LờI NóI ĐầU
Hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, bước vào chặng đường mới của hội nhập và mở cửa, sự đầu tư của cả trong nước và nước ngoài là rất lớn. Cơ sở của việc đầu tư cho nền kinh tế là tính khả thi và nguồn lực để thực thi, trong đó NHTM là đơn vị quan trọng nhất cung cấp về vấn đề nguồn vốn. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Nhiệm vụ chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế. Đối với một
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Chợ Hôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHTM thì vốn tự có chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, còn lại chủ yếu là vốn huy động, vốn đi vay và vốn khác. Trong đó vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất. Do vậy huy động vốn là điều kiện đầu tiên, là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều tổ chức được huy động vốn đó là các NHTM, NHCP, Bưu điện, Kho bạc Nhà nước, Công ty Bảo hiểm…Một điều dễ thấy rằng, tốc độ vốn tăng lên trong nền kinh tế không thể bằng tốc độ tăng lên của các tổ chức huy động vốn. Do vậy, thu hút vốn là vấn đề cạnh tranh giữa các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Trong thực tiễn hoạt động của NHNNo & PTNT Việt Nam nói chung và NHNNo & PTNT chi nhánh Chợ Hôm nói riêng công tác huy động vốn đã được coi trọng đúng mức và đã đạt được kết quả nhất định. Song bên cạnh đó, còn bộc lộ một số tồn tại, do vậy cần phải được tiếp tục nghiên cứu về cả phương diện lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng nhằm phục vụ tốt công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Với những lý do trên, em xin chọn đề tài: “ Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo &PTNT chi nhánh Chợ Hôm''.
Nội dung chính của chuyên đề được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn của Ngân hàng thưong mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại ngân hàng NHNNo & PTNT chi nhánh Chợ Hôm.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng NNo&PTNT Chợ Hôm.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn Của ngân hàng thương mại
I. công tác huy động vốn trong kinh doanh của ngân hàng thương mại hoạt động.
1.1. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại .
1.1.1.. Khái niệm NHTM
Hiện nay có quan niệm về NHTM khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều xem NHTM là một tổ chức trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền này để cho vay, đầu tư và cung ứng dịch vụ tài chính cho nền kinh tế.
NHTM hình thành và phát triển trong một quá trình lâu dài, qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, nó ra đời trên cơ sở nền sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển. Khái niệm Ngân hàng đã xuất hiện từ hơn 2000 năm, trước lúc đó mỗi Quốc gia, thậm chí mỗi địa phương sử dụng một loại tiền, điều đó gây trở ngại cho hoạt động trao đổi và lưu thông hàng hoá. Để giải quyết khắc phục trở ngại này, “khái niệm” NHTM ra đời với nghiệp vụ sơ khai là đổi loại tiền này sang loại tiền kia, sau đó là cất giữ và bảo quản tiền cho người gửi dưới dạng tiền đúc, người gửi tiền sẽ được cấp một giấy biên nhận để thuận tiện cho viêc lấy tiền ra. Sau đó người ta nhận thấy rằng có thể dùng các giấy biên nhận làm các phương tiện thanh toán tiện lợi hơn việc dùng tiền đúc, tiền nén. Người cất giữ nhận thấy số tiền nhàn rỗi mà họ đang bảo quản có thể cho vay để kiếm lời .
Theo thời gian, sản xuất và lưu thông tiền tệ phát triển, dần hoàn thiện. Để thu hút tiền gửi trong xã hội “Ngân hàng sơ khai” ngoài việc trả lãi cho người gửi tiền họ còn làm trung gian thanh toán, chuyển tiền... Tất cả dần trở thành nghiệp vụ chuyên môn của họ dẫn đến sự cần thiết để ra đời Ngân hàng thực thụ.
Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, các Ngân hàng đóng vai trò vừa kinh doanh tiền tệ, vừa phát hành giấy bạc. Đến cuối thế kỷ XIX, Nhà nước can thiệp bằng cách hạn chế lượng các Ngân hàng phát hành tiền tệ vào lưu thông và có thể nói, giai đoạn này hệ thống Ngân hàng mới thực sự ra đời. Nó bao gồm Ngân hàng phát hành và các NHTM.
1.1.2. Những hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động thanh toán cho nền kinh tế.
Thứ nhất : Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các Ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động nguồn vốn của mình. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi quan trọng của khách hàng – một quỹ sinh lời được gửi tại Ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.
Thứ hai: Chiết khấu thương phiếu và cho vay Thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các thương nhân địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho Ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ co vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và mua sắm thiết bị sản xuất.
Thứ ba: Bảo quản vật có giá
Ngay từ thời kỳ trung cổ, các Ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu trữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do Ngân hàng ký thác cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu trữ) có thể được lưu hành như tiền- đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay nghiệp vụ bảo quản vật co giá cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của Ngân hàng thực hiện.
Thứ tư: Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Trong thời kỳ trung cổ và những năm đầu cách mạng công nghiệp, huy động vốn để cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà Ngân hàng huy động được. Các Ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North American được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, Ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xoá bỏ sự đô hộ của thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã thành lập ra một Ngân hàng liên bang mới, chấp nhận các Ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang là các Ngân hàng nay phải lập quỹ phục vụ chiến tranh.
Thứ năm: Cung cấp các tài khoản giao dịch.
Cuộc cách mạng ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ Ngân hàng mới. Một dịch vụ mới quan trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công việc Ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các công việc kinh doanh trở lên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn.
Thứ sáu: Cung cấp dịch vụ uỷ thác
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính do cá nhân và doanh nghiệp thương mại theo đó, Ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô vốn họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi la dịch vụ uỷ thác. Hầu hết các Ngân hàng đều cung cấp cả hai loại dịch vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các Ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá trị, đầu tư có hiệu quả và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận khoản thừa kế. Trong phòng Uỷ thác Thương mại, Ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các Công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại lý cho các Công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán.
1.1.2.2. Những dịch vụ Ngân hàng mới phát triển gần đây:
Thứ nhất: Cho vay tiêu dùng
Trong lịch sử, hầu hết các Ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói trên có quy mô rất nhỏ với rủi ro tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Từ đầu thế kỷ XIX, các Ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay Thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1923 và 1930, nhiều Ngân hàng lớn đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất.
Thứ hai: Tư vấn tài chính
Các Ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện tư vấn về tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay đã cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ thuế và kế hoạch tài chính cho các khách hàng của họ.
Thứ ba: Quản lý tiền mặt
Qua nhiều năm, các Ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó Ngân hàng quản lý việc thu chi cho một Công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các Ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các Công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.
Thứ tư: Dịch vụ cho thuê thiết bị
Rất nhiều người tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng đủ để trang trải chi phi mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế.
