lời mở đầu
Ngành công nghiệp Dệt May là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam và là một ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Thực tế các năm qua đã chứng minh điều này. Sản xuất của Ngành tăng trưởng nhanh; kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ cao; thị trường luôn được mở rộng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu theo hướng có tích luỹ; thu hút ngày càng nhiều lao động, giải quyết công ăn việ
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c làm, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị xã hội đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập với thế giới và khu vực, để phát triển ngành Dệt May Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Theo Hiệp định ATC/WTO, từ 1/1/2005 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu cho các nước xuất khẩu hàng Dệt May là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi đó các cường quốc xuất khẩu hàng Dệt May như ấn Độ, Indonesia, HongKong, Đài Loan, Hàn Quốc... và đặc biệt là Trung Quốc sẽ có lợi thế xuất khẩu thế giới. Theo Hiệp định AFTA, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng Dệt May từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ giảm xuống từ 40 – 50% như hiện nay xuống còn tối đa là 5%, khi đó thị trường nội địa hàng Dệt May Việt Nam không còn được bảo hộ trước hàng nhập từ các nước trong khu vực. Như vậy, hàng Dệt May Việt Nam sẽ phải cạnh tranh rất khốc liệt so với các nước xuất khẩu hàng Dệt May.
Có thể thấy rằng ngành Dệt May Việt Nam đang thiếu chiều sâu cho sự phát triển của Ngành. Trong khi ở các nước phát triển lợi thế cạnh tranh trong ngành Dệt May mà họ có được thông qua vốn và công nghệ thì ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn chỉ là ngành sử dụng lao động rẻ.
Do vậy, trước những thách thức trong tình hình mới, việc đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm làm cho ngành Dệt May phát triển đúng hướng, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cũng như thị trường nội địa là một yêu cầu thực sự cấp bách.
Đó là lý do để tôi chọn đề tài :
Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO từ nay đến năm 2010 làm luận văn tốt nghiệp.
Bố cục chuyên đề được chia làm 3 chương :
ChươngI : Vai trò ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam và các giải pháp tài chính với sự phát triển ngành Công nghiệp Dệt May trong quá trình hội nhập
Chương II : Thực trạng các giải pháp tài chính với sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam từ 1995 – 2002.
Chương III: Hoàn thiện các giải pháp Tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 trước yêu cầu hội nhập
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị Bất, cùng toàn thể các cô chú trong Ban Chính sách Tổng hợp - Cục TCDN đã nhiệt tình giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Do thời gian nghiên cứu ngắn, cộng với sự phức tạp của đề tài nên tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp của các thầy cô cùng toàn các bạn.
Chương I
vai trò ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam và các giải pháp tài chính với sự phát triển ngành Công nghiệp Dệt May trong quá trình hội nhập.
1.1.Vai trò ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập.
1.1.1 Xu thế chuyển dịch hàng dệt may trên thế giới
Ngành Công nghiệp Dệt May gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người.Vì vậy từ rất lâu trên thế giới, ngành công nghiệp này được hình thành và đi lên cùng sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, ngành Công nghiệp Dệt May là ngành thu hút nhiều lao động với yêu cầu kỹ thuật không cao, vốn đầu tư không lớn và có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Do đó trong giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hoá tư bản, từ các nước phát triển như Nhật, Mỹ, Anh, Pháp cho đến các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo ngành Công nghiệp Dệt May thường phát triển mạnh và có hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá của họ. Khi một nước đã có công nghiệp phát triển, có trình độ công nghệ cao, giá lao động cao thì sức cạnh tranh trong sản xuất hàng Dệt May giảm, lúc đó chuyển sang ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao hơn sử dụng lao động ít hơn mang lại nhiều lợi nhuận cao.
Lịch sử phát triển ngành công nghiệp thế giới cũng là sự chuyển dịch cơ cấu Công nghiệp Dệt May từ khu vực phát triển sang khu vực khác kém phát triển hơn do tác động của lợi thế so sánh. Sự dịch chuyển này được gọi là hiệu ứng chảy tràn hay làn sóng cơ cấu. Có thể nói ngành Công nghiệp Dệt May đã tạo nên một làn sóng, sóng lan tới đâu thì nước đó phát triển kinh tế vượt bậc. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sản xuất Dệt May không còn tồn tại ở các nước phát triển mà thực tế ngành này đã tiến tới giai đoạn cao hơn, sản xuất các giá trị gia tăng cao.
Sự dịch chuyển thứ nhất vào những năm 1840 từ nước Anh, cha đẻ của ngành Công nghiệp Dệt May sang các nước châu Âu, khi ngành Công nghiệp Dệt May đã trở thành động lực chính cho sự phát triển thị trường sang các khu vực mới khai thác ở Bắc và Nam Mỹ.
Sự chuyển dịch lần thứ hai từ châu Âu đang Nhật Bản vào những năm 1950, trong thời kỳ hậu chiến thứ hai.
Từ những năm 1950 khi chi phí sản xuất ở Nhật tăng cao và thiếu nguồn lao động thì Công nghiệp Dệt May lại được chuyển dịch các nước mới công nghiệp hoá (NICs) như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc. Quá trình chuyển dịch được thúc đẩy mạnh bởi nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhằm khai thác lợi thế về nguyên liệu tại chỗ là giá nhân công thấp. Cho đến nay Công nghiệp Dệt May không giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế quốc dân nhưng đóng góp rất lớn về nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu của nước này.
Vào những năm 1980, khi các nước Đông á dần chuyển sang sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có công nghệ cao và kỹ thuật cao hơn như hàng điện tử, ô tô thì lợi thế so sánh của ngành Dệt May sẽ bị mất đi ở các nước này. Các nước NICs buộc phải chuyển những ngành này sang các nước ASEAN, Trung Quốc và tiếp tục sự chuyển đổi này sang các nước Nam á.
Vào cuối những năm 1990, tất cả các nước ASEAN đều đạt mức độ cao về xuất khẩu sản phẩm Dệt May, vị trí các nước này trong mậu dịch thế giới tăng đáng kể so trước đây. Cùng trong xu hướng dịch chuyển này Dệt May Việt Nam đang hoà nhập với lộ trình Dệt May thế giới.
Là nước đi sau, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa thành tựu các nước công nghiệp phát triển. Tận dụng được xu thế dịch chuyển như vậy đã tạo cho ngành Dệt May Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển. Việt Nam cần thực hiện các chính sách “đi tắt đón đầu”, một mặt tiếp nhận nhanh chóng quá trình dịch chuyển từ các nước khác, mặt khác tiếp tục đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đầu tư khoa học công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, sản phẩm có giá trị gia tăng cao đóng góp vào GDP lớn bắt kịp Công nghiệp Dệt May các nước phát triển.
1.1.2. Đặc điểm ngành Công nghiệp Dệt May.
Công nghiệp Dệt May là một phần của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Nó có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu may mặc một trong hai nhu cầu thiết yếu của con người
Trong lịch sử, sự tồn tại và phát triển của Công nghiệp Dệt May luôn gắn liền với sự phát triển toàn xã hội loài người. Xã hội ngày càng phát triển khoa học công nghệ đủ khả năng giải quyết các vấn đề bức xúc của sản xuất thì Công nghiệp Dệt May nhờ đó cũng hoàn thiện hơn, để từ đó quay trở lại phục vụ đời sống con người tốt hơn.
Công nghiệp Dệt May thực chất là tổ hợp của 2 ngành chuyên môn hoá hẹp là công nghiệp Dệt và công nghiệp May. Mặc dù là 2 ngành chuyên môn hoá nhưng giữa chúng có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Công nghiệp Dệt nếu thiếu công nghiệp May thì sản phẩm cuả nó không đạt mục tiêu cuối cùng là đáp ứng nhu cầu mặc cho con người. Ngược lại công nghiệp May đã sử dụng công nghiệp dệt như một nguồn cung cấp nguyên liệu duy nhất, không thể thay thế được cho hoạt động của mình. Công nghiệp Dệt phát triển với nhiều chủng loại sản phẩm sẽ là cơ hội tốt cho công nghiệp May lựa chọn các dạng nguyên liệu đầu vào. Trong khi đó công nghiệp May phát triển nhiều mẫu mốt sẽ kích thích tiêu dùng và sẽ tạo cơ hội đầu ra tốt cho công nghiệp Dệt.
Cũng như mỗi ngành công nghiệp độc lập, Công nghiệp Dệt May có những đặc trưng cơ bản của nó.
Thứ nhất: Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó là không thể thay thế được.
Sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp là thay thế được. Ví dụ như đối sản phẩm điện dân dụng, thay vì phải dùng quạt nan người ta dùng quạt điện, hay đối sản phẩm điện tử thay thế việc sử dụng ti vi người ta có thể chỉ dùng radio. Ngược lại, đối Công nghiệp Dệt May sản phẩm của nó không có gì thay thế được. Tức là người ta chỉ có thể thay thế việc mặc loại vải này bằng một loại vải khác chứ không thể không mặc gì.
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của ngành Công nghiệp Dệt May. Chính nhờ đặc trưng này mà sản phẩm Dệt May trở thành một trong những sản phẩm thiết yếu đối đời sống con người. Đặc trưng này cũng chi phối toàn bộ hoạt động của ngành Công nghiệp Dệt May, từ đó xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngành là ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người.
Thứ hai: Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó có vòng đời ngắn
Trong số các sản phẩm tiêu dùng thì sản phẩm của Công nghiệp Dệt May thường có vòng đời ngắn, khác hẳn với những sản phẩm chế biến của ngành thực phẩm, gu ăn uống thường được xác định ổn định trong một thời gian dài
Sở dĩ như vậy là vì sản phẩm Dệt May mang tình thời trang cao. Con người ta sử dụng sản phẩm Dệt May ngoài công dụng là vật che thân sản phẩm Dệt May còn góp phần tôn lên vẻ đẹp trang trọng lịch sự của người sử dụng nó.Tâm lý của con người là thích đổi mới sáng tạo thậm chí độc đáo gây ấn tượng. Do vậy, sản phẩm Dệt May cũng phải luôn thay đổi đáp ứng nhu cầu này.
Ngoài ra sản phẩm của Công nghiệp Dệt May còn bị chi phối nhiều yếu tố khác như văn hoá, tập quán, tôn giáo, khí hậu, giới tính, tuổi tác. Vì vậy sản phẩm của Công nghiệp Dệt May rất phong phú đa dạng
Việt Nam là quốc gia có nền văn hoá đa dạng, phong phú, người Việt rất nhạy cảm, tinh tế trong việc ăn mặc. Khi sản phẩm Dệt May chuyển sang sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao và có chứa đựng yếu tố văn hóa thì đây chính là lợi thế không kém phần quan trọng cho các doanh nghiệp Dệt May khai thác thị trường trong nước, nâng cao tỷ trọng hàng xuất khẩu mang nhãn mác Việt Nam.
Thứ ba: Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp không đòi hỏi công nghệ quá phức tạp, có suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, phù hợp với tổ chức sản xuất qui mô vừa và nhỏ.
Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp xuất hiện khá sớm trong lịch sử phát triển nhân loại, một phần là do công nghệ của ngành này không quá phức tạp. So các ngành công nghiệp khác, đặc biệt các ngành công nghiệp nặng thì Công nghiệp Dệt May có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần chỉ bằng 1/15 so ngành cơ khí, 1/20 so ngành luyện kim.
Ngay trong nhóm ngành sản xuất hàng tiêu dùng để tạo ra một chỗ làm việc mới công nghiệp Dệt (từ khâu sợi, dệt đến nhuộm, hoàn tất) chỉ đầu tư khoảng 15000 USD, công nghiệp May cần đầu tư khoảng 1000 USD, trong khi suất đầu tư của ngành giấy là gần 30000 USD.
Thời gian thu hồi vốn của Công nghiệp Dệt May cũng thấp nhiều hơn so ngành khác. Thời gian thu hồi vốn của ngành Dệt là 10-12 năm, ngành May là 5-7 năm .
Do công nghệ sản xuất không quá phức tạp, lao động của ngành Dệt May lại dễ đạo tạo nên tổ chức sản xuất nhiều khâu có thể phân tán ở nhiều hộ gia đình. Chính vì vậy Công nghiệp Dệt May đã tồn tại phát triển ở hầu hết các nước đang phát triển và thu hút nhiều lực lượng lao động của các nước này. Cũng do đặc thù về công nghệ nên dù có được hiện đại hoá thì trước mắt và lâu dài Công nghiệp Dệt May vẫn tồn tại những công đoạn cần lao động thủ công. Do vậy cùng với sự lớn mạnh của Công nghiệp Dệt May thì số lao động đựơc thu hút vào ngành công nghiệp này ngày càng đông chưa kể lực lượng lao động trong các ngành có liên quan đến sự phát triển công nghiệp dệt may như công nghiệp cơ khí, chế tạo, hoá chất, và đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp để tạo ra các nguyên liệu cho ngành Công nghiệp Dệt May.
Đối với Việt Nam, một quốc gia có dân số đông và trẻ so nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tính đến nay, dân số cả nước xấp xỉ 80 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động khoảng trên 44 triệu người. Hàng năm có khoảng 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung liên tục vào lực lượng lao động vốn đã đông đảo. Với một lực lượng lao động dồi dào như vậy nếu được đào tạo sử dụng hợp lý, hiệu quả thì Dệt May Việt Nam rất có điều kiện phát triển. Đồng thời đó cũng là một thị trường tiêu thụ hàng Dệt May tiềm năng.Tuy nhiên, là một ngành thu hút nhiều lao động có nghĩa là ngành chịu gánh nặng xã hội và nhiều áp lực từ phía Chính Phủ về việc thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ tư: Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp đã diễn ra nhiều lần chuyển dịch sản xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới và trong nội bộ từng nước.
Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp sớm tham gia vào thị trưòng hàng hoá quốc tế và nó cũng trải qua nhiều lần chuyển dịch giữa các nước trên thế giới. Nghiên cứu lịch sử Công nghiệp Dệt May trên thế giới ta thấy nó xuất hiện và phát triển sớm ở nước Anh từ cuối thế kỷ XVIII và sau đó chuyển sang các nước Châu Âu khác vào giữa thế kỷ XIX. Nhật Bản đã tiếp nhận và phát triển mạnh ngành Dệt May vào những năm 30 của thế kỷ XX. Hiện nay Công nghiệp Dệt May đang chuyển dịch sang những nước kém phát triển hơn như: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Philipin…
Trong tương lai, khi các nước này mất đi lợi thế so sánh đặc biệt về giá nhân công thì khả năng nó tiếp tục dịch chuyển sang những nước kém phát triển hơn.
Trong nội bộ từng nước, Công nghiệp Dệt May cũng được chuyển dịch từ vùng này sang vùng khác. Ban đầu, công nghiệp Dệt May thường phát triển ở các trung tâm đô thị, nhờ lợi thế về hạ tầng, trình độ lao động… Sau đó mất dần lợi thế về giá nhân công để tiếp tục giữ được lợi thế so sánh buộc phải chuyển dịch về các vùng đô thị kém phát triển hơn, thậm chí các vùng nông thôn nhằm tìm kiếm một chi phí nhỏ nhất. Sự chuyển dịch này diễn ra một cách tự nhiên. Đây là một đặc trưng quan trọng cuả công nghiệp Dệt May mà các nhà sản xuất hàng Dệt May Việt Nam phải quan tâm nếu không sẽ mất dần đi những lợi thế vốn có và sớm bị loại khỏi cuộc canh tranh này.
Thứ năm: Công nghiệp Dệt May là ngành công nghiệp nhạy cảm, sản phẩm của nó thường được bảo hộ cao.
Trước khi có Hiệp định thương mại về hàng Dệt May kết quả quan trọng vòng đàm phán Urugoay, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm Dệt May được điều chỉnh theo thể thức thương mại đặc biệt , mà nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu đều thiết lập hạn chế về số lượng hàng Dệt May nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng Dệt May thường cao hơn so hàng hoá Công nghiệp Dệt May thông thường khác. Bên cạnh đó từng nước còn đề ra những điều kiện riêng đối với Dệt May nhập khẩu. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán các nước trên thế giới.
Trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai Công nghiệp Dệt May đã và sẽ luôn là một ngành công nghiệp nhạy cảm, các sản phẩm của nó thường được bảo hộ ở mức cao. Sự bảo hộ này không chỉ xuất phát từ những quốc gia tham gia xuất khẩu hàng Dệt May, thường muốn bảo hộ trong nước như người ta vẫn thường thấy, mà các rào cản còn xuất hiện ở ngay những cường quốc, mà tại đó Công nghiệp Dệt May không phát triển hoặc đã phát triển nay đã chuyển dịch sang các nước, khu vực khác trên thế giới, như Mỹ và các nước EU. Điều này không được lý giải bởi nguyên nhân là họ sử dụng các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, mà thực chất là các nước lớn muốn khống chế các nước đang phát triển thì một trong những biện pháp của nó là hạn chế các lợi thế so sánh của các nước này. Các hạn chế được tạo ra dưới hạn ngạch nhập khẩu, hay các nguyên tắc về xuất xứ … ở đây chúng ta nhận thấy rằng, bóc lột tư bản đã phát triển một cách tinh vi hơn, tức là đã chuyển từ chủ nghĩa tư bản độc quyền sang phương thức bắt các nước nhỏ phụ thuộc vào các nước lớn.
