Giải pháp tăng cường an sinh xã hội cho người nghèo ở tỉnh Thái Nguyên

LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh việc phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Hệ thống an sinh xã hội góp phần quan trọng thực hiện công bằng xã hội; giúp người dân chống chọi với các rủi ro trong nền kinh tế thị trường; tạo ra cơ hội cho

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường an sinh xã hội cho người nghèo ở tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mọi người đều có cơ hội vươn lên trong xã hội. Có thể nói những người kém may mắn và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội là người nghèo. Đói nghèo đã trở thành hiểm họa đối với nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam.Vì thế, xóa đói giảm nghèo là một nhiệm vụ trọng tâm đặt ra cho tất cả các tỉnh thành, trong đó có Thái Nguyên, tỉnh trong tương lai được kỳ vọng là đầu tàu phát triển của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ. Những năm vừa qua, tỉnh đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tuy nhiên có một thực tế là tốc độ giảm nghèo lại khá chậm. Nguyên nhân cơ bản là các giải pháp thiếu tính đồng bộ, biện pháp đầu tư hỗ trợ chưa cụ thể, mới chú trọng đến việc hỗ trợ trực tiếp vật chất cho người nghèo mà chưa ngăn ngừa được những nguy cơ đẩy người dân vào bẫy nghèo và thoát nghèo không bền vững; nguồn lực huy động cho chương trình hạn hẹp, sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, nhà nước và toàn xã hội chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương nên chưa đáp ứng nhu cầu của người nghèo và các xã nghèo để tạo ra cơ hội cho họ vươn lên trong cuộc sống. Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành và triển khai nhưng chưa thực sự phát huy hết tính năng của nó vì thế cần có những giải pháp đồng bộ để hỗ trợ cho người nghèo tại tỉnh Thái Nguyên đồng thời thúc đẩy sự phát triển toàn diện của Tỉnh. Xuất phát từ những vấn đề mang tính cấp thiết trên, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường an sinh xã hội cho người nghèo ở tỉnh Thái Nguyên” để thực hiện chuyên đề tốt nghiệp. Đây là một đề tài phù hợp với chuyên ngành Kinh tế phát triển và tình hình thực tế của cơ sở thực tập, giúp em có thể áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn và có kinh nghiệm cho riêng mình. Mục đích nghiên cứu Từ lý luận chung và mô hình thực hiện chính sách an sinh xã hội của một số quốc gia rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc tìm kịch bản cho giảm nghèo và phát triển bền vững. Nghiên cứu các chính sách an sinh xã hội cho người nghèo phục vụ cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo của tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Đưa ra các giải pháp đồng bộ trong quá trình thực hiện giúp người nghèo thoát khỏi cuộc sống nghèo đói. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng đói nghèo theo thời gian, theo vùng, khu vực và theo dân tộc. Và tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho người nghèo những năm vừa qua. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách an sinh xã hội cho người nghèo và các giải pháp kèm theo nhằm mục đích hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kết hợp với các phương pháp tổng hợp số liệu, thống kế sử lý bảng biểu, biểu đồ. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tham khảo, chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương: Chương I: Lý luận chung về an sinh xã hội và sự cần thiết phát triển mạng lưới an sinh xã hội cho người nghèo. Chương II: Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội cho người nghèo tỉnh Thái Nguyên. Chương III: Giải pháp thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người nghèo của tỉnh Thái Nguyên. Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu và tìm tòi số liệu nhưng do thời gian tìm hiểu chưa nhiều và trình độ có hạn, vấn đề đặt ra lại phức tạp và khó khăn nên bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em mong rằng sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo hướng dẫn TS.NGUYỄN NGỌC SƠN cùng toàn thể các thầy cô để em hoàn thành tốt hơn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS.NGUYỄN NGỌC SƠN cùng các bác, các anh, các chị phòng kế hoạch tổng hợp Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHÈO 1.1. Bản chất và chức năng về an sinh xã hội 1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội Hiện nay thuật ngữ an sinh xã hội (ASXH) được sử dụng khá phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm, bản chất và nội dung của nó vì vậy tổ chức an sinh xã hội ở các nước chưa có sự thống nhất. Khái niệm của ILO:“An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khốn cùng về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngừng hoặc sụt giảm đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con”. Bên cạnh khái niệm của mà ILO thì một số nhà khoa học đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau đã đưa ra các quan điểm, khái niệm về an sinh xã hội. Theo H.Beverdige - một nhà kinh tế học người Anh cho rằng:“ASXH là sự đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm việc và đảm bảo một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa”. Hay đạo luật về an sinh xã hội của Mỹ năm 1935 lại đưa ra khái niệm khác như sau:“ASXH là sự đảm bảo của xã hội, nhằm bảo trợ nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột cùng’’. Trong Hiến chương Đại Tây Dương định nghĩa:“ASXH là sự đảm bảo thực hiện quyền con người trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát triển chính kiến trong khuôn khổ pháp luật, được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở, được chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn nhu cầu thiết yếu’’. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nội dung của an sinh xã hội ngày càng mở rộng. Sự thay đổi đó để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia mà mục đích là mang lại những điều tốt nhất cho con người. Chính vì vậy mà khái niệm về an sinh xã hội được nhìn nhận trên bình diện mới:“ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên trong cộng đồng không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong xã hội thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc và dịch vụ xã hội”. Ở Việt Nam, ASXH được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm một mặt là do chúng ta đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh đồng thời thiên tai mất mùa hay xảy ra trên diện rộng khiến cho đất nước gặp nhiều khó khăn, số hộ nghèo còn cao, đời sống của nhân dân thấp; mặt khác để hoàn thành mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh xã hộ công bằng dân chủ và văn minh. Vì vậy, tại hội nghị quốc tế với chủ đề: “Hệ thống ASXH ở Việt Nam” ngày 22/08/2007, tiến sỹ Nguyễn Hải Hữu đại diện cho phía Việt Nam đưa ra khái niệm: “ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế xã hội làm cho họ có nguy cơ bị suy giảm mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ và cung cấp dịch vụ sức khỏe cho cộng đồng, thông qua hệ thống mạng lưới về BHXH, BHYT và trợ giúp xã hội”. 1.1.2. Bản chất của an sinh xã hội An sinh xã hội được tất cả các nước trên thế giới cũng như Liên Hiệp Quốc thừa nhận là một trong những quyền của con người trong mọi thời đại và mọi chế độ xã hội vì nó có mục tiêu và bản chất rất tốt đẹp. Mục tiêu của an sinh xã hội là tạo ra một lưới an toàn cho mọi thành viên cộng đồng xã hội, khi bất kỳ một cá nhân trong cộng đồng không may gặp rủi ro hoặc lâm vào tình cảnh yếu thế. Bản chất của an sinh xã hội thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, an sinh xã hội là một chính sách xã hội có mục tiêu cụ thể và chính sách này thường được cụ thể hóa bởi luật pháp, chương trình quốc gia và nó tồn tại trong ngay tiềm thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam; đã có rất nhiều bộ luật và rất nhiều chương trình kinh tế xã hội như: Luật Bảo hiểm xã hội; Luật trợ giúp pháp lý; Luật phòng chống ma túy và tệ nạn xã hội; Chương trình xóa đói giảm nghèo; Chương trình xóa nhà dột nát…ASXH còn tồn tại ngay trong tiềm thức của mỗi con người bởi vì con người luôn hướng tới những mục tiêu tốt đẹp nhất. Chẳng hạn “tinh thần tương thân tương ái”, truyền thống “lá lành đùm lá rách”; “lá rách ít đùm lá rách nhiều’’, hay “thương người như thể thương thân” đã có từ khi loài người ra đời và loài người coi nó là đạo lý, là truyền thống của mỗi dân tộc, đất nước. Vì an sinh xã hội là một hệ thống các chính sách, các chương trình... cho nên tùy theo điều kiện và hoàn cảnh mỗi nước mà người ta đã xây dựng một hệ thống an sinh xã hội cụ thể và độc lập để thực hiện ASXH như: Xây dựng các chế độ an sinh xã hội để cụ thể hóa chính sách bảo hiểm xã hội hay tổ chức một cụm chính sách để xây dựng hệ thống an sinh xã hội bao gồm có chính sách BHXH, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách cứu trợ xã hội… Thứ hai, an sinh xã hội là một công cụ, cơ chế để thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng xã hội. Cơ chế phân phối lại thu nhập vừa chặt chẽ, cụ thể theo đúng pháp luật có liên quan, lại vừa năng động linh hoạt để phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng. Đóng vai trò chủ yếu là phân phối theo pháp luật. Theo pháp luật, phân phối được thực hiện theo hai phương diện cả chiều ngang và chiều dọc. Theo chiều ngang nghĩa là, phân phối lại giữa những người khỏe mạnh với những người không may bị ốm đau, tai nạn; giữa nam và nữ; giữa những gia đình không có con với những gia đình có con; Còn theo chiều dọc nghĩa là phân phối lại giữa những người giàu có thu nhập cao với những người nghèo có thu nhập thấp thậm chí mất thu nhập. Sau nhiều năm thực hiện các nước kinh tế phát triển nhận thấy tiến hành phân phối theo chiều dọc thường có hiệu quả hơn và diện phân phối sẽ rộng hơn. Bằng việc thực thi các chính sách thuế thu nhập, giá cả và chính sách chi tiêu công cộng sẽ góp phần làm cho lượng thu số ngân sách ngày càng tăng, đồng thời lại tiết kiệm được chi tiêu ngân sách. Từ đó, ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương mới có cơ sở vững chắc và đủ lớn để tiến hành phân phối lại nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Thứ ba, an sinh xã hội là sự che chắn, bảo vệ cho các thành viên trong xã hội trước các rủi ro và những biến cố bất lợi xảy ra. Tuy nhiên, cứu trợ và diện được che chắn bảo vệ lại không giống nhau ở mỗi nước và ngay trong mỗi nước cũng luôn có sự khác nhau giữa các thời kỳ. Tất cả đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và thể chế chính trị ở từng nước. Chẳng hạn, trong thời kỳ bao cấp ở nước ta cũng như ở nhiều nước XHCN, tuy ngân sách Nhà nước có hạn, song người dân đi khám chữa bệnh không phải trả tiền, người lao động không bị thất nghiệp và tính ưu việt được thể hiện khá rõ trong các chính sách xã hội. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế yếu kém nên không thể thực hiện và duy trì được lâu dài cho dù mục tiêu là hết súc tốt đẹp. Vì thế, khi bước vào cơ chế thị trường, Chính phủ các nước XHCN đã buộc phải thay đổi lại chính sách. Và trong hoàn cảnh đó bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đã lần lượt ra đời ở mỗi nước trên cơ sở đóng góp của cộng đồng để hình thành quỹ bảo hiểm, đồng thời có sự bảo trợ của Nhà nước. Cũng do điều kiện kinh tế xã hội chi phí mà diện được bảo vệ và che chắn trong hệ thống an sinh xã hội của các nước thường được chia ra thành các lưới khác nhau: Lưới thứ nhất, thường che chở và bảo vệ cho người lao động và gia đình; Lưới thứ hai, là bảo vệ cho những đối tượng được ưu tiên; Lưới thứ ba là che chắn, bảo vệ cho mọi thành viên trọng xã hội. Việc chia ra các lưới an sinh xã hội là rất cần thiết, vì nó liên quan đến rất nhiều vấn đề khi ban hành cũng như tổ chức thực hiện chính sách. Theo quy luật chung, lưới thứ nhất có đối tượng ngày càng được mở rộng và lưới thứ hai có đối tượng ngày càng bị thu hẹp, từ đó làm cho hệ thống an sinh xã hội ở các nước ngày càng vững mạnh. Thứ tư, an sinh xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn cao đẹp của con người trong mọi thời đại. Mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội dù cuộc sống địa vị sang hèn, khác nhau những đều có một giá trị xã hội nằm trong cả hệ thống giá trị xã hội. Họ phải được đảm bảo mọi mặt cả tinh thần và vật chất tối thiểu để sống và phát huy hết khả năng của mình cho những giá trị cao đẹp của xã hội. Một khi gặp rủi ro, bất hạnh, xã hội phải tạo cho họ những lực đẩy cần thiết để họ khắc phục và vươn lên. Từ đó, kích thích tính tích cực cho họ, giúp họ phấn đấu hướng tới những chuẩn mực của chân - thiện - mỹ. Cũng nhờ đó mà chống lại những tư tưởng ỷ lại, tư tưởng “mạnh ai nấy lo”, “đèn nhà ai rạng nhà ấy” giúp tạo nên một xã hội hòa đồng giữa con người với con người, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc và địa vị xã hội. Chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn ở đây không chỉ thể hiện trong bản thân mỗi người, mỗi cộng đồng người mà còn thể hiện ở cộng đồng nhân loại. Nó không chỉ thể hiện trong phạm vi quốc gia mà còn thể hiện rất rõ trong phạm vi toàn thế giới. 1.1.3. Chức năng của an sinh xã hội 1.1.3.1. Đảm bảo duy trì thu nhập liên tục cho mọi thành viên trong xã hội để họ ổn định cuộc sống Đây là chức năng cơ bản nhất vì nó gắn chặt với mục tiêu đặt ra của tất cả các hệ thống ASXH ở các nước trên thế giới. Việc duy trì thu nhập cho những người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những người “yếu thế” trong xã hội rất cần thiết và rất dễ thấy. Song, ngay cả những người giàu sang và có địa vị xã hội đôi lúc cũng cần đến sự trợ giúp của ASXH, nếu chẳng may gặp phải những thảm họa do chiến tranh, do những hiện tượng thiên nhiên bất thường như động đất, núi lửa, sóng thần… Bởi lẽ, những thảm họa đó sẽ không từ một ai và hậu quả là vô cùng nặng nề không phải một sớm một chiều đã có thể khắc phục được. Vì thế, việc duy trì thu nhập liên tục trong những lúc này, dù chỉ đảm bảo cuộc sống ở mức tối thiểu là rất cần thiết và rất đáng quý đối với tất cả mọi người trong cộng đồng xã hội. 1.1.3.2. Tạo lập nên một quỹ tiền tệ tập trung trong xã hội Trong cuộc sống có những người không may gặp phải những hoàn cảnh éo le, những người bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân khác nhau. Những quỹ tiền tệ tập trung, do hệ thống ASXH tạo lập ra rất phong phú và đa dạng dùng vào việc phân phối lại cho những đối tượng như trên. Chúng bao gồm cả những nguồn quỹ rất lớn như quỹ dự phòng của Chính phủ, quỹ BHXH cho đến những nguồn quỹ có quy mô nhỏ như quỹ thăm hỏi, quỹ từ thiện trong các tầng lớp dân cư… Tất cả các nguồn quỹ nói trên đều có một đăc điểm chung giống nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng là không nhằm mục đích kiếm lời trong hoạt đọng của hệ thống ASXH. Trong xu hướng xã hội hóa hoạt động ASXH đang diễn ra nhanh chóng ở các nước trên thế giới như hiện nay chắc chắn chức năng tạo lập quỹ của ASXH đóng vai trò ngày càng quan trọng. 1.1.3.3.Gắn kết các thành viên trong cộng đồng xã hội Con người sống là để yêu thương và chia sẻ vì vậy khi các thành viên trong xã hội gắn kết với nhau sẽ phòng ngừa, giảm thiểu và chia sẻ rủi ro và đối phó với những hiểm họa xảy ra do các nguyên nhân khác nhau giúp cho cuộc sống ổn định và an toàn. Thật vậy, việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn là một trong những truyền thống tốt đẹp của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Tuy nhiên, truyền thống đó nếu để tự phát, chỉ diễn ra trong một phạm vi hẹp và hiệu quả không cao. Nhất là khi gặp thiên tai, địch họa gây thiệt hại lớn về người và của trên phạm vi rộng thì việc khắc phục hiệu quả là rất khó. Chỉ có nhờ các chính sách an sinh xã hội với cơ chế hoạt động đa dạng của mình, mới có thể gắn kết được các thành viên trong cộng đồng, mới huy động dược tối đa mọi nguồn lực để chia sẻ rủi ro và khắc phục được những hậu quả nghiêm trọng khi loài người gặp phải những hiểm họa trong cuộc sống. Chính vì vậy, chức năng gắn kết các thành viên trong cộng đồng của ASXH, không chỉ là cơ sở và điều kiện để thực hiện mục tiêu an sinh trong phạm vi quốc gia, mà còn là cơ sở và điều kiện để thực hiện mục tiêu an sinh xã hội trên phạm vi toàn thế giới. 1.1.4. Các chính sách an sinh xã hội Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, diện bảo vệ và che chắn của hệ thống ASXH ngày càng được mở rộng nội dung của ASXH ngày càng phong phú thì chính sách ASXH ngày càng cần thiết. Bởi vì, chỉ có những chính sách đúng đắn và hợp lòng dân thì việc tổ chức hệ thống ASXH mới đảm bảo hiệu quả. Ngày nay, ASXH bao gồm rất nhiều thành tố khác nhau, như: Bảo hiểm xã hội, quỹ dự phòng, ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội...Ngoài những thành tố cơ bản này, các nước còn triển khai các chương trình khác xoay quanh lĩnh vực ASXH như: Chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình trợ giúp pháp lý và các dịch vụ xã hội khác (bảo hiểm và tích kiệm, trợ giúp gia đình, trợ giúp người già trẻ em mồ côi không nơi nương tựa...). Dựa vào những thành tố nêu trên, Chính phủ có thể ban hành các chính sách cụ thể và riêng biệt để có những định hướng đúng đắn tổ chức hệ thống ASXH, sau đây là một số chính sách cơ bản: 1.1.4.1. Bảo hiểm xã hội BHXH được hiểu là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần cho người lao động khi họ gặp rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo ASXH. Chính sách BHXH là chính sách xã hội chủ yếu do Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện. Chính sách BHXH có mục tiêu chủ yếu là bảo vệ, che chắn cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp phải rủi ro như ốm đau, tai nạn...hay các sự kiện bảo hiểm như sinh đẻ, già yếu. Đặc điểm của loại chính sách này là: Nó được các nước luật hóa tương đối thống nhất trên cơ sở các khuyến cáo của tổ chức lao động quốc tế (ILO); Chính sách BHXH liên quan trực tiếp tới người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH do Nhà nước đứng ra tổ chức; Nội dung và phạm vi điều chỉnh của chính sách BHXH phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ; BHXH là chính sách chủ yếu trong hệ thống chính sách ASXH. Nó đóng vai trò điều tiết và có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống các chính sách khác có liên quan tới ASXH. Khi đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng, đối tượng được bảo vệ ngày càng đông thì đương nhiên sẽ góp phần làm giảm số đối tượng thụ hưởng trong các chính sách khác thuộc hệ thống ASXH. Mặt khác, nếu hệ thống BHXH được mở rộng và phát triển, quỹ BHXH sẽ tự cân đối và trang trải các khoản thu chi. Ngân sách nhà nước giảm bớt gánh nặng do phải cân đối hàng năm để hỗ trợ. Đây là điều kiện và cũng là cơ hội để Nhà nước tập trung nguồn tài chính điều tiết và thực hiện các chính sách xã hội và ưu đãi xã hội... 1.1.4.2.Cứu trợ xã hội Từ khi con người sinh ra đã có hoạt đọng cứu trợ. Hoạt động này thể hiện rõ tính nhân đạo, nhân văn và truyền thống đạo lí của các đan tộc trên thế giới. cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước và cộng đồng cho những người không may rơi vào hoàn cảnh bất hạnh do những nguyên nhân khác nhau không tự lo liệu được cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình. Cứu trợ xã hội có thể biểu hiện ở nhiều chính sách xã hội có liên quan như: cứu tế xã hội, trợ giúp xã hội, trợ cấp gia đình. Những mảng chính sách này có thể do Chính phủ thống nhất ban hành và cũng có thể do chính quyền địa phương quyết đinh. Các chính sách liên quan đến cứu trợ xã hội thường được coi là lưới che chắn thứ hai hoặc thứ ba cho mọi thành viên trong cộng đồng và cũng không nằm ngoài mục đích chung của ASXH. Đặc điểm của cứu trợ xã hội là: Tính pháp lí luôn bị hạn chế do đối tượng rộng nên phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước; Chính sách cứu trợ xã hội có liên quan đến tất cả mọi người cộng đồng xã hội không phân biệt vùng miền tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc hay địa vị xã hội...; Hoạt động cứu trợ để thực hiện chính sách cứu trợ rất phong phú, đa dạng. Hoạt động này không chỉ được thực hiện bởi Nhà nước, mà nó còn được thực hiện bởi các tổ chức kinh tế - xã hội, các đoàn thể và từng cá nhân trong cộng đồng xã hội. đồng thời hoạt động cứu trợ xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà nó còn được thực hiện trên phạm vi quốc tế; Nhà nước thực hiện chính sách cứu trợ xã hội chủ yếu thông qua chính sách thuế để huy động sự đóng góp của các cá nhân, các tổ chức vào ngân sách. Sau đó, dùng nguồn ngân sách này để cứu trợ cho những người không may gặp thiên tai, địch họa hoặc lâm vào hoàn cảnh yếu thế không tự lo liệu được cuộc sống của mình. Một số nước sau khi đã mở rộng được đối tượng tham gia BHXH và hệ thống bảo hiểm xã hội đã tương đối vững vàng, bắt đầu chuyển sang thiết kế lại hệ thống ASXH của mình và coi cứu trợ xã hội là nội dung chính của ASXH. 1.1.4.3. Ưu đãi xã hội Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ dặc biệt cả về vật chất lẫn tinh thần của Nhà nước và cộng đồng đối với những người, hay đối với cả một cộng đồng người có công với dân với nước. Ưu đãi xã hội là một chính sách xã hội đặc thù mà không phải tất cả các nước trên thế giưới đều thực hiện. Bởi lẽ, mảng chính sách này phụ thuộc chủ yếu vào truyền thống lịch sử và thể chế chính trị của từng nước. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước quan niệm ưu đãi xã hội là trách nhiệm đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân đối với những người, với những gia đình có công với dân với nước như: các thương binh, bệnh binh, các thanh niên xung phong, các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng… mục tiêu chính của chính sách ưu đãi xã hội là nhằm tái sản xuất ra những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, là đền ơn, đáp nghĩa nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước. Chính sách ưu đãi xã hội có đặc điểm: Đây là chính sách xã hội đặc thù và cũng được luật hóa để đảm bảo thực hiện công bằng, dân chủ; Đối tượng của chính sách ưu đãi xã hội là những người có công với nước, với dân trong các cuộc chiến tranh giành độc lập cho dân tộc, trong phòng chống tội phạm, trong phát triển kinh tế, trong nghiên cứu khoa học và trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật v.v...; Chính sách ưu đãi xã hội không chỉ liên quan đến lĩnh vực vật chất mà còn liên quan đến cả lĩnh vực tinh thần và đôi khi lĩnh vực tinh thần lại là chủ yếu. Việc tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi xã hội cũng rất đa dạng, nó có thể thực hiện bởi nhà nước và cũng có thể được thực hiện bởi các cấp chính quyền địa phương và các đoàn thể quần chúng trong cộng đồng; Đây là mảng chính trị xã hội rất nhạy cảm vì nó liên quan chủ yếu đến thể chế chính trị của mỗi nước. Vì thế, khi ban hành chính sách và tổ chức thực hiện chính sách này phải thống nhất và đồng bộ. 1.4.1.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo Theo số liệu thống kê của tổ chức FAO thuộc Liên hiệp quốc, năm 2005 trên thế giới vẫn còn khoảng hơn 1,2 tỉ người thuộc diện nghèo đói, chiếm hơn 1/6 dân số thế giới. Số người này chủ yếu thuộc các nước đang phát triển và chậm phát triển. Chính vì vậy, xóa đói giảm nghèo không chỉ là mục tiêu của nhiều quốc gia mà còn là mục tiêu của cả thế giới. Rất nhiều nước đã ban hành các chính sách xóa đối giảm nghèo. Ở nước ta, chính sách này được cụ thể hóa trong một loạt các chương trình, như: chương trình 135; chương trình 327; chương trình khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư v.v... Mục tiêu của chính sách xóa đói giảm nghèo là nhằm trợ giúp những gia đình nghèo đói trong xã hội về tiền vốn, về ưu đãi thuế, về khoa học kĩ thuật v.v... để họ tự vươn lên và thoát khỏi nghèo đói. Chính sách xóa đói giảm nghèo có đặc điểm: Thường được cụ thể hóa và lồng ghép trong một số chính sách có liên quan. Mỗi chính sách, mỗi chương trình đều được luật hóa để tổ chức thực hiện; Đối tượng thuộc chính sách này chủ yếu là những người nông dân, những người buôn bán nhỏ và những người lao động tự do trong xã hội; Chính sách xóa đói giảm nghèo nếu được thực hiện tốt và đồng bộ sẽ rất có hiệu quả, bởi nó đảm bảo tính ASXH lâu dài và bền vững; Việc tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu do nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Ngoài ra, nó còn thực hiện bởi các hội đoàn thể, như: Hội nông dân, Hội làm vườn, Hội cựu chiến binh v.v... Nếu chính sách ban hành đúng và tổ chúc thực hiện tốt sẽ huy động được một nguồn vốn đáng kể từ các tầng lớp dân cư, cũng như các tổ chúc quốc tế ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để thực hiện. Ở nước ta trong những năm vừa qua, tỉ lệ số hộ gia đình nghèo đói đã giảm đáng kể và được các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao về vấn đề này. 1.1.4.5. Quỹ dự phòng Quỹ dự phòng có thể là các quỹ dự phòng của Nhà nước và các quỹ tiết kiệm được hình thành bởi các thành viên tham gia tạo nên. Quỹ dự phòng của Nhà nước được tạo lập chủ yếu từ ngân sách Nhà nước nhằm mục đích trợ giúp khẩn cấp và kịp thời cho các thành viên trong cộng đồng, cho các vùng, các địa phương không may gặp phải những thảm họa do thiên tai gây ra như: bão, lụt, sóng thần, dịch bệnh hàng loạt... Còn quỹ tiết kiệm được các nước phát triển áp dụng phổ biến. Loại quỹ này rất đa dạng và quy mô có khi rất lớn, như quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm trọn đời... Mục đích của quỹ này là nhằm giúp người dân tự bảo hiểm cho bản thân và gia đình không may gặp phải các rủi ro trong cuộc sống. Đặc điểm của quỹ dự phòng là: Hình thức tạo thành quỹ rất đa dạng và phong phú có liên quan tới nhiều bộ luật của từng nước, như là: Luật bảo hiểm xã hội, luật bảo hiểm thương mại, Luật ngân sách...; Xét về diện được hưởng trợ cấp từ các quỹ dự phòng là cá nhân hoặc tổ chức và cũng có khi bao hàm là cả một địa phương không may gặp rủi ro như thiên tai, mất mùa gây hậu quả nghiêm trọng: phá hoại toàn bộ cơ sở hạ tầng (kho tàng, trường học, nhà cửa, bệnh viện..); Gây thiệt hại tới tính mạng và tài sản của các hộ gia đình và các cá nhân bị mất mát hoặc bị đe dọa. Đối tượng được thụ hưởng từ các quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm trọn đời là các cá nhân và tập thể đóng góp để tạo nên quỹ này. Khi nền kinh tế càng phát triển các loại quỹ dự phòng càng được mở rộng về đối tượng và phạm vi. Việc tổ chức hình thành và sử dụng theo đặc điểm và nhu cầu của người dân ở từng nước. 1.2. Sự cần thiết phải phát triển mạng lưới an sinh xã hội cho người nghèo 1.2.1. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo 1.2.1.1. Trợ cấp cho người nghèo Thông qua những khoản chuyển giao cho người nghèo để đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ. Tập trung hỗ trợ cho nhóm nguy cơ dễ bị tổn thương và nhóm yếu thế trong xã hội đó là những người rất nghèo, không có việc làm ở nông thôn, dân tộc thiểu số, nhóm rất nghèo sống ở vùng có địa hình hiểm trở, hộ nghèo thuộc chính sách. Đó là những đối tượng mà ngay cả cuộc sống hàng ngày ở mức tối thiểu không được đảm bảo vì vậy cần phải trợ cấp bằng tiền và hiện vật theo mức độ từng hộ để giúp họ thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Hiện nay chính phủ đang thực chính sách trợ giá, trợ cước các mặt hàng chính sách như muối i ốt, phân bón, giống cây trồng,.. Chủ yếu nhằm hỗ trợ đầu vào cho sản xuất, cung cấp các mặt hàng thiết yếu có ý nghĩa phòng chữa bệnh tật. Việc cung ứng các mặt hàng đủ số lượng, chất lượng đúng giá đã làm ổn định giá cả thị trường. Việc trợ cước mua sản phẩm cho người dân tạo điều kiện cho họ bán được sản phẩm từ đó tăng thu nhập, khuyến khích mở rộng sản xuất theo hướng kinh tế hàng hóa. 1.2.1.2. Cứu trợ trong những trường hợp khẩn cấp Với khí hậu khắc nghiệt và sự biến động của vỏ trái đất hàng năm có không ít thiên tai nặng nề giáng xuống con người. Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội về điều kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp rủi ro khó khăn bất ngờ khiến cuộc sống tạm thời của họ bị đe dọa, nhằm giúp họ nhanh chóng vượt qua sự hụt hẫng, ổn định cuộc sống và sớm hòa đồng trở lại với cộng đồng. Các trường hợp khẩn cấp là lũ lụt, hạn hán, mất mùa, hỏa hoạn... gây cho người dân mối đe dọa về lương thực, nhà ở, bệnh tật, đình trệ sản xuất. Người nghèo do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống, nhứng đột biến này sẽ tạo ra bất ổn lớn. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng 1-1,2 triệu người. Các phân tích điều tra hộ gia đình cho thấy các hộ gia đình phải chịu nhiều thiên tai có nguy cơ lún sâu vào nghèo đói. Vì vậy, các khoản chi nhằm khắc phục hậu quả của những vụ thiên tai hoặc tai nạn nghiêm trọng là cần thiết và không thể thiếu giúp họ có được cuộc sống sau sự cố bất ngờ xảy ra. Người xưa có câu“một miếng khi đói bằng một gói khi no’’ vì thế giúp người dân nghèo thoát khỏi hoạn nạn không chỉ việc làm của nhà nước, địa phương mà của tất cả những ai có điều kiện tốt hơn. Chung tay góp sức sẽ giúp con người vượt qua mọi bão giông nguy hiểm. Việc cứu trợ trong trường hợp khẩn cấp mang tính tức thời và được thực hiện đúng thời điểm, đúng đối tượng. Các hình thức trợ cấp có thể bằng tiền hoặc hiện vật hay là cả hay tùy thuộc vào tình hình cụ thể của đối tượng được hưởng cứu trợ. 1.2.2. Phòng ngừa rủi ro Người nghèo thường phải chịu nhiều rủi ro nhất trong xã hội. Nhũng rủi ro thường có nguyên nhân là thiên tai, bệnh tật, tuổi già hoặc bị thất nghiệp. Những hộ kh._.ông phải hộ nghèo nếu không may gặp phải những rủi ro này cũng có thể bị rơi vào hoàn cảnh túng thiếu, không đủ khả năng chi trả. Vì vậy ASXH có vai trò ngăn ngừa những rủi ro xảy ra với người dân thông qua các chương trình bảo hiểm xã hội và quỹ dự phòng. 1.2.2.1. Bảo hiểm xã hội (BHXH) BHXH ra đời và tồn tại phát triển là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của xã hội loài người. BHXH là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, đối tượng của nó rất rộng và trong đó có những người nghèo. Những năm gần đây, BHXH đã giải quyết cho hàng triệu người được hưởng trợ cấp BHXH thường xuyên hàng tháng ở mọi miền đất nước; hàng chục triệu người nghèo, người có thu nhập thấp đã vượt qua khó khăn khi gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật. Bảo hiểm y tế (BHYT): Sức khỏe là vốn quý giá nhất của con người. Trong đời người những rủi ro bất ngờ về sức khỏe như ốm đau, bệnh tật vẫn có thể xảy ra không trừ bất kì ai dù thu nhập thấp hay cao, dù giàu hay nghèo. Các chi phí khám chữa bệnh không được xác định trước và mang tính đột xuất vì vậy nó gây khó khăn tới mỗi cá nhân gia đình đặc biệt là nguời nghèo - người có thu nhập thấp trong xã hội. Bệnh tật và sức khỏe kém là nguyên nhân trực tiếp làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao việc khám, chữa bệnh kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp. Chi phí khám chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo đẩy học đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải viện phí dẫn tới tình trạng càng có ít cơ hội thoát khỏi đói nghèo. Khả năng tiếp cận với các dịch vụ phòng bệnh còn hạn chế vì thế nguy cơ mức bệnh cao hơn. Vì vậy BHYT đảm bảo việc cung cấp những sự trợ giúp cho người được bảo vệ khi tình trạng của họ cần tới sự chăm sóc y tế nhằm mục đích chữa bệnh hoặc có tính chất phòng bệnh. Mục đích của chế độ này là cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế để duy trì, khôi phục và cải thiện sức khỏe và khả năng làm việc cũng như đáp ứng nhu cầu cá nhân của họ. Chế độ này giúp người tham gia BHYT nhanh chóng hồi phục sức khỏe và đảm bảo an sinh xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường người lao động luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Năm vừa qua do nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao các doanh nghiệp để tồn tại buộc phải cắt giảm biên chế và đồng nghĩa với việc sa thải người lao động. Thất nghiệp đã gây ra hậu quả nghiêm trọng với nền kinh tế và làm ảnh hưởng tới tinh thần của người lao động. Tình trạng này càng trở nên khó khăn với người nghèo khi mà cả gia đình chỉ trông chờ vào đồng lương của một hoặc một số ít người tham gia lao động. Giải quyết tình trạng thất nghiệp ảnh hưởng không nhỏ tới ASXH. Chống thất nghiệp là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chống thất nghiệp và giải quyết việc luôn song hành cùng nhau. Mục đích của bảo hiểm thất nghiệp là ổn định đời sống cho mọi người dân trong đó đối tượng được chú ý nhiều nhất là người nghèo góp phần bảo đảm ASXH và phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. 