Thứ năm: Cho vay tài trợ dự án
Các Ngân hàng ngày nay trở lên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao lên chúng thường được thực hiện qua một Công ty đầu tư, là thành viên sở hữu Ngân hàng, cùng với sự tham gia của các thể chế đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
Thứ sáu: Cung ứng các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã bán Bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo cho viêc hoàn trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm Ngân hàng Thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều Ngân hàng hy vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ô tô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, Ngân hàng thương mại bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó mà một Công ty bảo hiểm đồng ý đặt tại hành lang của Ngân hàng và Ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ đó.
Thứ bảy: Cung cấp các kế hoạch hưu trí.
Phòng uỷ thác của Ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Thứ tám: Cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán.
Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều Ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “Bách hoá tài chính” thực sự, phải cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu tại một thời điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các Ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người khinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp họ mua lại một Công ty môi giới đang hoạt động hoặc thành lập các liên doanh với các Công ty môi giới.
Thứ chín: Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp
Do Ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư đặc biệt là các tài khoản của quỹ hỗ trợ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi nhưng kèm theo rủi ro lớn hơn. Hợp đồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai (chẳng hạn như ngày nghỉ hưu). Ngược lại quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (Ví dụ: Tối đa hoá thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn).
Thứ mười: Cung cấp dịch vụ Ngân hàng đầu tư và Ngân hàng bán buôn.
Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ Ngân hàng, đầu tư và dịch vụ Ngân hang bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: Bảo lãnh phát hành chứng khoán) cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các Ngân hàng cũng dẫn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do Chính phủ và Công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
1.2. Nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huyđộng, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Phần này tập trung nghiên cứu các loại nguồn tiền được truyền tải đến ngân hàng theo các kênh dẫn khác nhau.
1.2.1. Khái niệm về vốn
Vốn của Ngân hàng Thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng Thương mại tạo lập hoặc huy động để cho vay đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
1.2.2. Kết cấu vốn của Ngân hàng Thương mại
Tuỳ thuộc vào nguồn hình thành và yêu cầu quản lý, người ta chia vốn của Ngân hàng thành các loại vốn khác nhau. Về cơ bản, vốn của Ngân hàng gồm:
-Vốn tự có
-Vốn huy động
-Vốn đi vay
-Vốn khác
1.2.3.1. Vốn tự có.
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng( được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành nên loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Nguồn vốn này bao gồm:
- Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp(vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định... đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, xong giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
- Các quỹ
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo tồn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tìa sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc...
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của hủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân hàng không thể sử dụng lâu dài.
- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một vộ phận của vốn sở hữu của ngân hàng( vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc diểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Từ những năm 1920 trở về trước các nhà kinh doanh Ngân hàng và các nhà quản lý Ngân hàng ít quan tâm đến quy mô vốn tự có của NHTM, nhưng thực tế trên thế giới, số lượng các Ngân hàng phá sản đạt con số kỷ lục đã dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng, trong những năm 1920 có khoảng 600 Ngân hàng bị phá sản, từ những năm 1930 – 1933 trung bình mỗi năm có khoảng 2000 Ngân hàng bị phá sản. Sự phá sản của các Ngân hàng do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan trọng là vốn tự có của NHTM là quá nhỏ và có sự suy giảm mạnh cụ thể ở Châu Âu và Châu Mỹ đầu thế kỷ XIX hệ số vốn tự có/ tổng tài sản ở mức trung bình là 50% đến cuối thế kỷ XIX giảm xuống còn 30% và tiếp tục giảm, trong thế kỷ XX chỉ còn dưới 10%. Sự suy giảm tỷ lệ vốn tự có của NHTM thực chất là sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế các nước đòi hỏi tăng khối lượng tín dụng trong khi tốc độ tăng vốn của các NHTM lại không tương xứng. Điều quan trọng hơn là các nhà quản trị Ngân hàng lại muốn duy trì lợi tức cổ phần cao cho các cổ đông, buộc họ phải giảm tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản. Do vậy, các nhà quản lý Ngân hàng đã đưa ra quy chế tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản. Do vậy, các nhà quản lý Ngân hàng đã đưa ra quy chế quản lý vốn tự có thông qua các hệ số nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong hệ thống Ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Cụ thể:
- Hệ số vốn tự có/tiền gửi: ở Mỹ tối thiểu là 1/10.
- Hệ số vốn tự có/tổng tài sản có:10%
- Hệ số vốn tự có/tài sản có rủi ro chuyển đổi: 8%.
1.2.3.2. Vốn huy động.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi khị đến hạn (tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn (tiền gửi không kỳ hạn).
Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của một NHTM. Nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Vốn huy động bao gồm:
ã Huy động tiền gửi:
+ Tiền gửi khách hàng.
+ Tiền gửi tiết kiệm.
ã Huy động qua phát hành các công cụ nợ:
+ Phát hành kỳ phiếu.
+ Phát hành trái phiếu.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi.
1.2.3.3. Vốn đi vay.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, đôi khi các Ngân hàng lâm vào tình trạng tạm thời thiếu vốn khả dụng. Có nghĩa là, khi đó Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn cho hoạt động. Giải pháp thường được các Ngân hàng sử dụng trong trường hợp này là đi vay.
Vốn đi vay được hình thành trên cơ sở quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW hoặc giữa NHTM với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác.
Các NHTM có thể vay vốn của nhau thông qua thị trương liên Ngân hàng hoặc vay vốn của các TCTD trong và ngoài nước theo lãi suất thoả thuận và có thể tín chấp.
Trong trường hợp vốn vay trên vẫn không tiếp tục đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng thì các NHTM sẽ sử dụng biện pháp cứu cánh cuối cùng là vay NHTW.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW được chia thành các loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay tái cấp vốn.
ỹ Vay vốn ngắn hạn bổ sung: Là hình thức các NHTM xin vay để bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
ỹ Vốn vay để thanh toán: các NHTM vay NHTW nhằm thực hiện các công tác thanh toán giữa Ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay loại này thường ngắn).
ỹ Tái cấp vốn: NHTW cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức phải thoả mãn những điều kiện hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm hai hình thức:
+ Cho vay tái chiết khấu: NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đáy để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc ho vay tái chiết khấu đối với NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu).
+ Cho vay có đảm bảo: Là hình thức các NHTM đem các giấy tờ có giá đến NHTW để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo sự quản lý của Nhà nước.
Vốn vay NHTW là quan hệ trực tiếp giữa NHTM với NHTW sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu ngắn hạn, hệ thống NHTM phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của NHTW.
1.2.3.4. Vốn khác.
Là phần vốn phát sinh khi Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ đại lý, thanh toán, nhận uỷ thác...
Bao gồm các nguồn vốn trong thanh toán (ký quỹ, chênh lệch thanh toán liên Ngân hàng). Thực chất đây cũng là vốn tiền gửi nhưng do yêu cầu quản lý, người ta tách riêng.
Trong quá trình làm kinh doanh thanh toán, NHTM tạo ra được một khoản vốn trong thanh toán: Vốn trên tài khoản mở tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do Ngân hàng chấp nhận hối phiếu thương mại... Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng nên được coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một khối lượng vốn đáng kể trong quá trình thu, chi hộ khách hàng hay cho dự án đầu tư.