Đây là một trong những đặc trưng hết sức quan trọng mà các nước muốn tham gia vào thị trường xuất khẩu hàng Dệt May phải quan tâm để có những chính sách phù hợp.
Với Hiệp định hàng Dệt May, Việt Nam vừa có nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng phải chịu nhiều qui định chặt chẽ, những yêu cầu cao hơn khi xuất khẩu hàng Dệt May.
Do đó muốn thành công trong việc xuất khẩu hàng Dệt May ra thị trường nước ngoài, cần phải có sự hiểu biết rõ về những chính sách bảo hộ ưu đãi của từng quốc gia và từng khu vực với ngành Dệt May. Có như vậy thì kết quả thu được mới đạt hiệu quả cao, tránh những lãng phí, sai lầm không đáng có.
Kết luận : Trên đây là những đặc trưng cơ bản nhất của ngành Dệt May. Nó chi phối quá trình tổ chức sản xuất và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp Dệt May. Việc nghiên cứu làm rõ chúng có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển và đề xuất các giải pháp thích ứng.
1.1.3. Vai trò ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Từ sau khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đường lối phát triển kinh tế mở (đa dạng hoá các thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với nhiều nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, chú trọng phát triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, quan tâm đến phát triển nông nghiệp và nông thôn), ngành Công nghiệp Dệt May đã thể hiện là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước ta.
Trong những năm gần đây, ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đã và đang có bước phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều lao động. Đến nay lực lượng lao động trong ngành có khoảng 1,6 triệu người, chiếm gần 23% lao động nông nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo sự ổn định chính trị- kinh tế- xã hội. Theo dự đoán, đến năm 2005-2010, lao động trong ngành Dệt May tăng 3 đến 4 triệu người.
Sự phát triển mạnh mẽ ngành Công nghiệp Dệt May đã bắt đầu tạo ra mối liên kết kinh tế, có ý nghĩa quan trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Ngành Công nghiệp Dệt May tăng trưởng nhanh tạo nhu cầu lớn về nguyên liệu như bông, tơ tằm do đó đã khuyến khích người nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ sản xuất độc canh cây lương thực sang trồng cây bông, trồng dâu, nuôi tằm, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nâng cao thu nhập cho người nông dân. Đồng thời, với việc mở rộng sản xuất, nhu cầu về máy móc thiết bị và phụ tùng thay thế của ngành cũng tăng lên, do đó khuyến khích ngành cơ khí phát triển. Tất cả đều đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, cải thiện đời sống nhân dân.
Trong các năm vừa qua, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May liên tục tăng từ năm 1992 đến nay với tốc độ cao và luôn là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đặc biệt từ năm 1994, kim ngạch xuất khẩu Dệt May luôn đứng thứ hai về giá trị, chỉ sau dầu thô. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May tăng nhanh qua các năm cả về giá trị tuyệt đối (năm 1991 đạt 189 triệu USD; năm 1995 đạt 850 triệu USD và đến năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 1975 triệu USD, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu 2710 triệu USD tăng 37,2% vượt 12,9%) lẫn tốc độ tăng trưởng (trong giai đoạn 1995-2001 tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May 17,4%). Năm 2002 là năm đánh dấu sự phát triển vựơt bậc hàng Dệt May Việt Nam trong vòng năm năm qua và thắng lợi chủ yếu dựa vào thị trường Mỹ. Hiện nay ngành tạo ra khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước, trên 40% kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp chế tác, mang lại nguồn ngoại tệ rất quý giá cho đất nước. Đồng thời thông qua xuất khẩu, nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập nền kinh tế thế giới và nền kinh tế khu vực.
1.2 Các giải pháp tài chính đối sự phát triển Ngành Dệt May
1.2.1. Sự cần thiết phải áp dụng các giải pháp Tài chính để thúc đẩy ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam phát triển
Với xu hướng hội nhập kinh tế, ngành Dệt May Việt Nam đang đứng trước một cơ hội phát triển thị trường xuất khẩu hết sức to lớn: Thị trường Châu Âu (chủ yếu EU), Nhật Bản, Trung Đông, Châu á, Châu Mỹ và đặc biệt là Hoa Kỳ, trong thời gian đầu chưa có hạn ngạch, ngành Dệt May Việt Nam cần tranh thủ xuất khẩu tối đa bằng mọi cách thậm chí bán với giá thấp hơn một chút để lấy số lượng xuất khẩu bởi chậm lắm là đến giữa hoặc cuối năm 2003 thì vấn đề hạn ngạch chắn chắn sẽ bị phía Mỹ xem lại. Khi đó vấn đề xem số lượng hàng Dệt May đã xuất vào Mỹ bao nhiêu sẽ quyết định số lượng hạn ngạch Mỹ cấp cho thị trường Việt Nam.
Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã khiến cho Trung Quốc có lợi thế lớn hơn khi xuất hàng sang các thị trường lớn như Nhật Bản , EU. Mặt khác, EU đang áp dụng chính sách phi hạn ngạch cho 43 nước và đặc biệt bỏ hẳn cho Trung Quốc nên ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp chính sách phù hợp nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng Dệt May đặc biệt đối Trung Quốc để giành thị trường xuất khẩu lớn.
Trên con đường phát triển trong thời gian tới, ngành Dệt May Việt Nam đang đối mặt nhiều thách thức lớn, xuất phát từ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn trong xu thế hội nhập khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, ngành Dệt May Việt Nam hiện còn quá nhỏ bé so tiềm năng của nó và so ngành Dệt May của một số nước trong khu vực (năng lực của ngành Dệt May Việt Nam chỉ bằng 1/10 so với Thái Lan, 1/15 so Iđônêxia, 1/30 so ấn Độ và 1/50 so Trung Quốc). Việc thực hiện Hiệp định ATC/WTO ở giai đoạn cuối cùng từ nay đến năm 2004 sẽ làm cho vị trí cạnh tranh hàng Dệt May Việt Nam trên thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ thêm khó khăn do nước ta chưa phải là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Việc thực hiện AFTA/CEFT từ nay đến cuối năm 2005 và sẽ làm giảm dần và đến loại bỏ hoàn toàn vào năm 2006 việc bảo hộ hàng Dệt May Việt Nam tại thị trường nội địa trước hàng nhập khẩu của các nước Đông Nam á.
Yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong bối cảnh đó đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều bài toán hết sức khó khăn. Đó là làm sao để vừa phát triển mở rộng sản xuất, vừa nâng cấp và khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Làm sao trong thời gian ngắn (từ 3 đến 5 năm) các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phải đưa ra được năng lực quản lý sản xuất tiếp thị lên ngang tầm các nước xuất khẩu trong khu vực để có thể cạnh tranh được về năng suất lao động, giá thành và chất lượng sản phẩm, uy tín nhãn hiệu, thiết kế sản phẩm, giao hàng nhanh, đúng tiến độ và khả năng sản xuất được các lô hàng nhỏ. Vì vậy ngay từ bây giờ ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp tài chính kết hợp chính sách của Nhà nước cụ thể để đưa ngành có đủ năng lực cạnh tranh với các nước khác trên thế giới vào thời điểm 2006 và những năm sau đó.
Hiện nay, ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Dệt May Đông Nam á (AFTEX), tham gia vài hiệp hội bông Liperpool và quan hệ thương mại Việt Mỹ đã và đang diễn ra theo hướng tích cực. Cùng với đường lối đối ngoại mở rộng, chúng ta có thể tin tưởng rằng ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa và trở thành một ngành kinh tế chủ lực của đất nước.
1.2.2.Nội dung các giải pháp tài chính.
1.2.2.1.Giải pháp về vốn
ý nghĩa: Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển ngành Dệt May Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập là giải pháp về vốn cho việc thực hiện nó: Tìm được giải pháp tạo vốn cho đầu tư phát triển là vấn đề lớn và cấp thiết có quyết định tới tốc độ phát triển.
Nội dung
Vốn đầu từ thu hút chủ yếu từ 2 nguồn:
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài theo các hình thức:
100% vốn nước ngoài
Liên doanh
Hợp doanh
Vốn đầu tư trong nước được huy động theo các hình thức
Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Hỗ trợ doanh nghiệp có thể tiếp xúc được các nguồn ưu đãi của Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Đối các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư hiệu quả, doanh nghiệp được hỗ trợ thông qua hình thức: Cho vay đầu tư; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Dựa trên nguyên tắc:
Thứ nhất: Chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư nhà nước cần khuyến khích, có hiệu quả kinh tế xã hội.