1.2.2.2. Quỹ dự phòng Việc hình thành quỹ dự phòng nhằm hạn chế rủi ro xảy ra nhằm bảo vệ người lao động và gia đình họ. Đối với người nghèo thì quỹ dự phòng được hình thành trong các chương trình xóa đói giảm nghèo. Được tách thành một khoản tiền riêng để phòng rủi ro như thiết lập quỹ phục hồi thiên tai, quỹ cứu đói khi giáp hạt… 1.2.3. Hỗ trợ người nghèo vươn lên trong cuộc sống Trợ giúp cho người nghèo không chỉ là cho họ có được cái ăn cái mặc trước mắt, mà quan trọng là phải gíup họ có được phương thức sản xuất và nâng cao cuộc sống nhằm thoát nghèo bền vững. Tức là “không chỉ cho họ con cá mà tốt nhất là cho họ chiếc cần để họ tự câu cá” có như vậy thì người nghèo mới tự vươn lên để thoát khỏi cuộc sống đói nghèo. 1.2.3.1. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn và thanh niên vùng dân tộc thiểu số Những người nghèo đa số tập trung ở nông thôn và vùng dân tộc thiểu số. Trên thực tế thì tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn cao là do công việc mang tính mùa vụ hơn thế năng suất lao động thấp nên thu nhập thấp. Còn ở vùng dân tộc thiểu số do điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi và trình độ thấp nên thanh niên hầu như không có việc làm. Vì thế cần phải tạo ra việc làm cho họ để họ có thể chăm lo cho bản thân và gia đình. Có rất nhiều hình thức như: Cung cấp trang thiết bị, vốn, hướng dẫn kỹ năng lao động cho họ để họ có thể tự làm chủ và vươn lên khỏi tình trạng ban đầu; Cử cán bộ về tận xã nghèo, huyện nghèo để giảng dạy cho người dân chỉ khi nào họ biết cách trồng cây, chăn nuôi và làm thủy lợi thì khi đó năng suất mới tăng lên… Hiện nay chính phủ thực hiện chính sách giao đất, hỗ trợ lương thực, cây giống cho người dân tộc vùng cao để họ trồng rừng và vươn lên thoát nghèo. Đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn và thanh niên vùng dân tộc thiểu số đã nhanh chóng tạo ra việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp trên cả nước. Thông qua những chương trình tạo việc làm mang lại thu nhập ổn định cho người dân. 1.2.3.2. Trợ cấp giáo dục Những người nghèo là những người do trình độ học vấn nên ít có cơ hội tìm kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng tới các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh ảnh hưởng tới khả năng tới trường của con em các gia đình nghèo nhất và làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. Vì vậy, tạo cơ hội cho người dân được học tập, đặc biệt là con em của những gia đình nghèo là yếu tố đảm bảo cho người dân tự vươn lên trong cuộc sống. Dù có nhiều tiền nhưng không biết sử dụng như thế nào thì đồng tiền ấy cũng không thể phát huy tác dụng, để người nghèo có thể biết cách làm ăn và không tái nghèo trở lại chính sách trợ cấp giáo dục không thể thiếu. Hình thức hỗ trợ toàn bộ chi phí hoặc một phần cho con em gia đình nghèo được tới trường và tiếp nhận kiến thức, cấp miễn phí sách vở và đồ dùng học tập, có chính sách khen thưởng đặc biệt với con em gia đình nghèo. 1.2.3.3. Phát triển văn hóa thông tin và bảo tồn văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số Thông qua hệ thống phủ sóng phát thanh, truyền hình thì bà con ở vùng dân tộc và các xã nghèo, huyện nghèo đã tiếp thu được thông tin và kiến thức bổ ích. Xây dựng các nhà cộng đồng là nơi sinh hoạt văn hóa vui chơi cho mọi người đặc biệt là người nghèo. Đối với người nghèo các dân tộc ít người thì các chính sách càng được ưu tiên hơn để có thể bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Chỉ khi nào họ có đời sống tinh thần ổn định thì khi đó họ toàn tâm để vươn lên thoát nghèo mà không bị các thế lực xấu lôi kéo. 1.2.3.4. Xóa nhà dột nát và cung cấp nước sạch nâng cao đời sống cho người nghèo Người xưa có câu “an cư rồi mới lạc nghiệp” thế mà hầu như người nghèo lại là những người mà không có nhà ở hoặc nhà tranh, vách nứa. Vì thế cần xóa nhà dột nát cho người nghèo cho họ có nơi trú ngụ ổn định thì họ mới có thể yên tâm làm ăn và phấn đấu thoát nghèo. Có lẽ người nghèo cũng là người luôn phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm vì thế mà họ là nhóm người mắc bệnh trầm trọng nhất. Những năm gần đây, chính phủ thực hiện chương trình cung cấp nước sạch, xây dựng đường xá, mắc điện miễn phí… Các chương trình trên đã giúp cho người nghèo tiếp cận với điều kiện cơ bản để tiến hành làm ăn và vươn lên trong cuộc sống. 1.2.4. Kinh nghiệm một số nước 1.2.4.1. ASXH ở Trung Quốc Trung quốc là một nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới nhờ vậy mà các tầng lớp dân cư trong xã hội đã được chia sẻ thành quả này ở mức độ khác nhau. Không phải thế mà Trung Quốc lại không có hạn chế của mình, hiện nay vấn đề nổi cộm là: Tỷ lệ số hộ gia đình nông dân nghèo đói ở Trung Quốc còn khá cao ( khoảng 26%), dân cư ở những vùng đô thị mới còn nghèo, sức khỏe kém vì chi phí cho lĩnh vực y tế còn cao so với thu nhập của đại đa số người dân, tình trạng thất nghiệp diễn ra phổ biến cả ở nông thôn và thành thị, tình trạng nghèo đói ở nông thôn đã dẫn tới hiện tượng bỏ học gia tăng, cũng với thiên tai, tai nạn bất ngờ vẫn không hề có xu hướng giảm, tổ chức hệ thống ASXH còn yếu kém và thiếu hiệu quả khi chuyển sang cơ chế thị trường…Trước đây chính sách ASXH và hệ thống ASXH của Trung Quốc bao gồm 4 mảng lớn đó là: BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội và xóa đói giảm nghèo. Một mặt dân số quá đông và dân số chủ yếu tập trung ở nông thôn cho nên diện bảo vệ còn rất hạn hẹp. Nhà nước chủ yếu tập trung vào hai mảng chính là: BHXH và xóa đói giảm nghèo. Trong xu hướng hiện nay Trung Quốc chủ trương gắn các mạng lưới ASXH với phát triển kinh tế xã hội nhằm đa dạng hóa hệ thống ASXH, để thực hiện điều đó các giải pháp được đưa ra là: Phát triển chương trình tài chính vĩ mô để tạo thêm nhiều việc làm và từ đó giúp người dân tự lo liệu, tự bảo vệ mình và gia đình trước những biến đổi khó lường trong cuộc sống; Mở rộng mạng lưới BHYT xuống tận nông thôn, vùng sâu vùng xa, địa bàn hiểm trở; Tăng cường cung ứng các dịch vụ cộng đồng như: Dịch vụ BHYT, dịch vụ bảo hiểm thương mại, dịch vụ tài chính xuống tận các cơ sở xã phường; Đa dạng hóa hệ thống ASXH, xóa bỏ tình trạng tập trung hóa ở cấp trung ương như trước đây, coi việc tổ chức thực hiện ASXH là nghĩa vụ và trách nhiệm của cả trung ương và địa phương cũng như toàn xã hội; Đề cao vai trò của các doanh nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ trong việc thực hiện ASXH; Tiếp tục các hoạt động nghiên cứu về ASXH giúp Chính phủ không ngừng hoàn thiện và tổ chức tốt hệ thống ASXH trong điều kiện kinh tế thị trường. 1.2.4.2. ASXH ở Nhật Bản Sau khi thoát khỏi chiến tranh ASXH ở Nhật Bản bao gồm một loạt các chính sách xã hội có như: Bảo hiểm sức khỏe và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; Phòng ngừa các bệnh hiểm nghèo như ung thư, AIDS..; Chính sách lương hưu; Trợ cấp thu nhập; Dịch vụ cho người già; Trợ cấp người tàn tật; hỗ trợ cho trẻ em; Bảo hiểm việc làm và tai nạn lao động. Cơ quan chịu trách nhiệm thi hành và giám sát các chính sách ASXH nói trên là Bộ lao động, Sức khỏe và phúc lợi. Quá trình triển khai chính sách như sau Nhật Bản thi hành 4 đạo luật là: Bảo hiểm sức khỏe phổ thông, hệ thống lương hưu phổ thông, luật trợ cấp xã hội và Luật bảo hiểm việc làm. Bên cạnh chương trình BHXH bắt buộc còn thực hiện các chương trình khác như là: Chương trình trợ cấp công cộng nhằm duy trì mức thu nhập tối thiểu cho người nghèo; Các chương trình phúc lợi xã hội dành cho người già trẻ em và người tàn tật; Chương trình cứu trợ xã hội nhằm giúp những người không may gặp phải thiên tai, tai nạn bất ngờ để khắc phục hậu quả… 1.2.4.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Hiện nay chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam gồm ba trụ cột chính là chính sách thị trường lao động tích cực là chiến lược phòng ngừa; Bảo hiểm xã hội là chiến lược giảm nhẹ; Trợ giúp xã hội là chiến lược đối phó lâu dài. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh thực hiện an sinh xã hội cho nhóm người yếu thế dễ bị tổn thương và người nghèo nhất. Qua chính sách ASXH của hai nước Việt Nam rút ra bài học: Một là, xây dựng chính sách an sinh xã hội cho mọi người dân trên cơ sở có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng tránh thất thoát nguồn lực; Xác định đúng và đủ đối tượng được trợ cấp đồng thời trợ cấp mang tính kịp thời; Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cùng tham gia vào chương trình an sinh xã hội để có được nguồn kinh phí dồi dào đồng thời nâng cao nhận thức của mọi người dân về tầm quan trọng của hệ thống an sinh xã hội. Phải thường xuyên nâng cao nhận thức cho các cấp các ngành và mọi người dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, cũng như chủ trương chính sách, giải pháp xoá đói giảm nghèo của Chính phủ, để chính địa phương nghèo, gia đình nghèo phải có ý chí quyết tâm phấn đấu thoát nghèo, không cam chịu đói nghèo, từ đó xem gia đình nghèo cần có sự giúp đỡ gì của Nhà nước, của cộng đồng thì việc trợ giúp đó mới hiệu quả, mới thiết thực. Hai là, xã hội hoá các hoạt động xoá đói giảm nghèo, tạo ra phong trào xoá đói giảm nghèo sôi động trong cả nước, huy động được sự tham gia của các cấp, các ngành, sự chia sẻ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc trợ giúp người nghèo và sự đồng thuận với các tổ chức quốc tế trong việc tiếp cận và giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta. Xoá đói giảm nghèo vươn lên khá giả làm giàu không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà trước hết thuộc về từng cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng và trách nhiệm của toàn xã hội. Ba là, phải thiết lập được cơ chế phân bổ ngân sách công bằng, minh bạch (có tiêu chí rõ ràng) và có tính khuyến khích cao, tạo điều kiện cho các địa phương chủ động trong việc huy động nguồn lực tại chỗ cũng như lồng ghép với các nguồn khác, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình. Phải tăng cường kiểm tra việc sử dụng nguồn lực bảo đảm sử dụng đúng mục tiêu, đúng đối tượng, không thất thoát. Bốn là, thực hiện phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương, cơ sở trong quá trình thực hiện chương trình. Các bộ, ngành Trung ương có nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng tiêu chí, chương trình, cơ chế, chính sách, lập kế hoạch tổng thể; chính quyền địa phương chịu trách nhiệm phân bổ nguồn lực và thực hiện thực hiện. Phân cấp phải đi đôi với nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở, tăng cường sự tham gia của người dân, đặc biệt là người nghèo, phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHÈO Ở TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2001 - 2008 2.1. Giới thiệu tổng quan về Thái Nguyên 2.1.1. Vị trí địa lý Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nằm ở vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên là 3.562,82 km2, bằng 1,08% diện tích cả nước và hơn 1 triệu người dân sinh sống với tám dân tộc anh em. Về đơn vị hành chính, sau khi chia tỉnh theo quyết định của kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX Thái Nguyên có 7 huyện, một thành phố và một thị xã, với tổng số 180 xã, phường và thị trấn, trong đó có 14 xã vùng cao, 106 xã vùng núi, còn lại là các xã trung du và đồng bằng. Tỉnh Thái Nguyên giáp với Thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc ở phía Nam, Bắc Kạn ở phía Bắc, Tuyên Quang ở phía Tây, Bắc Giang và Lạng Sơn ở phía Đông. Với vị trí thuận lợi, Thái Nguyên là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ và là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng Trung du miền núi Bắc Bộ với đồng bằng Bắc Bộ. Sự giao lưu này được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình dẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên làm đầu mối. Đường quốc lộ số 3 từ Hà Nội lên Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc toàn bộ tỉnh Thái Nguyên chạy qua thành phố Thái Nguyên là cửa ngõ phía Nam nối Thái Nguyên với Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, với các tỉnh khác trong cả nước, đồng thời còn là cửa ngõ phía Bắc qua tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn lên Cao Bằng thông sang biên giới Trung Quốc. Các quốc lộ 37, 1B cùng với hệ thống tỉnh lộ, huyện lộ là những mạch giao thông quan trọng nối Thái Nguyên với các tỉnh xung quanh. Tuyến đường sắt Hà Nội - Quán Triều, Lưu Xá - Kép - Đông Triều nối với khu công nghiệp Sông Công, khu Gang Thép và thành phố Thái Nguyên. Vị trí này đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho Thái Nguyên trở thành trung tâm kinh tế vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, nhất là sau khi tuyến đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên được xây dựng xong. 2.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001 - 2008 2.1.2.1. Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Là một tỉnh đầu tàu của vùng Trung Du miền núi Bắc Bộ, kinh tế của tỉnh được đánh giá là khá phát triển trong giai đoạn 2001 - 2008 với sự thay đổi của GDP và cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần đưa tỉnh nhà hòa chung vào xu hướng hội nhập nền kinh tế quốc tế và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế cả nước. Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế theo giá so sánh năm 1994 và giá thực tế giai đoạn 2001 - 2008 Đơn vị: Triệu đồng Năm GDP theo giá so sánh năm 1994 GDP theo giá thực tế 2001 2.653.600 2.897.365 2002 2.895.413 3.516.327 2003 3.164.598 4.404.597 2004 3.449.954 5.480.791 2005 3.773.031 6.587.382 2006 4.193.490 8.022.083 2007 4.716.170 10.062.648 2008 5.234.783 13.314.196 (Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Nguyên) Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 2001 - 2008 Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 TĐTT 8,78 8,83 8,99 9,02 9,36 11,14 12,46 11,00 (Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Nguyên) Trong những năm qua, kinh tế Thái Nguyên đã có bước phát triển tương đối toàn diện và liên tục tăng trưởng với tốc độ khá. Tổng GDP của tỉnh năm 2008 đạt 5.234,783 tỷ đồng( theo giá so sánh năm 1994) tương đương với 13.314,196 tỷ đồng theo giá hiện hành. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2008 có xu hướng tăng và bình quân hàng năm đạt 9,95%. Năm 2007 có tốc độ tăng trưởng đột biến lên tới 12,46% điều đó là do việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh. Năm 2008 do tình hình kinh tế trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp theo chiều hướng không thuận lợi nên tốc độ tăng trưởng giảm đi còn 11%. Trong kế hoạch đặt ra của tỉnh thì những năm tiếp theo sẽ tăng tốc độ tăng trưởng để ổn định đời sống nhân dân và giữ vững vị trí đầu tàu của vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của Thái Nguyên giai đoạn 2001-2008 khá cao (8,45%), tuy nhiên mức thu nhập bình quân đầu người vẫn còn thấp hơn so với mức trung bình của cả nước. Một số ngành, sản phẩm mũi nhọn có sự phát triển tương đối nhanh, vững chắc. Những sản phẩm chủ lực của tỉnh như thép, xi măng, giấy… có tốc tăng trưởng cao, một số sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp của Thái Nguyên có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Giá trị tăng thêm và giá trị xuất khẩu của sản phẩm chế biến tăng nhanh đóng góp vào sự tăng trưởng của cả tỉnh và tạo sự phát triển bền vững. Bảng 2.3: Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của Thái Nguyên giai đoạn 2001 - 2008 Đơn vị: % Năm Tổng GDP Công nghiệp xây dựng Nông, lâm ngư nghiệp Thương mại dịch vụ 2001 100 34,77 34,55 30,68 2002 100 36,63 33,35 30,02 2003 100 36,74 31,50 31,76 2004 100 37,53 30,54 31,92 2005 100 38,64 26,54 34,82 2006 100 38,76 24,72 36,52 2007 100 39,54 24,00 36,46 2008 100 39,21 24,17 36,62 (Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Nguyên) Biểu 2.1: Biểu đồ cơ cấu GDP của Thái Nguyên năm 2008 Từ năm 2001-2008, xu hướng chuyển dịch của tỉnh là tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại- dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Thái Nguyên là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công nhiệp- xây dựng. Ngành đã đóng góp nhiều nhất cho GDP của tỉnh xét năm 2008 tỷ trọng trong GDP là 39,21% cao hơn thương mại-dich vụ là 2,59% và nông, lâm, ngư nghiệp là 15,04%. Tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng liên tục tăng qua các năm, từ 34,77% năm 2001 lên 39,21% năm 2008 (tốc độ tăng bình quân hàng năm của ngành công nghiệp là 23,21%). Tương tự, tỷ trọng GDP của ngành thương mại- dịch vụ trong những năm gần đây cũng có dấu hiệu thay đổi tích cực. Cơ cấu GDP ngành thương mại - dịch vụ tăng từ 30,68% năm 2001 lên 34,62% năm 2005 và lên tới 36,62% năm 2008 (tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành thương mại đạt 22,64%). Cơ cấu thành phần kinh tế đang chuyển dịch theo đúng qui luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng khá nhanh và gia tăng dần tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân vẫn còn mang tính tự phát, qui mô còn nhỏ bé, vốn và lao động ít, hiệu quả kinh tế chưa cao. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển còn chậm. 2.1.2.2. Thực trạng phát triển xã hội Qui mô dân số Thái Nguyên năm 2008 là 1.142.425 người. Tốc độ tăng dân số Thái Nguyên giai đoạn 2001-2008 thấp (0,978%/năm) và có xu hướng ổn định. Tỷ lệ dân số theo giới tính của tỉnh không có biến động nhiều. Xu hướng trong khoảng 10-15 năm sau sẽ tăng dân số nam và giảm dân số nữ. Tỷ lệ dân số thành thị tăng chậm qua các năm, năm 2008 tỷ lệ dân số thành thị đạt 24,17% tổng dân số. Chất lượng dân số ngày càng được cải thiện, tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số thuộc độ tuổi 15-35 đạt 99,5% và từ 36 tuổi trở đạt 98,9%. Các chỉ số về thể lực như: chiều cao, cân nặng có nhiều tiến bộ qua các năm. Sự nghiệp giáo dục đào tạo tiếp tục được quan tâm và phát triển. Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho dạy và học ngày càng được cải thiện, nâng cấp, công tác giáo dục vùng sâu, vùng xa được quan tâm nhiều hơn. Hầu hết các xã đã có trường tiểu học và trung học cơ sở. Năm 2008, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo đạt 82%, 100% số xã/phường đã đạt và giữ vững tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi theo tiêu chuẩn quốc gia, có 80% số xã/ phường đật tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Đội ngũ giáo viên ngày càng được hoàn thiện về chất lượng và số lượng. Đến nay, tỷ lệ giáo viên mầm non đạt chuẩn là 91,15%, giáo viên tiểu học là 97,02%, giáo viên trung học cơ sở là 97,16%, giáo viên trung học phổ thông là 95,12%. Công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng được tăng cường. Thái Nguyên đóng vai trò quan trọng của vùng trung du miền núi Bắc Bộ trong lĩnh vực đào tạo Đại học, Trung học và Dạy nghề. Với hệ thống giáo dục đào tạo dạy nghề phong phú cả về số lượng và cấp trình độ. Trong giai đoạn 2001-2008 đã đào tạo bình quân hàng năm khoảng trên 21 vạn lao động, cung cấp lao động có chuyên môn kỹ thuật cho không những trong tỉnh mà còn cho tỉnh khác, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội của tỉnh trong thời gian qua cũng như tạo tiền đề cho thành công của thời kỳ tới. Về y tế, hiện tại trên địa bàn tỉnh có 212 cơ sở y tế với trên 3.500 giường bệnh, cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. Trong số này có 16 bệnh viện và 14 phòng khám đa khoa khu vực. Hầu hết các chỉ tiêu y tế của tỉnh được cải thiện rõ rệt trong những năm qua và cao hơn mức bình quân của toàn vùng. Hoạt động văn hóa thể thao, thông tin tuyên truyền rộng khắp và có chiều sâu hơn so với trước đây. Công tác thông tin có hiệu quả, hoạt động phát thanh truyền hình đã bám sát các nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh và địa phương để tổ chức tuyên truyền được cải tiến cho phù hợp, chất lượng, nội dung thông tin ngày càng được nâng cao. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư được đẩy mạnh. Hết năm 2008, có trên 50% số làng bản đạt tiêu chuẩn làng bản văn hóa và trên 85% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Hầu hết các xã /phường/ thị trấn trong tỉnh đều có địa điểm hoạt động vui chơi, giải trí, điểm bưu điện văn hóa… góp phần làm phong phú đời sống tinh thần cho nhân dân địa phương. Hệ thống dịch vụ thông tin liên lạc phát triển nhanh chóng, toàn bộ các huyện/thị trong tỉnh đều đã có bưu cục huyện/thị, 100% các xã có Bưu điện văn hóa xã. Mạng lưới bưu chính viễn thông đã phủ kín toàn tỉnh, các dịch vụ viễn thông hiện đại được đưa vào và sử dụng rộng rãi. 2.1.3. Cơ sở hạ tầng 2.1.3.1. Hệ thống đường xá Thái Nguyên là một tỉnh có hệ thống đường giao thông khá đầy đủ là điều kiện tốt cho việc giao lưu kinh tế và văn hóa giữa nhân dân trong tỉnh và các vùng lân cận. Tổng chiều dài đường bộ là 2.753 km trong đó đường quốc lộ là 183 km; tỉnh lộ là 105,5 km; huyện lộ là 659 km; đường liên xã là 1764 km. Các đường tỉnh lộ và quốc lộ được dải nhựa và hàng năm có chi thường xuyên để tu bổ và bảo trì họat động. Hệ thống Quốc lộ và tỉnh lộ phân bố khá hợp lý trên địa bàn tỉnh, phần lớn các đường đều xuất phát từ trục dọc quốc lộ 3 đi trung tâm các huyện lỵ, thị xã, các khu kinh tế, vùng mở, khu du lịch và thông với các tỉnh lân cận. Quốc lộ 3 từ Hà Nội lên Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc toàn bộ tỉnh Thái Nguyên, chạy qua thành phố Thái Nguyên, nối Thái Nguyên với Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Các quốc lộ 37, 18, 259 cùng với hệ thống tỉnh lộ, huyện lộ là mạch máu giao thông quan trọng và thuận lợi nối Thái Nguyên với các tỉnh xung quanh. Vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt dự án đầu tư đường cao tốc quốc lộ 3 từ Nội Bài lên Thái Nguyên và tuyến đường tránh thành phố Thái Nguyên (đường lên Bắc Kạn, Cao Bằng), dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2009. Hệ thống đường sắt từ Thái Nguyên đi các tỉnh khá thuận tiện; đảm bảo phục vụ vận chuyển hành khách và hàng hóa với các tỉnh trong cả nước. Gồm có: Tuyến đường sắt Hà Nội - Quán Triều chạy qua tỉnh nối Thái Nguyên với Hà Nội; Tuyến đường sắt Lưu Xá - Khúc Rồng nối với tuyến đường sắt Hà Nội -Quán Triều, tuyến đường sắt này cũng nối tỉnh Thái Nguyên với tỉnh Bắc Ninh (đến Ga kép) và tỉnh Quảng Ninh. Tuyến đường sắt Quán Triều - Núi Hồng rất thuận tiện cho việc vận chuyển khoáng sản. Hệ thống đường thủy, Thái Nguyên có 2 tuyến đường sông chính là: Đa Phúc - Hải Phòng dài 161 km; Đa Phúc - Hòn Gai dài 211 km. Trong tương lai sẽ tiến hành nâng cấp và mở rộng mặt bằng cảng Đa Phúc, cơ giới hóa việc bốc dỡ, đảm bảo công suất bốc xếp được 1.000 tấn hàng hóa/ngày đêm. Ngoài ra, Thái Nguyên có hai con sông chính là Sông Cầu và sông Công sẽ được nâng cấp để vận chuyển hàng hóa. 2.1.3.2. Hệ thống điện, bưu chính viễn thông và ngân hàng Nằm trong hệ thống lưới điện miền Bắc, Thái Nguyên là tỉnh có lưới điện tương đối hoàn chỉnh. Toàn bộ các huyện trong tỉnh đều có lưới điện quốc gia, trong đó thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các thị trấn, huyện có lưới điện hoàn chỉnh, đáp ứng tốt cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Và có hệ thống thông tin viễn thông kết nối với toàn quốc và quốc tế với mạng truyền dẫn vững chắc bằng thiết bị vi ba và tổng đài điện tử - kỹ thuật số. Với tổng đài 27.000 số hiện nay đã đạt dung lượng 18.000 thuê bao đã giúp cho nhu cầu trao đổi thông tin liên lạc diễn ra thuận tiện và thông suốt. Những năm gần đây, hệ thống ngân hàng liên tục mở rộng ngoài các ngân hàng nhà nước như ngân hàng Công thương, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, ngân hàng Phát triển, ngân hàng Đầu tư còn có ngân hàng tư nhân như ngân hàng Nam Việt, ngân hàng Quốc Tế… Sự phát triển hệ thống ngân hàng một mặt đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp, các cá nhân tổ chức đặc biệt người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn mặt khác nó thu hút nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội, và kiểm tra thu nhập của công chức nhà nước qua hệ thống trả lương qua tài khoản. Chắc chắn sự phát triển của nền kinh tế không thể thiếu hệ thống ngân hàng vững mạnh và làm ăn có hiệu quả. 2.2. Thực trạng đói nghèo và xóa đói giảm nghèo ở Thái Nguyên giai đoạn 2001 - 2008 2.2.1. Tỷ lệ nghèo và giãn cách giàu nghèo ở tỉnh Thái Nguyên 2.2.1.1. Tỷ lệ nghèo và số hộ thoát nghèo Đói nghèo được thể hiện rõ nhất qua tỷ lệ nghèo và số hộ thoát nghèo. Những năm vừa qua, cùng với sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh và sự phối kết hợp của cán bộ làm công tác giảm nghèo đã làm cho chương trình xóa đói giảm nghèo luôn diễn ra đúng tiến độ và có những năm còn hoàn thành vượt trước kế hoạch đặt ra. Bảng 2.4: Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001-2008 Đơn vi: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tỷ lệ hộ nghèo 14,91 12,35 9,97 7,23 4,68 23,74 20,69 17,74 ( Nguồn: Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên) Biểu 2.2: Biểu đồ tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001-2008 (%) Kết quả hoạt động của công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005 rất đáng khích kệ, tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo chung của tỉnh bình quân hàng năm là 17,15%. Nếu như năm 2001 là 14,91% thì giảm xuống còn 4,68% vào năm 2005 (theo chuẩn cũ), số hộ nghèo giảm nhanh đồng thời số hộ thoát nghèo tăng đáng kể làm cho đời s._.vực giáo dục tiểu học, có biện pháp hỗ trợ kịp thời cho các gia đình có con em học tiểu học ở các vùng bị rủi ro (mất màu, thiên tai…) để giảm bớt khó khăn cho các gia đình và hạn chế tình trạng con em bỏ học, từng bước quan tâm tới học sinh nghèo ở các cấp cao hơn. 3.3.1.2. Bảo vệ môi trường duy trì cuộc sống trong lành cho người nghèo Thực hiện chiến lược quốc gia về môi trường, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường đảm bảo cho mọi người dân đều được sống trong môi trường trong sạch và lành mạnh. Chủ động lồng ghép vấn đề cải thiện môi trường vào trong các kế hoạch, chương trình dự án và coi đó là một tiêu chí để đánh giá các giải pháp phát triển. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong việc bảo vệ môi trường và duy trì cuộc sống lành mạnh cho người nghèo. Không ngừng cải thiện chất lượng môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Chú trọng tăng cường đa dạng sinh học ở các vùng nghèo đảm bảo tạo nguồn tài nguyên cho các hoạt động sản xuất của dân cư, nhất là người nghèo. Nâng cao chất lượng nước, tăng tỷ lệ người dân được cung cấp nước sạch, bảo đảm có khoảng 85% dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh với số lượng nước 60lít/người/ngày. Ưu tiên giải quyết nước sạch cho những vùng thiếu nước và gặp khó khăn, chống cạn kiệt và ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ chất lượng nguồn nước mặt, nước ngầm. 3.3.1.3. Xây dựng chính sách hướng nghiệp và tạo việc làm cho người nghèo Cải thiện thị trường lao động của người lao động nghèo, nhóm yếu thế trong thị trường lao động, đặc biệt là đối với vấn đề đào tạo. Giải quyết tốt vấn đề lao động dôi dư. Dần dần từng bước áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho lao động nghèo. Nâng cao số lượng và chất lượng việc làm, đặc biệt là việc làm trong khu vực ngoài nhà nước. Hoàn thiện Bộ luật Lao động để thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động. Bảo đảm an toàn việc làm, chống sa thải tùy tiện, bảo đảm việc làm ổn định với mức thu nhập ngày càng tăng và điều kiện lao động, nhất là cho lao động nữ, ngày càng được cải thiện. Giảm tai nạn lao động, bảo đảm công bằng nam nữ trong tuổi về hưu, tránh tình trạng sử dụng “về hưu sớm” làm công cụ giải quyết lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước. Thúc đẩy chính sách xuất khẩu lao động là người nghèo ra nước ngoài để nâng cao thu nhập và cải thiện kỹ năng làm việc. Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề, mở các lớp bổ túc văn hóa và trình độ tiếng anh cho người nghèo, tích cực tư vấn hướng nghiệp để người nghèo tìm cho mình công việc phù hợp nhất. 3.3.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, kế hoạch hóa gia đình, tăng khả năng tiếp cận và giảm gánh nặng chi phí y tế cho người nghèo Tăng cường củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở để tăng khả năng tiếp cận của người nghèo đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đến các dịch vụ y tế cơ bản, bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế đồng thời đổi mới phương thức hoạt động của ban chăm sóc sức khỏe cơ sở, quản lý tốt lực lượng y tế ngoài công lập. Tăng cường cán bộ y tế cho các vùng nghèo đảm bảo 100% số xã/phường có trạm y tế, 80% số xã có bác sỹ và 100% thôn bản có nhân viên y tế cơ sở. Mở rộng hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, ưu tiên đào tạo cán bộ dân tộc ít người tại chỗ cho vùng khó khăn…xây dựng chính sách đãi ngộ thích hợp về lương, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, phụ cấp tiền trực, ưu đãi trong đào tạo để khuyến khích cán bộ y tế làm việc ở khu vực vùng sâu, vùng xa vùng còn thiếu. Có chính sách, giải pháp thích hợp để giảm gánh nặng chi phí cho người nghèo khi phải đi khám và điều trị bệnh. Nhà nước và địa phương bảo đảm có đủ ngân sách để thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo như: miễn giảm phí dịch vụ khám chữa bệnh, mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật; thực hiện tốt chính sách miễn viện phí đối với đồng bào dân tộc ít người và trẻ em dưới 6 tuổi. Cấp miễn phí các loại thuốc thông thường để điều trị các bệnh xã hội (sốt rét, bướu cổ, phong, lao, tâm thần) và các vắc-xin xơ bản phòng bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi và tuyên truyền tác dụng của việc phòng bệnh và cách phát hiện bệnh tật cho trẻ. Coi việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và giảm tỷ lệ sinh, tảo hôn sớm là một trong những biện pháp quan trọng nhằm xóa đói giảm nghèo. Chú trọng công tác tuyên truyền thông tin về kế hoạch hóa gia đình cho các cặp vợ chồng ở độ tuổi có mức sinh cao đặc biệt là cho nam giới. Từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư, lồng ghép các mục tiêu phát triển dân số vào kế hoạch phát triển. Có chính sách miễn, giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo. Giảm mức tiền đóng thẻ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội để khuyến khích người nghèo sử dụng thẻ bảo hiểm. Kiểm soát giá và chất lượng thuốc, không để tình trạng thuốc lậu, gía cao làm ảnh hưởng đến việc chữa trị điều trị bệnh. Khuyến khích sử dụng thuốc nội đủ chất lượng thay cho thuốc ngoại. Cấp phát miễn phí hoặc giảm giá cho người nghèo đối với một số loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị. 3.3.3. Tăng cường huy động nguồn lực cho các chính sách an sinh xã hội 3.3.3.1. Huy động các nguồn lực trong tỉnh và ngoài tỉnh Tăng nguồn lực cho chương trình giảm nghèo và chương trình 135 theo chỉ thị 04/2007/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt ưu tiên cho các huyện nghèo và hộ rất nghèo. Tổ chức thực hiện chế độ trợ giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định của Nghị định 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ và quyết định số 08/QĐ-UBND của UBND tỉnh. Nghiên cứu điều chỉnh chuẩn nghèo và trợ cấp xã hội phù hợp để áp dụng cho giai đoạn tiếp theo. Điều chỉnh hợp nhất lộ trình tăng lương theo đề án cho cán bộ công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp hỗ trợ thiết thực cải thiện dời sống vật chất cho người lao động nhất là lao động nghèo và gia đình gặp nhiều khó khăn. Tạo điều kiện cho các cá nhân cũng như gia đình nghèo có điều kiện vươn lên trong cuộc sống. Huy động nguồn lực theo cơ chế đa nguồn, ngoài nguồn kinh phí hỗ trọ của ngân sách trung ương bố trí thì ngân sách địa phương phải bố trí tối thiểu là 1% tổng chi ngân sách hàng năm của địa phương để thực hiện chương trình; huy động các doanh nghiệp, cộng đồng, hộ gia đình và cá nhân, vận động tài trợ quốc tế của các tổ chức đa phương, song phương và phi chính phủ. Về phân bổ nguồn lực, tập trung ưu tiên nguồn lực cho các xã miền núi, có tỷ lệ nghèo đói cao và đảm bảo công bằng giữa các huyện có điều kiện ngang nhau. Đối với nguồn vốn cấp từ ngân sách tỉnh và ngân sách Trung Ương: Trong qúa trình soạn lập ngân sách hàng năm, Tỉnh Thái Nguyên cần đưa vào các khoản chi dành cho