Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Lời nói đầu M ục tiêu mà tất cả các quốc gia đều mong muốn vươn tới đó là sự phát triển và thịnh vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi nước đều phải tự xây dựng các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, khắc phục được khó khăn và yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu xa đối với xu thế chung. Việt Nam đang trong quá trình phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở, nằm trong khu vực kinh tế Châu á Thái Bình Dương - vòng cung kinh tế đang phát t

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển năng động nhất thế giới, lại vấp phải nhiều khó khăn thử thách: nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội . Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì một trong những tiền đề nhằm phát triển kinh tế là vốn bởi sẽ là không tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hay không đủ vốn. Thực tế, không quá khó khăn khi nhận thức rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nhưng sẽ là khó khăn khi đi tìm kiếm nó. Câu hỏi đặt ra là: vốn được khơi nguồn từ đâu? Theo như tuyên bố của Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII của Đảng: “Để công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước cần huy động được nguồn vốn sẵn có với sử dụng có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng”. Nội lực rất nhiều nhưng có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu hút được ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong thế giới kinh doanh tiền tệ, NHTM được coi là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất. Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế đất nước, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội - chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, rất quan tâm đến công tác huy động vốn, với phương châm kinh doanh nguồn vốn huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh. Tôi xin chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”. Với lượng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai làm thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề chung về hoạt động huy dộng vốn của NHTM. Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nôị. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại NHNo & PTNTHN Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Hoàng Xuân Quế và các anh chị trong phòng kế hoạch NHNo & PTNTHN đã hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành chuyên đề này. Chương I: Một số vấn đề chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Khái quát về NHTM Tính cho đến thời điểm hiện nay, ngân hàng thương mại đã có một tuổi đời hoạt động tương đối dài, tuy nhiên bất cứ khi nào đề cập tới NHTM ta không thể bỏ qua lịch sử ra đời của nó. NHTM là một trung gian tài chính ra đời dựa trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá và dựa trên sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng các khu vực. Hình thức ngân hàng sơ khai, đầu tiên là nhận tiền gửi và cho vay một phần số tiền đó. Hình thức này xuất hiện là do một số người có nhu cầu cất trữ số tiền của mình, trước nhu cầu đó một số thương gia đã đứng ra làm nhiệm vụ trông coi, cất giữ hộ tiền và tiến hành thu phí giữ hộ tiền. Trong quá trình cất giữ hộ, các thương gia đã nhận thấy trong kho cất giữ tiền của mình luôn tồn tại một lượng tiền dư thừa, vì thực tế không bao giờ người gửi tiền lại rút hết tiền và rút tiền cùng một lúc, thường có rất nhiều đến gửi tiền và rút tiền. Trong khi đó, có rất nhiều người có nhu cầu vay vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh. Vì vậy các thương gia đã bắt đầu sử dụng một phần tiền thừa trong két ra để đem đầu tư và thu lãi, từ đó họ có thêm một phần lợi nhuận. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều hình thức ngân hàng khác nhau, song đến nay ngân hàng đã trở thành một tổ chức kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu vẫn là nhận tiền gửi của khách với cam kết hoàn trả lại đúng số tiền đó cộng thêm một phần lãi và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và thực hiện một số nghiệp vụ khác. Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò như trên, ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nước đều xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động cuả ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Luật ngân hàng của ấn Độ, năm 1959 bổ sung “ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 “ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân...”. Các cách định nghĩa trên chỉ khác nhau về mặt thể hiện, song phân tích khai thác nội dung đều có một điểm chung là tính chất nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đối với bản thân Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định nghĩa: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH10) điều 20: “ NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thưc hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Thông thường, các nước có thể sử dụng các loại mô hình NHTM như sau: mô hình truyền thống và mô hình hiện đại. Mô hình truyền thống: gồm có các ngân hàng đa năng và các ngân hàng chuyên doanh. Mô hình phổ biến hiện nay (mô hình hiện đại): gồm có các ngân hàng thương mại - các định chế tài chính lớn, các ngân hàng phát triển, các ngân hàng có quy chế chuyên môn hoá, các ngân hàng có quy chế đặc biệt. Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng, mỗi loại ngân hàng đều mang những nét đặc trưng phù hợp với điều kiện cuả thời kỳ đầu chuyển đổi của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cụ thể Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau: NHTM quốc doanh: Loại ngân hàng này được coi là chiếm vị thế trong hệ thống tổ chức tín dụng của nước ta. Hình thức sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước, thành lập, cấp vốn chịu sự quản lý cuả Nhà nước, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đối với mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất lưu thông, xây dựng trong và ngoài nước. Hiện nay có 6 ngân hàng quốc doanh là: Ngân hàng công thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long. NHTM cổ phần: là loại hình ngân hàng phải được thành lập theo luật công ty cổ phần, thuộc sở hữu của các cổ đông, người góp vốn, trên cơ sở tự nguyện của các cổ đông trong việc góp vốn và hoạt động theo luật pháp quy định. Ngân hàng liên doanh: là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh, vốn điều lệ là vốn góp của ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Chi nhánh ngân hàng liên doanh: là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều tiết của luật pháp Việt Nam. Ngân hàng đầu tư: là những ngân hàng tập trung huy động vốn trung, dài hạn và đầu tư trung dài hạn vì sự phát triển, hoạt động đầu tư chủ yếu thông qua các dự án. Ngân hàng chính sách: thông thường là những NHTM 100% vốn Nhà nước hoặc NHTM cổ phần (sở hữu Nhà nước và các tổ chức kinh tế quốc doanh) được thành lập để phục vụ một hoặc một số chính sách của Nhà nước, nó hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chênh lệch giữa chi phí huy động vốn và sử dụng vốn sẽ được Nhà nước bù đắp. Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự nguyện thành lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và các dịch vụ ngân hàng. Nguyên tắc thành lập và hoạt động của loại hình này là tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự trang trải mọi chi phí và tự chịu trách nhiệm. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ của mình nhằm điều hoà, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ phát triển của khoa học hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày càng trở nên phong phú hơn song ngân hàng vẫn luôn duy trì 3 mảng nghiệp vụ cơ bản sau: Nghiệp vụ huy động vốn. Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một ngân hàng. Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn vốn của NHTM gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn sau: Vốn tự có của ngân hàng: là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các NHTM. Thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả động kinh doanh của bản thân NHTM, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh cuả các NHTM. Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản qua đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra các ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân hàng trung ương (NHTW) dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Ngân hàng sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. Nghiệp vụ huy động vốn khác: Thông qua nghiệp vụ này NHTM có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Nghiệp vụ sử dụng vốn. Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian “đi vay để cho vay”. Do vậy mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình. Một là, ngân hàng tiến hành cho vay Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả... Theo mục đích việc cho vay bao gồm: cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua và khác. Theo kỳ hạn: ngân hàng cung cấp các loại cho vay ngắn hạn (loại cho vay này nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán tạm thời, tiêu dùng và đầu tư ngắn hạn, thời hạn dưới 1 năm); cho vay trung và dài hạn (loại cho vay này phục vụ mục tiêu đầu tư trung và dài hạn của khách hàng, thời hạn thường trên 1 năm). Theo hình thức bảo đảm, khoản mục cho vay sẽ bao gồm: Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp; tài sản cầm cố; được sự bảo lãnh của của người thứ ba. Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Theo phương pháp hoàn trả, khoản mục cho vay sẽ bao gồm: Cho vay trả góp (khách hàng phải trả vốn gốc và lãi theo định kỳ). Cho vay phi trả góp (khách hàng thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận). Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng vay có thể hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập). Hai là tiến hành đầu tư Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thương mại có thể tiến hành là: Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp, các công ty khác. Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ba là nghiệp vụ ngân quỹ. Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra. Nghiệp vụ khác. Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều các lợi thế. Một trong những lợi thế đó là hình thức ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành các hoạt động thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó. Cụ thể: Dịch vụ thanh toán hộ: trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng các hình thức trên. Dịch vụ môi giới, mua, bán chứng cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho công ty. Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ uỷ thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác. Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế. NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau: Thứ nhất ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Theo sự suy luận này, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô về cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, song khi đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư...) thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín dụng, ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại. Thứ hai, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường . Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong quá trình vận động chịu tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung, cầu, cạnh tranh. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế này cũng không thoát khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan đó. Họ không những phải đáp ứng nhu cầu thị trường về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại mà còn đòi hỏi phải thoả mãn trên phương diện thời gian, địa điểm. Do vậy, nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến máy móc trang thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp chính là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của thị trường. Vì những hoạt động này đòi hỏi khối lượng vốn lớn (thông thường vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến với ngân hàng xin vay vốn. Hoạt động tín dụng đã khiến ngân hàng trở thành chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh của ngân hàng. Thứ ba, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. Thứ tư, NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, khu vực hoá, sự phát triển của các quốc gia không thể tách rời, độc lập riêng biệt mà luôn cần phải có sự gia lưu hợp tác tương trợ lẫn nhau. Chính xu thế đó đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần nhau hơn. Xu thế này xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, khi mà các mối giao lưu quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước trên thế giới lại ngày càng trở nên bức bách. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM với các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác nó đã góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng, thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Như trình bày ở phần trên sự ra đời và phát triển của ngân hàng là tất yếu đối với nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vậy những yếu tố nào cấu thành nên điều tất yếu đó? Mọi sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, sự vật này tồn tại được là nhờ có sự tồn tại của sự vật khác mà theo như các quy luật của lĩnh vực triết học là “cái chung và cái riêng”. Bản thân ngân hàng, để được coi là “bà đỡ” cho nền sản xuất hàng hoá, hay “trái tim” cung cấp “máu” cho mọi tế bào của đời sống kinh tế xã hội, thì hoạt động huy động vốn không thể đứng ngoài. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại. NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn. Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Về thực chất, thì nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Phân loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao là một doanh nghiệp biết tận dụng mọi “khả năng”, nắm bắt thông tin chớp mọi thời cơ. Với ngân hàng, “khả năng” hàm chứa những nhân tố bản thân ngân hàng sẵn có và đi khai thác. Vốn chính là “khả năng” của ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, mỗi loại lại có những tính chất và vai trò riêng, do vậy nhiệm vụ của ngân hàng là phải biết phân loại vốn “đầu vào”, trên cơ sở đó sẽ phân bổ “đầu ra” một cách hợp lý. Xét về kết cấu và tính chất vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác. Thông thường nguồn vốn của NHTM được phân chia như sau: Vốn tự có (Vốn CSH) Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, có 3 chức năng quan trọng khiến nó không thể thiếu trong hoạt động của mỗi ngân hàng: chức năng bảo vệ, chức năng điều chỉnh, chức năng hoạt động. Ba chức năng này đã giúp ngân hàng có thể đi vào hoạt động và đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động. Vốn tự có gồm: Vốn tự có ban đầu: Vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Nó được hình thành từ cá nhân (NHTM tư nhân), do ngân sách Nhà nước cấp (NHTM quốc doanh), do bán cổ phần, cổ phiếu (NHTM cổ phần), từ sự đóng góp giữa các bên (NHTM liên doanh). Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động: Vốn này có thể là được cấp thêm (bổ sung không mang tính chất thường xuyên vì nó chỉ có được khi cấp thêm, bán thêm cổ phần, cổ phiếu), bổ sung từ lợi nhuận (mang tính chất thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn tự có của ngân hàng thương mại). Ngoài ra, vốn tự có còn được bổ sung từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, dự phòng rủi ro (mỗi ngân hàng khác nhau sẽ quy định một tỷ lệ trích lập riêng), quỹ thặng dư vốn (phần chênh lệch đánh giá lại tài sản mang lại, nó phụ thuộc vào khả năng đầu cơ của mỗi hoạt động của mỗi NHTM).Tuy nguồn gốc hình thành của vốn tự có khác nhau nhưng chúng đều có điểm chung sau: Không hoàn lại, vì ngân hàng sử dụng vốn tự có chủ yếu để mua sắm các loại TSCD, công nghệ ngân hàng, thành lập các chi nhánh, hùn vốn đầu tư cổ phiếu... nên nó chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của mình mà không hề trực tiếp mang lại lợi nhuận. Nhỏ, tỷ lệ vốn tự có/ tổng nguồn vốn =1/20, đây là tỷ lệ thông thường. Việt Nam hiện có 6 NHTM quốc doanh là Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long. Vốn điều lệ của NHNT, NHCT, NHĐT&PT là 1100 tỷ VND, NHNo&PTNTVN là 2200 tỷ VND - đây là nguồn vốn do Nhà nước cấp ban đầu. Tính đến tháng 10/1998, trên địa bàn thủ đô Hà Nội có 6 NHTMCP trong đó NHTM Kỹ thương, NHTMCP Châu á Thái Bình Dương có vốn điều lệ là 70 tỷ VND, NHTMCP quân đội có vốn điều lệ 100 tỷ VND, NHTMCP quốc tế và NHTNCP nhà Hà Nội có vốn điều lệ 50 tỷ VND. Vốn huy động: Nếu vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh cuả các ngân hàng thương mại thì vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại đây là phần vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Nó được hình thành từ các nguồn sau: Từ nguồn tiền gửi. Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người thiếu vốn. NHTM đã biết điều hoà cái mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các công cụ, và các nghiệp vụ của mình huy động các nguồn vốn trong xã hội. Dưới đây là một số hình thức mà NHTM có thể sử dụng để huy động vốn từ nguồn tiền gửi: Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi giao dịch). Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định, khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời không phải là khoản để dành. Thứ hai, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng. Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1tháng, 3tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc hơn 1năm. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp. Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức tăng thu nhập của người dân. Khi mức thu nhập vượt quá chi tiêu thì lúc đó sẽ xuất hiện hiện tượng tích trữ tiền. Hình thức tiền gửi tiết kiệm là hình thức thông qua đó người dân không những vừa đảm bảo số tiền của mình không bị mất mát (xét trong điều kiện nền kinh tế không có yếu tố lạm phát) mà còn “sinh sôi nảy nở thêm”. Tiền gửi loại này có rất nhiều các hình thức: Cổ điển và phổ biến nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm (passbook saving account). Ngoài ra, còn có chứng chỉ tiết kiệm (Savings certificates). Từ nguồn tiền vay Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa các NHTM với nhau , các tổ chức tín dụng khác. Trong một số trường hợp khi các ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì NHTM có thể đi vay. Vay của NHTW. NHTW là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được NHTW cho phép thành lập và hoạt động đều được hưởng quyền vay tiền tại NHTW khi thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của ngân hàng thương mại xin vay được chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTW là quan hệ trực tiếp giữa NHTM với NHTW nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy, không phải lúc nào việc đi vay vốn vủa NHTW cũng diễn ra “suôn sẻ”. Vay các TCTD Trong trường hợp đó, NHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của các tổ chức tín dụng khác bằng việc mời họ tham gia hình thức cho vay đồng tài trợ cho các dự án phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống; hoặc hình thức vay qua đêm trên thị trường tiền tệ. Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có thể huy động: là phát hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Nếu những hình thức huy động trên là hình thức huy động mang tính bị động thì hình thức này là hình thức chủ động. Cụ thể: Khi ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành một giấy nhận nợ đối với khách hàng của mình, nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn rõ ràng. Giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác nhau ở chỗ: kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng. Vốn khác Nguồn vốn này có được là nhờ vào lợi thế hoạt động của ngân hàng thương mại. Ví dụ, trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo được một nguồn vốn gọi là nguồn vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo._. chi, séc định mức và các khoản phong toả do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. Các khoản tiền này được gọi là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vì thực tế nó tạm thời được trích vào tài khoản này và được nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng. Hay thông qua nghiệp vụ làm đại lý, ngân hàng thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Nguyên nhân, việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời khoản tiền đó vào kinh doanh. Sự cần thiết phải tăng cường công tác huy động vốn của NHTM. Đối với nền kinh tế Như đã đề cập ở phần trên, sẽ là không tưởng khi nói tới sự phát triển kinh tế lại không có vốn hay thiếu vốn. Vốn thực sự có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Vốn có thể huy động qua nhiều kênh khác nhau, tuy nhiên có 3 kênh chủ yếu là: qua kênh ngân sách Nhà nước, qua thị trường chứng khoán, qua các tổ chức tài chính trung gian. Đối với các nước có thị trường vốn và thị trường tài chính, tiền tệ phát triển thì huy động vốn qua các kênh này không mấy khó khăn ngược lại đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn của các trung gian tài chính - NHTM chính là kênh huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể: Kênh ngân sách nhà nước không có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thực tế đặt ra do mức động viên tài chính vào ngân sách nhà nước chỉ ở mức 20-21%, còn lại được phân phối vào các thành phần kinh tế và khu vực dân cư; gánh nặng trả nợ của ngân sách Nhà nước cho những món vay từ những năm 1990 trở về trước để đáp ứng nhu cầu chi để đầu tư phát triển, chi thường xuyên đã đến hạn thanh toán và nếu không trả sẽ dẫn đến nợ ngân sách Nhà nước chồng chất, tất yếu sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội . Kênh thị trường chứng khoán: đây là kênh huy động vốn trung và dài hạn có hiệu nhất, tuy nhiên do thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động sự hiểu biết của công chúng còn hạn chế (thậm chí đối với nhiều người dân khái niệm về thị trường chứng khoán còn hết sức lạ lẫm và mơ hồ), hàng hoá còn nghèo nàn, hệ thống luật pháp còn chưa đầy đủ. Do vậy chỉ còn một kênh duy nhất là huy độngvốn thông qua NHTM. Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng phải có vốn, vì vốn là năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động. Ngân hàng là một doanh nghiệp, đòi hỏi một lượng lớn vốn mới có thể thực hiện kinh doanh. Nguồn vốn này cho phép ngân hàng mở rộng, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, giảm thiểu rủi ro trong khi thực hiện “đi vay và cho vay”. Sau đây là những lợi ích mà nguồn vốn đem lại cho ngân hàng: Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng vì khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Trong điều kiện bình thường, đầu vào luôn ảnh hưởng trực tiếp tới đầu ra. Đối với ngân hàng, vốn chính là yếu tố đầu vào; tín dụng, đầu tư... là yếu tố đầu ra. Vì vậy, so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được tại các thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế, thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi nhỏ, hẹp chủ yếu trong cộng đồng. Hơn nữa, vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thường không phản ứng nhanh nhạy được trước những đợt biến động về lãi suất, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Chúng ta có thể lấy một ví dụ trên địa bàn một ngân hàng nào đó nhu cầu vốn rất lớn, nếu ngân hàng không huy động vốn được thì không thể tiến hành cho vay, đến đây xảy ra 2 trường hợp: nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi dào, thì chắc chắn ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu cho vay, có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng; ngược lại ngân hàng đó sẽ vấp phải vô vàn khó khăn. Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường. “Mất tiền bạc là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất tất cả”. Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, vì bản chất của ngân hàng là “ đi vay để cho vay”, nếu không có uy tín thì ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên. Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM trong nền kinh tế thị trường NHTM làm nhiệm vụ đi vay (tạo vốn) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng chênh lệch lãi suất. Quá trình tạo vốn của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới các hình thức sau: Nếu căn cứ theo thời gian huy động. Huy động ngắn hạn :đặc điểm là chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động, được sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn nhỏ hơn 1 năm, lãi suất được huy động thường thấp Huy động trung hạn: loại vốn này có thời hạn từ 1 đến 5 năm (Việt Nam chỉ từ 1 đến 3 năm), ngân hàng sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp vay khoản tín dụng trung hạn: đầu tư cải tiến công nghệ, sản phẩm. Huy động dài hạn: đây là khoản vay mà ngân hàng huy động từ 5 năm trở lên, chi phí cho việc huy động này cao, được ngân hàng dùng cho các khoản tín dụng dài hạn: đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào đối tượng huy động Huy động vốn từ dân cư. Vốn này có nguồn gốc là những khoản dự phòng cho tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì những khoản dự phòng này cũng tăng lên. Nắm bắt được quy luật này, NHTM đã sử dụng nghiệp vụ huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và thu được lợi nhuận. Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định tại ngân hàng. Nguồn này được ngân hàng huy động, có chi phí thấp và sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp. Huy động từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Việc vay vốn này nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn của ngân hàng. Theo quy định, ở Việt Nam vốn vay giữa hai ngân hàng được thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng, vốn cho vay phải được bảo đảm bằng hình thức thế chấp hoặc cầm cố bằng tài sản đi vay; tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHTW, các chứng từ có giá khác. Trong trường hợp, các NHTM đã vay mượn lẫn nhau nhưng vẫn thiếu vốn, mất khả năng thanh toán thì NHTM có thể vay NHTW thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá. NHTW tiến hành vai trò “ người cứu cánh cuối cùng” bằng việc cho vay để bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn theo kế hoạch đã phân phối cho các ngân hàng quốc doanh; tái chiết khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc mà các tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay chưa đáo hạn. Ngoài hình thức vay NHTW, các NHTM còn tiến hành vay ở các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Việt Nam hoạt động vay mượn này chủ yếu được diễn ra thông qua thị trường nội tệ (hình thành giữa các NHTM, TCTD và NHTW, được thành lập 07/1993 sau một thời gian hoạt động đã giúp các NHTM Việt Nam bổ sung nguồn vốn, khắc phục thiếu hụt trong thanh toán); qua thị trường ngoại tệ (thành lập 10/1994 giúp NHTM giải quyết sự khan hiếm ngoại tệ). Căn cứ vào công cụ huy động Đây là hình thức huy động mà được các NHTM hay sử dụng nhất. Các công cụ huy động này gồm: Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát hành séc). Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng cách phát hành séc; ở các nước phát triển loại tiền gửi này phần lớn được rút thông qua điện thoại hay máy rút tiền tự động ATM. Đặc điểm quan trọng, đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ dàng, mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất cụ thể. Đối với ngân hàng, chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì cũng rất nhỏ. Số dư của loại tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của ngân hàng trong việc dự đoán về sự biến động. Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi trên hai loại tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai. Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ nhân của tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi (loại tài khoản này luôn có số dư). Tài khoản vãng lai là tài khoản thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế, nó có thể có số dư bên có và bên nợ. Dư bên có phản ánh số tiền hiện có trong tài khoản của khách hàng, ngược lại số dư bên nợ phản ánh khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi suất bên nợ cũng như bên có đều do ngân hàng và khách hàng thoả thuận. Do tiền gửi có không có kỳ hạn có chi phí huy động thấp, nếu thu hút được số lượng khách hàng lớn, bảo đảm luôn có một số dư ổn định, ngân hàng có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc mua các loại chứng khoán có tính linh hoạt cao như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Vì vậy, trên thực tế các ngân hàng đã dần dần xoá bỏ sự khác biệt giữa hai loại tài khoản này. Đối với Việt Nam thì loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hình thức như sau: tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, và khoản tiền gửi của các cá nhân. Việt Nam là nước có tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt thấp, để khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng áp dụng việc trả lãi cho loại tiền gửi này(0,5% đối với tài khoản tiền gửi giao dịch của các đơn vị, tổ chức kinh tế). Trên thế giới, ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm một vị trí quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại (ở Mỹ loại này chiếm khoảng 30% tiền gửi ngân hàng). Tóm lại, loại tiền gửi này có đặc điểm là tính ổn định thấp (muốn sử dụng có hiệu quả nguồn này phải mở rộng quy mô huy động vốn); chi phí huy động rẻ (có những ngân hàng áp dụng mức lãi 0% hoặc nếu có thì cũng rất thấp); luôn là đối tượng phải chịu dự trữ bắt buộc, điều này tạo nên một chi phí thực cao hơn chi phí danh nghĩa; có tính thanh khoản cao. Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm Nếu tiền gửi không kỳ hạn số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn lại phụ thuộc vào lãi suất. Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ nhân có quyền rút ra theo như thời hạn đã được thoả thuận với ngân hàng, mục đích của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không phải là hưởng các tiện ích trong thanh toán. Đặc điểm của loại tiền gửi này là không được dùng để thanh toán; hiệu quả sử dụng nguồn này đối với ngân hàng rất cao vì nó có thời hạn rõ ràng; chi phí để huy động đối với ngân hàng là khá đắt vì lãi suất huy động thường cao (thông thường lãi suất tỷ lệ thuận theo thời gian: thời gian gửi càng dài thì lãi suất phải trả càng cao). Mỗi nước lại có cách huy động tiền gửi này riêng. Tiền gửi có kỳ hạn ở Mỹ chiếm 39% tiền gửi ngân hàng, đặc điểm là các chứng chỉ tiền gửi được ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán, việc rút trước thời hạn sẽ bị phạt, đôi khi mức phạt vượt quá tiền lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền. ở Đức họ đã khắc phục việc rút vốn trước thời hạn gây bất lợi cho khách bằng cách cấp cho họ một khoản tín dụng và coi khoản tiền gửi theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó. Lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng, với loại tiền gửi có lãi suất linh hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định. Việt Nam hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu) đã xuất hiện với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng. Tuy hình thức này mới được xuất hiện và được sử dụng vài năm trở lại đây nhưng nó đã phát huy được vai trò của mình trong việc tạo vốn cho các ngân hàng bằng chứng là tỷ trọng huy động vốn bằng cách phát hành kỳ phiếu ngân hàng cao hơn các hình thức huy động khác. Tiền gửi tiết kiệm Đối với ngân hàng thương mại tiền gửi tiết kiệm là công cụ huy động vốn lưu truyền từ lâu.Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi của các ngân hàng (ở Mỹ loại này chiếm khoảng 25%). Ngân hàng thường phân chia loại tiền này thành 3 loại: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: đặc điểm chủ tài khoản có thể rút ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn, ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch là số dư này ít biến động, ngân hàng thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nguyên tắc của loại tền này là một khi khách đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc lẫn lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số ngân hàng thương mại vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn; đồng thời để hạn chế việc khách hàng rút tiền trước thời hạn, một phần tiền lãi mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ (có thể là ngân hàng không chấp nhận trả lãi cho một số tháng nào đó hoặc có thể khách hàng chỉ được hưởng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cho khoảng thời gian khách hàng gửi tiền). ở Việt Nam đây là loại hình khá phổ biến và quen thuộc, kỳ hạn mà các ngân hàng Việt Nam thường áp dụng là huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm. Tiền gửi tiết kiệm dài hạn: Loại tiền này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, mục đích thu hút số tiền nhàn rỗi tạm thời trong thời hạn dài, đặc điểm chủ tài khoản có thể gửi vào với số lượng không hạn chế và mọi lúc, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng để tạo các nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn cho mình. Huy động qua phát hành công cụ nợ của ngân hàng thị trường. Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính gồm : thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng thiếu vốn là điều không thể khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác điịnh vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước. Trái phiếu ngân hàng lại được phân ra thành nhiều loại, với các tiêu thức phân chia khác nhau Nếu theo thời hạn: trái phiếu ngắn hạn và dài hạn Nếu theo tính chất chuyển đổi: trái phiếu vô danh, trái phiếu ký danh Việc phát hành trái phiếu của ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ thống ngân hàng chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn. Do tính chủ động trong việc huy động vốn nên lãi suất trái phiếu phải hấp dẫn, cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ. Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành theo từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành dựa trên cơ sở tình hình nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của ngân hàng. Loại này có ưu điểm vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền hoặc các hình thức khác; mệnh giá, loại tiền sử dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người mua. Lãi suất của kỳ phiếu thường ổn định và hấp dẫn (mức độ tuỳ thuộc vào mức độ cần thiết về vốn của ngân hàng). Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM Ngân hàng không thể tiến hành các hoạt động của mình có hiệu quả nếu không có đủ vốn hoặc huy động quá nhiều vốn mà không sử dụng hết tức là ngân hàng bị kẹt vốn. Do vậy hoạt động quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng là công tác huy động vốn hay còn gọi là tạo “đầu vào”. Đầu vào thuận lợi sẽ góp phần tạo “đầu ra” thông thoáng. Để có được “đầu vào”, ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều các nhân tố khác nhau. Sau đây là một vài những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các NHTM. Môi trường kinh doanh. Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng tác động ràng buộc lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh doanh của các NHTM được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác động ổn định hay bất ổn định, tăng nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng. Rõ ràng, hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của ngân hàng luôn gắn với môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm: Thứ nhất là môi trường pháp lý Như chúng ta đâ biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điêù chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định của chính phủ, của NHTW; đó là Luật các tổ chúc tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự, hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Do sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn cũng bị tác động. Cụ thể, chính sách của Nhà nước, của NHTW: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM. Thứ hai là môi trường chính trị Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng. Thứ ba là môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn của NHTM. Môi trường kinh tế hàm chứa: tình trạng nền kinh tế, yếu tố cạnh tranh. Nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội cao và ổn định thì tất yếu công việc huy động vốn của ngân hàng sẽ diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Ngược lại nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái thì khả năng khai thác vốn đưa vào nền kinh tế ắt hản sẽ bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng tốt vì cạnh tranh có thể dẫn đến rất nhiều những tiêu cực, hạn chế. Vì vậy, cạnh tranh là một thách với sự phát triển vừa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển. Để công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung đạt được hiệu quả, ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề cạnh tranh. Cụ thể ngân hàng phải xác định rõ trong địa bàn hoạt động của mình có bao nhiêu ngân hàng, các đối thủ khác cũng cung cấp các dịch vụ tương như ngân hàng, có bao nhiêu cơ hội để đầu tư kinh doanh. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ tính toán đưa ra loại hình dịch vụ nào có hiệu quả nhất, ấn định một mức lãi suất phù hợp không chỉ với thị trường mà còn tiết kiệm được chi phí huy động. Thứ tư là môi trường văn hoá. Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc của các dân tộc: tập quán, thói quen, tâm lý... Đối với hoạt động ngân hàng, trong đó công tác huy động vốn là yếu tố chịu ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi; và trong tiềm thức của họ ngân hàng là một cái gì đó không thể thiếu được trong cuộc sống. Do vậy, ngân hàng không mấy khó khăn trong vấn đề huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa có thói quen thanh toán không sử dụng tiền mặt (theo thống kê có đến 50% giao dịch vẫn sử dụng tiền mặt). Hơn nữa ngân hàng lại chưa tạo được lòng tin đối người dân sau hàng loạt các sự kiện đã từng xảy ra đổi tiền năm 1985 - 1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt ở mức 3 con số 600-700% làm trắng tay nhiều người gửi tiền, sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân ở thành thị và hợp tác xã tín dụng ở nông thôn 1989-1990, tiếp đến là hàng loạt các vụ án lớn liên quan đến ngành ngân hàng như dệt Nam Định, Tăng Minh Phụng – Epco, làm cho các ngân hàng thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng; chưa chú trọng lắm tới công tác Marketting, tiếp thị quảng cáo nên người dân còn hiểu biết rất ít về chủ trương chính sách của Nhà nước, hoạt động của ngân hàng vì vậy đến nay vẫn có tình trạng nhiều người dân có tiền nhưng không muốn gửi tiền vào ngân hàng vì không biết thủ tục,ngại mất thời gian... Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng Nếu môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn với công tác huy động vốn thì yếu tố quyết định chính vẫn là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. Bởi môi trường kinh doanh chỉ tác động: gây ra khó khăn, hay tạo điều kiện thuận lợi còn việc vốn có được huy động hay không lại phải phụ thuộc vào chủ trương đường lối chính sách, kế hoạch của ngân hàng. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng quyết định việc huy động vốn có hiệu quả thường bao gồm những nhân tố sau: Một là, chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng ngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả. Hai là chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy động vốn. Như chúng ta đã biết, ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng lên, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàng mà họ coi là thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và kiếm lời từ lãi suất. Thực tế này đòi hỏi các ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn trong hoạt động nói chung và trong hoạt động huy động vốn nói riêng. Để làm được điều này, trước tiên, ngân hàng cần tìm hiểu động cơ thói quen, mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Cụ thể mục đích của doanh nghiệp là nhờ ngân hàng quản lý quỹ, ký quỹ hoặc nhờ chi trả trong thanh toán trong khi đó mục đích của cá nhân gửi tiền tiết kiệm lại là hưởng lãi. Mục đích của từng loại tiền gửi trên các tài khoản khác nhau cũng khác nhau như: tiền gửi giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành cho tiêu dùng, đầu tư trong tương lai để hưởng lãi. Trên cơ sở những thông tin của khách hàng ngân hàng có thể đưa ra một hệ thống các chính sách và biện pháp để có được quy mô và chất lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ hay gọi chung là chính sách giá cả các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàngsử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như là một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi, thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Mặt khác nếu hệ thống lãi suất linh hoạt sẽ giúp ngân hàng tạo được sự phù hợp về quy mô và cơ cấu nguồn vốn. Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của ngân hàng. Nhóm chính sách này nhằm đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung ứng và chất lượng các dịch vụ đó: chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịchvụ liên quan đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán. Những năm gần đây các ngân hàng đã đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, đổi mới , hoàn thiện nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phù hợp với yêu cầu thị trường, không ngừng mở rộng phát triển dịch vụ mới. Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp. Nhân viên ngân hàng là chiếc gương để cho khách hàng thấy được hình ảnh của ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay - khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả, nên chất lượng dịch vụ khách hàng đã trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút vốn. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, hệ thống thanh toán được bố trí một cách khoa học là những điều cần thiết để giữ vững khách hàng có thêm khách hàng. Do đó, muốn củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó với khách hàng truyền thống, thu hút, hấp dẫn thêm khách hàng mới, ngân hàng không thể bỏ qua các chính sách trong phục vụ giao tiếp. Ba là mạng lưới và các hình thức huy động. Mạng lưới hoạt động càng rộng và hình thức huy động càng phong phú, đa dạng thì kết qủa huy động vốn sẽ càng nhiều về số lượng và chất lượng cũng được nâng lên tương ứng. Thường muốn mở rộng quy mô tăng cường phát triển nguồn vốn ngân hàng không thể bỏ qua yếu tố mở rộng màng lưới hoạt động. Qua hoạt động và khảo sát tình hình thực tế, các ngân hàng có thể đưa ra kết luận: khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất, dịch vụ tiện ích của ngân hàng mà họ còn quan tâm đến tính thuận tiện của việc gửi tiền. Chẳng hạn, nếu ngân hàng không mở rộng mạng lưới hoạt khó có thể huy động được những nguồn vốn nhỏ từ các tầng lớp dân cư vì tâm lý của người dân với một món tiền nhỏ họ rất ngại phải đi một quãng đường xa đến nơi gửi, quan điểm của họ thà để cất trữ ở nhà còn hơn, nếu ngân hàng không nhận biết điều này thì vô hình chung họ đã bỏ qua một khoản tiền nhàn rỗi. Việc mở thêm chi nhánh là quan trọng nhưng vị trí ở đâu để có thể huy được khoản tiền gửi đòi hỏi ngân hàng phải có sự nghiên cứu hết sức nghiêm túc. Thông thường các chi nhánh được mở ở mặt đường quốc lộ nơi đông dân cư để thuận tiện cho người dân gửi tiền, đối với các ngân hàng lớn thì nên mở các chi nhánh ngay tại trụ sở để phục vụ khách hàng tốt hơn và tạo mối quan hệ mật thiết với khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn không ngừng nâng cấp các chi nhánh, trang thiết bị các phương tiện dịch vụ nâng cao chất lượng cán bộ ở các chi nhánh để có thể phục vụ, thu hút được nhiều tiền gửi hơn. Bốn là trình độ công nghệ ngân hàng. Trình độ công nghệ ng._.ớc hết là cán bộ phòng ban, các ngân hàng Quận, các phòng giao dịch... coi đây là tiêu chuẩn quan trọng để nâng bậc lương hoặc chuyển ngạch lương viên chức. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, xử lý kịp thời và kien quyết những sai phạm của cán bộ, viên chức làm tổn hại đến lợi ích kinh doanh của khách hàng cũng như của ngân hàng, tăng cường khoán tài chính và tiền lương triệt để đến các ngân hàng, từng phòng ban đi đôi với quản lý để nhanh chóng đưa hoạt động kinh doanh nói nói chung và công tác huy động vốn nói riêng ngày càng có hiệu quả hơn. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội. Một số thuận lợi và khó khăn. Thuận lợi: Cùng với toàn ngành, NHNo&PTNT Hà Nội bước vào kế hoạch năm 2001-2005, và năm đầu của thế kỷ 21 với những thuận lợi cơ bản: Nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định và vững chắc, một số doanh nghiệp đã dần khẳng định mình trong cơ chế thị trường, một số ngành hàng, mặt đã tìm được chỗ đứng trong nước và trên thị trường thế giới. Một số chính sách kinh tế Nhà Nước và ngành thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng. NHNo&PTNT Hà Nội được NHNN Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam. Thành uỷ, UBND Thành phố Hà Nội thường xuyên quan tâm hỗ trợ về nhiều mặt, được sự hỗ trợ tích cực của ban ngành TW và Hà Nội, sự cộng tác tích cực trên nguyên tắc cùng có lợi ở mọi thành phần kinh tế. Sự đoàn kết thống nhất từ ban chấp hành Đảng uỷ, ban giám đóc và sự nhận thức đầy đủ kịp thời tình hình chính trị, kinh tế xã hội của cả nước cũng như của Thủ đô Hà Nội, được những thành tích kinh oanh trong nhiều năm qua cổ vũ động viên luôn tạo thành sức mạnh tổng hợp để vượt qua những khó khăn trở ngại trong hoạt động kinh doanh năm 2001 và những năm tiếp theo. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, giai đoạn 2001-2005 NHNo&PTNT Hà Nội cũng sẽ gặp phải những khó khăn không nhỏ, cụ thể là: Nợ tồn đọng của một số doanh nghiệp Nhà Nước từ những năm 1993-1994 dồn lại đến nay chưa giải quyết được thực sự là gánh nặng cho năm 2001 và một số năm sau này đối với NHNo&PTNT Hà Nội. Một số doanh nghiệp NHà Nước vẫn chưa thực sự tìm được chỗ đứng trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh vẫn bấp bênh, nhất kà các doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp, không có mặt hàng chủ chốt. Tỷ giá ngoại tệ không ngừng tăng nhanh không những tạo điều kiện bất lợi cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhập khẩu mà còn là trở ngại không nhỏ trong việc khai thác và cung ứng ngoại tệ thanh toán với nước ngoài. Sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng tăng, trở nên khốc liệt hơn, một số ngân hàng nhất là các ngân hàng cổ phần, các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh thiếu lành mạnh như nâng lãi suất thu hút vốn nội tệ có khi cao hơn lãi suất cơ bản do Thống đốc NHNH Việt Nam quy định nhưng lại hạ lãi suất tín dụng thấp hơn mặt bằng lãi suất chung đã gây khó khăn không đáng có cho các ngân hàng thực hiện nghiêm các quy chế tiền tệ tín dụng của Thống đốc NHNN Việt Nam mà thực chất làm rối loạn không đáng có về hoạt động tín dụng ngân hàng. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của NHNo&PTNT Hà Nội còn thấp kém so với nhu cầu hiện đại hoá và hội nhập của ngân hàng trong khu vực và trên thế giới trong tương lai. Nắm bắt được những khó khăn cũng như thuận lợi, NHNo &PTNT Hà Nội đã cụ thể hoá chiến lược hoạt động kinh doanh của mình như sau: Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội trong năm 2002. Nguồn vốn tăng trưởng 20-23% so với năm 2001, chú trọng hu động vốn ngoại tệ USD trung và dài hạn. Dư nợ tín dụng tăng 20%, tập trung đầu tư trung và dài hạn cho các dự án sản xuất, chế biến hàng nông sản xuất khẩu và các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu, nâng dư nợ trung dài hạn chiếm 40% tổng dư nợ. Nợ quá hạn dưới 3%. Lợi nhuận tăng 20% so với năm 2001. Tiếp tục phát triển đổi mới, hiện đại công nghệ thông tin ngân hàng. Kế hoạch huy động vốn 2002. Thực hiện định hướng của Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam về huy động vốn và sử dụng vốn giai đoạn 2001-2005. Tập trung huy động vốn tại các thành phố lớn và chuyển tải về nông thôn từng bước thực hiện hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn xoá dần ranh giới giữa thành thị và nông thôn. Trong năm 2002 NHNo&PTNT Hà nội phải đẩy mạnh hơn nữa tạo vốn cùng với việc mở rộng đầu tư tín dụng. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội xây dựng kế hoạch huy động vốn mở rộng màng lưới mở thêm nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng nhằm hoàn thành tốt kế hoạch kinh doanh năm 2002, khẳng định nâng cao vị thế uy tín của mình nói riêng, góp phần ổn định vầ phát triển vững chắc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005. Để đạt được mục tiêu của Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội cụ thể hoá kế hoạch huy động vốn trong năm 2002 và giai đoạn 2001-2005. Mục tiêu: Đến hết năm 2002 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội huy động đạt 6000 tỷ VND, tăng 1744 tỷ VND so với năm 2001, tăng 41% so với năm 2001. Kế hoạch huy động vốn năm 2002. Đơn vị: tỷ VND. Nội dung Thực hiện 2001 Tỷ trọng Kế hoạch 2002 Tỷ trọng Chênh lệch 2002/2001 + Tổng nguồn vốn 4256 100 6000 100 + 1744 - BằngVND 3900 91,0 5200 86,7 + 1300 - Bằng ngoại tệ (quy đổi) 356 9,0 800 13,3 +444 + Huy động từ dân cư 1781 42,0 2800 46,7 + 1019 - Tiền gửi không kỳ hạn 39 0,9 150 2,5 +111 - Tiền gửi 3 tháng 110 2,7 200 3,3 + 90 - Tiền gửi 6 tháng 200 4,8 350 5,8 + 150 - Tiền gửi 12 tháng 1432 33,6 2100 35,0 + 668 - trong đó: TG kỳ phiếu 1141 26,8 1700 28,3 +559 TG tiết kiệm 291 6,2 400 6,7 +9 + Tiền gửi kho bạc 161 3,8 500 8,3 +339 + Tiền gửi TCKT 761 17,9 1000 16,7 +239 + Tiền gửi các TCTD 1453 34,1 1500 25,0 +47 + Tiền gửi khác 100 2,2 300 3,3 +200 Định hướng huy động vốn năm 2002. Định hướng: Năm 2002 nguồn vốn đạt 6000 tỷ VND với kết cấu như sau: Tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng từ 349 tỷ VND năm 2001 lên 700 tỷ VND năm 2002 tăng 200% so với năm 2001. Tiền gửi tiết kiệm 12 tháng từ 291 tỷ VND năm 2001 lên 400 tỷ VND năm 2002 tăng 1375 so với năm 2001. Tiền gửi kỳ phiếu từ 1141 tỷ VND năm 2001 lên 1700 tỷ VND năm 2002 tăng 149% so với năm 2001( trong đó tổ chuức tín dụng mua 868 tỷ VND năm 2001). Tiền gửi kho bạc từ 161 tỷ VND năm 2001 lên 500 tỷ VND năm 2002 tăng 310% so với năm 2001. Tiền gửi tổ chức kinh tế từ 761 tỷ VND năm 2001 lên 1000 tỷ đồng năm 2002 tăng 131% so với năm 2001. Tiền gửi khác từ 100 tỷ VND năm 2001 lên 300 VND tỷ năm 2002 tăng 300% so với năm 2001. Phân bổ chỉ tiêu huy động vốn đối với các NHNo&PTNT Quận Đơn vị: tỷ VND (quy đổi VND). Ngân hàng Nguồn vốn Thực hiện Xây dựng 2002 Thực hiện đến Dự kiến giao kế hoạch 2002 Tổng số Nội tệ VND Ngoại tệ VND Tổng số Nội tệ VND Ngoại tệ VND Trung tâm 2297 2363 2262 101 2918 2475 443 Cầu giấy 309 420 392 345 47 450 400 50 Đống Đa 332 500 403 367 36 550 510 40 Thanh xuân 187 320 160 129 31 320 280 40 Ba Đình 372 356 277 247 30 450 415 35 Hai Bà Trưng 6 10 8 6 2 12 10 2 Tam Trinh 305 460 301 177 124 500 360 140 Hoàn Kiếm 193 270 226 218 8 400 390 10 Tổng cộng 4257 5705 4478 4072 406 6100 5300 800 Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội. Để thực hiện các mục tiêu và định hướng về công tác huy động vốn năm 2002 nói riêng cũng như giai đoạn 2001-2005 nói chung, NHNo&PTNT Hà Nội cần áp dụng đồng bộ các giải pháp cụ thể sau: Mở rộng màng lưới kinh doanh. Đối với hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội, giải pháp này phải thực sự được coi là giải trọng tâm, cấp bách hàng đầu. Thực tế khi mở rộng màng lưới kinh doanh đã tạo điều kiện giúp công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội đạt được những kết quả. Do đó, trong những năm tiếp theo, để giữ được khách hàng cũ và thu hút thêm được khách hàng mới, ngân hàng cần phải xây dựng kế hoạch kinh mở rộng màng lưới kinh doanh. Kết quả khảo sát cho thấy, NHNo&PTNT Hà Nội đã và đang triển khai mạng lưới hoạt động kinh doanh của mình như sau. Năm 2001, NHNo&PTNT Hà Nội đã có 01 ngân hàng cấp I, 07 ngân hàng Quận, 01 ngân hàng khu vực cùng với 20 phòng giao dịch. Dự kiến năm 2002 sẽ khai trương Ngân hàng khu vực Chương Dương, 02 chi nhánh cấp II loại 5 và mở thêm 15 phòng giao dịch. Phấn đấu đến hết năm 2002 toàn chi nhánh sẽ có 35 phòng giao dịch. Thiết nghĩ để thực hiện tốt kế hoạch mở rộng mạng lưới kinh doanh như trên, các ngân hàng Quận và Khu vực phải tự mình nỗ lực rất nhiều: Đối với Trung tâm, đây là ngân hàng cấp1 cần phải tập trung vào các khu phố cổ đông dân cư, các trường đại học, bệnh viện, các đơn vị hành chính sự nghiệp và một số khu chung cư khác như: Khu tập thể Hồ Việt Xô, Đầm trấu. Đối với ngân hàng cấp Quận: Ngân hàng Nông nghiệp Cầu Giấy cần tập trung vào các trường đại học, khu văn công Mai dịch, các bệnh viện, các khu đô thị mới như: Trung Yên, Yên Hoà, Nhân Chính, Dịch Vọng... Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Xuân nên tập trung vào các trường đại học, bệnh viện, khu Định Công, Linh Đàm và các khu chung cư mới. Ngân hàng Nông nghiệp Đống Đa nên tập trung vào bệnh viện, khu tập thể đông dân cư, các đơn vị hành chính sự nghiệp về mở các tài khoản giao dịch. Ngân hàng Nông nghiệp Tây Hồ nên tập trung vào các dơn vị hành chính sự nghiệp, đường Lạc Long Quân, Phú Thượng, và các địa điểm giáp với huyện Từ Liêm... Ngân hàng Nông nghiệp Ba Đình nên tập trung vào các trường đại họcnhư: đại học Văn Hoá, Mỹ Thuật, hay một số bệnh viện... Ngân hàng Nông nghiệp Hai Bà Trưng nên tập trung vào các khu đền , Vĩnh Tuy, các trường đại học: Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa, Đại học Xây dựng; các bệnh viện: Bệnh viện Thanh Nhàn, Bệnh viện Bạch Mai; các đơn vị hành chính sự nghiệp. Ngân hàng Nông nghiệp Hoàn Kiếm nên tập trung vào các Siêu thị , Chợ Long Biên. Đối với ngân hàng khu vực: Ngân hàng Khu vực Tam Trinh nên mở rộng Lĩnh Nam, Vĩnh Tuy... Đa dạng hoá các hình thức huy động và đối tượng khách hàng. Ngân hàng là ngành kinh doanh tiền tệ dưới hình thức cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Việc mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín trên thị trường là hết sức cần thiết và quan trọng. NHNo&PTNT Hà Nội hoạt động trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Đây là địa bàn hoạt động mang tính cạnh tranh cao, với phương châm: kết hợp giữa kinh doanh tín dụng với kinh doanh nguồn vốn và các khoản kinh doanh khác, đòi hỏi NHNo&PTNT Hà Nội phải xây dựng chiến lược huy động vốn đa dạng đảm bảo hoàn thiện các hình thức huy động vốn truyền thống và nghiên cứu đưa ra áp dụng các hình thức huy động mới. Đối với tiền gửi dân cư: bao gồm tiết kiệm và kỳ phiếu. Trong số tất cả các nguồn vốn huy động được của ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm của dân cư được coi là nguồn có tính ổn định và vững chắc. Đối với NHTM việc tìm giải pháp để huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng luôn là vấn đề bức xúc và nan giải. Để đánh thức và khơi dậy sự “ khao khát tiền lời trong nhân dân”, NHNo&PTNT Hà Nội cần phải xuất phát từ cái gốc của người gửi tiền: mong muốn kiếm lợi thông qua nhận lãi tiền gửi, hoặc được đảm bảo an toàn , hay nhận được sự thuận lợi trong thanh toán, giao dịch. Với mục tiêu: phấn đấu năm 2002, NHNo Hà Nội có số dư tiền gửi dân cư 2.800 tỷ chiếm 50% nguồn vốn kinh doanh nhằm tạo sụ ổn định về nguồn vốn cũng như có lợi thế về mặt lãi suất đầu vào, trong đó tiền gửi dân cư bằng ngoại tệ đạt 500 tỷ, tương đương 33,3 triệu USD