Vốn uỷ thác đầu tư: Là nguồn vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư của Nhà nước, của tổ các chức cá nhân trong nước và Quốc tế đầu tư vốn một cách gián tiếp vào nền kinh tế dưới dạng vốn bằng tiền hoặc dây truyền sản xuất theo các trương trình, dự án có mục tiêu riêng. Ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian hưởng phí. Đây là nguồn mà qua đó Ngân hàng dùng để đáp ứng cho nền kinh tế và nó có một đặc trưng hấp dẫn là rất rẻ hoặc không mất phí. Do vậy hiện nay nguồn vốn này luôn được các Ngân hàng quan tâm, tìm kiếm và khai thác.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân hàng trên thương trường.
Để tồn tại và ngày càng phát triển đòi hỏi Ngân hàng phải coi trọng uy tín và uy tín là điều quan trọng nhất, uy tín phải thể hiện ở khả năng thanh toán, chi trả mọi nơi, mọi lúc, theo nhu cầu của khách hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn, vốn của Ngân hàng càng lớn thì Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô càng mở rộng, đáp ứng khả năng thanh toán chi trả của khách hàng nhằm giữ chữ tín và nâng cao thanh thế trên thương trường càng tạo thế vững mạnh cho Ngân hàng.
1.3 Các hình thức huy động của vốn.
1.3.1. Vai trò của công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Như chúng ta đã biết NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiến tệ, mà suy cho cùng sản phẩm cuả Ngân hàng cung cấp là tiền tệ hoặc biểu hiện dưới trạng thái tiền tệ. “Cái” mà thuật ngữ kinh tế gọi là vốn.
Trong NHTM thì vốn huy động chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Nó chi phối toàn bộ hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện chức năng của NHTM. ý thức được vai trò của vốn và công tác huy động vốn trong Ngân hàng. Vào ngày 23/3/1994, Thống đốc NHNN Cao Sỹ Kiêm có bài: “Ngân hàng với chiến lược huy động vốn trong năm 1994 và những năm tiếp theo” và ngày 15/2- 15/4/1997, NHNN Việt Nam phối hợp với NHTM Hàn Quốc tổ chức cuộc thi viết về đề tài “Ngân hàng Việt Nam với việc huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước”. Trên quy mô rộng lớn để tìm các giải pháp huy động vốn qua hệ thống Ngân hàng.
Sở dĩ cuộc thi đó được diễn ra là do công tác huy động vốn có những vai trò sau:
_ Huy động vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh:
Có thể nói huy động vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của Ngân hàng. Ngoài vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) thì Ngân hàng phải thường xuyên chăm lo phát triển tăng trưởng nguồn vốn của mình. Vốn huy động chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, hay nói cách khác, mọi hoạt động của Ngân hàng phụ thuộc vào công tác huy động vốn. Một cách giải thích khác Ngân hàng là một trung gian tài chính là nơi kết nối giữa cầu vốn và cung vốn. Ngân hàng tiếp cận với cung vốn chủ yếu qua nghiệp vụ tín dụng, tiếp cận với cầu vốn chủ yếu qua nghiệp vụ huy động vốn. Vốn phản ánh năng lực chủ yếu quyết định khả năng kinh doanh Ngân hàng không có vấn đề thì không thể tồn tại được do đặc thù của ngành Ngân hàng là chức năng huy động vốn của nền kinh tế – Ngân hàng trường vốn là Ngân hàng có nhiều thế mạnh trong hoạt động kinh doanh.
_ Huy động vốn là nền tảng quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của Ngân hàng:
Vốn của các Ngân hàng Thương mại quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng và nghiệp vụ kinh doanh khác. Thông thường thì trong một nền kinh tế, người dân có thói quen đầu tư gián tiếp qua Ngân hàng, hay vốn trong Ngân hàng Thương mại chủ yếu là vốn huy động dưới mọi hình thức để phục vụ cho hoạt động nhu cầu vốn rất lớn mà Ngân hàng Thương mại không huy động được thì không thể đáp ứng được nhu cầu cho vay. Nếu Ngân hàng Thương mại đó có khả năng vốn dồi dào thì chắc chắn sẽ có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Điều đó khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn cũng như công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
_ Huy động vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại:
Thực tế chứng minh: Quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của Ngân hàng Thương mại là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn và các công tác huy động vốn làm cho vốn của Ngân hàng được đảm bảo là điều kiện thuật lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Doanh số hoật động của NHTM nhờ đó được tăng lên và Ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh, đồng thời huy động vốn tốt làm cho Ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ đơn thuần là cho vay, mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua... Chính các hình thức này góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và Ngân hàng Thương mại lớn sẽ thu hút được khách hàng lớn, có uy tín, kinh doanh có hiệu quả: Một vũ khí cạnh tranh lợi hại nhất trong kinh doanh nói chung và kinh doanh Ngân hàng nói riêng.
1.3.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM.
ý thức được vai trò quan trọng của công tác huy động vốn các Ngân hàng Thương mại đã ngày càng tập trung nhiều hơn và việc hoàn thiện các hình thức huy động vốn. Thông thường các Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức sau:
Thứ nhất: Nhận tiền gửi
Là số tiền của khách hàng là các tổ chức, cá nhân, tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước gửi vào Ngân hàng và được Ngân hàng cung cấp cho tài khoản tiền gửi.
* Tiền gửi không kỳ hạn (hay còn gọi là tiền gửi thanh toán)
Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích giao dịch thanh toán, chi trả cho các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các chi phí phát sinh trong kinh doanh một cách an toàn và thuận lợi. Loại tiền gửi này không có sự thoả thuận về rút tiền, khách hàng có thể sử dụng tiền vào bất cứ khi nào họ có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không trả lãi. Đối với Ngân hàng, đây là một khoản nợ mà Ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên trong mỗi Ngân hàng, do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập nên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn trên tài khoản mà Ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
Đây là nguồn vốn huy động có chi phí rất thấp đem lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng. ở các nước phát triển, loại tiền gửi này thường không được hưởng lãi, nhưng bù lại khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ Ngân hàng một cách miễn phí. ở nước ta khách hàng có thể được sử dụng các dịch vụ Ngân hàng một cách miễn phí, ở nước ta khách hàng được đap ứng một lãi suất nhất định.
* Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng về thời hạn rút tiền. Khách hàng sử dụng loại tiền gửi có kỳ hạn để tích luỹ, để quy đổi lấy tài sản của họ. Có nghĩa là họ gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi hoặc chi tiêu trong tương lai. Đặc tính chung của loại tiền gửi này là hưởng mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán và mức lãi suất này tỷ lệ thuận với thời hạn gửi và người gửi tiền không được phát hành séc hoặc sử dụng các dịch vụ Ngân hàng từ tiền gửi này.
