tác tài chính từ huyện đến cơ sở xã nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Làm tốt công tác tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân, mọi đối tượng sản xuất kinh doanh trên địa bàn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Thực hiện khoán thu trên cơ sở bám sát khả năng, điều kiện và kết quả sản xuất kinh doanh của từng đối tượng, từng địa bàn cơ sở. Đến năm 2010 thu ngân sách trên địa bàn đạt 10,93 tỷ đồng. Cải tiến nhanh gọn thủ tục chi ngân sách, luôn đảm bảo chi đúng, đủ kịp thời phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, đến năm 2010 chi ngân sách địa phương đạt 210,64 tỷ đồng. * Tín dụng ngân hàng: Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút vốn, nhất là nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, các tổ chức, doanh nghiệp. Cải cách hơn nữa thủ tục hành chính trong vay vốn, mở rộng diện cho vay theo hình thức tín chấp, cho vay ưu đãi, đóng góp tích cực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của địa phương. Tiếp tục phối kết hợp với các tổ chức đoàn thể như: Tổ chức đoàn, Hội phụ nữ, hội nông dân, Hội cựu chiến binh các cấp trong công tác giải ngân và thu nợ. Thường xuyên nâng cao trình độ năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định dự án vay vốn, đồng thời có kế hoạch hợp lý trong việc kiểm tra giám sát sau vay vốn, tích cực thu hồi nợ đến hạn và nợ quá hạn. Phấn đấu đạt mức tăng huy động vốn trung bình 12%/năm và đến năm 2010 đạt 130 tỷ đồng. 6. Dịch vụ, du lịch: Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch. Trong đầu tư xây dựng cơ bản chú trọng tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các hạng mục công trình phục vụ nhu cầu phát triển của ngành dịch vụ như: đường giao thông (tới các khu du lịch), bến đường thuỷ, hệ thống chợ, các điểm du lịch, vui chơi giải trí... - Tổ chức tốt hệ thống dịch vụ thương mại, tăng cường công tác quản lý thị trường, chống gian lận thương mại, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo hàng hoá lưu thông dễ dàng thuận lợi. - Có chính sách phát triển, hỗ trợ học nghề, dạy nghề, tập huấn nghiệp vụ và giải quyết việc làm cho lực lượng lao động tham gia kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ khác như: sửa chữa xe máy, điện tử, dịch vụ ăn uống, nhà hàng, nhà nghỉ. - Thực hiện tốt công tác xúc tiến đầu tư, tìm kiếm đối tác xây dựng các cơ sở thiết yếu phục vụ nhu cầu phát triển du lịch như: Nâng cấp đường lên Noong cốp, đường vào hồ Suối Chiếu, đầu tư xây dựng hệ thống nhà nghỉ, điểm vui chơi. Đồng thời chú trọng đến công tác quảng bá du lịch. 7. Lĩnh vực văn hoá xã hội: a, Văn hoá - TDTT: Tiếp tục củng cố, đẩy mạnh phong trào văn hoá văn nghệ - TDTT, chú trọng đến cả số lượng và chất lượng. - Củng cố, phát huy phong trào xây dựng nếp sống văn minh, bản làng văn hoá mới, nhất là tại vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Phấn đấu đến hết năm 2010 toàn huyện có 12.000 hộ được công nhận gia đình văn hoá và có 259 bản, khối phố, đơn vị văn hoá. Duy trì hoạt động, tổ chức luyện tập và biểu diễn cho 230 đội văn nghệ quần chúng. Đầu tư mới các trạm chuyển tiếp sóng truyền hình tại các xã: Sập Xa, Kim Bon, Suối Tọ đến năm 2010 số trạm thu phát truyền hình tăng lên 8 trạm, tỷ lệ dân số được xem truyền hình đạt 97% dân số toàn huyện. - Hàng năm tổ chức các giải thể thao trên phạm vi toàn huyện như: giải chạy việt dã, giải đua thuyền, giải bóng đá, giải cầu lông, cờ vua nhằm tuyên truyền, cổ vũ phong trào luyện tập TDTT trong nhân dân, đồng thời lựa chọn ra những cá nhân xuất sắc tham gia tranh tài ở cấp tỉnh, cấp trung ương. Đến hết năm 2010 có 50 câu lạc bộ TDTT thường xuyên hoạt động, nâng tỷ lệ hộ gia đình TDTT lên 10% tổng số hộ, tỷ lệ người tham gia luyện tập TDTT trong toàn huyện chiếm 9% tổng dân số. b, Giáo dục - đào tạo: - Tiếp tục đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý hiện có, đồng thời chú trọng tuyển dụng giáo viên mới theo các ngành học còn thiếu, đáp ứng nhu cầu dạy và học của các trường, các cấp học. Phát huy và tiếp tục thực hiện chính sách luân chuyển giáo viên và cán bộ quản lý đảm bảo chất lượng đồng đều giữa các vùng. Phấn đấu đến hết năm 2010 có 72,5% số giáo viên đạt chuẩn theo cấp học. - Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học theo hướng hiện đại, đồng bộ. Năm 2010 100% số xã có phòng học, nhà bán trú, nhà ở giáo viên được ngói hoá và kiên cố hoá. Đến hết năm 2010 phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS là 27/27 xã, thị trấn; số trường đạt chuẩn quốc gia là 6 trường; tổ chức và duy trì có hiệu quả hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng tại 27/27 xã, thị trấn. - Chú trọng đầu tư phát triển công tác đào