nhằm đáp ứng cho các nhu cầu cho vay vốn nhập khẩu. Sau đây là một số giải pháp NHNo&PTNT Hà Nội có thể tham khảo để khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. NHNo&PTNT Hà Nội nên mở rộng màng lưới kinh doanh. Đây phải được coi là giải pháp trọng tâm, cấp bách hàng đầu của ngân hàng. Cụ thể trong năm 2002, NHNo Hà Nội cần khai trương Ngân hàng Khu vực Chương Dương, Chi nhánh Tràng Tiền, và mở thêm đủ 15 phòng giao dịch theo đề án từ năm 2001 cho từng Ngân hàng ( chậm nhất 30/06/2002 phải hoàn tất). áp dụng các biện pháp tích cực trong huy động vốn: Duy trì việc tăng thời gian giao dịch. Đây là việc làm hết sức cần thiết vì trong môi trường cạnh tranh hiện nay, khách hàng gửi tiền bên cạnh lãi suất yêu cầu, họ còn mong muốn sự thuận thuận tiện trong giao dịch. Bắt đầu từ năm 2002, NHNo Hà Nội nên triển khai phòng giao dịch tiếp khách đến 17 giờ hàng ngày, giao dịch cả thứ bảy và Chủ nhật để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến gửi và lĩnh tiền. Việc làm này hết sức mới mẻ và khó khăn đòi hỏi NHNo Hà Nội cần phấn đấu triển khai. Về hình thức huy động, NHNo Hà Nội cần mở thêm nhiều hình thức huy động vốn phù hợp với tình hình huy động vốn của các TCTD trên địa bàn. Khi điều kiện cho phép, ngân hàng nên huy động tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm có dự thưởng. Vàng là một phương tiện trao đổi buôn bán, khối lượng tích trữ trong dân cư nước ta rất nhiều khoảng 15-20 triệu lạng, khi có vốn dư thừa bằng vàng nếu khách hàng gửi trực tiếp vàng vào ngân hàng sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí chuyển đổi từ vàng thành tiền. Do đó, NHNo&PTNT Hà Nội có thể mở rộng huy động vốn bằng hình thức này để thu hút tối đa nguồn vốn tích trữ dưới dạng vàng trong nhân dân. Đưa ra chính sách khuyến mại đối với những món tiền gửi lớn. áp dụng linh hoạt phương thức trả lãi trước, sau hoặc hàng tháng tuỳ theo tình hình cân đối vốn từng thời kỳ và từng món tiền đồng thời đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền và ngân hàng trong qua hệ gửi tiền. Hiện nay đa số các ngân hàng chỉ áp dụng 2 hình thức trả lãi là trả lãi trước và trả lãi sau kỳ hạn gửi tiền vì nếu ngân hàng trả lãi hàng tháng cho khách hàng thì rất phức tạp và vất vả. Tuy nhiên mục tiêu của ngân hàng hiện nay là “năng nhặt chặt bị” thu hút và khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, kể cả với số lượng nhỏ. Do vậy, trong thời gian tới NHNo Hà Nội nên nghiên cứu đa dạng các hình thức trả lãi hơn nhằm thu hút tối đa khách hàng. Sau đây là một vài hình thức trả lãi, NHNo Hà Nội nên áp dụng trong thời gian tới: Loại gửi một lần, rút một lần (lãi suất trả cao nhất) Loại gửi một lần lấy lãi nhiều kỳ giữ nguyên vốn (nên cho lấy lãi hàng tháng) hoặc lấy lãi 6 tháng một lần đối với kỳ hạn dài từ 2 năm trở lên. Loại gửi một lần nhưng rút một phần trước hạn cần ưu đãi khách hàng theo cách tính lãi kỳ hạn tương đương. Loại gửi tiền nhiều lần góp thành số tiền lớn trong thời gian dài mới rút ra một lần cần ưu đãi khách hàng bằng lãi suất của loại tiền gửi thời hạn dài, khi rút ra có thể tính lãi theo phương pháp số dư bình quân. Hình thức tính lãi suất luỹ tiến theo số lượng gửi tiền. Với cùng một kỳ hạn, ngân hàng có thể trả lãi suất lớn hơn một chút đối với những người gửi khoản tiền lớn và có sự ưu đãi về lãi suất luỹ tiến theo mức tăng của tiền gửi. Điều chỉnh các kỳ hạn với các hình thức trả lãi thích hợp đối với tiết kiệm, kỳ phiếu cả VND cũng như ngoại tệ. Việc đa dạng các kỳ hạn gửi tiền sẽ kéo theo sự vất vả trong công tác quản lý lưu trữ hồ sơ của ngân hàng, nhưng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng, mở ra nhiều cơ hội trong việc thu hút các khoản tiền của khách hàng. Triển khai nhận, trả các món tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu tại nhà đối với những món tiền gửi lớn. Việc làm này rất cần thiết nó khắc phục tình trạng bị động trong công tác huy động vốn của ngân hàng, tạo cho khách hnàg sự tin tưởng tín nhiệm, cũng như độ thân thiện và an toàn. Trong thời gian đầu áp dụng hình thức này có thể làm tăng chi phí huy động cho việc huy động vốn nhưng đổi lại ngân hàng có được nguồn vốn lớn và ổn định. Để biến công tác huy động vốn thành nhiệm vụ chung của tất cả cán bộ, viên chức, NHNo Hà Nội cần giao chỉ tiêu khoán tăng trưởng nguồn vốn cho các phòng ban tại trụ sở chính NHNo Quận, Phòng giao dịch. Cụ thể, NHNo&PTNT Hà Nội nên đưa ra chỉ tiêu khoán vận động tiền gửi nói chung và tiền gửi dân cư nói riêng cho các phòng giao dịch cũng như từng cán bộ Ngân hàng không phân biệt vị trí công tác. Bên cạnh việc làm việc thêm giờ hàng ngày và ngày nghỉ, NHNo Hà Nội còn phải nhanh chóng đổi mới phong cách phục vụ: cách tiếp khách, thay đổi phương thức quảng cáo; giảm, cải tiến giấy tờ trong giao dịch, lĩnh tiền theo hướng đơn giản, lịch sự hấp dẫn khách hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn tài sản cho ngân hàng và khách hàng. Trong lĩnh vực Marketing Ngân hàng thì nhân viên ngân hàng được coi là tấm gương soi của cả một ngân hàng, do vậy NHNo Hà Nội cần phải chấn chỉnh lại việc mặc đồng phục đeo phù hiệu thể hiện phong cách làm việc nghiêm túc tạo lòng tin cho khách hàng, từng bước hiện đại hoá ngân hàng, nối mạng các phòng giao dịch, nối mạng với một số khách hàng có số dư tiền gửi lớn. Năm 2002 là năm giải phóng mặt bằng thực hiện các quy hoạch lớn của Thành phố, NHNo Hà Nội cần làm việc với Ban quản lý giải phóng mặt bằng để vừa làm đại lý chi trả đền bù vừa thu hút tiền tạm thời nhàn rỗi của các hộ dân cư được đền bù dưới hình thức tiết kiệm. Tiền gửi các tổ chức kinh tế. Mục tiêu lớn nhất của các tổ chức kinh tế khi gửi tiền vào ngân hàng là hưởng những tiện ích trong thanh toán. Đối với ngân hàng, đây là nguồn tiền gửi có chi phí huy động và tính ổn dịnh thấp nhất. Do vậy, ngoài nguồn vốn huy động được từ dân cư ngân hàng cũng cần quan tâm đến tính hiệu quả cao của nguồn vốn này. Theo định hướng của NHNo Hà Nội đặt ra cho năm 2002 thì ngân hàng cần phải triển khai thực hiện những giải pháp sau: Tiếp tục cải tiến phong cách giao dịch để phục vụ khách hàng hàng ngày càng tốt nhằm giữ số khách hàng hiện có và thu hút thêm các khách hàng mới mà tập trung vào các doanh nghiệp có hàng xuất khâủ. Tiếp cận các chi nhánh điện, Bưu điện, Kho bạc với phương châm chấp nhận chia thị phần đối với các TCTD trên địa bàn. Làm tốt công tác chuyển tiền cho các doanh nghiệp nhằm tạo lòng tin cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trên địa bàn, trước hết phục vụ thật chu đáo các đơn vị có tiền gửi lớn như: Quỹ hỗ trợ, KHo bạc, Công ty bia Hà Nội, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Cung cấp, triển khai dịch vụ PHONE-BANKING đến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có quan hệ với NHNo Hà Nội. Dịch vụ này cung cấp những thông tin hết sức cần thiết đối với khách hàng như: Kiểm tra số dư của tất cả các tài khoản của mình. Kiểm tra 05 dịch vụ nợ- có mới nhất. Nghe thông tin về tỷ giá. Nghe thông tin về lãi suất ngân hàng. Yêu cầu FAX bản liệt kê giao dịch, bản tỷ giá hối đoái , bản lãi suất tới FAX của mình. Nghe thông tin, thông báo mói nhất của ngân hàng. Trong tương lai còn cấp thêm : chuyển khoản giữa các tài khoản của mình, thanh toán tiền điện, điện thoại, nước ... Trong giai đoạn đưa dịch vụ này vào hoạt động, NHNo Hà Nội có thể thông báo tóm tắt dịch vụ này tại nơi giao dịch với khách hàng để khách hàngcó thể đọc và tìm hiểu, mặt khác in tờ dơi để cán bộ tín dụng quảng bá đến 100% khách hàng có quan hệ giao dịch với NHNo&PTNT Hà Nội. Mở rộng diện thu tiền mặt không thu phí với các doanh nghiệp, các cửa hàng xăng dầu, các đại lý trên địa bàn như: dầu nhờn Castrol, các điểm vui chơi giải trí tại các công viên, các siêu thị lớn... Mở rông các dịch vụ trước hết là dịch vụ bán bảo hiểm cho Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, dịch vụ bán vé máy bay cho hãng hàng không. Tiếp cận và vận động một số trường đại học lớn để chi trả lương tại chỗ không thu phí. Cụ thể, NHNo Hà Nội nên làm thí điểm việc đại lý và dần triển khai đại trà việc chi trả tiền lương cho một số doanh nghiệp có thu nhập lớn và một số trường Đại học và nhất là thực hiện đưa máy ATM vào năm 2003. Tiền gửi Kho bạc Nhà nước. Đặc điểm của loại tiền gửi trên là có khối lượng lớn và ít biến động. Vì vậy, các ngân hàng cần khai thác triệt để nguồn tiền này. Để thu hút được nguồn này, ngân hàng phải có uy tín vì thực tế nguồn tiền của Kho bạc Nhà nước thường được gửi tại Kho bạc. Đối với NHNo&PTNT Hà Nội, nguồn tiền gửi này có tỷ trọng thấp nhưng nó là yếu tố quan trọng đối với hoạt động kinh doanh, tạo thành kết quả tài chính của ngân hàng . Năm 2001 có 2 chi nhánh Kho bạc Hai Bà Trưng, Kho bạc Tây Hồ gửi tiền tại ngân hàng; đầu năm nguồn vốn này là 400 tỷ nhưng do nhu cầu sử dụng vốn nên cuối năm chỉ còn là 161 tỷ. Năm 2001, NHNo&PTNT Hà Nội đã phục vụ tốt nhu cầu về thanh toán, tiền mặt của Kho Bạc đầy đủ kịp thời không để xảy ra sai sót, đặc biệt NHNo&PTNT Hà Nội được Kho Bạc Hà Nội cũng như các chi nhánh rất hoan nghênh. Với chiến lược kinh doanh nguồn vốn, đảm bảo hoàn thành sứ mệnh: “ Hồ điều hoà vốn trên địa bàn Thủ đô Hà Nội”, trong những năm tiếp theo, đặc biệt năm 2002, NHNo&PTNT Hà Nội cần xác định: tiếp tục phục vụ tốt hơn nữa các nhu cầu của Kho Bạc nhằm tạo lòng tin và thu hút vận động thêm các chi nhánh Kho Bạc Quận khác về mở tài khoản tiền gửi, đồng thời giữ mối quan hệ tốt với Kho Bạc để có số dư tiền gửỉ ở mức 500 tỷ đồng, chiếm 8,3% nguồn vốn kinh doanh d) Tiền gửi của các tổ chức khác: NHNo&PTNT Hà Nội là chi nhánh ngân hàng hoạt động trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, một địa bàn có tính cạnh tranh cao, tập trung rất nhiều đơn vị, cơ quan, tổ chức đoàn thể, do vậy để thu hút vốn đòi hỏi ngân hàng phải thực sự chủ động trong công tác huy động vốn. Hiện nay, nguồn tiền gửi này tại NHNo&PTNT Hà Nội tuy chưa nhiều nhưng hiệu quả khá cao vì vậy NHNo&PTNT Hà Nội cần chủ động tiếp cận nguồn tiền gửi này. Để thực hiện mục tiêu năm 2002 về huy động vốn, giải pháp trước mắt NHNo&PTNT Hà Nội cần áp dụng là: Các ngân hàng Quận cần tiếp cận các trường Đại học, các trường dạy nghề, các trường phổ thông nhất là các trường Đại học dân lập, các cơ quan Bảo hiểm, Sổ xố..