Tiền gửi có kỳ hạn về nguyên tắc được rút ra khi đáo hạn, nhưng trên thực tế cạnh tranh, các NHTM chấp nhận việc khách hàng có nhu cầu rút tiền trước kỳ hạn cho hưởng lãi suất bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi này là nguồn vốn tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn nguồn tiền vào kinh doanh, chính vì vậy các Ngân hàng Thương mại luôn tìm cách đa dạng hoá loại tiền gửi này băng cách áp dụng nhiều kỳ hạn lãi suất khác nhau với mức lãi suất linh hoạt cùng với nhiều chính sách khách hàng để thu hút tối đa nguồn vốn.
Thứ hai: Nhận tiền gửi tiết kiệm
Là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp cư dân. Về bản chất đây là thu nh._.ập của cá nhân, người lao động do chưa có nhu cầu sử dụng ngay cho tiêu dùng. Họ gửi tiền vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và tạo thêm thu nhập từ số tiền đó. Người gửi tiền tiết kiệm không được sử dụng séc và các dịch vụ Ngân hàng từ số tiền này.
Có hai loại tiền gửi tiết kiêm:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Là khoản tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào, Ngân hàng trả lãi theo số bình quân hàng tháng với lãi suất tương ứng, số tiền lãi được nhập vào gốc hàng tháng hoặc quý.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về tiền gửi rút tiền giữa khách hàng, Ngân hàng có mức lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Nếu đến hạn, người gửi không có nhu cầu sử dụng thì Ngân hàng tự động nhập lãi vào gốc và tiếp tục cho hưởng lãi kỳ tiếp theo với gốc mới. Khách hàng có nhu cầu lĩnh ra trước hạn có thể được hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Thứ ba: Phát hành giấy tờ có giá.
Để huy động vốn với khối lượng lớn theo nhu cầu kinh doanh của từng thời kỳ NHTM còn có thể phát hành giấy tờ có giá. Thực chất nghiệp vụ này là Ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá trong đó kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn, trái phiếu là nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với mục đích và số lượng cụ thể và được sự chấp thuận của NHTW.
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng, với cam kết thanh toán gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán lãi vào theo thoả thuận. Trái phiếu dùng để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch phát triển kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn.
Trái phiếu gồm nhiều loại: Có ghi tên, không ghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau, có thể chuyên nhượng và thừa kế... Các loại trái phiếu có một số đặc trưng là có sự xác định về mệnh giá (tức giá ghi trên trái phiếu), ngày đáo hạn (tức thời hạn thanh toán gốc) lãi suất công bố khi phát hành.
Như vậy, trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng là những hình thức huy động rất tiện lợi, tuỳ theo tính cân đối nguồn vốn và cho vay từng thời kỳ, với mức lãi suất đủ hấp dẫn. Ngân hàng không những chủ động thu gom một lượng vốn cần thiết đáp ứng nhu cầu vốaan trong một thời gian ngắn mà còn có thể kiềm chế lạm phát góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán một cách hữu hiệu nhất.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng huy động vốn của NHTM.
1.3.3.1. Sự gia tăng và tính ổn định của huy động vốn.
ỉ Khối lượng và cơ cấu hiện tại.
Không thể nói đến hiệu quả huy động vốn cao nếu việc huy động vốn không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kế hoạch, khối lượng vốn phải đạt một quy mô nhất định theo kế hoạch hoạt động của Ngân hàng. Đồng thời cơ cấu vốn cần hợp lý, thể hiện giữa vốn huy động ngắn hạn với dài hạn, giữa nội tệ với ngoại tệ.
ỉ Sự tăng trưởng vốn huy động về số lượng và thời gian.
Vốn huy động phải có sụ tăng trưởng về số lượng để có thể thoả mãn các nhu cầu về khối lượng vốn tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng gia tăng của Ngân hàng. Đồng thời vốn huy động phải có sụ ổn định về mặt thời gian. Nếu Ngân hàng đó huy động được một khối lượng vốn lớn nhưng không ổn định, thì thường xuyên có khả năng một dòng tiền lớn bị rút ra. Ngân hàng luôn phải đối đầu với vấn đề thanh toán thì lượng vốn lớn cho vay và đầu tư sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy động vốn sẽ là không cao, ngược lại nếu nguồn vốn huy động ổn định. Ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn số vốn đó vào hoạt động kinh doanh.
ỉ Xu hướng biến đổi cơ cấu theo hướng tích cực.
Sự biến đổi về cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư... và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro của hoạt động kinh doanh. Xu hướng biến đổi cơ cấu vốn huy động phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong tương lai về cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay nội tệ và ngoại tệ.
1.3.3.2. Khả năng điều hành lãi suất và tiết kiệm chi phí huy động.
ỉ Lãi suất huy động.
Lãi suất luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của tất cả các chủ thể kinh tế. Người gửi tiền muốn một lãi suất cao, người vay lại muốn có lãi suất thấp. Là trung gian đóng vai trò câu nối giữa hai đối tượng trên, Ngân hàng phải tìm cách đa dạng hoá lợi ích của các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích của Ngân hàng. Vì vậy trong huy động vốn, mỗi Ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn cao chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một lãi suất được chấp nhận trên thị trường. Chi phí huy động thường được đánh giá chủ yếu bởi mức lãi suất huy động từng nguồn, lãi suất huy động bình quân tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo từng nguồn, chênh lệch đầu vào và đầu ra. Các nguồn huy động của Ngân hàng có mức lãi suất, kỳ hạn, quy mô khác nhau. Mà trong thực tế, khi cho vay không phân biệt rạch ròi là từ nguồn nào. Do đó, Ngân hàng phải tính mức lãi suất bình quân đầu ra và đầu vào là dương.
Mặt khác, cũng có một mức chi phí bình quân sự đa dạng hoá trong lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết. Sự đa dạng hoá lãi suất làm tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà Ngân hàng đưa ra. Nếu đưa ra chính sách lãi suất thời hạn hình thức phù hợp, Ngân hàng sẽ tiết kiệm được chi phí và hoàn thành kế hoạch huy động nguồn vốn.
ỉ Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là trả lãi suất huy động thì trong quá trìn huy động vốn Ngân hàng còn phải chịu một số chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động vốn, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ sở vật chất, chi phí giao dịch, quảng cáo...
Nếu Ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn vì không canh tranh được với các Ngân hàng khác. Do đó Ngân hàng cần phải giảm thiểu chi phí khác.
1.3.3.3. Mức độ đa dạng các hình thức huy động
ỉ Số lượng các công cụ huy động.
Tuỳ theo đăc điểm kinh doanh mà mỗi Ngân hàng áp dụng một hệ thống các công cụ khác nhau trong quá trình huy động vốn. Số lượng các công cụ đó tuỳ thuộc vào năng lực của mỗi Ngân hàng. Nên Ngân hàng có hoạt động kinh doanh da dạng, phong phú, có trình độ nhân viên cao, năng lực quản lý tốt mới có đủ điều kiện phát triển nhiều các công cụ huy động vốn khác.
