Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà nội

Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Kinh tế Việt nam sau hơn 10 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế không ngừng tăng, đời sống nhân dân được cải thiện, nền kinh tế bắt đầu có tích lũy. Một trong những nhân tố quan trọng góp vào thành công đó là Nhà nước Việt nam đã và đang thực hiện cải cách căn bản khu vực kinh tế Nhà nước mà chủ yếu là DNNN. Trên địa bàn Thành phố Hà nội, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố cũng đã có nhiều biện pháp tháo

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gỡ khó khăn cho DNNN, cải cách, sắp xếp lại DNNN, góp phần thúc đẩy DNNN trên địa bàn phát triển. Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước và là giải pháp cơ bản, hữu hiệu nhất trong việc cải cách DNNN, đổi mới phương thức quản lý Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, thu hút vốn đầu tư, giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên quá trình cổ phần hóa DNNN nói chung và DNNN trên địa bàn Hà nội nói riêng còn chậm so với kế hoạch. Có rất nhiều nguyên nhân gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng tới tiến trình cổ phần hóa DNNN. Trong đó, tài chính luôn là vấn đề mấu chốt bao trùm lên hầu hết các bước đi cũng như các nội dung của quá trình cổ phần hóa. Giải quyết được các vần đề tài chính khi tiến hành cổ phần hóa DNNN là yêu cầu cấp thiết hiện nay góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội” với mong muốn góp thêm nghiên cứu riêng của mình trong việc tìm ra các giải pháp tài chính để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các DNNN, đặc biệt là các DNNN do UBND Thành phố Hà nội thành lập. 2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý giải một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản về cổ phần hóa, vấn đề tài chính trong cổ phần hóa DNNN, thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng về cổ phần hóa, thực trạng vấn đề tài chính trong cổ phần hóa DNNN hiện nay đề xuất một số giải pháp về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề về tài chính mà trọng tâm là xác định giá trị doanh nghiệp, vấn đề về tăng giảm vốn và giải quyết công nợ trong cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội do UBND Thành phố thành lập. 4. Kết cấu của luận văn: Tên của luận văn: “Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội”. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục kèm theo, luận văn kết cấu làm 3 chương. Chương I: Cổ phần hóa và vai trò tài chính trong quá trìnhcổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Chương II: Thực trạng cổ phần hóa và vấn đề về tài chính trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà nội hiện nay. Chương III: Phương hướng và giải pháp tài chính góp phần thúc đẩyquá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nướctrên địa bàn Hà nội Chương I Cổ phần hóa và vai trò tài chính trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 1.1 vai trò của Dnnn trong nền kinh tế nhiều thành phần 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Phân loại theo cấp chủ quản có: - Doanh nghiệp nhà nước Trung ương là tổ chức kinh tế do cơ quan Nhà nước Trung ương có thẩm quyền đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý. - Doanh nghiệp nhà nước địa phương là tổ chức kinh tế do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan Nhà nước địa phương có thẩm quyền đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý. 1.1.2 Vai trò của DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần DNNN là bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước, DNNN thực hiện vai trò chủ lực để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy tăng trưởng nhanh kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới". Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chủ trương này của Đảng ta lại một lần nữa được khẳng định. Việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng, yêu cầu đúng đối với DNNN và trên cơ sở đó tìm ra biện pháp, chính sách, cơ chế phù hợp, hữu hiệu để thúc đẩy nó phát triển. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau: + DNNN là bộ phận chủ lực của kinh tế Nhà nước trong việc mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. + DNNN đi tiên phong trong việc xây dựng quy hoạch chiến lược, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. + DNNN đảm nhận phát triển kết cấu hạ tầng và công trình công cộng khác để tạo điều kiện mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Việc tiến hành cổ phần hóa một bộ phận DNNN, liên doanh liên kết với tư nhân trong và ngoài nước, với các thành phần kinh tế khác chính là mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. + DNNN nêu gương, tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển; DNNN đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ, gương mẫu trong việc nộp thuế. + DNNN tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. DNNN trực tiếp làm kinh tế, trực tiếp kinh doanh nhằm can thiệp sâu hơn, chủ động hơn, mạnh mẽ hơn vào các hoạt động kinh tế. Chính thông qua hoạt động này, DNNN phát triển quan hệ hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ để các thành phần kinh tế phát triển. Như DNNN đảm nhận những lĩnh vực vốn lớn, thu hồi vốn chậm, mạo hiểm nhiều rủi ro mà các doanh nghiệp khác không đủ sức làm hoặc không muốn làm. Ví dụ: Việc xây dựng kết cấu hạ tầng đường xá, điện nước, dịch vụ công ích… + DNNN là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ hiện đại, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lực lượng đóng góp nguồn thu lớn và quan trọng cho ngân sách Nhà nước. + DNNN còn góp phần quan trọng trong việc điều tiết cung - cầu của nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Ví dụ: Các doanh nghiệp làm nhiệm vụ kinh doanh lương thực, phân bón, xăng dầu, vàng bạc, đá quý… + Ngoài ra DNNN còn là lực lượng chủ lực giúp đỡ Nhà nước chăm lo các chính sách xã hội như: Khắc phục thiên tai lũ lụt, xóa đói giảm nghèo, chăm lo giúp đỡ các đối tượng chính sách xã hội. 1.1.3 Những ưu điểm và hạn chế, yếu kém của DNNN Thực hiện chủ trương của Đảng: “Tiến hành cải cách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước”, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, nghị quyết quan trọng để củng cố DNNN, thúc đẩy DNNN phát triển. Nhiều Luật, Nghị định đã tiếp tục được ban hành mới hoặc sửa đổi để tạo ra một khuôn khổ pháp lý đồng bộ và thông thoáng cho doanh nghiệp hoạt động. Hệ thống DNNN đã được tổ chức, sắp xếp lại theo một cơ cấu mới, tiến bộ hơn về chất, đã xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được xác định ngày càng rõ và hoàn thiện hơn, vai trò tự chủ kinh doanh và tự chủ về tài chính của DNNN được xác lập và ngày càng mở rộng. Với những kết quả tiến bộ trên, DNNN đã tạo ra lực lượng vật chất cần thiết để tác động, chi phối và hợp tác trong việc thực hiện các cân đối chủ yếu của nền kinh tế, bước đầu phát huy vai trò mở đường và làm đòn bẩy trên một số mặt để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, góp phần giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội, hướng vào việc từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, làm cơ sở cho việc hình thành chế độ mới - chế độ XHCN. * Những ưu điểm: - Các DNNN nắm giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực công nghiệp, giao thông, xây dựng, xuất nhập khẩu nên tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phi Nhà nước phát triển. Đặc biệt là đối với sản phẩm thủ công của các làng nghề, các hợp tác xã, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tiềm lực và trình độ quan hệ với đối tác quốc tế hoặc không có điều kiện đầu tư lớn và hiện đại. Do đó, các DNNN hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là nơi đảm bảo “đầu ra”, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho khu vực kinh tế này. - Nhiều DNNN có vai trò rất lớn trong việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như: xoá đói giảm nghèo, giúp đồng bào gặp thiên tai, giúp đỡ các gia đình, đối tượng chính sách. Những kết quả đạt được của DNNN trong thời gian qua tuy có ý nghĩa rất quan trọng nhưng chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của DNNN. * DNNN còn nhiều hạn chế, yếu kém cơ bản là: + DNNN còn nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo theo cơ quan quản lý và ngành nghề. Đến nay, trong cả nước có 5.000 doanh nghiệp với tổng số vốn Nhà nước khoảng 116.000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp gần 22 tỷ đồng. Số DNNN có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng còn chiếm 65,45%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng chiếm 20,89%. Tại 51 tỉnh, trên 50% số doanh nghiệp có số vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng. ở các địa phương, hơn 30% số DNNN có mức vốn Nhà nước dưới 1 tỷ đồng; các tỉnh: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kom Tum, Hà Tây, Nam Định, Hà Nam có hơn 60% số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng; các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn, nhà hàng chiếm 27% tổng số DNNN; nhưng vốn Nhà nước bình quân chỉ có 9,9 tỷ đồng. ở các địa phương, các DNNN trong lĩnh vực này chiếm tới 72,6% về số lượng doanh nghiệp nhưng chỉ chiếm 48,6% về vốn Nhà nước và bình quân vốn Nhà nước ở một số địa phương chỉ có 6,65 tỷ đồng. Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu vực Nhà nước. Hiện nay, trên một sân bay có khoảng 4-5 doanh nghiệp của Tổng công ty hàng không Việt Nam và Cục hàng không cùng kinh doanh , vừa chồng chéo, vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng, cơ khí… + Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn nhất đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Phần lớn các DNNN được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước khác nhau (Liên Xô cũ, các nước Đông Âu, các nước ASEAN, Bắc Âu…) và thuộc các thế hệ khác nhau. Ngoài một số ít công ty có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực (lắp ráp điện tử, sản xuất sợi, dệt, thi công xây lắp, sản xuất thiết bị đo điện…), còn lại máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, thậm chí đến 30 năm như sản xuất phôi thép, cơ khí. Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10% (trong chế biến thủy sản), hao mòn hữu hình từ 30 - 50%, đã qua sửa chữa 52%. Thậm chí có 38% thiết bị ở dạng thanh lý, nhưng vẫn được sử dụng. Theo thời gian hình thành thì máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải được sản xuất cách đây 30 năm chiếm 11,3%, cách đây từ 10 năm trở lên là 31,5%, từ 10 năm trở lại đây là 57,2%, trong đó từ 1996 trở lại đây là 44,7%. Tình hình này dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của các doanh nghiệp này là rất thấp. Chỉ có 15% sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng xuất khẩu. Đến giữa năm 1999 mới chỉ có 70 doanh nghiệp Nhà nước được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000 và 16 doanh nghiệp khác đang đề nghị xem xét. Đến hết tháng 2 năm 2002 đã có 114 DNNN được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000. (Nguồn số liệu: - Thực trạng DNNN của TP Hà nội - Cơ chế chính sách đặc thù phát triển Thủ đô HN - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội, 2003. - theo số liệu thống kê của Tổng Cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng.) + Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN chưa cao và đang giảm dần. Tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN sau thời gian liên tục đạt 13% thì đến năm 1998 và 1999 giảm xuống còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Tỷ lệ tương ứng của năm 1998 là 2,9 và 0,14. Năm 1998, theo kết quả đánh giá phân loại có 40% số DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, 20% số DNNN kinh doanh không có hiệu quả, bị lỗ liên tục; có 40% số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả, năm thì lãi, năm thì lỗ hoặc lãi rất thấp. Công nợ trong các DNNN hiện nay còn nhiều tồn tại, các DNNN chiếm dụng vốn lẫn nhau, nhiều khoản nợ không có đối tượng, các khoản nợ khó đòi và nợ quá hạn đang là gánh nặng cho các DNNN. Tình hình này làm cho tình hình tài chính của các doanh nghiệp luôn ở trong tình trạn mất cân đối, nguy cơ phá sản luôn có khả năng xảy ra. Năm 1996, tổng số nợ phải trả của DNNN là 110.656 tỷ đồng và nợ phải thu là 64.141 tỷ đồng. Năm 1999, tổng số nợ phải trả của các DNNN là 126.366 tỷ đồng và nợ phải thu là 72.644 tỷ đồng. Năm 2000 tổng số nợ phải thu của các DNNN là 187.091 tỷ đồng và nợ phải trả là 353.409 tỷ đồng. Năm 2002, tổng số nợ phải trả là 188.898 tỷ đồng và tổng số nợ phải thu là 87.977 tỷ đồng. Tình trạng tài chính không lành mạnh một phần do lịch sử để lại, phần khác do phát sinh mới chưa được xử lý kịp thời và dứt điểm làm cho hạch toán méo mó. (Nguồn dữ liệu: Báo cáo tình hình DNNN của Cục TCDN) + Lao động thiếu việc làm và dôi dư đang là một khó khăn lớn và là gánh nặng chưa thể giải quyết ngay đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và xã hội đến cuối năm 2000 số lao động không có việc làm trong các DNNN khoảng 6%. Nhưng thực tế nhiều DNNN có số lao động quá lớn so với yêu cầu. Đa số DNNN có số lao động đã lớn tuổi, gây khó khăn cho việc thay đổi máy móc, thiết bị công nghệ mới (số lao động này đào tạo lại không có hiệu quả). (Nguồn dữ liệu: báo cáo về tình hình lao động, việc làm đến 31/12/2000 – Bộ LĐTBXH) Nguyên nhân chủ yếu bao trùm của những yếu kém và tồn tại của DNNN là do quan hệ sản xuất chưa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhiều chủ trương chính sách thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước còn bất cập, chưa đồng bộ. Trình độ chuyên môn và quản lý cán bộ trong các DNNN chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Cụ thể ở một số mặt sau: - Chưa có quy hoạch, chiến lược kinh doanh và kế hoach dài hạn về phát triển DNNN nên thiếu chủ động, còn lúng túng, sai sót trong đầu tư và phát triển doanh nghiệp. Nhiều cơ chế chính sách chỉ mang tính giải pháp tình thế, vá víu, thiếu bài bản, không ổn định, chưa tạo được thị trường ổn định và rộng lớn. Từ đó, dẫn đến đầu tư thiếu trọng tâm, kém hiệu quả, gây nhiều lãng phí, thất thoát. - Thiếu vốn để duy trì sản xuất và thay đổi công nghệ mới của các DNNN vẫn được giải quyết. Nhưng việc quản lý và sử dụng lại kém hiệu quả; Vốn thực tế huy động vào trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không cao, gần 50% bị khê đọng trong tài sản, vật tư, hàng hóa kém, mất phẩm chất, công nợ không thu hồi được, đầu tư liên doanh liên kết kém hiệu quả làm mất vốn… - Hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế quản lý duy trì khá đồng bộ nhưng chưa tạo được động lực mạnh mẽ cho doanh nghiệp. Nhiều cơ chế chính sách còn gò bó hoặc không sát với thực tế nên không phát huy được tác dụng. Điều đáng quan tâm là mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh trong DNNN chưa được pháp luật của Nhà nước quy định rõ ràng, nên tính tự chủ của DNNN không được đảm bảo. Những nguyên nhân trên đã gây nhiều trở ngại khó khăn cho DNNN trong việc thực hiện vai trò chủ lực, giúp kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 1.2 Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 1.2.1 Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Theo điều 1 thông tư 50 TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính: “DNNN chuyển thành công ty cổ phần (hay còn gọi là cổ phần hoá DNNN) là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu nhà nước”. Như vậy, xét về hình thức: Nhà nước sẽ bán một phần hay toàn bộ cổ phiếu của mình cho các cá nhân, các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, kể cả người lao động. Những người mua cổ phiếu sẽ trở thành thành viên của công ty cổ phần, có quyền và trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp của mình. Xét về bản chất: cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường. 1.2.2 Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Xuất phát từ thực trạng hoạt động yếu kém của DNNN đã nêu ở trên. - Xuất phát từ yêu cầu đổi mới quản lý kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc sắp xếp lại các DNNN là điều hết sức cần thiết nhằm cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước: - Cắt giảm số lượng DNNN đang quá lớn và đang chi phối quá sâu vào mọi hoạt động của kinh tế. Việc duy trì DNNN để thực hiện vai trò điều tiết trong nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi cần thiết, nhưng phải thấy rõ nền kinh tế thị trường chỉ chấp nhận sự duy trì mức độ hợp lý của hệ thống DNNN để dảm bảo chức năng điều tiết hiệu quả. - Phát triển các thành phần kinh tế (dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau) trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Do việc quá chú trọng vào phát triển khu vực DNNN nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế khác trong hệ thống kinh tế nước ta mới chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ và hầu như không có điều kiện phát triển trước sự hoạt động thống trị của khu vực DNNN. Trước những yêu cầu này, cổ phần hoá chính là một giải pháp có khả năng thực hiện được cả hai nhiệm vụ quan trọng này. Thông qua việc chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần, cổ phần hoá thực hiện cắt giảm số lượng DNNN trên cơ sở chỉ duy trì lại những DNNN thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế, đồng thời thiết lập những hình thức sở hữu hỗn hợp ở các mức độ khác nhau, tạo ra sự dung hoà và kết hợp giữa thành phần kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, Nhà nước thông qua hình thức sở hữu cổ phần có thể chủ động và linh hoạt điều chỉnh phạm vi hoạt động của mình đối với nền kinh tế cho phù hợp với điều kiện thị trường thông qua quá trình mua hay bán cổ phần Nhà nước. Với ý nghĩa như vậy, cổ phần hóa sẽ tạo ra một sự chuyển đổi và phát triển dần dần sang nền kinh tế thị trường chứ không tạo ra sự thay đổi đột ngột như các giải pháp tư nhân khác, từ đó dễ dàng bảo đảm được sự ổn định về kinh tế chính trị trong quá trình thực hiện chuyển đổi và xây dựng nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, có thể thấy một nền kinh tế thị trường chỉ có thể phát triển khi bản thân nó được cấu thành bởi các tế bào kinh tế - các tổ chức doanh nghiệp phát triển ở trình độ tương ứng. Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh tiến bộ có khả năng huy động vốn lớn và sử dụng vốn hiệu quả, và cần thiết cho phát triển của nền kinh tế thị trường. Do vậy, thực hiện cổ phần hoá là một biện pháp để hình thành công ty cổ phần trong điều kiện nước ta lúc này sẽ là rất cần thiết. Trong một chừng mực nhất định, cổ phần hoá sẽ còn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán, hoàn thiện thị trường vốn của nền kinh tế thị trường vẫn đang còn ở giai đoạn sơ khai ở nước ta. Công ty cổ phần có tính ưu việt cơ bản là: Thứ nhất: Tạo ra khả năng huy động vốn rộng rãi (mọi chủ thể kinh tế, mọi tầng lớp dân cư) trong thời gian ngắn với quy mô lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là tiền đề để mở rộng nhanh quy mô kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặt khác, vốn có thể được chuyển dịch giữa các nhà đầu tư trong và ngoài doanh nghiệp nên tính chất xã hội hoá rất cao, tạo ra khả năng sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Tính ưu việt này không có ở các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và DNNN. Thứ hai: Phương thức quản lý của công ty cổ phần tạo ra sự ràng buộc và giám sát lẫn nhau giữa toàn thể cổ đông (thông qua điều lệ doanh nghiệp và đại hội cổ đông), HĐQT, Ban giám sát và giám đốc trong việc điều hành doanh nghiệp. Mỗi bộ phận, mỗi thành viên có lợi ích gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp, vì vậy tạo ra động lực bên trong của mỗi hoạt động quản lý. ở đây vai trò quan trọng nhất là HĐQT được Hội nghị cổ đông lựa chọn thay mặt họ quản lý điều hành doanh nghiệp. Họ thường là những người có cổ phần lớn trong công ty nên buộc họ phải gắn chặt số phận của mình với doanh nghiệp. Nếu quản lý tốt, có lãi nhiều thì họ được chia cổ tức nhiều, ngược lại, nếu điều hành kém, thiếu trách nhiệm, doanh nghiệp bị thua lỗ thì chính họ bị mất nhiều nhất. Vì vậy, HĐQT công ty mang tính tập thể cao bao gồm những người có năng lực quản lý điều hành tốt. Họ vừa phải hợp tác với nhau vì lợi ích chung của công ty, vừa giám sát lẫn nhau trong quá trình điều hành kinh doanh. Thứ ba: Do tính xã hội hóa cao về vốn nên người lao động trong công ty cổ phần cũng có thể góp vốn kinh doanh của mình đầu tư vào doanh nghiệp. Vì vậy, quyền lợi của họ gắn chặt với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra động lực tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động. Thứ tư: Công ty cổ phần tách rời quyền sở hữu về vốn và quyền quản lý kinh doanh. Như vậy công ty sẽ huy động mặt mạnh của từng đối tượng: người có tiền và người có tài quản lý kinh doanh, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, những khả năng này không đan xen cản trở nhau mà hỗ trợ nhau phát triển. Thứ năm: Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro, hạn chế những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội. Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt, chính từng công ty cũng có thể mua cổ phiếu của các công ty khác để tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Nói chung người đầu tư có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau, do đó sự rủi ro được phân tán, làm giảm bớt thiệt hại của người đầu tư vào một công ty khi công ty bị phá sản. Tóm lại, công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trường, là kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh văn minh và tiến bộ của nhân loại. Tính ưu việt riêng có của công ty cổ phần đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Với những phân tích trên đây, có thể kết luận cổ phần hoá DNNN là một giải pháp cần thiết mang tính chiến lược cho công cuộc cải cách khu vực DNNN và đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 1.2.3 Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 1.2.3.1 Đối tượng, mục tiêu cổ phần hoá ở nước ta, cổ phần hóa được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới, sắp xếp DNNN. Theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN được ban hành kèm theo Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng chính phủ, DNNN được phân loại như sau: - Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. - Nhà nước nắm giữ cổ phần khi cổ phần hoá. - Nhà nước không giữ cổ phần khi cổ phần hoá. Như vậy, các DNNN cổ phần hoá chỉ cần thoả mãn một điều kiện là doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP đối tượng áp dụng cổ phần hoá là các doanh nghiệp và đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp quy định tại Điều 1 của luật DNNN (trừ những doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ), không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục tiêu cổ phần hoá: Theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002, việc cổ phần hoá nhằm các mục tiêu: - Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp. - Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. - Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. 1.2.3.2 Hình thức cổ phần hoá Theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần, tuỳ theo tình hình và yêu cầu cụ thể, các DNNN có thể lựa chọn và vận dụng một trong bốn hình thức cổ phần hoá sau: - Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu nhằm thu hút thêm vốn. Theo hình thức này thì giá trị cổ phần của Nhà nước góp vào công ty bằng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trừ đi chi phí cổ phần hoá, giá trị ưu đãi cho ngưòi lao động và giá trị phần trả dần của ngưòi lao động nghèo theo quy định của Nhà nước. - Bán một phần giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Theo hình thức này thì Nhà nước sử dụng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để bán cho các cổ đông. - Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Theo hình thức này, Nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần. - Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. 1.2.3.3 Quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước DNNN chuyển thành công ty cổ phần tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: chuẩn bị cổ phần hoá 1/ Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hội đồng quản trị Tổng công ty 91 xây dựng phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chịu trách nhiệm tổ chức thức hiện từng năm. 2/ Các DNNN trong danh sách cổ phần hoá có công văn báo cáo cơ quan chủ quản (Bộ, UBND tỉnh, thành phố...) danh sách các thành viên trong ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. 3/ Cơ quan chủ quản cấp trên quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá qua từng năm và quyết định thành lập ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp, thành phần gồm: giám đốc (phó giám đốc) làm trưởng ban, kế toán trưởng là uỷ viên thường trực, các trưởng phòng ban khác làm uỷ viên và mời bí thư Đảng uỷ, chủ tịch công đoàn làm uỷ viên. 4/ Cơ quan chủ quản phổ biến các văn bản về cổ phần hoá cho ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. 5/ Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền giải thích cho người lao động những chí hướng chính sách để tổ chức thực hiện. 6/ Ban đổi mới tại doanh nghiệp chuẩn bị: a, Các hồ sơ pháp lý khi thành lập doanh nghiệp: Các văn bản pháp lý về bản đồ địa chính, giấy cấp đất, giấy phép xây dựng các công trình đã có, diện tích đất thuộc khu vực sản xuất kinh doanh của công ty, thuộc phúc lợi tập thể, thuộc nhà ở của cán bộ công nhân viên chức. b, Tình hình công nợ, tài sản nhà xưởng, vật kiến trúc đang quản lý: + Về tài sản cố định: hạch toán toàn bộ tài sản cố định hiện có vào sổ sách, những tài sản cố định và giá trị đầu tư xây dựng cơ bản dở dang chưa có nguồn vốn bảo đảm thì phải xử lý nguồn vốn, những dự án đầu tư đã hoàn thành chưa quyết toán thì phải tiến hành quyết toán, những tài sản cố định không cần dùng thì điều chuyển đi nơi khác sử dụng, những tài sản cố định cần thanh lý, phân tích rành mạch các nguồn vốn hình thành tài sản cố định, những chương trình và đề tài khoa học công nghệ thuộc nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn các Bộ, mức độ hoàn thành. + Rà soát từng khoản công nợ theo các mức độ có khả năng và không có khả năng thu hồi. Các khoản phải trả cũng rà soát chi tiết cho từng đối tượng. Xem xét lại các khoản vay ngân hàng, liên kết, phải thanh toán với cán bộ công nhân viên... c, Vật tư hàng hoá ứ đọng kém mất phẩm chất và đề ra hướng giải quyết. Soát xem lại toàn bộ nguyên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ hàng hoá không cần dùng để điều phối đi nơi khác sử dụng hoặc nhượng bán để thu hồi vốn, thanh lý theo chế độ hiện hành. d, Danh sách lao động của doanh nghiệp đến thời điểm cổ phần hoá. Xác định số lượng năm công tác, dự kiến số lao động nghèo được mua cổ phần theo giá ưu đãi của Nhà nước trả dần trong 10 năm. e, Dự toán chi phí cổ phần hoá cho đến khi hoàn thành đại hội cổ đông lần thứ nhất. (chi phí thuê kiểm toán cũng được dự toán vào chi phí này nếu doanh nghiệp cần thuê kiểm toán) Bước 2: Xây dựng phương án cổ phần hoá. 1/ Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê tài sản vật tư, tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp. Phân loại: tài sản đang dùng, tài sản không cần dùng, tài sản xin thanh lý, tài sản được hình thành quỹ khen thưởng, phúc lợi của doanh nghiệp. 2/ Căn cứ số liệu trên sổ sách kế toán và kết quả kiểm kê đánh giá lại giá trị tài sản của doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan quản lý giải quyết những vướng mắc về tài chính, lao động, đất đai và dự kiến đề nghị giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. 3/ Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lập phương án cổ phần hoá doanh nghiệp và dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. - Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án để mọi người lao động cùng biết, thảo luận. - Tổ chức đại hội công nhân viên chức lấy ý kiến về dự thảo phương án để hoàn thiện. - Hoàn thiện phương án trình lại cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoàn chỉnh dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần để trình đại hội cổ đông xem xét quyết định. 4/ Quyết định giá trị thực tế của doanh nghiệp. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp, quyết định giá trị doanh nghiệp, phê duyệt phương án cổ phần hóa để chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo hướng dẫn của các cơ quan có liên quan. Đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước cần giữ cổ phần đặc biệt thì phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bước 3: triển khai thực hiện phương án cổ phần hoá. 1/ Ban đổi mới quản lý tại doanh ngh._.iệp. - Mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông. - Thông báo công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp cho đến thời điểm cổ phần hoá. - Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán cổ phần, tổ chức bán cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông. 2/ Trưởng ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp triệu tập đại hội cổ đông lần thứ nhất để bầu HĐQT, ban kiểm soát, thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Bước 4: ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh. 1/ Giám đốc, kế toán trưởng doanh nghiệp với sự chứng kiến của ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lý tài chính DNNN bàn giao cho HĐQT công ty cổ phần lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách, hồ sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu, sổ sách của doanh nghiệp. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại (nếu có) cho HĐQT và công bố tự giải thể từ ngày ký biên bản bàn giao. 2/ HĐQT công ty cổ phần hoàn tất những công việc còn lại. - Xin khắc dấu công ty cổ phần, nộp lại dấu cũ (nếu có). - Lập bảng kê đề nghị kho bạc tỉnh thành phố cung cấp cho các cổ đông tờ cổ phiếu phù hợp với số cổ phần của các cổ đông. - Tổ chức ra mắt công ty cổ phần: công bố trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo bằng văn bản. - Đăng ký với Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở. Các bước công việc trên đây có mối liên hệ hữu cơ, một số bước có thể tiến hành song song để rút ngắn tiến trình cổ phần hoá. 1.2.3.4 Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp cổ phần hoá Một DNNN sau khi hoàn tất việc cổ phần hoá, doanh nghiệp sẽ không còn tồn tại dưới loại hình DNNN nữa mà chuyển sang loại hình công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, không chịu sự điều tiết chính của Luật doanh nghiệp Nhà nước. Khi đã chuyển đổi sang công ty cổ phần thì địa vị pháp lý của công ty hoàn toàn tuân thủ theo quy định của pháp luật về công ty cổ phần. * Về mặt tổ chức quản lý: Sau khi cổ phần hoá, chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông đang nắm giữ cổ phiếu. Song phần lớn các cổ đông không tham gia quản lý trực tiếp mà giao cho bộ máy quản lý của công ty điều hành. Các cổ đông tham gia quyết định phương hướng và những vấn đề cơ bản của doanh nghiệp thông qua đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, thảo luận thông qua điều lệ công ty, quyết định phương hướng nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch kinh doanh hàng năm, bầu và bãi miễn thành viên HĐQT và kiểm soát viên, quyết định về cơ chế tài chính. - Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất, có trách nhiệm tập thể trong việc quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần trong phạm vi luật pháp. Số lượng thành viên HĐQT do đại hội cổ đông quyết định và ghi vào điều lệ công ty. Nhiệm kỳ của Chủ tịch HĐQT trùng với nhiệm kỳ của HĐQT. Chủ tịch HĐQT là ngưòi chịu trách nhiệm chuẩn bị các chương trình nghị sự, tổ chức xây dựng và dự thảo các văn bản nghị quyết của đại hội đồng cổ đông, triệu tập và điều hành đại hội đồng cổ đông chỉ đạo giám đốc điều hành chuẩn bị báo cáo về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. - Giám đốc điều hành HĐQT đại diện cho chủ sở hữu, không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo điều lệ HĐQT có thể cử ra một người trong số thành viên hoặc có thể thuê một người khác làm giám đốc. Giám đốc là người trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị. Giúp việc cho giám đốc còn có các phòng ban chuyên môn như các phòng ban của DNNN. - Ban kiểm soát Nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông, Hội đồng quản trị bầu ra ban kiểm soát. Những người này không phải là thành viên Hội đồng quản trị hoặc giám đốc. Như vậy, về mặt tổ chức của công ty cổ phần, quyền chủ sở hữu tách rời quyền kinh doanh. Các giám đốc không phải chỉ định như trong DNNN mà qua tuyển chọn của Hội đồng quản trị. Do đó giám đốc DNNN sau khi cổ phần hóa chưa chắc đã được làm giám đốc tiếp nữa. * Về mặt sở hữu: Công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu đó là các cổ đông, song phần lớn các cổ đông không tham gia quản lý trực tiếp mà giao cho bộ máy công ty điều hành. Các cổ đông thực hiện quyền sở hữu trên các mặt. - Thu lợi tức cổ phần. - Quyết định các vấn đề có tính chất chiến lược của công ty khi tham gia đại hội cổ đông. * Về mặt pháp lý: Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. * Về mặt phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Việc phân phối lợi nhuận của công ty cổ phần dựa vào vốn góp của các cổ đông và hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần, lợi nhuận sau thuế của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết, phần còn lại được chia đều cho các cổ phần. Mức lợi tức của các cổ phần phụ thuộc trực tiếp vào trình độ và kết quả kinh doanh của công ty. Mức lợi tức cổ phần cao không những có lợi cho các cổ đông mà còn ảnh hưởng trực tiếp làm tăng giá cổ phiếu của công ty trên thị trường chứng khoán. 