an sinh xã hội. Các khoản chi này được ước tính trên cơ sở số người thụ hưởng đối với mỗi chương trình an sinh xã hội và cần một kế hoạch chi tiêu phải đảm bảo phân bổ nguồn lực để các chương trình an sinh xã hội được thực hiện liên tục. Tỷ trọng chi cho an sinh xã hội nên chiếm khoảng 1 % tổng chi ngân sách hàng năm của tỉnh. Tổng kết và lập báo cáo cụ thể về tình hình nghèo ở địa phương, trình lên Trung Ương xin cấp thêm kinh phí thực hiện an sinh xã hội cho người nghèo. Cần có sự trình bày rõ ràng về tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương so với cả nước và thực trạng đói nghèo để Chính Phủ có sự ưu tiên phân bổ nguồn vốn cho các chương trình an sinh xã hội của tỉnh. Đối với các khoản đóng góp của doanh nghiệp: Tỉnh Thái Nguyên phải có cơ chế giám sát việc các doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện đầy đủ các chế độ về an sinh xã hội đối với người lao động, cụ thể là bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, và cac loại trợ cấp: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp ốm đau, thai sản… Sở Lao động và Thương binh xã hội định kỳ hàng tháng kiểm tra việc đóng bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp. Cuối năm kiểm tra bảng cân đối kế toán của các doanh nghiệp để nắm rõ liệu doanh nghiệp có thực hiện đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm cho người lao động không. Truy thu và có hình thức xử lý hành chính đối với doanh nghiệp không đóng góp đầy đủ. Yêu cầu doanh nghiệp thực hiện trợ cấp ba tháng lương khi chấm dứt hợp đồng với người lao động cùng với cac khoản trợ cấp ốm đau, mất sức, thai sản… Lập bộ phận tiếp nhận các đơn thư phản ánh của người lao động về các chế độ trợ cấp của doanh nghiệp và xử lý nhằm bảo vệ quyền lợi của họ. Ngoài ra, tỉnh cần tích cực liên hệ với các tổ chức phi chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam như UNDP, DFID, Danida… để tìm kiếm tài trợ cho an sinh xã hội. Hoặc tổ chức các chương trình gây quỹ ủng hộ người nghèo, trẻ em đồng bào bị thiên tai bão lụt… 3.3.3.2. Huy động thông qua các chương trình cụ thể Đề nghị Ủy ban mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội phối hợp với các ngành liên quan và các doanh nghiệp tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Xây nhà đại đoàn kết” cho hộ nghèo. Xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động gây quỹ “Vì người nghèo”; đẩy mạnh xây dựng mạng lưới “Tổ tiết kiệm - tín dụng”; “Tổ tương trợ”; quỹ tín dụng cho người nghèo, người có thu nhập thấp và nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả. Các cơ quan tổ chức đóng góp một ngày lương để ủng hộ người nghèo, hay mua vé số,… Khuyến khích các doanh nghiệp lớn và làm ăn có lãi nhận giúp đỡ một xã nghèo để họ có đầu tư trọng điểm vào xã đó để thoát nghèo bền vững. Hàng năm, tổ chức chương trình vì người nghèo để huy động được sự đóng góp và lòng hảo tâm của mọi người trong tỉnh và ngoài tỉnh. Ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp,… tổ chức chương trình thanh niên tình nguyện, mùa hè xanh đi về các xã nghèo để có điều kiện giúp bà con làm ăn sản xuất, dạy chữ cho trẻ em nghèo, đồng thời qua đó nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng niềm tin trong nhân dân. Tăng đầu tư và ngân sách cho việc thực hiện có hiệu quả chính sách và các chương trình mục tiêu về an sinh xã hội như việc làm, phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề, xuất khẩu lao động và chuyên gia; an toàn vệ sinh lao động; giảm nghèo; hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn; nâng cao mức sống của người có công; chương trình trợ giúp người cao tuổi, chương trình chăm sóc thay thế trẻ em đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng; chương trình trợ giúp người tàn tật; chương trình phòng chống tệ nạn xã hội. Để đảm bảo việc thực hiện các chính sách và chương trình an sinh xã hội đã ban hành, Chính phủ ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn và tăng dự trữ, dự phòng; đồng thời xây dựng cơ chế thực thi và chỉ đạo kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện, đảm bảo nguồn hỗ trợ của nhà nước kịp thời, đúng đối tượng và hiệu quả, không để thất thoát, lãng phí. 3.3.4. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong các chương trình an sinh xã hội Xây dựng hệ thống chỉ tiêu theo dõi, giám sát và đánh giá đồng bộ, phù hợp. Hoàn thiện và đổi mới phương thức quản lý, hoạt động của hệ thống sự nghiệp cung cấp dịch vụ an sinh xã hội theo hướng tự chủ và tự chịu trách nhiệm,chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ công và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng; đảm bảo cho sự phát triển bền vững lĩnh vực an sinh xã hội. Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành và thực hiện các chính sách, chương trình an sinh xã hội. Phát triển công tác xã hội thành một nghề chuyên nghiệp và nâng cao năng lực cán bộ theo hướng chuyên môn hóa để tư vấn, hỗ trợ và tham gia chăm sóc đối tượng tại cộng đồng. Đưa công nghệ thông tin vào hoạt động điều hành hệ thống an sinh xã hội trước hết là quản lí đối tượng và chi trả chế độ trợ cấp. Sẵn sàng tiếp nhận đơn thư, phản ánh của người dân và có lịch làm việc cụ thể sau khi đã tiếp nhận đóng góp. Sau đó cán bộ có chức năng thẩm quyền phải có nghĩa vụ giải đáp thắc mắc trong thời gian ngắn nhất. Nếu cán bộ cấp xã không giải quyết được thì gửi tới cấp huyện, cấp tỉnh. Chỉ khi nào bà con nhân dân thấy rằng chương trình thực sự dành cho mình, vì mình thì khi đó họ mới tự ý thức vươn lên và giám sát chặt chẽ ngăn chặn thất thoát về mọi mặt. Trong quá trình thực hiện để tiện cho người dân giám sát và đánh giá cần công khai số tiền chi tiêu trong các dự án. Lập kế hoạch rõ ràng cụ thể với số tiền được phân bổ để thấy rõ được đã hoàn thành chỉ tiêu tới đâu và có phương án cho tình huống phát sinh. Nên dán chi tiêu cụ thể trước Ủy ban nhân dân xã một cách công khai để người dân tiện theo dõi. Chỉ khi nào người dân thấy được trách nhiệm của mình và giám sát là việc có ích cho mình thì khi đó tính hiệu quả mới được nâng cao. Chính vì người nghèo là người có trình độ không cao do vậy làm việc gì cũng cần chi tiết, cụ thể và hướng dẫn nhiệt tình tỉ mỉ thì họ mới tiếp thu và thực hiện đúng. Đổi mới việc chi trả cung cấp dịch vụ: Nhà nước sẽ trực tiếp chi trả phí dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề cho người nghèo hoặc trả thay cho người nghèo đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ kể cả công lập và ngoài công lập, để nâng cao chất lượng các dịch vụ và bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ. Vì thế khi bị bệnh tật người nghèo có thể đến bất cứ cơ sở nào khiến cho chi phí đi lại giảm bớt và họ yên tâm là được chữa bệnh mà không lo tới chi phí. Việc thực hiện công bằng trong cách tiếp cận dịch vụ là điều hoàn toàn mới và có hiệu quả cao. Khi người nghèo cảm thấy họ được đối xử công bằng thì học có trách nhiệm với bản thân và chăm lo tới sức khỏe của mình một cách tốt nhất. 3.3.5. Nâng cao công tác tổ chức và năng lực của cán bộ làm công tác an sinh xã hội Thành lập Ban chỉ đạo của Tỉnh thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo 2006-2010 để thực hiện nốt nhiệm vụ hai năm 2009-2010 và đưa ra kế hoạch giai đoạn 2011-2015. Sở Lao động thương bình và xã hội là cơ quan trực tiếp điều phối thực hiện chương trình trên địa bàn. Kiện toàn ban chỉ đạo và cơ quan giúp ban chỉ đạo làm công tác giảm nghèo từ cấp Tỉnh tới cấp xã, hình thành hệ thống cơ quan giúp việc chuyên trách ở cấp tỉnh, huyện và cán bộ chuyên trách ở cấp xã. Bố trí cán bộ chuyên trách về giảm nghèo ở cấp xã nhất là các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo, đây là yếu tố quan trọng để thực hiện mục tiêu của chương trình và đưa các chính sách vào cuộc sống. Để nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác an sinh xã hội thì ngay khâu chọn người nên lấy cán bộ có trình độ và ưu tiên người xuất thân từ xã nghèo, huyện nghèo. Vì an sinh xã hội là một vấn đề mới nên cần tổ chức lớp học trang bị kiến thức và hướng dẫn quy trình thủ tục thực hiện. Khi cán bộ từ cấp xã đã làm tốt thì chương trình mới thực sự tới người dân và các chính sách mới phát huy hết hiệu quả của nó. Hơn nữa cần bổ sung kinh phí để có chế độ khen thưởng và tăng lương cho cán bộ có thành tích tốt trong công tác thực hiện chương trình. Nâng cao học vấn cũng như tư cách đạo đức của cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo để học hiểu việc, yêu việc và gắn bó với công việc tránh trường hợp đang làm thì bỏ dở gây ảnh hưởng tới tiến độ của chương trình. 3.3.6. Các biện pháp nâng cao nhận thức về an sinh xã hội 3.3.6.1. Xây dựng chiến lược nâng cao nhận thức về an sinh xã hội Để người dân nói chung và các bên liên quan đến hoạt động an sinh xã hội nói riêng có nhận thức đầy đủ về an sinh xã hội thì cần xây dựng một kế hoạch chiến lực nâng cao nhận thức mang tính toàn diện và dài hạn: Trước hết, khi xây dựng kế hoạch cần chú ý cân nhắc các loại thông tin hữu ích nhất và cách thức để có thể đưa ra thông tin đó một cách rõ ràng, cân đối, có hướng đích và hiệu quả nhất; Phải liên kết được sự tham gia của tất cả các bên có trách nhiệm là: Nhà nước, các tổ chức chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội và cộng đồng các cá nhân, tổ chức đoàn thể trong xã hội. Nhìn chung, khi xây dựng và thực hiện kế hoạch này,nhà nước thường chỉ giữ vai trò định hướng và hỗ trợChawngr hạn, nhà nước tạo ra một hành lang pháp lí chặt chẽ hơn để kế hoạch có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Trong kế hoạch nâng cao nhận thức về ASXH cần làm rõ và nhấn mạnh vai trò chính của các cơ quan quản lí hoạt động an sinh xã hội. Nội dung của kế hoạch nâng cao nhận thức về ASXH cần xác định các phương thức để khuyến khích nhưng người khác trong cộng đồng đóng góp vào kiến thức và sự hiểu biết của công chúng về ASXH, nhất là các tổ chức đại diện cho người lao động và người sử dụng lao động. Các cá nhân và tổ chức trong giới nghiên cứu cũng có thể tham gia tích cực vào kế hoạch này qua việc đề xuất và thực hiện các khóa đào tạo, các đề án nghiên cứu về các vấn đề ASXH. Về lâu dài, chính đóng góp củ giới nghiên cứu sẽ làm tăng mức độ hiểu biết về ASXH. 3.3.6.2. Thực hiện tuyên truyền giáo dục về an sinh xã hội Chiến dịch truyền thông là một trong những biện pháp thông thường để thực hiện tuyên truyền giáo dục cộng đồng về ASXH. Biện pháp này rất thích hợp khi có các chương trình ASXH mới hoặc khi một chương trình ASXH đang thực hiện có bước phát triển lớn hay mở rộng. Đặc biệt, có thể thực hiện các chiến dịch truyền thông để tập trung các nỗ lực thông tin vào các mảng, các vấn đề ASXH mà người dân chưa nắm rõ và mong muốn được giải thích. Chẳng hạn, điều kiện để vay vốn ưu đãi làm ăn; khả năng thanh toán của quỹ BHXH dài hạn; cơ chế tài chính của