ỉ Sự đa dạng về kỳ hạn và loại ngoại tệ huy động được sử dụng.
Đó là khả năng huy động các nguồn vốn với các kỳ hạn khác nhau trong đó có cả nội tệ, ngoại tệ và với mức lãi suất tương ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Nhờ đó Ngân hàng đạt được cơ cấu về kỳ hạn và loại tiền mong muốn để đáp ứng được tối đa các nhu cầu sử dụng vốn tránh tình trạng thừa vốn ngắn hạn trong khi thiếu vốn trung, dài hạn, thừa vốn nội tệ thiếu vốn ngoại tệ.
1.3.3.4. Một số chỉ tiêu khác.
Ngoài các chỉ tiêu chính trên, hiệu quả công tác huy động vốn còn được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau:
- Mức độ hoạt động của vốn huy động được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn. Hệ số sử dụng vốn càng tiến bộ càng tiến đến một càng tốt (trong điều kiện vẫn đảm bảo các giới hạn an toàn theo quy định trong hoạt động kinh doanh) điều kiện thể hiện nguồn vốn huy động được sử dụng tối đa.
- Mức độ thuận tiện an toàn cho khách hàng được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền, rút tiền, các dịch vụ kèm theo của Ngân hàng tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng.
- Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định.
- Một số chỉ tiêu khác như số lượng vốn bị rút ra trước kỳ hạn, kỳ hạn thực tế của nguồn vốn.
Trên đây là một số chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn. Tuy nhiên, sử dụng một số chỉ tiêu thì không thể phản ánh đầy đủ được, mà cần phải kết hợp nhiều chỉ tiêu thì mới đánh giá đúng và thực chất hiệu quả công tác huy động vốn tại một NHTM.
ii. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM
Xuất phát từ việc phân tích quá trình cạnh tranh huy động tiền gửi trên thị trường, trên cơ sở tìm ra khâu yếu nhất trong quá trình huy động tiền gửi vào Ngân hàng thông thường có những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn sau:
2.1. Nhân tố chủ quan (đứng trên giác độ Ngân hàng).
ỉ Về mặt uy tín của Ngân hàng.
Uy tín của Ngân hàng = An toàn + bảo toàn + thuận tiện + đơn giản
Uy tín đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn của ngân hàng. Người dân sẽ gửi tiền vào ngân hàng nào đảm bảo an toàn và có lãi suất cao, các cá nhân tổ chức kinh tế sẽ giao dịch với ngân hàng nào có thủ tục đơn giản, thuận tiện, đảm bảo an toàn tải sản cho họ. Tóm lại, việc huy động vốn có dễ dàng,thuận lợi hay không chịu ảnh hưởng rất nhiều về uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng có uy tín cao, tạo được lòng tin cho khách hàng của mình thì ngân hàng đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng về phía minh sẽ có nguồn vốn lớn và ngược lại.
Đứng trên góc độ ngành ngân hàng thì ngân hàng không có được uy tín đối với gửi cao như hệ thống kho bạc Nhà nước, nhưng rõ ràng hệ thống Ngân hàng vẫn được người gửi tin hơn rất nhiều so với các cá nhân, tổ chức huy động vốn ngoài Ngân hàng. Bằng chứng là số lượng người gửi và số tiền huy động đước qua các năm đều tăng mạnh. Trong hệ thống Ngân hàng thì các NHTM quốc doanh có uy tín hơn. Tuy nhiên một số NHTM ngoài quốc doanh trong những năm gần đây đã nâng cao được uy tín của mình trên thị trường. Thực tế là số lượng huy động tiền gửi trong hai năm qua đã tăng khá mạnh. Với những cố gắng chung của ngành Ngân hàng, thì việc nâng cao hình ảnh của mình trên thương trường và trong con mắt người dân ngày càng được các nhà quản trị Ngân hàng coi trọng và từng bước hoàn thiện.
ỉ Khâu dịch vụ, phục vụ khách hàng.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập các ngân hàng đã tự nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa loại hình dịch vụ của mình nhằm thu hút khách hàng. Và đây cũng là khâu nhạy cảm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý khách hàng, tạo ra sức cạnh tranh lớn. Chính vì vậy mà nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn. Ngày nay các Ngân hàng đã không ngừng đổi mới toàn diện các khâu dịch vụ khách hàng. Phải nói rằng trong mấy năm qua các Ngân hàng đã có sự “thay da đổi thịt”, từ việc xây dựng và hiện đại hoá trụ sở làm việc, hiện đại hoá trang thiết bị, đổi mới công nghệ thông tin thanh toán điện tử và xây dựng, đổi mới phong cách phục vụ văn minh lịch sự, đổi mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Ta phải thừa nhận rằng đây là điểm mạnh nhất của hệ thống Ngân hàng trong cơ chế kinh doanh hiện nay. Tuy rằng, dịch vụ phục vụ khách hàng của Ngân hàng còn phải tiếp tục đổi mới và ngày một hoàn thiện để có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, thấy rõ trong cơ chế thị trường cạnh tranh giữa các Ngân hàng rất quyết liệt nên quá trình đổi mới và hoàn thiện các biện pháp dịch vụ phục vụ người gửi sẽ phát triển nhanh chóng. Đó là một tất yếu. Điều này được lý giải nếu Ngân hàng này không phục vụ khách hàng tốt sẽ mất khách và dần bị đào thải trên thị trường Ngân hàng. Chính vì những lý do này nên các Ngân hàng hiện đại không thể không coi trọng công tác dịch vụ khách hàng ngày càng khó tính trên thương trường.
ỉ Khâu quảng cáo, khuyến mại cũng như hậu mại.
Các NHTM hiện nay đã từng bước thay đổi, học hỏi và ứng dụng nghệ thuật thông tin quảng cáo, khuyến mại. đây cũng là một hoạt động rất quan trọng trong việc quảng bá tên tuổi của ngân hàng. Bởi vì hiện nay có rất nhiều ngân hàng trên thị trường nhiều khi tạo ra sự phân vân cho khách hàng. Một ngân hàng thực hiện tốt khâu này sẽ làm cho khách hàng có nhiều thông tin hơn về ngân hàng của mình khi đó sẽ có ảnh hưởng tích cực trong công tác huy động vốn. Tuy rằng, việc đầu tư cho công tác này còn hạn chế, nhưng có thể nói rằng đây cũng là mặt mạnh của ngành Ngân hàng trong việc cạnh tranh để huy động tiền gửi. Thông tin quảng cáo, tiếp thị khuyến mại, hậu mại rõ ràng được phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường. Và tùy vào thời hạn của sản phẩm để các nhà quản trị Ngân hàng chọn thời điểm, thời gian sử dụng chiến lược quảng cáo khuyến mại cũng như hậu mại sao cho phù hợp.
ỉ Về vấn đề lãi suất huy động.