để tăng nguồn vốn này. Cụ thể, NHNo&PTNT Hà Nội cần tiếp cận và vận động một số trường Đại học lớn để làm các dịch vụ chi trả tiền lương và học bổng tại chỗ không thu phí. Việc làm này không những làm giảm chi phí huy động vốn (chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn) mà còn tạo điều kiện nâng cao uy tín cho ngân hàng, vì thông qua các dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng, khách hàng sẽ từng bước biết đến ngân hàng và thực sự thấy sự cần thiết của ngân hàng trong hoạt động của mình. Giải pháp này sẽ góp phần quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn của NHNo&PTNT Hà Nội ngay tại địa bàn của mình. Tuy nhiên, khi giải pháp đi vào thực thi, NHNo&PTNT Hà Nội cần phải có sự tính toán, xây dựng kế hoạch hợp lý, chọn thời điểm thích hợp vì gắn liền với nó là những khoản chi phí mà ngân hàng cung cấp “ miễn phí ” cho khách hàng. Tiền gửi các tổ chức tín dụng: Trong tất cả nguồn vốn huy động của ngân hàng, nguồn tiền gửi của các Tổ chức tín dụng rất không ổn định và lãi suất cao. Vì vậy, nếu nguồn này huy động nhiều sẽ không mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong những năm qua, số lượng các Tổ chức tín dụng gửi tiền vào NHNo&PTNT Hà Nội tương đối nhiều. Cụ thể, tính thời điểm hiện nay, năm 2002 tại NHNo&PTNT Hà Nội có tiền gửi của Quỹ Hỗ trợ, Bảo Việt, và các Tổ chức tín dụng khác. Do vậy, trong những năm tới NHNo&PTNT Hà Nội cần giảm tỷ trọng nguồn vốn này: Định hướng năm 2002, NHNo&PTNT Hà Nội phải giảm tỷ trọng loại vốn này với mức 1500 tỷ bao gồm cả nội tệ, ngoại tệ, chiếm 25% nguồn vốn, giảm 9,1% so với năm 2001. Giải pháp trước tiên để thực hiện định hướng trên là: ngân hàng nên giảm việc nhận tiền gửi của Ngân hàng Quốc tế, Ngân hàng Kỹ thương, Ngân hàng cổ phần Nhà, Quỹ Tín dụng và các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác thông qua việc quy định thời hạn gửi dài hơn, và lãi suất thấp hơn. NHNo&PTNT Hà Nội nên tính toán đưa ra kỳ hạn cũng như lãi suất cho loại tiền gửi này trên cơ sở tình hình cân đối vốn của toàn ngành, từ đó điều chỉnh nguồn vốn này cho phù hợp cả khối lượng lẫn tỷ trọng. Các loại hình dịch vụ khác. Xu thế cạnh tranh hiện đại là xu thế cạnh tranh trên lĩnh vực chất lượng dịch vụ. Dịch vụ chính là sản phẩm ngân hàng cung cấp cho khách hàng, đòi hỏi các ngân hàng phải chú trọng quan tâm nhiều hơn đến loại hình này. Thông qua việc cung cấp các loại hình dịch vụ, ngân hàng sẽ nắm bắt được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác huy động vốn nói riêng của ngân hàng và hoạt động kinh doanh nói chung. Trong năm 2002, thiết nghĩ NHNo&PTNT Hà Nội cần tiến hành những công việc sau: Triển khai và phổ biến rộng rãi, rõ ràng chu đáo dịch vụ FONE-BANKING đến các thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế có quan hệ tiền gửi, tiền vay lớn tại NHNo&PTNT Hà Nội. Tiếp tục làm tốt và mở rộng diện thu- chi tiền mặt miễn phí đối với các doanh nghiệp có nhu cầu thu- chi tiền mặt hàng ngày. Nâng cao hơn nữa dịch vụ tư vấn. NHNo&PTNT Hà Nội nên mở rộng dịch vụ này thông qua việc phân loại khách hàng. Nếu khách hàng gửi tiền, ngân hàng nên tư vấn , hướng dẫn khách hàng lựa chọn loại hình gửi tiền nào, lãi suất và thời gian huy động sao cho vùa đáp ứng dược nhu cầu rút tiền vừa giúp khách hàng có thu nhập cao nhất. Nếu khách hàng có nhu cầu đầu tư vào sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể giúp khách hàng xây dựng dự án, lựa chọn sản xuất sản phẩm, các án kỹ thuật... với lãi suất tiền vay có lợi nhất. Triển khai 100% các chi nhánh cấp III thực hiện thanh toán quốc tế và cho vay ngoại tệ tại chi nhánh đồng thời mở rộng dịch vụ kiều hối cho tất cả các điểm giao dịch. Nâng cao uy tín của NHNo&PTNT Hà Nội trên thị trường. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo. Để có được hình ảnh tốt trong tâm trí khách hàng, trước tiên ngân hàng phải được khách hàng biết đến. Một trong những giải pháp cần thực hiện là tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo. Thông qua tuyên truyền quảng cáo, khách hàng có thể so sánh và lựa chọn, thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. Trong thời gian tới NHNo&PTNT Hà Nội cần chú trọng hơn nữa vào công tác tuyên truyền quảng cáo, góp phần giúp ngân hàng nâng cao được uy tín, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác huy động vốn. Ngoài hình thức quảng cáo truyền thống và duy nhất hiện nay: trên các báo chuyên ngành, NHNo&PTNT Hà Nội nên xây dựng kế hoạch quảng cáo thông qua một số phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, trên mạng... Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất và không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, yếu tố này một mặt tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. NHNo&PTNT Hà Nội cần tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho tất cả các cán bộ tác nghiệp ở tất cả các mặt nghiệp vụ, mở các lớp nâng cao việc sử dụng máy tính ngân hàng cho cán bộ công nhân viên đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cũng như đủ trình độ hoà nhập vào tiến trìnhphát triển của hệ thống ngân hàng khu vực. Song song với bồi dưỡng, đào tạo; NHNo&PTNT Hà Nội cần tiếp tục kiểm tra, kiểm soát theo chương trình công tác của NHNo&PTNT Việt Nam, để xử lý kịp thời, nghiêm túc những sai phạm của cán bộ công viên chức làm ảnh hưởng sấu đếnuy tín của ngân hàng cũng như mất lòng tin đối với khách hàng, doanh nghiệp, các Tổ chức kinh tế... Các điều kiện cần có để thực hiện kế hoạch huy động vốn. Biện pháp nội bộ Khoán tài chính triệt để đén từng bộ phận nghiệp vụ, từng cán bộ, từng phòng ban, từng ngân hàng Quận, giao chỉ tiêu cụ thể, trong đó có chỉ tiêu nguồn vốn từng tháng, quý, vận động khách hàng mua bảo hiểm... Trang bị máy tính đủ cho các phòng giao dịch để thu hút khách hàng, nối mạng truyền tin tới các phòng giao dịch với NHNo&PTNT Hà Nội. Triển khai huy động vốn bằng tiền gửi EURO trong toàn chi nhánh Trung ương cho phép. Làm việc với NHNo&PTNT Việt Nam trong việc tiếp cận các Tổng công ty lớn để mở rộng thị phần nguồn vốn. Chuẩn bị điều kiện vật chất nối mạng với khách hàng lớn khi chế độ chứng từ điện tử được thi hành. Biện pháp cụ thể đối với phòng kế hoạch. Bám sát, triển khai mục tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2002 do Giám đóc đề ra nguồn vốn đạt 6000 tỷ đồng năm 2002. Thông qua đó, triển khai huy động vốn ở các ngân hàng Quận cũng như tại Trung tâm , giữ ổn định các khách hàng và nguồn tiền gửi tại Trung tâm, tiếp cận thêm một số khách hàng mới. Về điều hoà kinh doanh nguồn vốn: hàng ngày tổng hợp kịp thời tình hình biến động của nguồn vốn kinh doanh nội tệ để tham mưu cho Ban giám đốc chỉ đạo kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toáncho khách hàng, truyền điện kịp thời về trung ương và Ngân hàng Nhà nước theo chế độ quy định. Nắm chắc tình hình lãi suất huy động vốn của các Tổ chức tín dụng để đề xuất lãi suất thực hiện giúp NHNo&PTNT Hà Nội kịp thời phối hợp với các ngân hàng Quận xử lý nhanh, kịp thời, có hiệu quả lãi suất để thu hút vốn kịp thời. Nghiên cứu đề xuất các hùnh thức huy động vốn, phương thức trả lãi để thực hiện trong quý 2/2002 nhằm giảm thấp dự chi lãi suất. Phối hợp với các phòng liên quan như kế toán, hành chính nghiên cứi cải tiến giao dịch tiết kiệm, kỳ phiếu với dân cư và các hình thức tuyên truyền quảng cáo Đề xuất kiến nghị Công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội bước đầu đã thu được những thành công góp phần tích cực vào kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên để công tác này ngày càng có hiệu quả hơn, tôi xin có một số đề xuất và kiến nghị sau: Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cho phép NHNo&PTNT Hà Nội được thành lập phòng Marketing và dịch vụ tư vấn để ngân hàng thực hiện chiến lược dịch vụ và chăm sóc khách hàng. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tạo điều kiện cho NHNo&PTNT Hà Nội có trụ sở mới góp phần nâng cao vị thế của NHNo&PTNT Hà Nội trong quá trình hội nhập và đủ điều kiệnphục vụ khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, đáp ứng kịp với xu thế phát triển của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung trong kế hoạch 5 năm 2001-2005. Tăng cường cơ sở vật chất nhằm hiện đại hoá ngân hàng chuẩn bị cho bước hội nhập hệ thống ngân hàng trong khu vực và thế giới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0131.doc
Tài liệu liên quan