Thứ hai: Một dự án có thể được hỗ trợ bằng nhiều hình thức cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư
Thứ ba: Việc cho vay vốn đầu tư phải thực hiện theo đúng mục tiêu và tốc độ đầu tư của dự án
Thứ tư: Dự án vay vốn tín dụng phát triển của nhà nước phải được quỹ hỗ trợ phát triển thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay và chấp nhận cho vay trước khi quyết định đầu tư.
Đối ngành Dệt May Việt Nam Nhà nước có kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng phát triển từ nay đến năm 2010 là rất lớn cho các dự án đầu tư xây dựng cụm Công nghiệp Dệt May.
Nguồn vốn do nhà nước hỗ trợ ưu đãi
Để bổ sung vốn cho doanh nghiệp, nhà nước không thu tiền sử dụng vốn mà để lại cho các doanh nghiệp bổ sung vào vốn của mình, làm tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp được tính vào chi phí một tỷ lệ % nhất định để lấy nguồn vốn đầu tư cho vùng nguyên liệu.
Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp từ nguồn chi phí cải cách doanh nghiệp nằm trong chương trình xoá đói giảm nghèo
Ngoài các nguồn trên nhà nước còn hỗ trợ cho các doanh nghiệp từ quỹ hỗ trợ và từ quỹ xắp xếp cổ phần hoá.
Đối ngành Dệt May Việt Nam năm 2001 từ ngày quyết định 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001của thủ tướng Chính phủ có hiệu lực thi hành, các doanh nghiệp nhà nước sản xuất sợi, dệt, in, nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may được cấp lại tiền thu sử dụng vốn để đầu tư mới đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng.
Nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.
Đối các ngành chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế thì Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi như cho vay với mức lãi suất thấp; bảo lãnh tín dụng…
1.2.2.2.Giải pháp về đầu tư
ýnghĩa: Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất: có đầu tư thì mới có đổi mới không có đầu tư thì không có đổi mới. Một ngành kinh tế muốn phát triển mạnh mẽ thì phải có một hướng đầu tư đúng đắn, hiệu quả.
Nội dung:
Đối với mỗi ngành kinh tế đều phải có một hướng đầu tư khác nhau sao cho phù hợp với ngành nghề mình nhất và thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng. Cũng như bất kỳ một ngành nghề nào khác nào doanh nghiệp Dệt May Việt Nam cần tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực quan trọng như:
Đầu tư vào nguồn nguyên nhiên phụ liệu
Đầu tư khoa học công nghệ, thiết bị
Đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường
Đầu tư vào con người
1.2.2.3.Giải pháp về thị trường
ý nghĩa : Để xây dựng được một chiến lược phát triển ngành kinh tế nào đó thì việc am hiểu tận tường về thị trường là điều không thể thiếu được.
Nội dung: Thông qua việc nghiên cứu thận trọng bằng cả các tư liệu và cả trên thực địa nhằm :
Hiểu rõ nhu cầu mong muốn người tiêu dùng trên thị trường. Suy đến cùng hàng hoá xuất khẩu có vào và định vị được ở thị trường hay không là do người tiêu dùng quyết định
Hiểu rõ tất cả các yếu tố môi trường không kiểm soát được của thị trường (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá xã hội cạnh tranh) để thích ứng
Hiểu rõ xu hướng phát triển chung của thị trường đối các danh mục sản phẩm trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Hàng Dệt May Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn đứng thứ hai chỉ sau dầu thô là nhờ chủ yếu vào việc xuất khẩu hàng sang các nước: Nhật bản, Mỹ, các nước thuộc EU…Đây là những thị trường có tiềm năng xuất khẩu với khối lượng lớn nhưng cũng rất khó tính do vậy việc nghiên cứu thị trường và tìm các giải pháp thích ứng là một điều hết sức quan trọng, cần thiết
Chương II
thực trạng các giải pháp tài chính với sự phát triển của ngành Công nghiệp Dệt May từ năm 1995 đến 2002
2.1. Khái quát chung về ngành Dệt May Việt Nam
2.1.1. Tình hình sản xuất giai đoạn 1995-2002
Theo thống kê kết quả sản xuất của Ngành qua các năm như sau:
Bảng 1: Kết quả sản xuất của ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 1995 – 2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tăng
BQ(%)
Doanh thu
Tỷ đồng
4567
4954
5462
5882
6579
8083
9566
14789
13,5
Nộp ngân sách
Tỷ đồng
162,4
163,5
134,3
140,6
209,0
259
298,6
356
10,8
KNXK
Triệu USD
850
1150
1503
1450
1747
1900
1975,4
2710
9,4
Sản phẩm chính
Sợi
1000 tấn
59,2
65
67,5
69
74
80
86
123
6,5
Vải
Triệu mét
263
285
298
315
317
376
402
567
7,48
Hàng may mặc
Triệu SP
172
206,9
302
275
305
334
367
415
13,5
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
. Qua bảng số liệu ta thấy nhìn chung các chỉ tiêu toàn ngành đều có mức tăng trưởng khá từ 6% đến 14% năm, đặc biệt là trong mấy năm gần đây tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và số lượng sản phẩm Dệt May có sự tăng đột biến cao. Điều này cho thấy làn sóng Dệt May đã thực sự xâm nhập vào nước ta và đang phát triển với tốc độ cao.
Từ năm 1993-1997: Giai đoạn này thị trường xuất khẩu của ngành Dệt May gặp nhiều thuận lợi như Hiệp định thương mại hàng Dệt May Việt Nam –EU được mở, các thị trường phi hạn ngạch như Nhật Bản, Canađa, cũng phát triển nhanh chóng và bắt đầu tiếp cận ở thị trường Hoa Kỳ.
Từ năm 1997-1999: Giai đoạn mà cơn khủng khoảng tài chính từ Hàn Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng đến sản xuất và kinh doanh hàng. Giá gia công giảm sút, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và vào khu vực cũng giảm nhanh chóng. Mức độ cạnh tranh gay gắt hơn. Nhiều công ty Dệt May trong khu vực lâm tình trạng phá sản khó khăn về tài chính kéo dài …Tuy nhiên, trong giai đoạn này, thị trường EU có thuận lợi hơn, tiếp cận được với thị trường Mỹ nhiều hơn, chuẩn bị điều kiện để nối lại thị trường Nga và các nước SNG.
Từ năm 2000-2001: Chuyển sang năm 2001, năm mở đầu cho thời kỳ kế hoạch 2001-2005, các doanh nghiệp Dệt May có một số thuận lợi cơ bản như kinh tế nước ta có đà hồi phục, Nhà nước tăng cường các hoạt động đối ngoại mở rộng thị trường, ngành Dệt May Việt Nam được Chính Phủ quan tâm phê duyệt chiến lược phát triển kèm theo các chính sách ưu đãi tạo điều kiện vươn lên hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên ngành cũng gặp phải khó khăn lớn và những biến động phức tạp như:
- Kinh tế thế giới tiếp tục trì trệ và suy giảm s._.au sự kiện ngày 11/9. Thị trường các nước nhập khẩu hàng Dệt May lớn như Nhật, Mỹ bị thu hẹp. Cạnh tranh gay gắt dẫn đến giá xuất khẩu giảm mạnh. Một số thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. Một số thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam (Mỹ, Đông Âu, SNG) chưa đủ điều kiện để khai thác có hiệu quả. Thiên tai năm 2000-2001 liên tiếp xảy ra để lại hậu quả nặng nề, các mặt hàng nông sản rớt giá làm thị trường trong nước kém sôi động. Thêm vào đó, hàng Dệt May nhập lậu trốn thuế với số lượng lớn gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Vốn lưu động thiếu, vốn vay đầu tư lớn, chi phí đầu vào tăng đã làm tăng giá thành, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Năm 2001-2002: Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực thuế nhập khẩu hàng Dệt May vào Mỹ giảm từ 40-90% xuống còn 10-12% tuỳ từng chủng loại hàng thì kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam đã có bước tăng vọt đáng kể, lớn nhất từ trước tới nay chủ yếu thị trường Mỹ.
Cũng theo bảng số liệu ta thấy: Sản lượng hàng may mặc có tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn hẳn so với tốc độ tăng trưởng của sản lượng sợi và sản lượng vải (tốc độ tăng bình quân của hàng may mặc là 13,5 %, trong khi đó tốc độ tăng bình quân của sợi và chỉ có 6,5 và 7,32%). Điều này phản ánh được phần nào có sự tăng trưởng không cân đối giữa ngành Dệt và ngành May, Dệt không theo kịp May, May tăng trưởng nhanh lại không kéo theo được sự tăng trưởng nhanh cho ngành Dệt. Tức là sự liên hệ giữa May và Dệt rất còn lỏng lẻo, hiệu quả của toàn ngành còn thấp do ngành May phải nhập nguyên liệu tăng trưởng nhanh của mình.