Lãi suất huy động là công cụ quan trọng trong công tác huy động vốn. Ngoài việc đảm bảo an toàn cho tiền gửi của mình thì khách hàng quan tâm đặc biệt tới khoản lãi mà họ nhận được khi gửi tiền vào ngân hàng.Các chính sách về lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và chi phí dịch vụ được coi là giá cả của các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Hiện nay, lãi suất huy động tiền gửi của Ngân hàng thương mại có phần nhích hơn hệ thống kho bạc và thấp hơn Ngân hàng Cổ phần còn với thị trường tự do ngoài Ngân hàng thì còn thấp hơn nhiều. Chỉ có một cách giải thích là mức lãi suất của Ngân hàng hiện nay thấp hơn mức lãi suất của thị trường tiền tệ mà nó phải có. Một lượng tiền lớn của dân được huy động không qua Ngân hàng với lãi suất cao hơn lãi suất Ngân hàng. Thực tế đã nhận định này nếu ta so sánh tiềm năng có trong dân và số tiền thực tế mà Ngân hàng đã huy động được. Điều đó đã được khắc phục bằng chế độ tự do hoá lãi suất song mức chệnh lệch giữa lãi suất Ngân hàng và lãi suất ở thị trường tự do vẫn lớn nên gây bất lợi cho Ngân hàng trong việc huy động vốn.
ỉ Quy mô tự có.
Vốn tự có là nguồn vốn có thể đóng vai trò làm cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM, nó đảm bảo lòng tin của khách hàng, đối với Ngân hàng cũng là yếu tố quyết định giới hạn tối đa của quy mô nguồn vốn. Theo quy định, Ngân hàng được phép huy động vốn tối đa không quá 20 lần vốn điều lệ. Chính vì vậy một ngân hàng lớn là ngân hàng có được một lượng vốn tự có lớn, đó là cơ sở để ngân hàng huy động một lượng vốn lớn để thực hiện các mục tiêu của mình trong kinh doanh.
2.2. Nhân tố khách quan (ngoài Ngân hàng)
ỹ Môi trường kinh doanh
Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của NHTM riêng luôn gắn với môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tế pháp lý. Vì vậy đối tượng huy động vốn của ngân hàng rộng hay hẹp là tùy thuộc vào luật pháp hiện hành quy định.
Việc huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM bị các chỉ tiêu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của người lao động, tốc độ luân chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát... tác động trực tiếp.NHTM là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt chịu tác động bởi nhiều cơ quan quản lý như Chính phủ, NHNN. Sự thay đổi chính sách của Nhà nước, NHTW về tài chính tiền tệ, lãi suất, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như khả năng thu hút nguồn vốn của NHTM. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động đến quan hệ nguồn vốn của Ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
ỹ Sự phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của NHTM. Vì vậy, việc đặt trụ sở cũng như chi nhánh giao dịch là hết sức quan trọng. Nơi nào tập trung đông dân cư, thu nhập cao thì người dân sẽ có nhiều khả năng có những khoản tiền tiết kiệm lớn và đương nhiên việc huy động vốn của ngân hàng sẽ dễ dàng hơn.
ỹ Môi trường văn hoá cũng như tập quán, thói quen sử dụng tiền của dân ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế của người có thu nhập về tiêu dùng và tiết kiệm. Hiện nay, người dân Việt Nam vẫn quen sử dụng tiền mặt trong chi tiêu hàng ngày do hệ thống thanh toán điện tử chưa phát triển, cho nên có một lượng lớn tiền mặt ngoài ngân hàng, làm giảm tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm.
ỹ Tốc độ phát triển công nghệ cũng ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của Ngân hàng. Trong những năm gần đây, nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin, đã xuất hiện những sản phẩm dịch vụ mới liên quan đến hoạt động huy động vốn của NHTM như dịch cụ Ngân hàng tại nhà ( Home banking) máy rút tiền băng thẻ ATM, thư tín dụng, hệ thông thanh toán điện tử, Phone banking.
ỹ Yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính.
Hoạt động kinh doanh Ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình Ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Do đó, cạnh tranh có xu hướng gia tăng mạnh, làm giảm đi sự khác biệt của NHTM với cá tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Khách hàng có tiền nhàn rỗi có thể đầu tư trực tiếp vào mua chứng khoán của chính phủ và Công ty cổ phần. Xu hướng cạnh tranh trong ngành Ngân hàng càng gia tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách tài chính – tiền tệ, đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, xu hướng chứng khoán hoá. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại, làm giảm đi lượng tiền gửi của khách hàng vào ngân hàng.
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức. Các Ngân hàng có thể áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do này các sản phẩn dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến nhanh chóng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức tài chính phi Ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn, thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn.
Kết luận :
Chúng ta đã nghiên cứu các thành phần, cơ cấu nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM, các phương thưc tạo lập vốn và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn. Những nội dung này làm sáng tỏ lý luận liên quan đến hoạt động về nguồn vốn của Ngân hàng, giúp chúng ta có một cơ sở lý luận rõ ràng để đi sâu phân tích thực trạng nguồn vốn của NHTM nói chung và của chi nhánh NHNo & PTNT Chợ Hôm nói riêng.
Chương II: Thực trạng của công tác huy độngvốn tại ngân hàng no&ptnt chi nhánh chợ hôm
i - Khái quát chi nhánh nhnno&ptnt chợ hôm
1.1. Sự ra đời và bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh
1.1.1. Sự ra đời của chi nhánh ngân hàng NNo&PTNT Chợ Hôm.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội được thành lập theo quyết định số 51/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng Giám đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam ( nay là thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam) với 12 chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Huyện trực thuộc. Tháng 9/1991 chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội bàn giao 07 chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Huyện về các chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Tây và chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Vĩnh Phúc và tháng 10/1995 tiếp tục bàn giao 05 chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Huyện thuộc ngoại thành Hà Nội về trực thuộc Trung tâm điều hành( Ngân hàng No&PTNT Việt Nam). Sau 02 lần bàn giao 12 chi nhánh NHNo&PTNT Huyện về các chi nhánh Hà Tây, Vĩnh Phúc, và Trung tâm điều hành, quy mô và phạm vi hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT bị thu hẹp lại.
Đứng trước tình hình đó, Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới kinh doanh, thành lập các chi nhánh mới, các Phòng Giao dịch trực thuộc để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vay vốn phát triển kinh tế. Tính đến tháng 12/ 2005 Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội đã có 12 chi nhánh: Cầu Giấy, Chợ Hôm, Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Thanh Xuân, Ba Đình, Đống Đa, Nghĩa Đô, Tràng Tiền, Trần Duy Hưng và khu vực tam trình và 40 phòng giao dịch trực thuộc đặt trên địa bàn các quận.
Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Chợ Hôm được thành lập ngày 14/10/2003 là một chi nhánh cấp hai của ngân hàng NNo&PTNT Hà Nội. Qua gần 4 năm hoạt động kinh doanh Chi nhánh đã đạt được những thành quả to lớn góp phần vào sự nghiệp xây dựng một nền kinh tế vững mạnh cho Thủ đô nói chung và cho ngành ngân hàng nói riêng. Từ những ngày đầu thành lập, trong điều kiện còn hạn chế. Nhận rõ trách nhiệm của mình chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Chợ Hôm đã từng bước vượt qua khó khăn, từng bước ổn định phát triển và đến nay trở thành một trong những Chi nhánh ngân hàng vững mạnh đủ sức cạnh tranh với các tổ chức trong và ngoài nước.
Với chính sách khách hàng thông thoáng, với nhiều giải pháp điều hành sáng tạo, thay đổi một cách căn bản phong cách giao dịch với khách hàng, ứng dụng công nghệ hiện đại vào quản trị kinh doanh, hoạt động của chi nhánh đã phát triển ổn định, và toàn diện từ các mặt: huy động vốn, đầu tư tín dụng, kinh doanh đối ngoại, và các loại hình dịch vụ đa năng khác.
1.1.2. cơ cấu tổ chức của chi nhánh ngân hàng.
*Trưởng phòng
Đ Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về các nhiệm vụ;
Đ Xây dựng kế hoạch và kiểm tra giám sát chương trình công tác, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện; có ý kiến nhận xét, đánh giá, kiến nghị, để bạt khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ trong phòng. Giáo dục, động viên cán bộ thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước và của ngành.
Đ Phân công nhiệm vụ cho Phó Trưởng phòng, cho các cán bộ khác trong phòng. Bố trí công việc phù hợp với chức năng lực của cán bộ trong phòng. Tổ chức học tập, nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ cho các bộ trong phòng.
Đ Là đầu mối quan hệ giữa các phòng ban, thực hiện các nhiệm vụ khác nhau do giám đốc giao.
*Phó trưởng phòng
Chấp hành sự phân công công tác chỉ đạo của Trưởng phòng, tham gia giúp việc cho Trưởng phòng chỉ đạo, điều hành một số mặt công tác do Trưởng phòng phân công và chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng về nhiệm vụ được giao. Ký thay Trưởng phòng trên các văn bản, chứng từ theo sự phân công ủy quyền.
Đ Thay mặt Trưởng phòng giải quyết các công việc chung của phòng khi Trưởng phòng vắng mặt và chịu trách nhiệm trước trách nhiệm đó, sau đó báo cáo lại với Trưởng phòng. Thực hiện các công việc khác do Giám đốc hoặc Trưởng phòng phân công.
*Cán bộ công nhân viên
Đ Chấp hành sự phân công công tác, chỉ đạo điều hành của Trưởng, Phó phòng; các công việc được phân công theo chức năng nhiệm vụ của phòng, các nghiệp vụ phát sinh; góp ý kiến tham gia việc xây dựng kế hoạch, chương trình công tác chung của phòng.
Đ Có trách nhiệm tự đào tạo, cập nhật kiến thức để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tham gia ý kiến với Trưởng phòng về các vấn đề liên quan đến hoạt động chung của phòng.
Đ Thực hiện các công việc đột xuất khác do Giám đốc giao.
1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
1.2.1. Công tác huy động vốn
trong những năm qua, xuất phát từ những thuận lợi riêng đó là nằm trên địa bàn Thủ đô với mật độ dân số cao, là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa cả nước, sẽ là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, vì thế công tác huy động vốn của chi nhánh có rất nhiều thuận lợi. Hơn nữa nhờ sự nỗ lực của toàn thể ban lãnh đạo và tất cả cán bộ công nhân viên nên chi nhánh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng như kế hoạch đề ra về huy động vốn. Và hàng năm chi nhánh điều chuyển về trung tâm một lượng vốn khá lớn để điều hòa nhu cầu vốn cho hệ thống.
Đến cuối năm 2006, nguồn vốn của chi nhánh huy động được tăng trưởng khá. Chi nhánh đã quan tâm tạo nguồn vốn với lãi suất hợp lý, đã tìm và huy động được được nhiều doanh nghiệp, trường học... về mở tài khoản và gửi tiền nên nguồn vốn tăng trưởng khá, tạo tiền đề cho công việc kinh doanh. Mặt khác chi nhánh còn có những biện pháp tích cực để thu hút nguồn vốn bằng cách giao chỉ tiêu vận động khách hàng cho từng người nên có nguồn huy động lớn.
Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn năm 2006 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng1:Kết quả kinh doanh qua các năm ( Đơn vị: triệu đồng)
TT
Chỉ tiêu
31/12/2005
31/12/2006
Tăng, giảm so
với 31/12/2005
I
Nguồn vốn
156,000
277,820
71,820
TG TCKT
25,727
31,600
5,873
TG dân cư
80,954
184,195
103,241
Phát hành GTCG
49,319
62,025
12,706
II
Dư nợ
55,694
103,761
48,067
Ngắn hạn
52,245
101,343
49,098
DN theo thành phần
kinh tế
55,694
103,761
48,067
*
DNNN
1,663
0
-1,663
DN ngoài quốc doanh
48,194
97,347
49,153
Hộ cá thể, cầm cố, đời sống
5,837
6,414
577
Nợ quá hạn
0
226
226
(Nguồn số liệu: phòng kế toán NHNNo&PTNT chi nhánh Chợ Hôm)
Cụ thể là nguồn vốn huy động đến 31/12/2006 đạt 277.820 triệu đồng tăng so với thời điểm 31/12/2005 là 71.820 triệu đồng.
Trong đó:
+ Nguồn TG TCKT đạt 31.600 triệu đồng, tăng 5.873 triệu đồng.
+ Nguồn TG dân cư đạt 184.195 triệu đồng, tăng so với 31/12/2005 là 103.241 triệu đồng.
+Phát hành GTCG 62.025triệu đồng tăng so với 31/12/2005 là 12.706triệu đồng.
Nguồn vốn huy động qua các năm huy động cao, cơ cấu nguồn vốn được cải thiện, tạo ra một lượng vốn ổn định cho ngân hàng. Tạo ra một lượng vốn ổn định cho ngân hàng. Điều này đang chứng tỏ rằng ngân hàng đang dần từng bước thu hút được khách hàng. Góp phần vào mục tiêu mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng No&PTNT Hà Nội.
đạt được kết quả trên là do chi nhánh đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và nhiều sản phẩm tiện ích với khách hàng gửi tiền như huy động tiền gửi bậc thang, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng có khuyến mại, tiết kiệm với nhiều hình thức lãi quý, lãi tháng, lãi trước. Đồng thời chi nhánh đã điều chỉnh lãi suất huy động một cách linh hoạt phù hợp với lãi suất của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động vốn bằng ngoại tệ, đã góp phần nâng cao số lượng vốn từ dân cư.
Hơn những thế phong cách giao dịch được thay đổi ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng.