tạo, dạy nghề cho người lao động, đặc biệt là lực lượng thanh niên, lao động ở vùng sâu, vùng xa. Bằng nhiều hình thức như: Phối hợp với các dự án, trạm trại, cơ sở sản xuất TTCN, các trường PTTH, Trung tâm GDTX trên địa bàn mở các lớp tập huấn dạy nghề cho người lao động; đồng thời liên kết với các trường dạy nghề, các công ty, xí nghiệp trong cả nước tổ chức dạy nghề và giải quyết việc làm cho con em địa phương. Từ năm 2006 - 2010 phấn đấu mỗi năm có khoảng 1.000 người là con em các dân tộc trên địa bàn được dạy nghề và giải quyết việc làm; đào tạo cán bộ xã có trình độ trung cấp trở lên và bồi dưỡng lý luận chính trị đạt: 10% số cán bộ/năm. c, Công tác y tế - KHHGĐ: Tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị kỹ thuật cho Bệnh viện đa khoa II, phòng khám khu vực và các trung tâm y tế cơ sở theo hướng hiện đại, đồng bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ y tế có trình độ cao, có y đức đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. - Năm 2006 xây dựng thêm 2 phòng khám khu vực, nâng tổng số phòng khám lên 4 phòng, tổng số giường bệnh trên toàn huyện đến 2010 là 335 giường. - Thường xuyên tổ chức đào tạo, đào tạo lại chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ y dược trên địa bàn. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động mạng lưới y tế từ huyện đến xã, chú trọng phát triển tuyến y tế cơ sở, nhất là y tế bản. - Triển khai có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia; thực hiện tốt phương châm xã hội hoá công tác y tế - chăm sóc sức khoẻ cộng đồng bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận động, huy động mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội trên địa bàn cùng bắt tay tham gia, chú trọng địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa. - Tiếp tục phát huy và triển khai thực hiện có hiệu quả công tác truyền thông dân số, kết hợp các biện pháp giáo dục, biện pháp hành chính, kinh tế và cung cấp dịch vụ KHHGĐ tốt nhất đến người dân, đáp ứng yêu cầu đạt tỷ lệ tăng dân số ở mức hiệu quả, từng bước nâng cao chất lượng dân số - chất lượng lao động. Đến năm 2010 phấn đấu đạt các chỉ tiêu sau: + Có 27/27 xã, thị trấn có bác sĩ trạm trưởng, 100% cán bộ y tế xã trình độ trung cấp trở lên, 100% số bản có cán bộ y tế bản. + Giảm tỷ lệ người có ký sinh trùng sốt rét xuống còn 0,03%. + Giảm tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ xuống còn 3,2%. + Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn: 16%. + Tỷ lệ tăng dân số giảm xuống còn 1,0%, tổng số dân là: 108.500 người. 7. An ninh chính trị, quân sự - quốc phòng: - Thực hiện thường xuyên và có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước đến người dân. - Chủ động xây dựng các kế hoạch phòng thủ, kế hoạch tác chiến, củng cố về mọi mặt các khu vực phòng thủ của huyện. Thực hiện diễn tập khu vực phòng thủ từ 2 - 4 xã/năm. Thường xuyên củng cố quân số, tổ chức luyện tập, bồi dưỡng chính trị tư tưởng cũng như kỹ chiến thuật chiến đấu cho các lực lượng chính quy, lực lượng dân quân, dân phòng, các đội tự vệ, đảm bảo luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc an ninh, trật tự trên địa bàn. - Thực hiện tốt công tác nắm đối tượng, nắm địa bàn, củng cố toàn diện vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp gianh. Đẩy mạnh công tác tấn công truy quét tội phạm, giải quyết kịp thời các bức xúc nảy sinh. Phát huy, xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân - an ninh nhân dân nhằm chủ động đối phó trong mọi tình huống. Gắn sự nghiệp an ninh quốc phòng với phát triển kinh tế, phát triển kinh tế với công tác an ninh quốc phòng. Thực hiện nghiêm luật nghĩa vụ quân sự và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. 8. Bố trí sắp xếp dân cư: Một số điểm tái định cư vùng lòng hồ Sông Đà đến nay dân cư đông đúc, thiếu đất sản xuất, không đảm bảo cuộc sống; hơn nữa trong những năm tới sẽ xây dựng mới nhiều hạng mục công trình phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nên cần thiết phải điều chỉnh sắp xếp lại dân cư trên một số địa bàn. Dự kiến giai đoạn 2006-2010 số hộ cần sắp xếp là: 733 hộ = 3.665 nhân khẩu. IV- giải pháp thực hiện: Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội đề ra, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Phù Yên cần thực hiện tốt các giải pháp sau: 1. Giải pháp về vốn: - Huy động tối đa nguồn vốn nhàn dỗi trong dân; có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ thoả đáng đối với người dân mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể, nhất là trong đầu tư phát triển đồi rừng, chế biến nông lâm sản, chăn nuôi tập trung và phát triển dịch vụ du lịch. - Triển khai có hiệu quả các chính sách thu hút vốn của Chính