2.1.2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của ngành Dệt May .
Tình hình tiêu thụ sản phẩm là vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng để tạo lập được thị truờng tiêu thụ thì cần phải nghiên cứu và dự báo được nhu cầu thị trường, từ đó lựa chọn và tìm ra các biện pháp thích hợp để tạo điều kiện các dòng hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường, sản xuất ra những gì mà thị trường đòi hỏi. Với ý nghĩa đó, thị trường có vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh của ngành Dệt May.
2.1.2.1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm trong nước.
Việt Nam là một trong những nước đông dân, hiện nay có khoảng gần 80 triệu người, dự tính đến năm 2010 dân số nước ta khoảng 100 triệu người. Đây là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam vì hiện nay mức tiêu dùng Dệt May trên đầu người còn rất thấp 0,8 kg/người, so với mức trung bình trên thế giới 7,2 kg/ người. Hơn thế nữa, với 80% dân số sống bằng nghề nông, hàng năm khu vực kinh tế- nông nghiệp đã tiêu thụ một khối lượng lớn hàng công nghiệp có hàng Dệt May.
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đã có một số hoạt động tích cực trong việc tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nội địa như tổ chức các hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ thời trang, tổ chức các buổi biểu diễn thời trang, mở đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm cho người tiêu dùng trong nước. Những hoạt động này đã thực sự gây sự chú ý với khách hàng. Hơn nữa, chất lượng hàng may Việt Nam giờ đây cũng đựơc nâng lên rõ rệt, một số mặt hàng được nhiều người trong nước chấp nhận như áo sơ mi của Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, áo thu đông của Công ty May Thăng Long, áo jacket của Công ty May Đức Giang, hàng dệt kim của Dệt kim Hà Nội, dệt 8/3, Việt Thắng… Những kết quả đó thể hiện sự cố gắng lớn của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam và sự quan tâm đúng mức với thị trường trong nước.
Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam từ trung ương đến địa phương chỉ chú trọng vào việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu ,những sản phẩm dành để tiêu thụ trong nước chủ yếu là những sản phẩm không xuất được (sản phẩm tồn kho, sản phẩm kém chất lượng…) Điều này thể hiện qua các gian hàng “giới thiệu sản phẩm” của một số doanh nghiệp, đưa ra những sản phẩm bị loại, không xuất khẩu được ra bán. Do vậy, việc tiêu thụ sản phẩm may mặc nội địa đã có một sự xắp xếp một cách tự phát: ở khu vực thành thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, các cơ sở sản xuất hàng may mặc tư nhân ra đời rất nhanh với nhiều qui mô khác nhau dần thay thế cho may quốc doanh. Sự chuyển đổi này làm cho nhu cầu của người thành thị có vẻ được đáp ứng đầy đủ, thuận tiện hợp túi tiền của mọi đối tượng. ở khu vực nông thôn, miền núi thì ngược lại, thị trường gần như bị bỏ trống bởi khả năng thanh toán của thị trường quá thấp, không đủ sức hấp dẫn các tư thương đầu tư.
Xét một cách tổng thể, có thể thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt May trong nước ta diễn ra rất chậm chạp là do thị trường hàng Dệt May trong nước đã bị coi thường. Tính đến thời điểm hiện nay, hệ thống tổ chức bán buôn, bán lẻ hàng Dệt May đều do tư thương thao túng, trong khi đó các nhà sản xuất và thống thương nghiệp quốc doanh vẫn chưa tìm ra được phương thức hoạt động phù hợp.
2.1.2.2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài.
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam liên tục tăng với mức tăng bình quân 17,4% một năm. Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất khẩu trên 1,5 tỷ USD hàng Dệt May. Riêng trong năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,71 tỷ USD tăng 37,2% vượt 12,95 so kế hoạch. Đây là mức tăng lớn nhất trong vòng năm năm qua chủ yếu dựa thị trường Mỹ đạt 1/3 so tổng kim ngạch.
Bảng 2: Thị trường xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam năm 1995- 2002 (đơn vị triệu USD)
Danh mục
1955
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tăng
BQ
1.Tổng KNXK
850
1150
1503
1450
1747
1892
1975
2710
17,4%
2.Thị trường XK chủ yếu
EU
350
420
450
620
700
726
600
550
Nhật
290
315
325
32
417
430
617
530
ASEAN
21
70
42
68
70
75
72
Mỹ
15
20
23
27
70
91
47
900
Nguồn: Tổng cục hải quan
a) Thị trường Châu Âu
Châu Âu được mệnh danh là lục địa già nhưng là một khu vực thị trường rộng, là nơi cung cấp các trang thiết bị, công nghệ hiện đại, là một trung tâm tài chính- kinh tế lớn, với dân số trên 360 triệu người và có GDP hơn 9000 tỷ USD, EU thực sự làm một thị trường có tiềm năng, có đầy tiềm năng, có mức tiêu dùng hàng Dệt May khá cao so với thế giới (chỉ sau Mỹ và Nhật Bản) 17kg/người/năm.
Giá cả, chất lượng hàng Dệt May Việt Nam xuất khẩu sang EU được đánh giá là khá tốt. Hiện EU là thị trường xuất khẩu lớn của hàng Dệt May. Hàng năm, hàng Dệt May Việt Nam xuất khẩu sang EU chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Sau hơn 9 năm xâm nhập vào thị trường EU, hàng Dệt May Việt Nam đã có một chỗ đứng khá vững chắc. Nếu như năm 1993, muốn xuất khẩu sang thị trường EU, Việt Nam phải xin hạn ngạch cho 151 mặt hàng nhưng đến nay số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch chỉ còn 29 mặt hàng. Đây là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc từng bước thâm nhập thị trường này.
Hàng năm, EU nhập khẩu 63 tỷ USD hàng Dệt May các loại, trong đó Đức là thị trường lớn nhất chiếm 36,1%, tiếp theo là Pháp 12,15%, Hà Lan 9,4%, Thuỵ Sỹ 7,46% còn lại là các nước khác. Tuy nhiên chúng ta cần nhận thấy rằng đây là thị trường hết sức khó tính, luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã thay đổi liên tục, số lượng đơn đặt hàng chia nhỏ. Hơn nữa, như đã nói ở phần trên hiện nay EU đang áp dụng phi hạn ngạch cho khoảng 43 nước và đặc biệt bỏ hẳn cho Trung Quốc nên chúng ta bị mất lợi thế cạnh tranh. Chính vì vậy, ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp tài chính hết sức thiết thực để tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ từ các nước Châu á (Đài Loan, Trung Quốc&
), Châu Mỹ để giành thị phần xuất khẩu lớn trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường EU nói riêng.
b) Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một cường quốc về công nghiệp Dệt May. Song do giá nhân công tại Nhật ngày càng cao lại thiếu nhân công, nên Nhật Bản đã chuyển đổi chiến lược là giảm sản xuất hàng Dệt May trong nước và tăng nhập khẩu hàng Dệt May và chủ yếu là từ các nước đang phát triển .
Với dân số 120 triệu người và khí hậu 4 mùa rõ rệt nên nhu cầu hàng Dệt May Nhật Bản là rất lớn (20kg/người/năm) và thay đổi liên tục. Kim ngạch nhập khẩu hàng Dệt May Nhật bản là rất lớn, phần lớn nhập từ Trung Quốc ( hơn 50%). Mặc dù vậy, Nhật Bản vẫn được xem là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Ưu thế của thị trường Nhật Bản là không có hạn ngạch, thuế nhập khẩu lại thấp, địa lý lại gần nên hàng Dệt May nước ta có khả năng cạnh tranh cao với các nước xuất khẩu khác. Đây là thị trường đầy hứa hẹn đối các mặt hàng Dệt May Việt Nam trong cả trước mắt và lâu dài chúng ta cần duy trì, phát triển lên một mức cao hơn. Tuy nhiên Nhật là thị trường rất khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng, thời gian giao hàng cũng như dịch vụ sau khi bán hàng. Hơn nữa lại bị cạnh tranh quyết liệt của hàng Dệt May Trung Quốc. Do đó việc mở rộng thị trường này phụ thuộc rất lớn vào uy tín của sản phẩm. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phải nâng cao chất lượng sản phẩm và giữ uy tín với khách hàng.
c/ Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ:
Với dân số khoảng trên 350 triệu người trong đó Mỹ là 272 triệu người, ít hơn các nước EU nhưng mức tiêu thụ hàng Dệt May lại gấp rưỡi EU( 27kg/người/năm) nên tổng nhu cầu sử dụng hàng Dệt May ở thị trường này là rất lớn, lại mang tính đa dạng phong phú. Đây là một thị trường rất tiềm năng.