1.2.2. Về dư nợ
Trong năm, các khoản nợ quá hạn phát sinh hầu hết đều là chuyển nợ quá hạn do lãi không thu đúng hạn nên toàn bộ dư nợ chuyển sang nợ quá hạn theo quyết định 1627/QĐ/NHNN Ngày 31/ 12/2001 của NHNN với phương châm phân loại khách hàng để đầu tư, thu hút khách hàng tài chính lành mạnh, làm ăn có hiệu quả, có khả năng trả nợ để đầu tư và loại dần những khách hàng làm ăn kém hiệu quả. Vì vậy, trong năm 2006, chất lượng tại chi nhánh đã tăng lên rõ rệt.
Công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay được chú trọng hơn.
Việc xét duyệt cho vay đảm bảo đúng chế độ, đủ điều kiện.
Năm 2006, chất lượng thẩm định đã được chú trọng nâng cao.
Việc cơ cấu lại nợ được được làm chặt chẽ hơn
Việc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn, thu lãi cho vay, thu nợ rủi ro đã được chú trọng hơn.
Hàng tháng, cán bộ kế toán thu nợ và cán bộ tín dụng đã phối hợp chặt chẽ trong việc thông báo nợ đến hạn để cán bộ tín dụng đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn.
Việc thu lãi hàng tháng đạt tỷ lệ cao, những ngày cuối tháng thu lãi lãnh đạo phòng đã yêu cầu kịp thời cán bộ tín dụng đi đôn đốc đơn vị nộp lãi đúng hạn.
Tinh thần lao động nhiệt tình của cán bộ công nhân viên rất tốt.
Cụ thể là: Tổng dư nợ đến 31/12/2006 đạt 103.761 triệu đồng, tăng 48.067 triệu đồng so với 31/12/2005.
Trong đó:
Dư nợ cho vay nội tệ : 100.345 triệu đồng.
Dư nợ cho vay ngoại tệ đã quy đổi: 3.416 triệu đồng.
ỉ Dư nợ theo thành phần kinh tế:
+ Dư nợ DN Nhà nước: Năm 2006 toàn bộ dư nợ của Công ty xây lắp điện nước Hà Nội số tiền : 1.663 triệu đồng đã giảm còn 1.406 triệu đồng Chi nhánh đã chuyển sang nợ nhóm 5 và trích rủi ro 100%.
+ Dư nợ DN ngoài quốc doanh đến 31/12/2006 đạt 97.347 triệu đồng, tăng 49.153 triệu đồng so với 1/1/2006.
+ Dư nợ hộ cá thể, cầm cố, cho vay đời sống đến 31/12/2006 đạt 6.414 triệu đồng, tăng 577 triệu đồng so với 31/12/2005.
ỉ Về dư nợ quá hạn:
+ Nợ quá hạn nhóm 3 đến 31/12/2006 số tiền: 226 triệu đồng.
Trong đó:
+ Hộ kinh doanh Đào Thị Thủy: 220 triệu đồng.
+ Vay tiêu dùng Trần Thanh Hương: 6 triệu đồng.
1.2.3. Về thu lãi- dịch vụ thực hiện năm 2006
Năm 2006, chi nhánh đã áp dụng thực hiện những loại hình dịch vụ mới và đã bước đầu đã giới thiệu được sản phẩm tới người sử dụng. Nhưng trong giai đoạn mới này ngân hàng đang thực hiện khuyến mãi và quảng bá dịch vụ nên phí thu được là chưa cao.
Cụ thể là:
Về thu từ lãi cho vay: Năm 2006 đạt 8.602 triệu đồng tăng so với năm 2005( đạt 4.598 triệu đồng) là 4.004 triệu đồng.
thu từ dịch vụ _ chúng ta có thể thấy qua bảng sau:
Bảng2:Kết quả thu lãi từ dịch qua các năm ( Đơn vị: triệu đồng)
STT
NộI DUNG
NĂM 2005
NĂM 2006
Tăng giảm so với 2005
Số tiền
Số tiền
I
Thu từ dịch vụ thanh toán
350
1.110
760
1
Chuyển tiền trong nước
124
212
88
2
Chuyển tiền ra nước ngoài
141
201
60
3
Thu phí phát hành L/C
5
46
41
4
Thu phí thanh toán L/C
4
47
43
5
Phí thông báo L/C
0.3
0.3
6
Phí sửa đổi L/C
0.4
0.4
7
Phí bảo lãnh nhận hàng
1,4
1,4
8
Thu phí phát hành thẻ ATM
7,6
8
0.4
9
Dịch vụ Western Union
11
23
12
10
Thu phí bảo lãnh
Trong đó:
54
539
485
Bảo lãnh THHĐ
20
320
300
Bảo lãnh dự thầu
27
116
89
Bảo lãnh khác
7
103
96
11
Thu nhập khác
2
32
30
ii
Thu từ kinh doanh ngoại tệ
27
22
-5
Tổng cộng
377
1.132
755
(Nguồn số liệu: phòng kế toán NHNNo&PTNT chi nhánh Chợ Hôm)
1.2.4. Thu nhập _ chi phí lũy kế năm 2006
Thu nhập và chi phí lũy kế năm 2006 của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Chợ Hôm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Thu nhập_ chi phí lũy kế năm 2006 (Đơn vị: triệu đồng)
Tổng thu
Tổng chi chưa có lương
quỹ thu nhập 2006
95.302
89.774
+ 5.528
+ 1.992( Thưởng DV)
Tổng cộng
+ 7.520
(Nguồn số liệu: phòng kế toán NHNNo&PTNT chi nhánh Chợ Hôm)
ii. thực trạng công tác huy động vốn của chi nhánh ngân hàng no&ptnt chợ hôm
2.1. Các hình thức huy động vốn của chi nhánh ngân hàng
Hình thức huy động vốn có lẽ được coi là một chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả huy động vốn của một Ngân hàng, đa dạng, phong phú trong hình thức huy động chính là điều kiện và là yếu tố quan trọng đầu tiên tác động đến công tác huy động vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì hiệu quả huy động càng cao, nguồn vốn huy động càng lớn vì không chỉ hoạt động sử dụng vốn mới phụ thuộc vào nhu cầu khách hàng mà hoạt động huy động vốn cũng phải thoả mãn nhu cầu của người gửi tiền, nhu cầu của mỗi người là khác nhau do đó, đa dạng trong hình thức huy động vốn sẽ đảm bảo thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người gửi tiền. Một Ngân hàng cho dù có chuẩn bị hay xây dựng được mạng lưới huy động rộng nhưng xây dựng nhưng phương thức huy động kém da dạng thì huy động vốn cũng không thể đạt hiệu quả cao.
Như vậy, để đạt hiệu quả cao trong công tác huy động vốn thì các hình thức huy động của Ngân hàng phải đa dạng và phong phú.
1.Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Được thực hiện dưới hai hình thức là tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
ỹ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà các tổ chức kinh tế có thể rút ra bất kỳ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó. Hình thức huy động này lãi suất thấp, còn gọi là tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán là khoả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31920.doc