phủ, của Tỉnh như: phát hành trái phiếu, sổ xố, điều chỉnh lãi suất tín dụng, mở các dịch vụ tín dụng mới. - Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức nhằm thu hút nguồn vốn nước ngoài thông qua việc tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào địa bàn. Trong những năm tới khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực: Phát triển nguồn nhân lực, phát triển nông lâm nghiệp, chế biến nông lâm sản, khoáng sản, phát triển dịch vụ du lịch. 2. Khoa học và công nghệ: - Thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật của huyện tham gia học tập, nghiên cứu kiến thức khoa học kỹ thuật mới theo các chương trình tập huấn của Trung ương, của Tỉnh và tổ chức tập huấn đến người dân triển khai thực hiện. - Khuyến khích và hỗ trợ các phong trào học tập, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ của mọi tầng lớp nhân dân để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiếp tục đầu tư xây dựng mô hình điểm trong lĩnh vực nông lâm nghiệp. - Chú trọng tuyển dụng các nhà quản lý, chuyên gia, kỹ sư, công nhân có tay nghề cao vào làm việc trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội của huyện. - Đầu tư mới trang thiết bị có công nghệ hiện đại cho một số lĩnh vực quan trọng như: Chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, giáo dục, y tế, viễn thông, truyền hình tạo mũi nhọn đột phá về khoa học công nghệ. 3. Chính sách thị trường: Phát triển thị trường trên cơ sở đẩy mạnh kinh tế hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng chính đáng của các tầng lớp dân cư, các đơn vị kinh tế cả trong lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng. - Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm nâng mức sống - mức tiêu thụ của người dân. - Phát triển mạng lưới chợ, các cơ sở thương nghiệp đi đôi với phát triển giao thông, chú trọng các vùng giao lưu khó khăn. - Bằng nhiều hình thức như: thông qua phương tiện truyền thông, tập huấn nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người dân và các đơn vị kinh tế, gắn sản xuất với thị trường; chú trọng công tác quảng bá sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng, từng bước tạo ra thị trường có tính chất truyền thống và ổn định. 4. Chính sách phát triển nguồn nhân lực: - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác truyền thông dân số - KHHGĐ và công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng dân số - chất lượng nguồn nhân lực. - Tổ chức thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư hỗ trợ việc làm. Bằng nhiều hình thức tổ chức đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động, chú trọng lao động vùng nông thôn, lao động là người dân tộc nhằm tạo tiền đề đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn. - Phát triển hệ thống đào tạo có mục tiêu, nội dung, phương pháp, và qui mô phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của huyện nhằm tạo nguồn lao động cho các ngành nghề mũi nhọn, tạo ra những chuyển dịch lớn có chất lượng về cơ cấu lao động. 5. Các giải pháp về tổ chức thực hiện: - Xây dựng qui chế thống nhất qui định rõ phạm vi, lĩnh vực quản lý của các cấp, các ngành, tránh tình trạng quản lý chồng chéo; đồng thời qui định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. - Đề cao qui chế dân chủ thực hiện công khai hoá hoạt động của các cấp, các ngành, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý những vi phạm trong mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức kinh tế - xã hội. - Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả cơ chế thông tin báo cáo hai chiều giữa các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn. V- đề xuất Kiến nghị: - Tiếp tục nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời của Tỉnh về vốn, kỹ thuật và cơ chế chính sách triển khai thực hiện trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. - Tỉnh sớm triển khai đầu tư các hạng mục thuộc chương trình 48 bản đặc biệt khó khăn. - Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng Tỉnh căn cứ dự kiến xây dựng cơ bản từng năm, cân đối và lập kế hoạch giao vốn trước năm kế hoạch để huyện chủ động tiến hành khảo sát thiết kế, lập dự án đầu tư, có chính sách thích hợp, tăng cường được tính chủ động sáng tạo của địa phương. Trên đây là kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Phù Yên 5 năm giai đoạn 2006 - 2010, đề nghị UBND tỉnh, các sở ban ngành chức năng xem xét chỉ đạo thực hiện theo từng lĩnh vực liên quan. UBND huyện yêu cầu các cơ quan ban ngành, các xã, thị trấn, các phòng ban đơn vị, các trạm trại, doanh nghiệp đóng trên địa bàn căn cứ phối hợp thực hiện. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31530.doc
Tài liệu liên quan