Đặc biệt đối với Việt Nam, năm 2002 Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, theo đó mức thuế nhập khẩu hàng Dệt May vào Mỹ giảm từ 40-90% xuống còn 10-12% tuỳ từng chủng loại hàng, thì hàng Dệt May xuất khẩu sang Mỹ đã đạt gần 900 triệu USD so với 47 triệu năm 2001.
Tuy nhiên theo thoả thuận, trong năm 2003 Việt Nam và Mỹ, phải tiến hành một hiệp định riêng về hàng Dệt May trong đó Mỹ sẽ xét duyệt hàng năm hạn ngạch cho hàng Dệt May Việt Nam là bao nhiêu. Theo Ông Mai Hoàng Ân, Tổng giám đốc công ty Dệt May Việt Nam cho hay “ Hiệp hội Dệt May Việt Nam đã tiến hành thuê một công ty tư vấn của Mỹ giúp đỡ trong quá trình đàm phán. Thông thường, để tiến tới việc ký hiệp định Dệt May, đại diện hai bên phải trải qua 3 vòng đàm phán. Mặc dù chưa thể biết mức hạn ngạch mà Mỹ quyết định, song kế hoạch ngành Dệt May sẽ giữ nguyên không đổi’’. Như vậy, dự tính trong năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam vào khoảng 3,2 tỷ USD, trong đó xuất sang Mỹ khoảng 1,5 tỷ USD. Như vậy để thực hiện mục tiêu đề ra phát triển và đứng vững thì toàn ngành Dệt May Việt Nam phải nỗ lực cố gắng thật nhiều. Sự cố gắng đó trước hết phải xuất phát từ chính nội lực các doanh nghiệp, chiến lược toàn ngành và thêm vào đó nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ để ngành Dệt May Việt Nam có thể hoàn toàn cạnh tranh được với hàng Dệt May các nước trong khu vực và trên thế giới.
d/ Thị trường ASEAN
Sau khi là thành viên chính thức của ASEAN và năm 1999, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN tăng nên không ngừng. Hiện kim ngạch của Việt Nam sang các nước này chiếm khoảng 1/3 kim ngạch của cả nước. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam sang ASEAN đến nay còn rất nhỏ bé so tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành (chiếm khoảng 4-5% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành). Các nước thuộc ASEAN nhập khẩu hàng Dệt May Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, do đó giá trị thu thực tế là không cao. Điều này cho thấy Dệt May Việt Nam xuất khẩu thị trường ASEAN vừa ít lại không ổn định. Mặt khác hiện này, xuất khẩu vào thị trường này thì hàng Dệt May Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của hàng Dệt May Trung Quốc, Thái Lan, Đài loan với sản phẩm đa dạng, kiểu dáng phong phú, hợp giá thành. Đây là vấn đề bất cập trong quá trình hội nhập AFTA đến tiến tới hội nhập WTO của ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam.
2.1.3 Thực trạng các nguồn lực sản xuất của ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam
2.1.3.1. Về năng lực sản xuất chủ yếu của ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam
Theo thống kê sơ bộ đến năm 2002, năng lực sản xuất toàn ngành Dệt May Việt Nam tính theo 4 nhóm sản phẩm chính như sau:
Bảng 3: Năng lực sản xuất toàn ngành Dệt May 2002
Sản phẩm
Đơn vị
Toàn ngành
1.Kéo sợi
Nghìn tấn
320
2. Vải dệt thoi
Triệu mét
850
3. Vải dệt kim
Nghìn tấn
36
4. Sản phẩm may
Triệu sản phẩm
550
Nguồn: Tổng công ty Dệt May Việt Nam
Năng lực sản xuất toàn ngành tính theo công suất thiết kế. Đối với 2 sản phẩm kéo sợi và vải dệt thoi, phần đầu tư nước ngoài tính theo giấy phép đã cấp, thực tế mới đạt được 40% tổng vốn đầu tư và triển khai không đều các sản phẩm. Năng lực sản xuất trong nước thực tế chỉ huy động được 60- 70% công suất do tỷ lệ thiết bị cũ chiếm 60% và do sản xuất còn phụ thuộc vào thị trường.
2.1.3.2. Về lao động và công tác đào tạo lao động của ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam
Mặc dù lao động ngành Công nghiệp Dệt May không đòi hỏi phải có trình độ quá cao nhưng nếu người công nhân không được đào tạo các kiến thức cơ bản về ngành Dệt May và người quản lý điều hành của các nhà máy sản xuất Dệt May không đào tạo chuyên sâu các kỹ năng về nghề nghiệp thì nguy cơ không bắt kịp trình độ công nghệ ngày càng hiện đại cường độ làm việc ngày càng căng thẳng của ngành Dệt May Việt Nam
A/Lao động của ngành Dệt May Việt Nam.
Lao động trong ngành Dệt
Lao động trong ngành dệt trong cả nước chiếm tỷ trọng rất lớn so lao động công nghiệp. Tuy nhiên, số lao động trong ngành Dệt May Việt Nam những năm gần đây có xu hướng giảm dần. Đây là một hiện tượng thực tế khách quan, bởi nhiều xí nghiệp có thiết bị thủ công, lạc hậu, sản xuất không còn hiệu quả đã bị giải thể, nhiều nhà máy đầu tư phát triển ngành dệt đang được tăng dần làm cho lao động thủ công nửa cơ khí giảm dần. Đối khu vực quốc doanh trung ương, lao động có tăng nhưng không nhiều. Chính vì vậy, năng suất lao động tính bằng tiền công cũng không tăng bao nhiêu
Lao động trong ngành May.
Theo điều tra lao động toàn ngành May hiện nay có khoảng trên 130 nghìn người, trong đó khu vực Trung ương có khoảng 34 nghìn người và khu vực công nghiệp địa phương có khoảng 96 nghìn người. Khác với ngành Dệt một công nhân phải quản lý nhiều máy, công nhân trong ngành May sử dụng mỗi người một máy. Lao động của công nhân trong ngành May chủ yếu là nữ chiếm 80%, công việc của họ chủ yếu ngồi một chỗ và thao tác nhanh một phần công việc trong dây chuyền sản xuất một sản phẩm. Điều này dẫn đến có rất nhiều công nhân bị mắc bệnh nghề nghiệp, ảnh hưởng đến sinh hoạt đời sống của họ.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường ngày nay do yêu cầu của công việc nên lao động trong ngành Dệt May phải làm việc cường độ cao, thời gian làm việc căng thẳng, số lượng tỷ lệ nữ cao( chiếm 72-77%). Do tính đặc thù của công việc (công nhân dệt phải đứng một lúc nhiều giờ liên tục) đã ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động, số công nhân mắc bệnh nghề nghiệp ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp không có việc làm, không tiêu thụ được sản phẩm, do đó dẫn đến nghỉ việc tràn lan. Cơ sở vật chất vốn tự có của doanh nghiệp Dệt May thấp, việc giải quyết các chế độ phúc lợi xã hội như bảo hiểm, nhà ở chưa tốt. Điều này ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động của người công nhân.
Lao động trong ngành Dệt May ít được qua đào tạo và đào tạo lại. Thông thường các khoá đào tạo tiến hành trong thời gian ngắn khoảng 2-3 tháng. Tay nghề công nhân thấp, do đó kéo theo năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm thấp.
Trong điều kiện làm việc như vậy nhìn chung tiền lương không cao nên người lao động không gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Đó là nguy cơ trầm trọng dẫn đến sự khan hiếm có tay nghề giỏi trong tương lai. Nhiều doanh nghiệp đang gặp tình trạng ngày càng giảm số lượng công nhân có đủ khả năng làm việc. Để đổi lại việc tìm kiếm thu nhập tốt hơn, nhiều công nhân đã chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp sản xuất có lãi thu nhập cao và ổn định hơn. Do đó, tình trạng thừa lao động thủ công thiếu công nhân tay nghề giỏi diễn ra ở hầu hết các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay.
B/Công tác đào tạo lao động quản lý ngành Dệt May Việt Nam
Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý.
Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý là lực lượng rất quan trọng cho sự phát triển của ngành Dệt May. Hiện nay ngành Dệt May đang ở trong tình trạng thiếu cán bộ quản lý giỏi, cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao. Hầu hết cán bộ chủ chốt trong ngành đều có trình độ đại học với nghiệp vụ chuyên môn khá nhưng trình độ tổ chức sản xuất theo phong cách công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Đó là một trở ngại lớn cho việc tổ chức sản xuất xắp xếp dây chuyền tại doanh nghiệp. Cán bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp phần lớn đều trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi và thành thạo về công nghệ của những sản phẩm cụ thể. Đây là một sự cảnh báo cho sự phát triển bền vững ngành Công nghiệp Dệt May.
Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật.
So sánh công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật và đội ngũ chuyên gia của ngành Dệt hiện nay so với yêu cầu đặt ra cho sự phát triển của ngành trước mắt cũng như lâu dài ta thấy một sự chênh lệch quá lớn giữa một bên có khả năng đào tạo quá bé nhỏ và một bên nhu cầu về cán bộ kỹ thuật chuyên gia giỏi rất lớn. Nguyên nhân của sự chênh lệch này là do:
Thứ nhất, mục tiêu đào tạo chưa chuyển biến kịp thực chất vẫn theo mục tiêu đào tạo đã tiếp thu từ một số nước XHCN cũ.
Thứ hai, hai trung tâm lớn nhất của nước ta đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật Dệt May là trường đại học Bách khoa Hà Nội và trường Đại học Bách Khoa TP.HCM đều có rất ít sinh viên theo ngành May, một số trường có đào tạo chuyên ngành thời trang như trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, viện Mở Hà Nội nhưng số lượng sinh viên theo học không nhiều. Trong khi đó, các kỹ sư và cán bộ kỹ thuật ra trường chậm phát huy năng lực do trình độ thực hành kém. Trình độ ngoại ngữ lại chưa đáp ứng yêu cầu công việc.
Thứ ba, việc đào tạo lại cán bộ kỹ thuật còn chưa được quan tâm.
Thứ tư, quy mô đào tạo còn nhỏ bé, mỗi năm có khoảng 50 kỹ sư, bậc trên đại học chỉ có ở hai trường đại học Bách khoa Hà Nội và TP.HCM được cho phép đào tạo do số lượng Thạc sỹ, Tiến sỹ chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Thứ năm, chưa có sự hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị nghiên cứu, đơn vị đào tạo và cơ sở sản xuất kinh doanh.
Thực trạng về đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật cho thấy số lượng cán bộ khoa học hiện nay là rất ít, trong khi đó chất lượng đào tạo là rất thấp, không đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao cuả ngành Dệt May. Các doanh nghiệp Dệt May, trong cơ chế hiện nay, yêu cầu đói người làm công tác quản lý, đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật phải là người nắm bắt được công nghệ hiện đại, cập nhật thông tin hằng ngày.
2.1.3.3. Về thiết bị công nghệ của ngành Dệt May Việt Nam
A/Thiết bị, công nghệ kéo sợi
Thiết bị
Thiết bị kéo sợi toàn ngành thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4: Hiện trạng thiết bị sợi toàn ngành Dệt May Việt Nam
Tên Công ty
Tổng số cọc
và Roto
Máy Mới
Seconhand cả dây chuyền
Seconhand không
đồng bộ
Bổ sung và nâng cấp
1.Dệt Huế
47000
2.Dệt Nam Định
105.256
24000(Nhật)
16400
3.Dệt 8-3
70280
27716
10200
4. Dệt Hà Nội
13658+320 Roto
5.Dệt Vĩnh Phú
28968
6.Dệt Thành Công
41000
15000(TQ)
26000(Nhật)
7.Dệt Đông Nam
44864
8.Dệt Thắng Lợi
104992
9.Dệt Nha Trang
108496+4600 Roto
10000 (Riester)
10.Dệt Lụa nam Định
17136
11.Dệt Việt Thắng
47200
9600( Nhật)
12.Dệt Phong Phú
29456+1600 Roto
1600Roto
( TQ)
9456
13.Dệt Hoà Thọ
18928
8928
Cộng
667124+3520 Roto
84600+1600
Roto
25856
10200
Nguồn Tổng công ty Dệt May Dệt May
Bảng trên cho ta thấy, hiện nay toàn ngành có 677124 cọc sợi va 3520 Roto. Trong đó:
Thiết bị mới hoàn toàn là 84600 cọc sợi và 1600 roto
- Thiết bị được thay thế bằng máy Seconhand của Tây Âu là 56500 cọc sợi
Thiết bị bổ sung nâng cấp là 10200 cọc sợi.
Nhìn chung, thiết bị của ngành còn rất lạc hậu, tỷ lệ số cọc mới hoàn toàn còn thấp chỉ chiếm 12,5 % tổng số cọc sợi toàn ngành, số cọc sợi được thay thế bằng hàng Seconhand của Tây Âu cũng chỉ chiếm 8,3%, thiết bị nâng cấp không đáng kể chỉ có 1,5% tức là số thiết bị được coi là hiện đại chỉ có khoảng 22,3% tổng số cọc sợi. Hiện nay đã có một số doanh nghiệp như Dệt Thành Công, Dệt Nha Trang, Dệt Phong Phú đã mua sắm thiết bị kéo sợi tiên tiến là các Roto nhưng con số này còn quá ít ỏi so quy mô thiết bị toàn ngành chỉ có 3520 Roto mà chủ yếu là của Trung Quốc (chiếm 91%).
Công nghệ
Tính đến cuối thập kỷ 80, công nghệ kéo sợi của Việt Nam vẫn còn lạc hậu, máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, một số thuộc thế hệ I, một số thuộc thế hệ II. Trình độ tự động thấp, sản phẩm đạt chất lượng thấp so với chất lượng trung bình trên thế giới, hầu hết đạt mức đường 75% của hệ thống USTER thế giới. Công nghệ kéo sợi trải thô chiếm phần lớn, sản xuất ra các loại vải có chỉ số thấp, sợi chải kỹ sản xuất đáp ứng được 3% nhu cầu trong nước.
Khi bước vào nền kinh tế thị trường, một số công nghệ mới đã được nhập như công nghệ chải bông liên hợp tự động cao sử dụng máy ghép tự động khống chế chất lượng. Nhờ đó đã có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, đạt mức đường 25% của hệ thống USTER thế giới. Nhưng nhìn chung số công nghệ cao còn quá ít, đa số công nghệ kéo sợi của ngành Dệt May Việt Nam vẫn còn đang trong tình trạng lạc hậu.
B/Thiết bị, công nghệ dêt thoi
Về thiết bị, trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp đã bỏ vốn đầu tư mua sắm thiết bị góp phần nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm; hàng ngàn máy dệt không thoi có thoi khổ rộng được nhập về, nhiều bộ mắc hồ mới phát hiện đại thay thế cho các thiết bị cũ, đến nay trong toàn ngành, máy dệt mới chiếm 25%, số lượng máy có khả năng nâng cấp chiếm 45%
Về công nghệ, đã chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động cơ chế thị trường một số công nghệ hiện đại đã được nhập như:
Công nghệ dệt sợi bông 100%: Có tiến độ trong dệt vải bảo hộ lao động, vải cào bông, xuất khẩu ( Tiệp, Tây Âu) và phục vụ nội địa. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt khăn bông có tăng trưởng mạnh mẽ hàng chục nghìn tấn cho Nhật, Đài Loan.
Công nghệ dệt vải tổng hợp: Nhờ thiết bị se, hấp giảm trọng lượng nên đã sản xuất ra được nhiều sản phẩm giả tơ, giả len cao cấp được khách hàng ưa chuộng.
Công nghệ dệt vải pha: Được phát triển mạnh mẽ, sử dụng tới 50% công suất kéo sợi toàn ngành. Công nghệ sản xuất đã tương đối đồng bộ giữa kéo sợi, dệt vải, hoàn tất tạo được nhiều sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Công nghệ tơ tằm và len: Đã mở ra khả năng mở rộng qua sản xuất thăm dò ở một số doanh nghiệp. Công nghệ kéo sợi tại công ty len Hải Phòng, dệt len tại Dệt Lụa Nam Định có nhiều triển vọng phát triển qua mặt hàng xuất khẩu phục vụ sĩ quan quân đội. Tuy nhiên trong lĩnh vực tơ tằm còn gặp nhiều khó khăn do sức cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài. Do vậy khả năng phát triển công nghiệp tơ tằm còn nhiều nghi vấn trong tương lai.
Công nghệ dệt vải Demin: đã có ở công ty liên doanh IUMBO- Sài Gòn, Phong Phú.