các chương trình ASXH (BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, xóa đói giảm nghèo). Việc thực hiện chiến dịch truyền thông có thể huy động tất cả các phương tiện như báo, đài, T.V, panoo, áp phích, tờ rơi,…Thậm chí có thể thiết kế các cuộc tọa đàm, các buổi thuyết trình cho các nhóm đối tượng khác nhau trong cộng đồng (người lao động; người sử dụng lao động; các nghiệp đoàn, hiệp hội; các nhóm dân cư dễ bị tổn thương yếu thế;…) và ở nhiều cấp độ khác nhau (cấp quốc gia; cấp khu vực; cấp địa phương). Mỗi một chiến dịch truyền thông đều phải được thiết kế tỉ mỉ để có thể triển khai đồng bộ và có hiệu quả cao. Các tổ chức, các bộ phận, các cá nhân tham gia chiến dịch truyền thông đều phải được huấn luyện bài bản để nhận thức rõ về mục tiêu của chiến dịch và để nẵm vững được các thông tin cần truyền tải và truyền đạt. Mặc dù không phải là một tổ chức hoạt đông kinh doanh nhưng các cơ quan ASXH cũng phải thực hiện các hoạt động quảng cáo. Tuy nhiên, không giống như quảng cáo của các tổ chức kinh doanh, mục đích cao nhất của cơ quan ASXH khi thực hiện quảng cáo là thông tin và giáo dục nhận thức về ASXH. Hoạt động quảng cáo của cơ quan ASXH có thể là thường xuyên, định kì hoặc được tiến hành như một phần của chiến dịch truyền thông. Cũng như bất kì một hoạt động quảng cáo nào, nội dung quảng cáo của cơ quan về ASXH có thể là về một phương thức hoạt động mới, về một thay đổi tiến bộ nào đó trong chế độ và quyền lợi của người được hưởng; về hình ảnh của chính cơ quan ASXH,…Phù hợp với từng nội dung quảng cáo, từng đối tượng nhận thông tin, cấp độ quảng cáo mà phương tiện quảng cao có thể là báo chí, đài phát thanh truyền hình, panoo, áp phích, phương tiện giao thông công cộng, tờ rơi,… 3.3.6.3. Phát triển các kênh thông tin về an sinh xã hội Nâng cao nhận thức về an sinh xã hội không chỉ dừng lại ở việc thông tin tuyên truyền về an sinh xã hội mà còn phải tạo cho công chúng nói chung và các đối tượng có liên quan một niềm tin vài hoạt động của các chương trình an sinh xã hội. Điều này chỉ thực hiện được khi cơ chế thông tin của các chương trình an sinh xã hội đảm bảo tính minh bạch và người dân có khả năng tiếp cận được các thông tin mà họ cần một cách chủ động. Phát triển các kênh thông tin khác nhau là biện pháp được nhiều nước cân nhắc lựa chọn. Xây dựng trang web thông tin: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động đời sống kinh tế xã hội ngày càng nhiều ở khắp nơi trên thế giới. Do vậy, việc thiết kế và xây dựng các trang web sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chương trình an sinh xã hội. Bởi vì, các trang web này là một kênh giao tiếp ở diện rộng và đạt được nhiều mục đích: tuyên truyền giáo dục , cung cấp thông tin, cung cấp dịch vụ… Điểm cần lưu ý khi thiết kế các trang web là phải đảm bảo cho dễ tìm kiếm thông tin và gần gũi với công chúng; Hình thành các địa điểm cung cấp thông tin Cùng với các trang thông tin điện tử thì các chương trình an sinh xã hội có thể hình thành thêm các địa điểm cung cấp thông tin theo nhiều hình thức khác nhau như: ki ốt thông tin, bản thông tin hướng dẫn, các văn phòng giao dịch. Chẳng hạn để tăng sự hiểu biết của người dân về một chương trình an sinh xã hội nào đó thì có thể đặt các bản thông tin hướng dẫn về chương trình đó tại các địa điểm có nhiều người qua lại như các siêu thị, sân ga, hội chợ,… Mặc dù, các bản thông tin hướng dẫn chỉ cung cấp thông tin mang tính tạm thời và ngắn hạn, phù hợp với việc thông tin mang tính thời điểm, nhưng biện pháp này cũng khá thuận tiện cho người dân và ít tốn kém chi phí. Thậm chí có thể phát triển các bàn thông tin hướng dẫn này thành một phương tiện truyền thông lưu động, có thể chuyển thông tin đến những nơi xa xôi, hẻo lánh, có ít cơ hội tiếp cận thông tin qua các kênh khác. Công bố các báo cáo tài chính định kỳ: Các chương trình ASXH thường lập và gửi các báo cáo tài chính lên các cơ quan chức năng có thẩm quyền theo chế độ báo cáo. Tuy nhiên, theo cơ chế thông tin minh bạch, các chương trình này vẫn có thể cung cấp cho công chúng các báo cáo tài chính hợp pháp. Nếu thực hiện được kênh thông tin này thì hiệu quả cảu việc nâng cao hiểu biết cũng như niềm tin của công chúng vào các chương trình ASXh sẽ cao hơn rất nhiều. Bởi vì, rốt cuộc tất cả mọi người dân đều quan tâm tới vấn đề tài chính của chương trình dù đó là người được hưởng quyền lợi ASXH hay là người đóng góp cho các chương trình ASXH. Điều cần lưu ý khi phát triển kênh thông tin này là các báo cáo tài chính phải đảm bảo cung cấp các thông tin cho công chúng một cách chính xác và nhất quán, đồng thời phải dễ hiểu. 3.3.6.4. Huy động và xây dựng đủ nguồn lực để nâng cao nhận thức về an sinh xã hội Về nhân lực: Hoạt động để nâng cao nhận thức của công chúng về các chương trình ASXH không được coi là hoạt động mang tính thời vụ. Điều này có nghĩa là mỗi chương trình ASXH, tùy thuộc vào đặc điểm chương trình cần bố trí được một bộ phận chịu các trách nhiệm thông tin đến công chúng, hoặc ít nhất phải có một số cán bộ chương trình phụ trách hoạt động này. Đối với chương trình cung cấp các dịch vụ công như chương trình bảo hiểm xã hội thì lại càng phải hoạt động nâng cao nhận thức về BHXH một cách chuyên nghiệp. Rõ ràng trong các trường hợp này đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ nhân viên được đào tạo và có kinh nghiệm phù hợp. Bên cạnh các kiến thức về lĩnh vực ASXH của mình thì đội ngũ nhân viên này cũng cần chuẩn bị tốt các kỹ năng giao tiếp ứng xử. Bất kỳ một bộ phận nào hay một nhân viên nào của chương trình ASXH cũng đều có thể là một kênh chuyển tải thông tin đến công chúng, đặc biệt là những bộ phận và những nhân viên có các giao dịch thường nhật với công chúng. Do vậy, để niềm tin và nhận thức của người dân đối với các chương trình an sinh xã hội được nâng cao thì chính những bộ phận và những nhân viên này phải được huấn luyện và chuẩn bị cả kiến thức chuyên môn lẫn kiến thức và kinh nghiệm quan hệ công chúng. Ngoài ra, nguồn nhân lực cho hoạt động nâng cao nhận thức về ASXH còn có thể là bất cứ người nào, tổ chức nào trong xã hội mà có hiểu biết về các chương trình ASXH hiện hành. Chẳng hạn, những người lao động và người sử dụng lao động có hiểu biết và kiến thức về BHXH, tuân thủ tốt các quy định pháp luật về BHXH đều là những nguồn nhân lực cần được huy động để thực hiện triệt để hoạt động nâng cao nhận thức về BHXH cho những đối tượng khác. Về tài chính: Nguồn lực tài chính dành cho hoạt động nâng cao nhận thức công chúng là một trong những vấn đề quan trọng cần xem xét. Quy mô và phạm vi hoạt động nâng cao nhận thức công chúng của các chương trình ASXH khác nhau sẽ không giống nhau. Do đó, nguồn tài chính dành cho hoạt động này cũng khác theo từng loại chương trình. Tuy nhiên, để hoạt động nâng cao nhận thức của công chúng về ASXH đảm bảo tính lâu dài và bền vững, cần dành nguồn lực tài chính thỏa đáng cho hoạt dộng này và có kế hoạch sử dụng chi tiết, cụ thể từ cấp trung ương, tỉnh, huyện tới các cơ sở tuyến dưới. KẾT LUẬN Xoá đói giảm nghèo là một chủ trương, một chính sách xã hội rộng lớn, là sự quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta. Chương trình đã đi vào cuộc sống và huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, sự tham gia của các tầng lớp dân cư và của chính người nghèo, gia đình nghèo; chương trình cũng thu hút sự hưởng ứng, chia sẻ và ủng hộ tích cực của cộng đồng quốc tế. Trong đó, chính sách an sinh xã hội cho người nghèo được triển khai, thực hiện đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo cả nước nói chung và Thái Nguyên nói riêng. Chính sách này giúp cho người nghèo thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, có thể tránh được những rủi ro hay tình huống nguy cấp trong cuộc sống góp phần ổn định cuộc sống, đảm bảo trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Thông qua đề tài này em đã thấy được những khó khăn, tồn tại của địa phương cần được giải quyết và khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả của các chính sách. Chỉ khi nào người nghèo có được sức khỏe tốt từ chính sách hỗ trợ y tế, có tri thức từ giáo dục cao, có công ăn việc làm từ chính sách hỗ trợ việc làm, có ý thức cao… thì khi đó họ sẽ vươn lên thoát nghèo bền vững. Em tin rằng với sự cố gắng của người nghèo và sự trợ giúp của xã hội thì trong tương lai không xa số lượng hộ nghèo ở tỉnh Thái Nguyên và trên cả nước sẽ không còn nhiều và đáng lo ngại như hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Ngưyễn Hải Hữu (2008), Giáo trình An sinh xã hội, Nxb trường đại học Kinh tế quốc dân. 2. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII. 3. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của Việt Nam. 4. Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ Chương trình giảm nghèo Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2008. 5. Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên, “Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 tỉnh Thái Nguyên”. 6. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Nguyên, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 tỉnh Thái Nguyên. 7. Sở Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê Thái Nguyên. 8. Báo Lao động và Xã hội số 350 (từ 01-15/1/2009). 9. Báo Lao động và Xã hội số 343+344 (từ 16/8-15/10/2008). 10. Trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư www.mpi.gov.vn MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế theo giá so sánh năm 1994 và giá thực tế giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.3: Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của Thái Nguyên giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.4: Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.5: Số hộ thoát nghèo giai đoạn 2005 - 2008 theo chuẩn mới Bảng 2.6: Chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo Bảng 2.7: Cơ cấu hộ nghèo giữa nông thôn, thành thị giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.8: Tỷ lệ hộ nghèo theo dân tộc Bảng 2.9: Số hộ nghèo các vùng giai đoạn 2005 - 2008 theo chuẩn mới Bảng 2.10: Số hộ nghèo được cấp bảo hiểm y tế giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.11: Nguồn kinh phí cho các chính sách hỗ trợ y tế giai đoạn 2001 - 2008 Bảng 2.12: Số lượng người nghèo có nhu cầu học nghề giai đoạn 2006 - 2010 Bảng 2.13: Số người nghèo được hỗ trợ đào tạo nghề giai đoạn 2006 - 2008 Bảng 2.14: Số học sinh là con hộ nghèo được miễn, giảm tiền học phí Bảng 2.15: Kinh phí cho chính sách hỗ trợ giáo dục Biểu 2.1: Biểu đồ cơ cấu GDP của Thái Nguyên năm 2008 Biểu 2.2: Biểu đồ tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001 - 2008 Biểu 2.3: Biểu đồ số hộ nghèo và thoát nghèo giai đoạn 2005 - 2008 Biểu 2.4: Biểu đồ tỷ lệ hộ nghèo theo dân tộc năm 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2043.doc
Tài liệu liên quan