C/Thiết bị công nghệ dệt kim
Từ sau năm 1986, thiết bị dệt kim được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đều thuộc thê hệ mới, trong đó có nhiều loại được trang bị máy vi tính nên đã đạt năng suất cao, chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng. Tuy được đầu tư thiết bị mới, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng do: Kiến thức về thị trường xuất khẩu, kiến thức về đầu tư, về mặt hàng còn rất hạn chế trong những năm đầu của thời kỳ mở cửa; thiếu chuyên gia và công nhân lành nghề, thiếu các nhà kinh doanh và quản trị giỏi; khả năng vốn đầu tư không có, hầu hết là phải đi vay nên hạn chế trong việc phát triển. Hơn nữa, chất lượng sợi sản xuất trong nội địa thấp không đủ tiêu chuẩn để làm ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Nhiều chuyên gia nước ngoài đã khẳng định chất lượng nguyên liệu chiếm tới 70% yếu tố tạo ra sản phẩm có giá trị cao, còn thiết bị chiếm tới 30%. Chính hạn chế về nguồn cung cấp nguyên liệu đặc biệt là sợi Cotton chải kỹ, chất lượng cao nên phần lớn các doanh nghiệp đầu tư mới trong giai đoạn này đều lựa chọn phương án sản xuất dệt kim từ sợi PE/Co do ổn định được kích thước vải trên máy văng định hình. Còn vải dệt kim từ sợi Cotton hiện phần lớn phải nhập sợi để làm hàng xuất khẩu hoặc chỉ sản xuất từ sợi Cotton nội địa với số lượng hạn chế và xuất với giá trị thấp.
D/Thiết bị công nghệ in nhuộm.
Trong những năm vừa qua, ngành đã nhập một số thiết bị hiện đại của thế giới như máy nhuộm sợi Bobin Hisaka, máy Jet, máy làm bóng dệt kim tròn Dornier, máy in hoa cấy bông, máy in nhuộm hoa lưới quay, máy hồ văng định ình, máy Sanfort, comfit, cào bông, chải tuyết làm các mặt hàng từ PE/Co, Petex có khả năng sản cuất các áo Jacket, áo sơ mi. Song theo đánh giá của Bộ công nghiệp và Tổng công ty Dệt May Việt Nam, thiết bị công nghệ in nhuộm đã rất lạc hậu. Hiện nay thiết bị in nhuộm có khoảng 35% còn mới, 30% có thể nâng cấp cải tạo được, 35% phải loại bỏ dần dần đến năm 2010. In nhuộm được coi là khâu yếu nhất trong hệ thống dệt của ngành Dệt May làm cho sản phẩm dệt không đáp ứng được nhu cầu vải cho may xuất khẩu (hiện chỉ đáp ứng 10-15% nhu cầu của ngành May. Do đó, hiệu quả toàn ngành Dệt May giảm, không tạo được mối liên hệ chặt chẽ giữa ngành Dệt và ngành May trong quá trình phát triển.
E/Thiết bị, công nghệ may:
Thiết bị, công nghệ may được đánh giá là hiện đại nhất trong ngành Công nghiệp Dệt May.
Về thiết bị
Từ đầu thập kỷ 90, ngành May không ngừng đầu tư đổi mới thiết bị, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Hiện tại, công nghệ ngành may ở từng khâu sản xuất như sau:
Công đoạn cắt: Vẫn trải vải thủ công, chưa có máy trải vải, sử dụng máy cắt ban đầu, thiết bị cắt vòng, các máy cắt đảy tay tiên tiến có lực cắt khoẻ, tốc đọ cao, các máy ép dính liên tục của Đức, Nhật có năng suất cao cũng đã được sử dụng.
Công đoạn may: các máy may phần lớn là máy hiện đại có tốc độ cao, bơm đầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Máy may chủ yếu là máy JUKI của Nhật. Các máy chuyên dùng (máy may 2 kim, máy vắt, cuốn ống, thùa bằng) cũng đã được trang bị.
Xu hướng chung ngày càng nhiều máy chuyên dùng được sử dụng để nang cao năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất nhiều mặt hàng:
+ Dây chuyền may sơ mi của công ty may 10: Có tự động may cổ, may secmăng, máy tự động là áo thân
+ Dây chuyền may quần: đay chuyền đứng thao tác, nhiều bộ phận may theo chương trình tự động.
Công đoạn hoàn tất sản phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng hệ thống là hơi, tối thiểu cũng dùng bàn là treo phun nước để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Về công nghệ:
Công nghệ may cũng có sự chuyển biến kịp thời đồng bộ với thiết bị để đáp ứng nhu cầu thị trường, Công nghệ may ở các xí nghiệp bao gồm 4 giai đoạn:
Kho nguyên phụ liệu: Nguyên phụ liệu của từng mã hàng kèm theo bảng màu và số lượng được các xí nghiệp phát về từng phân xưởng.
Khâu cắt: Cát trên đồ mẫu giấy, có nhiều ghim kẹm, có giấy lót dưới bàn vỉ đảm bảo chính xác, đánh số bằng giấy theo từng cây vải hoặc giác mẫu bằng hệ thống máy vi tính.
Khâu May: công nhân tay nghề cao, các đường mí đều sử dụng cữ, gá.
Các dây chuyền may bố trí vừa và nhỏ khoảng 25-26 máy may, sử dụng 34-38 lao động, có khả năng cơ động nhanh mỗi khi có thay đổi mã hàng chỉ cần tối đa 2 ngày là có thể ổn định sản xuất. Nhân viên kiểm tra được bố trí vào các dây chuyền may chấn chỉnh sai hỏng ngay từ đầu, tránh được sai hỏng hàng loạt.
Khâu hoàn tất: Rất được coi trọng vì đây là khâu tốn thêm chất lượng sản, phần lớn dùng hệ thống là hơi, đóng túi nilon cho vào thùng caton.
Công nghệ mới ứng dụng tin học đã được một số công ty đưa vào áp dụng trong một số khâu của quá trình sản xuất như phần thiết kế được làm trên máy tính và được nháy mẫu ra nhiều cỡ khác nhau.
2.1.3.4. Về nguyên liệu sản xuất ngành Dệt May.
Trong sản xuất, nguyên liệu ngành Dệt May đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và hiệu quả sản xuất toàn ngành Dệt May. Nguyên liệu chính và được sử dụng nhiều nhất của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là bông sợi và sơ sợi tổng hợp.
A/Nguyên liệu cho ngành Dệt.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số nguyên liệu chính như bông xơ và tơ tằm nhưng với số lượng nhỏ, chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu của ngành. Phần lớn nguyên liệu phải nhập ngoại, riêng sơ sợi tổng hợp và thuốc nhuộm phải nhập gần như 100%, bông xơ phải nhập đến 90%, còn các hoá chất khác cũng phải nhập tới 80%.
Bảng 5: Tình hình nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu cho ngành Dệt
(1996-2000).
Nguyên liệu
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Bông xơ
Nghìn tấn
37,4
73,9
67,9
77,4
83,9
92,4
119,5
Sợi tổng hợp
Nghìn tấn
74,3
76,6
129,9
159,9
176,4
180,5
211,5
Nguồn: Tổng công ty Dệt May Việt Nam
Trên 80% giá trị thành phẩm ngành dệt nằm ở giá trị nguyên liệu, giá trị gia tăng chỉ chiếm 20-30%. Trong khi đó ngành Dệt Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguyên liệu cho mình. Đây chính là nguyên nhân làm cho ngành dệt của Việt Nam chưa phát triển.
B/Nguyên liệu cho ngành May
Sản phẩm đầu ra của ngành Dệt chính là nguyên liệu cho ngành May. Do sự yếu kém của ngành Dệt trong nước, chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành May, trên 85% lượng vải cung cấp cho may xuất khẩu là phải nhập khẩu. Hàng năm, ngành may phải nhập khẩu một lượng nguyên liệu rất lớn: Năm 1997 là 18,6 triệu USD, năm 1998 là 16,5 triệu USD, năm 1999 là 10,5 triệu USD, năm 2000 là 8,7 triệu USD, năm 2001 7,9 triệu USD, năm 2002 là 8,5 triệu USD. Thế nên mặc dù giá trị xuất khẩu ngành May tăng lên đáng kể qua các năm nhưng hiệu quả thu lại chưa cao.
Mong muốn thoát khỏi cảnh làm thuê phụ thuộc vào nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là mong muốn chủ quan, vừa là đòi hỏi khách quan của ngành may Việt Nam.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Dệt và các doanh nghiệp may đều muốn hợp tác với nhau vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên, có một trở ngại lớn cho sự hợp tác này đó là chất lượng và giá cả của các sản phẩm dệt trong nước hiện đang làm cho doanh nghiệp May lo ngại. Để tháo gỡ khó khăn này, không chỉ là một vấn đề để giải quyết mà đó là cả một quá trình phối hợp đầu tư giữa các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam dưới sự quản lý các ngành các cấp.
2.2.Thực trạng các giải pháp tài chính với sự phát triển ngành Dệt May Việt Nam
2.2.1.Thực trạng về vốn đầu tư của ngành Công nghiệp Dệt May
2.2.1.._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33929.doc