1.3 Tác động tài chính chủ yếu trong và sau quá trình cổ phần hóa dNNN Có thể nói mục đích của cổ phần hoá DNNN là nhằm thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng cường về nguồn tài chính cho các doanh nghiệp cũng như tạo điều kiện để Nhà nước tập trung đầu tư các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế và tạo cơ sở thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Ngoài ra, DNNN có mặt ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành khác nhau của nền kinh tế và hình thành từ nhiều nguồn gốc, thành lập trong những thời gian khác nhau. Xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào để đảm bảo tính chính xác, Nhà nước không bị mất vốn và người mua có thể chấp nhận được là một điều hết sức khó khăn. Đồng thời, xác định được giá trị doanh nghiệp thì mới xác định được cổ phần để chuyển quyền sở hữu. Như vậy, việc giải quyết các vấn đề tài chính là vấn đề mấu chốt bao trùm lên hầu hết các bước đi cũng như các nội dung của quá trình cổ phần hoá. Tác động về tài chính đối với cổ phần hoá DNNN chủ yếu trên các mặt: - Vấn đề công nợ. - Xác định giá trị doanh nghiệp. - Vấn đề về vốn sau khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần. 1.3.1 Vấn đề công nợ Trong hoạt động của doanh nghiệp luôn có nợ phải thu và nợ phải trả. Nợ phải thu của doanh nghiệp là những khoản nợ mà khách hàng hoặc các đối tượng khác phải có trách nhiệm trả lại cho doanh nghiệp đó. Nợ phải trả của một doanh nghiệp là những khoản tiền mà doanh nghiệp đang nợ và phải có trách nhiệm thanh toán. Việc xử lý công nợ phải tiến hành với từng khách nợ và chủ nợ, trên cơ sở đó xác định lại những khoản nợ phải thu hồi hoặc phải thanh toán, đồng thời cũng xác định rõ những khoản nợ không có khả năng thu hồi hoặc không phải thanh toán để loại trừ ra khỏi bảng cân đối tài sản từ đó xác định chính xác giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Hiện nay, trong các DNNN ở nước ta nói chung tình hình nợ đọng rất lớn và việc giải quyết dứt điểm các khoản nợ này là rất khó khăn. Chính việc nợ đọng lớn giữa các đơn vị kinh tế làm cho tình hình tiền vốn của các doanh nghiệp đã eo hẹp lại càng thêm khó khăn. Một DNNN có thể vừa là chủ nợ lại vừa là người nợ. Song dù là người nợ hay là chủ nợ thì khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần đều phải tích cực thu xếp và giải quyết các khoản nợ hay nói cách khác là phải làm trong sạch doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá. Rõ ràng rằng một doanh nghiệp nợ nhiều hoặc bị nợ nhiều cũng đều bị giảm tính hấp dẫn đối với cổ đông. Chính vì thế, ảnh hưởng tới tốc độ cổ phần hoá DNNN. Nếu việc xử lý nợ giải quyết tốt dẫn tới xác định nhanh và chính xác giá trị doanh nghiệp sẽ thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. 1.3.2 Xác định giá trị doanh nghiệp Đây là vấn đề trung tâm nhất của công tác cổ phần hoá cũng như là vấn đề được các cổ đông chú ý nhất. Nếu việc xác định giá trị doanh nghiệp không khách quan, không hợp lý đều tác động không tốt đến công tác cổ phần hoá. Cụ thể là: nếu xác định giá trị doanh nghiệp quá thấp sẽ gây nên tình trạng thất thoát nguồn tiền vốn của Nhà nước làm cho quá trình cổ phần hoá lẽ ra là quá trình có tác động tích cực đến nền kinh tế xã hội lại trở thành quá trình gây tổn thất cho nền kinh tế xã hội; nhưng ngược lại nếu xác định giá trị doanh nghiệp quá cao sẽ không được các cổ đông chấp nhận và do vậy làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Như vậy, nếu có phương pháp định giá chuẩn Nhà nước sẽ không bị mất vốn mà người mua có thể chấp nhận được đảm bảo quyền lợi cho cả Nhà nước và các cổ đông khác. Xác định giá trị doanh nghiệp là sự đánh giá về giá trị (hoặc 1 phần được xác định rõ ràng) của một doanh nghiệp hoặc một công ty. Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua người bán cổ phần đều chấp nhận được, nó là giá cả thực tế mà người mua trả cho người bán khi nhận quyền sở hữu doanh nghiệp. Theo Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế sử dụng thì: “tài sản là một nguồn lực được kiểm soát bởi doanh nghiệp như một kết quả của các sự kiện từ quá khứ và qua đó các lợi ích kinh tế tương lai được mong đợi đến với doanh nghiệp”. Đánh giá doanh nghiệp chính xác sẽ tránh thiệt hại cho bên bán, bên mua. Khi giá doanh nghiệp được xác định thấp hơn giá trị thực của doanh nghiệp thì gây thiệt hại cho cho người bán (là Nhà nước). Ngược lại nếu định giá cao hơn giá trị doanh nghiệp thì gây thiệt hại cho người mua và không bán được cổ phần của doanh nghiệp. * Các nhân tố xác định giá trị doanh nghiệp: - Giá trị tài sản của doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp gồm: + Tài sản hữu hình: đất, mặt nước, mặt biển hình thành do việc phải chi phí để mua. Nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, vật tư hàng hóa, phương tiện vận tải truyền dẫn, thiết bị dụng cụ quản lý.… + Tài sản vô hình: quyền sử dụng, chi phí thành lập chuẩn bị sản xuất, bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lợi thế thương mại, độc quyền nhãn hiệu và thương hiệu.… Tất cả các tài sản của doanh nghiệp được theo dõi trong quá trình sử dụng tại doanh nghiệp bằng hệ thống kế toán. Việc xác định giá trị thực tế tài sản tại doanh nghiệp dựa trên hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá trị thị trường tại thời điểm cổ phần hoá. - Khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận, thể hiện lợi ích mà doanh nghiệp mang lại cho nguồn đầu tư nên nó là nhân tố quan trọng xác định giá trị doanh nghiệp. - Quan hệ cung cầu của doanh nghiệp. Quan hệ cung cầu ảnh hưởng rất lớn đến giá trị doanh nghiệp, việc đánh giá được quan hệ cung cầu cũng là yếu tố quan trọng khi xác định giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó có nhân tố về tình hình kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến giá của doanh nghiệp. Nếu nhân tố này trong trạng thái bất ổn định thì chắc chắn giá cả của doanh nghiệp giảm xuống. * Các căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp: - Số liệu sổ sách chứng từ kế toán liên quan. - Số liệu kiểm kê thực tế. - Số liệu kiểm kê tài sản, tiền vốn, vật tư hàng hoá..., bản đối chiếu xác nhận công nợ, các tài liệu về liên doanh liên kết, đầu tư tài chính. - Hiện trạng và giá hiện hành của từng loại tài sản vật tư hàng hóa. * Các phương pháp định giá doanh nghiệp: a, Phương pháp giá trị tài sản thuần: Phương pháp giá trị tài sản thuần xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường của các loại tài sản. Theo phương pháp này, giá trị thị trường của tài sản được tính toán dựa trên bảng cân đối tài sản và tham khảo giá thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại. Phương pháp này cũng giả định rằng: tổng giá trị của các tài sản hữu hình tạo thành doanh nghiệp sau khi trừ đi các khoản công nợ. Phương pháp này thường được áp dụng đối với những doanh nghiệp có những đặc trưng sau: + Doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh loại trừ các doanh nghiệp được định giá theo phương pháp dòng tiền chiết khấu. + Doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận thất thường. + Doanh nghiệp trong quá trình giải thể. + Xác định giá trị sàn của doanh nghiệp. Nguyên tắc của phương pháp này: VE = VA - VD VE: giá trị thị trường của vốn cổ phần. VA: giá trị thị trường của toàn bộ tài sản. VD: giá trị thị trường của công nợ. Bảng cân đối kế toán của đơn vị bao gồm: * Bên tài sản: + Tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn: Tài sản bằng tiền: tính theo số dư vốn bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu xác nhận với Ngân hàng tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải đánh giá lại theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với các khoản phải thu là các khoản nợ đã đối chiếu, xác nhận hoặc đang luân chuyển tại thời điểm định giá. Đối với các khoản chi phí dở dang (bao gồm: chi phí SXKD, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu tư XDCB) thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán. Đối với tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã đối chiếu xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với hàng hóa tồn kho xác định theo khối lượng, giá trị thực tế của hàng hóa, đối với công cụ dụng cụ quản lý đã phân bổ hết giá trị nhưng đến thời điểm cổ phần hóa doanh nghiệp vẫn còn đang sử dụng thì phải đánh giá lại để tính bổ sung vào giá trị doanh nghiệp. Đối với các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa thì được tính theo số dư trên sổ sách kế toán. + Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị và phương tiện giao thông. Những tài sản dự kiến sẽ tiếp tục sử dụng sau khi chuyển thành công ty cổ phần sẽ được đánh giá lại. Những tài sản doanh nghiệp không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý được loại trừ không đánh giá lại, không tính vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Giá trị thực tế của tài sản được xác định trên cơ sở giá thị trường và chất lượng của tài sản tại thời điểm định giá. Chất lượng của tài sản được xác định bằng giá trị còn lại theo tỷ % so với nguyên giá tài sản mới mua sắm hoặc mới đầu tư xây dựng. + Đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị tiếp tục sử dụng thì chất lượng tài sản không dưới 20%. + Đối với tài sản là phương tiện giao thông tiếp tục sử dụng thì chất lượng tài sản phải không dưới 20% và phải đảm bảo các điều kiện để lưu hành theo quy định của Bộ Giao thông vận tải. Đối với những tài sản cố định đã hết khấu hao nhưng đến thời điểm cổ phần hóa doanh nghiệp vẫn đang sử dụng thì phải đánh giá lại để bổ sung vào giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc xác định chất lượng của tài sản. Đối với tài sản vô hình (nếu có) thì tính theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ sách kế toán. Đối với các khoản đầu tư tài chính dài hạn mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa thì được tính theo số dư trên sổ kế toán. * Bên nguồn vốn gồm có: + Nợ ngắn hạn: Các khoản phải trả và các khoản vay ngắn hạn. + Nợ dài hạn: Vay dài hạn và các khoản vay khác. + Vốn của chủ sở hữu: Vốn kinh doanh Các quỹ doanh nghiệp b, Phương pháp dòng tiền chiết khấu: ã Cách tiếp cận này dựa trên nguyên tắc tư bản hóa và với giả định rằng có thể dự đoán được các mức doanh thu trong tương lai và các rủi ro đi kèm. Tiền đề cơ bản của học thuyết tài chính này là: - Dự đoán về dòng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất. - Chiết khấu dòng tiền này về giá trị hiện tại sử dụng một tỷ lệ chiết khấu phản ánh được (giá trị thời gian của tiền và độ rủi ro của dòng tiền). - Tính đến giá trị của tài sản thặng dư và các công nợ dài han. ã Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp có đặc trưng sau: + Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành dịch vụ thương mại, dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, dịch vụ tài chính, kiểm toán, tin học và chuyển giao công nghệ, có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân 5 năm liền kề của doanh nghiệp trước cổ phần hóa cao hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. ã Nguyên tắc của phương pháp này: n Di Pn P = ồ --------- + ----------- i = 1 (1+K)i (1+K)n Trong đó: Di ------------- : là giá trị hiện tại của cổ tức năm thứ nhất (1+K)i Pn --------------- : là giá trị hiện tại của nhà nước năm thứ n (1+K)n P : giá trị thực tế vốn Nhà nước Di : khoản lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức năm thứ t i : thứ tự các năm kế tiếp kể từ năm xác định giá trị doanh nghiệp n : là số năm tương lai được lựa chọn (từ 3 đến 5 năm) Pn : giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp năm thứ n và được xác định theo công thức: Dn+1 Pn = ---------- K – G Dn+1 : khoản lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức dự kiến của năm n+1 K: tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết của các nhà đầu tư khi mua cổ phần và được xác định theo công thức: K = Rf + Rp Rf : tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro được tính bằng lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Rp : tỷ lệ phụ phí rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu của các Công ty ở Việt nam được xác định theo bảng chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế tại niên giám định giá hoặc do các công ty định giá xác định cho từng doanh nghiệp nhưng không vượt quá tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro (Rf). g : tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của cổ tức và được xác định như sau: g = b x R trong đó: b là tỷ lệ lợi nhuận sau thuế để lại bổ sung vốn. R : tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của các năm tương lai. Vốn của công ty được xác định dựa vào: nhu cầu vốn theo phương án kinh doanh, tổng số vốn thực sự mà doanh nghiệp đang có, phần vốn cố định hiện có bị loại bỏ do không phù hợp với mục đích kinh doanh khả năng tăng giảm vốn sau khi chuyển sang công ty cổ phần, mục tiêu cổ phần hoá. 1.3.3 Vấn đề vốn sau khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì cổ phần hoá hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở các yêu cầu khách quan của nền sản xuất hàng hoá và sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng, hay nói cách khác tín dụng có trước khi thành lập công ty cổ phần, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Khi một DNNN nào đó ở những nước này chuyển sang công ty cổ phần thì công tác chuyển đổi sẽ được thực hiện rất đơn giản và mau lẹ thông qua thị trường chứng khoán. Nhưng ở các nước có nền kinh tế thị trường chưa phát triển với thị trường chứng khoán chưa thực sự phát huy tác dụng thì tăng giảm vốn bằng việc phát hành thêm cổ phiếu gặp nhiều khó khăn làm cho các doanh nghiệp chưa cổ phần hoá lo sợ thiếu vốn đầu tư khi chuyển hẳn sang công ty cổ phần, đó là chưa kể tới việc đối xử không bình đẳng trong hoạt động tín dụng với công ty cổ phần so với DNNN trước đó. Trong công ty cổ phần vốn đươc hình thành từ các nguồn: bán cổ phần, vay vốn bằng các hợp đồng tín dụng, phát hành trái phiếu và trích lợi nhuận tích luỹ từ hoạt động SXKD. Đối với các công ty cổ phần mới được thành lập từ cổ phần hoá DNNN thì vốn chỉ gồm vốn cổ phần và vốn vay. Khi hoạt động công ty cổ phần có thể tăng vốn bằng cách: Thứ nhất là phát hành cổ phiếu mới: Phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Thứ hai là chuyển quỹ dự trữ vào vốn công ty: Đây là một loại quỹ bắt buộc công ty phải trích lập theo luật định. Đây là nguồn tài chính dự phòng nhằm bù đắp những rủi ro trong kinh doanh hoặc đáp ứng những nhu cầu tăng vốn để phát triển SXKD. Vì vậy, công ty có thể sử dụng một phần quỹ này để tăng vốn. Thứ ba là chuyển trái phiếu thành cổ phiếu: Có thể chuyển đổi những trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phần đã được quy định khi phát hành trái phiếu. Ngoài ra công ty cũng có thể áp dụng chuyển đổi với các trái phiếu khác nếu công ty vẫn có nhu cầu tăng. Bên cạnh đó, vốn của các công ty cổ phần cũng có thể bị giảm do: Thứ nhất, giảm vốn do kinh doanh thua lỗ: Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty có thể bị thua lỗ kéo dài, không có khả năng khắc phục làm cho vốn giảm xuống. Trong trường hợp này công ty có thể xử lý: + Giảm giá trị danh nghĩa ghi trên cổ phiếu của các cổ đông theo ty lệ giảm vốn. + Huy động các cổ đông đóng góp thêm vốn bằng tiền mặt. Thứ hai, giảm vốn do hoàn trả một phần cho các cổ đông. Trong trường hợp công ty sử dụng không hiệu quả về vốn, cần thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh dẫn đến sử dụng thừa vốn. Để khắc phục tình trạng này, công ty có thể giải quyết bằng cách hoàn trả cho các cổ đông tỷ lệ vốn cổ phần của họ. Thứ ba, giảm vốn do chuyển một phần vốn đầu tư vào công ty khác. Trong trường hợp một số ngành nghề kinh doanh khác có tỷ suất lợi nhuận cao, công ty có thể rút bớt một phần vốn của mình để đầu tư vào những ngành nghề này dưới hình thức thành lập công ty mới, góp vốn cổ phần vào công ty khác hoặc góp vốn liên doanh. Các công ty cổ phần có thể tăng vốn của mình thông qua hình thức vay vốn bằng các hợp đồng tín dụng hoặc phát hành trái phiếu. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng, để bù đắp nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển SXKD của công ty. Các công ty căn cứ nhu cầu ở từng thời điểm mà sử dụng lượng vốn vay khác nhau. Đối với công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá DNNN, khoản nợ vay (vay ngắn hạn, vay dài hạn) từ các ngân hàng, các công ty tài chính, các tổ chức kinh tế, đương nhiên được chuyển sang công ty cổ phần. Các công ty cổ phần muốn phát hành trái phiếu phải được đại hội đồng cổ đông quyết định số tiền dự định vay bằng trái phiếu, giá trị của mỗi trái phiếu, lãi suất của trái phiếu, thời hạn vay và thời hạn thanh toán hoàn trả trái phiếu. Việc vay vốn thông qua trái phiếu để bù đắp nhu cầu thiếu hụt về vốn nhưng không làm tăng vốn cổ phần của công ty. Lợi nhuận của công ty là một nguồn tài chính quan trọng để bổ sung vốn, tái đầu tư vào SXKD của mọi loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, khả năng tăng vốn của công ty từ lợi nhuận phụ thuộc vào khối lượng lợi nhuận, tỷ lệ lợi nhuận để lại, và chính sách miễn giảm thuế của Nhà nước. Trong cơ cấu vốn của công ty, vốn cổ phần, vốn vay, lợi nhuận để lại trong từng thời điểm có khác nhau và phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố: khả năng mở rộng sản xuất của công ty, lãi suất tiền vay, tình hình kinh tế chung của đất nước và thế giới, mức độ và tính chất ổn định của lợi nhuận, uy tín của công ty. Hiện nay ở Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng, thị trường chứng khoán chưa thực sự phát huy tác dụng thì việc các công ty cổ phần tăng giảm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu gặp nhiều khó khăn. Điều đó khiến cho các doanh nghiệp chưa cổ phần hoá lo sợ thiếu vốn đầu tư khi chuyển hẳn sang công ty cổ phần, đó là chưa kể tới việc đối xử không bình đẳng trong hoạt động tín dụng với công ty cổ phần so với DNNN trước đó. Đây cũng một nguyên nhân khiến các DNNN đặc biệt là các doanh nghiệp vốn nhỏ, hoạt động SXKD hiệu quả không cao e ngại khi tiến hành cổ phần hóa. 1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hóa DNNN Cổ phần hóa DNNN là đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước, là cuộc vận động đang được triển khai tích cực trong cải cách và đổi mới DNNN ở Việt nam. Đây là một chủ trương đúng đắn, một giải pháp ưu việt trong việc cải cách và sắp xếp lại các DNNN. Đa số các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều hoạt động tốt, không chỉ bảo toàn và phát triển được vốn, tăng thu cho ngân sách Nhà nước mà còn duy trì được mức trả cổ tức cho các cổ đông ở mức bình quân từ 10 - 15%/năm. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện trong những năm qua còn chậm so với kế hoạch đề ra, cũng như so với yêu cầu đổi mới, sắp xếp DNNN. Kết quả trên phản ánh sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố chủ quan và khách quan đến tiến trình cổ phần hóa DNNN. Trong mục này, luận văn chỉ đề cập đến sự tác động của các nhân tố: cơ chế chính sách của Nhà nước, công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhận thức, tâm lý của người lao động đến tiến trình cổ phần hóa. 1.4.1 Cơ chế chính sách Thực hiện chủ trương cổ phần hóa, Đảng và Chính phủ đã ban hành hàng loạt văn bản như: Quyết định 143/HĐBT ngày 10/5/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) và tổng kết thực hiện Quyết định 217/HĐBT, Quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần, Chỉ thị 84/TTg ngày 4/8/1992 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thí điểm cổ phần hóa DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với các DNNN. Từ những kết quả đáng khích lệ trong giai đoạn thí điểm cổ phần hóa, Chính phủ đã đề ra một chương trình mở rộng vào năm 1996 thông qua việc ban hành Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số doanh nghiệp thành CTCP. Nghị định này ra đời đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý quan trọng và tương đối đầy đủ cho chương trình cổ phần hóa. Đối tượng, mục tiêu cổ phần hóa, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi doanh nghiệp và người lao động được quyết định cụ thể hơn. Ngoài ra còn rất nhiều văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành có liên quan cùng phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện cổ phần hóa. Tuy nhiên cổ phần hóa là một vấn đề mới mẻ nên trong quá trình triển khai thực hiện đã nảy sinh những vướng mắc mà Nghị định 28/CP không giải quyết được, một số quy định không còn phù hợp với thực tế đã tạo ra những lực cản làm chậm tốc độ cổ phần hóa. Sự ra đời của Nghị định 44/1998/NĐ-CP/1998/NĐ-CP là một tất yếu, đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNNN thực hiện cổ phần hóa. Bởi ngoài kế thừa nhiều mặt tích cực của Nghị định 28/CP, Nghị định này đã có nhiều bổ sung sửa đổi và phát triển thêm nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cổ phần hóa thực sự bước sang một giai đoạn mới, hàng loạt DNNN ở nhiều ngành, nhiều địa phương tham gia thực hiện, cổ phần hóa không còn là giải pháp tự nguyện mà thực sự mang tính bắt buộc pháp lý. Nghị định 44/1998/NĐ-CP/1998/NĐ-CP ra đời đã có những tác động tích cực thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì tiến trình cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN vẫn còn chậm. Qua tổng kết, đánh giá cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự chậm trễ trên, trong đó có những nguyên nhân về mặt cơ chế chính sách như: quy định về đối tượng cổ phần hóa chưa rõ ràng, quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư còn bị hạn chế, cơ chế xử lý những tồn tại về tài chính của doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa chưa được cụ thể, công tác định giá chưa gắn với thị trường,…. Để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ sắp xếp, đổi mới DNNN thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (NQTƯ 3), Chính phủ ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP/1998/NĐ-CP. Có thể khẳng định rằng, Nghị định 64/2002/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo một hành lang pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong 2 năm qua. Cụ thể: bổ sung các quy định để xử lý những tồn tại về tài chính trước khi cổ phần hóa, sửa đổi phương pháp xác định giá trị theo hướng gắn với thị trường, mở rộng quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư, bổ sung quy định về việc bán cổ phần phát hành lần đầu,….. Sau khi Nghị định này được ban hành, việc sắp xếp, đổi mới DNNN đã đạt được những kết quả khả quan. Từ năm 2002 đến nay, Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách sắp xếp, cổ phần hóa DNNN. Hệ thống cơ chế, chính sách này khá cởi mở trong phạm vi pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế, chính sách đã ban hành vẫn chưa đồng bộ. Hơn nữa, lại không được sửa đổi, bổ sung kịp thời nên nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chưa được xử lý như: Cơ chế xử lý nợ và tồn đọng của DNNN còn mang tính hành chính; Việc tính giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo tinh thần NQTƯ 3 chậm được nghiên cứu, triển khai. Cơ chế định giá còn tách rời cơ chế thị trường, chủ yếu áp dụng hình thức Hội đồng mang nặng tính chủ quan của cơ quan quản lý nên giá trị doanh nghiệp sau khi xác định còn chưa phản ánh đúng giá trị thực do chưa tính giá trị vô hình và lợi thế doanh nghiệp; Cơ chế bán đấu giá cổ phần thông qua định chế trung gian vẫn chưa gắn với thị trường, còn bị chi phối bởi chính sách ưu đãi cho người lao động dẫn đến việc cổ phần hóa DNNN mới chỉ thực hiện trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chế độ, chính sách hiện hành về cổ phần hóa DNNN chưa đủ sức hấp dẫn, khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp và người lao động tham gia tích cực vào cổ phần hóa. Trước hết, sự thiếu bình đẳng giữa DNNN với CTCP đang cản trở việc đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Hiện nay, các DNNN đang được hưởng quá nhiều ưu đãi: không phải góp vốn, không phải chịu rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt có nhiều lợi thế hơn so với doanh nghiệp cổ phần hóa về sử dụng đất, vay vốn ngân hàng, được khoanh nợ, xóa nợ khi gặp rủi ro, được xét giảm thuế, miễn thuế dễ dàng. Một số cán bộ quản lý ở các ngành vẫn coi doanh nghiệp đã cổ phần hoá là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên còn phân biệt đối xử. Ngay cả trong luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, những ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước được tiếp tục khẳng định mà chưa có quy định hướng dẫn cụ thể để xác định rõ hoàn cảnh nào mới được ưu đãi. Bên cạnh đó, việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp cổ phần hóa chưa được quy định cụ thể và kịp thời gây cho các doanh nghiệp cổ phần hóa nhiều lúng túng trong hoạt động hoặc có tâm lý ngần ngại khi quyết định chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần. 1.4.2 Công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện - Về công tác chỉ đạo: Ngoài việc có một cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn, kinh nghiệm của các quốc gia đã tiến hành cải cách hệ thống DNNN và thực hiện cổ phần hóa thành công cho thấy công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện đóng vai trò rất quan trọng. Việc cổ phần hoá là giải pháp cơ bản, toàn diện trong sắp._.iều doanh nghiệp đến lúc xác định giá trị doanh nghiệp thì mới vỡ lẽ số nợ tồn đọng của doanh nghiệp còn lớn hơn số vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Để đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN việc lành mạnh hóa tình hình tài chính có vai trò hết sức quan trọng. Việc thành lập Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp tạo ra một công cụ của Nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp lành mạnh hóa tình hình tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp. Tuy nhiên, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp hiện nay chỉ mới đi vào hoạt động từ đầu năm 2004. Việc ra đời công ty là một bước quan trọng trong việc chuyển đổi chức năng quản lý tài chính doanh nghiệp của cơ quan quản lý Nhà nước, xóa bỏ sự can thiệp của các cơ quan hành chính và hoạt động của các doanh nghiệp, chuyển giao một số nghiệp vụ có tính chất sự vụ từ các cơ quan quản lý nhà nước sang cho các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động có tính chuyên nghiệp. Tách bạch các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước và các hoạt động về kinh doanh dịch vụ. Hoạt động của Công ty hỗ trợ cho việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nằm trong diện chuyển đổi hình thức sở hữu như: cổ phần hóa, giao, bán khoán và cho thuê doanh nghiệp nhà nước… Do mô hình còn mới mẻ lại hoạt động trong môi trường pháp lý chưa đầy đủ, thị trường mua bán nợ đang ở thời kỳ sơ khai nên để Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp có thể hoạt động tốt theo đúng như mục đích thành lập công ty thì cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ khi đó mới có thể xử lý nợ một cách triệt để cho doanh nghiệp. Cần phải ban hành Pháp lệnh để Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp hoạt động theo pháp lệnh này. Pháp lệnh được ban hành với mục đích khuyến khích việc bán hiệu quả các tài sản tồn đọng của các tổ chức tài chính và hỗ trợ nỗ lực cho quá trình lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp và đặc biệt góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi. 3.2.2 Hoàn thiện phương pháp định giá doanh nghiệp. Thông tư 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 về việc hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp trước khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần chính là cụ thể hóa Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Theo hướng dẫn tại Thông tư 79 quy định 2 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp xác định theo giá trị tài sản và phương pháp xác định theo dòng tiền chiết khấu. Phương pháp xác định theo giá trị tài sản cơ bản phù hợp với nguyên tắc thị trường nhưng còn mang nặng tính hình thức. Để hoàn thiện hơn nữa phương pháp xác định theo giá trị tài sản cần: - Việc định giá tài sản hữu hình cần tham khảo giá thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại và có phát hành thành tài liệu chính thức. Ngoài ra phải xem xét kỹ tới sự hao mòn vô hình của tài sản. - Việc định giá tài sản vô hình cần dựa vào chi phí và khả năng sinh lời của tài sản. + Đối với tài sản vô hình có thể xác định được chi phí, việc xác định giá sẽ dựa vào chi phí để tạo lợi thế và khả năng sinh lời của tài sản vô hình. + Đối với các tài sản vô hình không thể xác định được chi phí, việc xác định giá sẽ dựa vào khả năng sinh lời của tài sản vô hình. Việc định giá doanh nghiệp theo phương pháp mới (phương pháp dòng tiền chiết khấu): trong điều kiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa phát triển, hàng hóa và hoạt động đầu tư qua thị trường chứng khoán chưa nhiều. Việc xác định hệ số phụ phí rủi ro trong đầu tư cổ phiếu (Rp) để xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tư vấn, kiểm toán... còn khó khăn. Hiện nay mới chỉ dựa vào các thông tin của nước ngoài để áp dụng hoặc giao cho các công ty định giá xác định cho từng trường hợp cụ thể. Do đó, trong thời gian tới đề nghị thành lập Ban dự án để nghiên cứu và ban hành bản hệ số phụ phí rủi ro trong đầu tư cổ phiếu trong các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Việt Nam. Khi xác định giá trị doanh nghiệp bên cạnh việc tính lợi thế doanh nghiệp thì cũng cần phân tích những yếu tố bất lợi cho doanh nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp có lao động dôi dư, những kỹ năng chưa cao, tài sản có giá trị lớn nhưng mang lại thu nhập thấp, kế thừa những hoạt động tín dụng dài hạn bằng ngoại tệ, vị trí địa lý không thuận lợi ... Việc xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hóa hiện còn mang tính chủ quan của Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp nên kết quả còn thiếu chính xác, chưa phản ánh đúng giá trị thật của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến hiện tượng: người lao động trong doanh nghiệp sẽ mua hết số cổ phần được phép bán ra nếu kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thấp, hoặc không bán được cổ phần nếu doanh nghiệp được định giá quá cao. Để khác phục hạn chế này, phải tiến dần đến hình thức định giá doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Chuyển dần theo hình thức đấu thầu doanh nghiệp đang thịnh hành trong nền kinh tế thị trường. Sử dụng phương pháp định giá tài sản và phương pháp lợi nhuận để xác định giá trị doanh nghiệp. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền công bố là mức giá tối thiểu để tổ chức bán đấu thầu cổ phần. Từ cơ chế định giá doanh nghiệp thông qua đấu thầu, tiến tới niêm yết cổ phần qua thị trường chứng khoán. + Phương pháp đấu thầu (thoả thuận) Vì phần lớn các doanh nghiệp cổ phần hoá của Thành phố Hà nội hiện nay không đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong khi đó chương trình cổ phần hoá trong thời gian tới sẽ được tiến hành rộng rãi với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tổn thất về chi phí và kéo dài thời gian. Vì vậy, việc áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá do cơ chế định giá đơn giản hơn. Phương pháp đấu thầu nên áp dụng thí điểm cho doanh nghiệp nhỏ, chủ yếu cần nhà đầu tư tham gia đấu thầu phải có trình độ về quản lý, có tiềm lực tài chính để đầu tư vào công nghệ mới, có phương án khả thi nhằm khôi phục và phát triển doanh nghiệp, có biện pháp thu hút người lao động vào làm việc. Để áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thông tin đầy đủ về doanh nghiệp, có sự tiếp thị rộng rãi để thu hút các nhà đầu tư dự thầu, có tiêu chí đánh giá đơn thầu công khai rõ ràng. Việc đánh giá, chọn lọc các nhà đầu tư cần tiến hành trên tinh thần cạnh tranh, tránh thiên vị nhằm lựa chọn các nhà đầu tư quan tâm và có năng lực. + Phương pháp bán cổ phần qua thị trường chứng khoán (niêm yết) Phương pháp này áp dụng cho những doanh nghiệp khó định giá. Để áp dụng phương pháp này, những người tham gia phải được cung cấp thông tin về thực trạng tài chính của doanh nghiệp như tình trạng tài sản, công nợ... để họ có thể đánh giá tài sản và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Việc bán cổ phần phải được tiến hành một cách chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, hình thức niêm yết có thể không thu hút được những nhà đầu tư chiến lược có kỹ năng quản lý và tiềm lực tài chính do số cổ phần bán ra bị phân tán. Việc định giá doanh nghiệp nên giao cho một tổ chức trung gian thích hợp như công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty kiểm toán, trung tâm thẩm định giá và các tổ chức có chức năng định giá để tạo điều kiện nâng cao uy tín, tính công khai minh bạch và nâng giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. 3.2.3 Tăng khả năng tạo vốn cho công ty cổ phần Việc phát triển doanh nghiệp luôn gắn liền với nhu cầu tăng vốn. Sự thành công về lâu dài của doanh nghiệp cổ phần hoá phụ thuộc vào tính sẵn có của nguồn vốn đầu tư. Nhà nước cần xác định cơ chế chính sách thuận lợi cho công ty cổ phần tăng khả năng tạo nguồn tài chính. Bên cạnh đó, Thành phố Hà nội cần hỗ trợ các doanh nghiệp sau cổ phần hoá thông qua các lớp đào tạo, các tài liệu chuyên môn để nâng cao khả năng quản lý điều hành doanh nghiệp cổ phần hoá đặc biệt là về lĩnh vực phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu. Vay vốn ngân hàng và chuyển quỹ dự trữ vào vốn công ty - trên cơ sở từng bước nâng cao nhận thức và tự các doanh nghiệp quyết định lúc nào thì dùng các hình thức huy động vốn trên cơ sở cân đối nhu cầu và chi phí thực hiện. Xét về chi phí thì phát hành cổ phiếu sẽ tốn kém nhiều chi phí nhất tiếp theo mới là trái phiếu, vay vốn ngân hàng và chuyển quỹ dự trữ vào vốn của công ty - Thành phố Hà nội căn cứ vào cơ chế chính sách của Nhà nước nới rộng các quy định theo thực tế của địa phương để DNNN trên địa bàn sử dụng linh hoạt các hình thức này. Về vay ngân hàng: trong hoạt động kinh doanh một mặt doanh nghiệp phải thanh toán qua ngân hàng, mặt khác bù đắp sự thiếu vốn đặc biệt vốn lưu động thì sử dụng tín dụng ngân hàng là giải pháp tối ưu. Uỷ ban nhân dân Thành phố cần có công văn trình Chính phủ ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cho các ngân hàng để tăng khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng giúp doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận các dịch vụ tín dụng ngân hàng một cách dễ dàng hơn. Về phát hành cổ phiếu, tuy mất nhiều chi phí và phải trả cổ tức hàng năm nhưng vốn điều lệ là nguồn vốn cơ bản đầu tiên để công ty có thể hoạt động. Vốn thu hút được từ việc phát hành cổ phiếu thường để đầu tư dài hạn: nhà xưởng, vật kiến trúc máy móc và thiết bị công nghệ - khi hoạt động công ty cổ phần có thể tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN đã được quy định rõ tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP: “Nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản… và huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp”. Mục tiêu này phù hợp với chủ trương phát triển TTCK ở nước ta cũng như Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại Hà nội. Có thể nói quá trình cổ phần hóa DNNN và việc phát triển TTCK có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Cổ phần hóa DNNN hay nói cách khác là quá trình chuyển đổi sở hữu từ một chủ (Nhà nước) sang đa thành phần sở hữu (cổ phần) đã tạo ra cổ phiếu. Đó là công cụ tài chính quan trọng và là hàng hóa của TTCK. Có hàng hóa cổ phiếu (chứng khoán) thì mới có chợ cổ phiếu (TTCK), và có nhiều hàng thì chợ mới đông vui, tấp nập. Ngược lại, khi có chợ chứng khoán người mua mới cảm thấy yên tâm rằng mình đang cầm trong tay công cụ tài chính có khả năng chuyển đổi (chuyển hóa ra tiền) bất cứ lúc nào. Như vậy, TTCK hoạt động đã tạo ra tính thanh khoản và khả mại cho các chứng khoán, tạo một cơ chế chuyển nhượng linh hoạt cho người nắm giữ chứng khoán khi muốn chuyển hóa để thay đổi hình thức đầu tư một cách nhanh chóng và dễ dàng. Cổ phần hóa doanh nghiệp gắn với niêm yết trên TTCK sẽ tạo ra một kênh huy động vốn rất lớn, tiếp cận được với cơ chế quản lý và điều hành doanh nghiệp tiên tiến. Khi thực hiện niêm yết các doanh nghiệp không những có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài mà còn tăng tính cạnh trạnh của doanh nghiệp và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các công ty. Tuy nhiên các công ty cổ phần hiện nay chủ yếu huy động vốn trong phạm vi hẹp và bị nhiều hạn chế bởi quy định hiện hành. Theo quy định của Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ những điều kiện chủ yếu để niêm yết trên TTCK là phải “kinh doanh có lãi trong 2 năm gần nhất và mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng”. Nhà nước (uỷ ban chứng khoán Nhà nước) nên hạ bớt tiêu chuẩn khi doanh nghiệp tham gia TTCK, phát hành chứng khoán ra công chúng. Điều kiện kinh doanh có lãi trong 2 năm gần nhất nên giữ nhưng điều kiện mức vốn điều lệ tối thiểu 10 tỷ đồng không nên giữ mà có thể hạ thấp hơn vì phần lớn các DNNN của Thành phố Hà nội cổ phần hoá đều có quy mô vốn nhỏ, mặt khác vấn đề quan trọng là hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp còn quy mô doanh nghiệp không phải là yếu tố hàng đầu khi đánh giá doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh doanh chứng khoán và TTCK: Giảm bớt can thiệp hành chính trực tiếp của Nhà nước vào thị trường, chuyển sang quản lý giám sát thị trường từ xa theo các tiêu chuẩn, chuẩn mực đối với từng hình thức phát hành và sản phẩm trên TTCK (cổ phiếu, trái phiếu, phát hành trực tiếp ra công chúng….); Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng; Gắn việc phát hành cổ phiếu với niêm yết công khai trên thị trường. Theo đó, cổ phần phát hành lần đầu được bán theo giá thị trường xác định thông qua đấu giá. Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp cổ phần hóa, trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc các tổ chức tài chính trung gian. Đặc biệt, các doanh nghiệp có quy mô vốn điều lệ trên 15 tỷ đồng, hoạt động SXKD của năm trước khi cổ phần hóa có lãi thì sau khi bán cổ phần lần đầu phải thực hiện ngay các thủ tục niêm yết trên TTCK; Phát triển hệ thống trung gian tài chính trên thị trường như các công ty chứng khoán, các Quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham giá đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp bán ra trên TTCK. 3.2.4 Ưu đãi về tài chính đối với doanh nghiệp cổ phần hóa Khi chuyển sang cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định, cần sự giúp đỡ của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân Thành phố nghiên cứu đề nghị Bộ Tài chính xem xét, trình Chính phủ ban hành chính sách thật sự ưu đãi cho doanh nghiệp cổ phần hoá để khơi dậy nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, của cán bộ công nhân viên chức. Những nội dung cần ưu đãi như: + Nới rộng khoảng thời gian giảm mức thuế thu nhập. + Miễn thuế cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, nộp thuế là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi đơn vị, mỗi cá nhân. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp và người dân chưa hiểu biết nhiều, chưa tin tưởng vào mô hình cổ phần hóa. Mặt khác, môi trường kinh doanh hiện nay chưa tạo được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nên các doanh nghiệp sau cổ phần hóa thấy bị thiệt thòi so với khi còn là DNNN. Bên cạnh đó, dù đã lường trước nhiều tình huống khó khăn, nhưng trong điều kiện còn quá mới mẻ, công ty cổ phần cũng không tránh khỏi những khó khăn ban đầu về vốn, lao động và thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp của Thành phố Hà nội phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Vì thế, sự hỗ trợ của Nhà nước sau cổ phần hóa là rất cần thiết, tạo đà cho doanh nghiệp phát triển. Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp cổ phần hóa, nhất là ưu đãi về miễn giảm thuế như hiện nay chưa khuyến khích các DNNN đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả hăng hái thực hiện cổ phần hóa. Vì thế, trong thời gian tới, Nhà nước cần điều chỉnh các chính sách cho hưởng mức ưu đãi cao hơn đối với các DNNN tiến hành cổ phần hóa như: nới rộng khoảng thời gian giảm mức thuế thu nhập, miễn thuế cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt trong hệ thống cơ chế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp cổ phần hóa và DNNN, nhất là cơ chế vay vốn Ngân hàng, xuất nhập khẩu. 3.2.5 Ưu đãi về tài chính đối với người lao động Để khuyến khích người lao động hưởng ứng tích cực tiến trình cổ phần hoá Nhà nước cần phải có chính sách ưu đãi đối với người lao động. Thứ nhất: tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được hưởng đúng và đủ chế độ ưu đãi theo quy định của Nghị định số 64/2002/NĐ-CP. Thứ hai: thu hẹp chênh lệch phần được mua ưu đãi giữa doanh nghiệp có nhiều vốn Nhà nước với doanh nghiệp có ít vốn Nhà nước bằng cách quy định tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi tùy theo từng doanh nghiệp. Thứ ba: tiêu chí chung người lao động nghèo trong doanh nghiệp đưa ra là không hợp lý vì thu nhập của người lao động trong các DNNN ở các ngành, các khu vực khác nhau rất lớn, mặt khác giá cả giữa các vùng cũng rất khác nhau. Vì vậy cần quy định cụ thề mức nghèo cho từng vùng. Thứ tư: nâng tỷ lệ giá ưu đã cho người lao động từ 30% như hiện nay lên 40% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá. 3.2.6 Chế độ xử lý tài chính đối với DNNN thực hiện cổ phần hoá Chế độ hiện hành đã quy định việc xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi, các khoản lỗ của doanh nghiệp, các khoản tổn thất tài sản bằng giải pháp tính vào chi phí của doanh nghiệp khi lập báo cáo tài chính tại thời điểm thực hiện cổ phần hoá (nếu doanh nghiệp có lãi) hoặc được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đối với các tài sản hư hỏng, kém, mất phẩm chất, không cần dùng được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá (thực chất cũng là trừ vào phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp). Tuy nhiên, cách xử lý này chỉ phù hợp với doanh nghiệp kinh doanh có lãi hoặc những doanh nghiệp có số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp lớn hơn các khoản phải xử lý. Trường hợp các khoản phải xử lý bằng hoặc lớn hơn số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thì tiến trình cổ phần hoá có thể không tiếp tục được. Vì vậy, cần bổ sung cơ chế để xử lý các trường hợp này. Cụ thể là: - Sử dụng Quỹ Hỗ trợ cổ phần hoá để cung cấp bổ sung cho doanh nghiệp đủ để cân bằng các khoản cần xử lý hoặc để hỗ trợ doanh nghiệp trả các khoản nợ phải trả đến hạn tạo sự cân bằng giữa vốn và các khoản phải xử lý. Biện pháp xử lý này hạn chế bởi số vốn của Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá có hạn và chỉ giải quyết được đến mức cân bằng giữa các khoản phải xử lý với số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. 3.4 Kiến nghị 3.4.1 Ban hành kịp thời các văn bản tháo gỡ vướng mắc về cổ phần hoá Trong quá trình cổ phần hoá xuất hiện rất nhiều vướng mắc cần xử lý. Cách xử lý vướng mắc có thể áp dụng chung cho nhiều doanh nghiệp. Khi không có hướng dẫn xử lý thống nhất, nhiều doanh nghiệp lúng túng, mất thời gian xử lý, và việc xử lý khác nhau giữa các doanh nghiệp làm thời gian cổ phần hoá một doanh nghiệp bị kéo dài hoặc thậm chí có doanh nghiệp không cổ phần hoá được. Những vướng mắc cần xử lý kịp thời và được thông báo rộng rãi và cũng cần thống nhất đầu mối xử lý giải quyết các vấn đề sau cổ phần hoá. Cần ban hành chế độ đấu giá mua cổ phần trong DNNN. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CP thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP/1998/NĐ-CP. Có thể khẳng định rằng, Nghị định 64/2002/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo một hành lang pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong 2 năm qua. Cụ thể: bổ sung các quy định để xử lý những tồn tại về tài chính trước khi cổ phần hóa, sửa đổi phương pháp xác định giá trị theo hướng gắn với thị trường, mở rộng quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư, bổ sung quy định về việc bán cổ phần phát hành lần đầu,….. Sau khi Nghị định này được ban hành, việc sắp xếp, đổi mới DNNN đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng Nghi định 64/2002/NĐ-CP có nhiều vấn đề còn bất cập. Để đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp theo Nghị quyết hội nghị TW 3, chỉ thị số 11/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cần khẩn trương ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung cơ chế cổ phần hóa, sắp xếp doanh nghiệp tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP nhằm tăng cường tính khả thi của các giải pháp tài chính, phù hợp với Luật DNNN mới ban hành, nâng cao tính công khai, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong hoạt động định giá, hạn chế sự can thiệp của cơ quan hành chính Nhà nước, phù hợp với cơ chế bán cổ phần mới, khắc phục những bất cập trong công tác định giá, bán cổ phần… Cùng với việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 64/2002/NĐ-CP cần ban hành đồng bộ hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện. Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về phương pháp xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Đối với doanh nghiệp có địa điểm ở vị trí đắc địa hoặc có nhiều diện tích nhà xưởng đất đai có nhiều khả năng biến thành hàng hóa bất động sản thì thực hiện theo 2 phương án: Thứ nhất là: sẽ không chuyển thành tài sản của Công ty cổ phần mà bán đấu giá tài sản, tiền thu từ bán đấu giá sẽ sử dụng để giải quyết thỏa đáng chính sách chế độ cho người lao động, số còn lại bổ sung vào Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa DNNN để hỗ trợ đầu tư vốn cho những dự án phát triển SXKD được phê duyệt. Số lao động làm việc tại những địa điểm bị Thành phố thu hồi bán đấu giá có nguyện vọng được tiếp tục làm việc thì sẽ được sắp xếp, bố trí nơi làm việc thích hợp cho họ. Thứ hai là: nếu thực hiện cổ phần hóa ở những doanh nghiệp này thực hiện cơ chế riêng: vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi trừ đi cổ phần được mua theo giá ưu đãi của người lao động thì Nhà nước sẽ nắm giữ số cổ phần còn lại này, hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trên 50%) của công ty cổ phần mặc dù không nằm trong danh mục tại Quyết định 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Sau một thời gian (có thể 3 - 5 năm) cho phép bán hết hay một phần số vốn này theo giá thị trường qua tổ chức tài chính trung gian. Việc này sẽ hạn chế được tiêu cực trong việc mua bán cổ phiếu, Nhà nước sẽ thu được khoản thu lớn về chênh lệch giá cổ phiếu (nếu có). 3.4.2 Nhà nước sớm sửa đổi tiêu chí, danh mục phân loại sắp xếp DNNN và quy định về tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia trong cơ cấu vốn phát hành lần đầu tại Quyết định 58/2002/QĐ-TTg và Chỉ thị 01/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ theo nguyên tắc: Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn ở những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và một số doanh nghiệp có vị trí đặc biệt trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế như hệ thống truyền tải điện, trục thông tin, các doanh nghiệp hoạt động có tính chất đặc thù Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các doanh nghiệp còn lại đề có thể thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, ngân hàng, bảo hiểm…. Có nghĩa là thu hẹp đối tượng Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối theo hướng không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với sự phát triển của vùng, lãnh thổ. Bỏ quy định tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ để tạo cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp và tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng SXKD. 3.4.3 Ban hành Pháp lệnh riêng cho Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp Pháp lệnh cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng để nó có thể hoạt động một cách tự chủ, độc lập: - Thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật DNNN. - Bãi bỏ Quyết định 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để bổ sung các quyền và nghĩa vụ của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp và Pháp lệnh nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Ngoài ra Pháp lệnh này cần phải có: + Được quyền phát mại một phần tài sản như tòa án vì hiện nay thủ tục này rất khó khăn vì đối với tài sản cầm cố được Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp mua lại thì công ty không được chủ động bán mà phải thông qua Tòa án và nếu được chấp nhận thì phải bán dưới sợ giám sát của khách nợ. Chính những thủ tục phiền hà này đã làm cho hoạt động của công ty không được linh hoạt. Quyền này tạo điều kiện cho công ty nhanh chóng thu hồi số vốn bỏ ra để tiếp tục kinh doanh một cách có hiệu quả. + Được quyền tham gia cơ cấu lại doanh nghiệp khi doanh nghiệp có dấu hiệu khó khăn về khả năng thanh toán trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt bằng cách bán những tài sản tồn đọng không sử dụng để tránh lãng phí nguồn tài sản, tư vấn hỗ trợ quá trình bình thường hóa doanh nghiệp đó. + Được phép chuyển nợ thành vốn góp đối với những khoản nợ của con nợ là công ty cổ phần hoặc DNNN chuyển đổi thành công ty cổ phần. + Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp được yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp những thông tin, dữ liệu có liên quan mà không cần phải xin phép cơ quan chủ quản để thực hiện các hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Quyền này sẽ tạo cơ sở để hai bên có thể xác định được giá trị thu hồi của các khoản nợ và tài sản tồn đọng được giao dịch và đàm phán giá mua bán cũng như xây dựng phương án xử lý. 3.4.4 Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa dễ dàng tiếp cận với việc vay vốn ngân hàng, thực hiện chế độ hỗ trợ một phần lãi suất tiền vay đối với những công ty cổ phần vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Giải quyết dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho các công ty cổ phần làm tài sản thế chấp khi vay vốn ngân hàng. 3.4.5 Ban hành cơ chế cho phép các Công ty cổ phần niêm yết trên TTCK được hưởng chính sách ưu đãi thuế trong thời hạn dài hơn, có thể là 5 năm chứ không phải là 2 năm như hiện nay nhằm tác động khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTCK. 3.4.6 Thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp cổ phần hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty cổ phần sinh hoạt trao đổi thông tin, chế độ chính sách, là nơi để các doanh nghiệp phản ánh các khó khăn vướng mắc của mình với Thành phố. 3.4.7 Nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện mở rộng các loại hình dịch vụ phục vụ cho quá trình cổ phần hoá DNNN. Ngoài dịch vụ kiểm toán đã có cần tăng cường hơn nữa, cần mở rộng thêm các loại hình dịch vụ khác như dịch vụ tư vấn pháp lý để giúp cho doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá cũng như khi đăng ký là công ty cổ phần theo đúng quy định pháp luật, giảm bớt thời gian, thủ tục phiền hà. Cần tổ chức và phát triển dịch vụ lập phương án hoạt động kinh doanh, phương án cổ phần hoá giúp cho doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả. Dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp sẽ giúp cho quá trình xác định giá trị đơn giản, rút ngắn được thời gian và giá trị được xác định có thể sát, đúng hơn với giá thị trường. Đối với những doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTCK cần có dịch vụ giúp cho doanh nghiệp chuẩn bị các thủ tục để được niêm yết. Những doanh nghiệp không đủ điều kiện niêm yết cần được sự giúp đỡ của tổ chức tài chính đứng ra bán đấu giá số cổ phần cần bán. Ngoài ra, dịch vụ đào tạo, đào tạo lại việc làm cho người lao động cần thiết phải được đẩy mạnh để giúp đỡ cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá đào tạo, đào tạo lại số lao động dôi dư. Các hoạt động dịch vụ như trên sẽ giúp cho doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá được nhanh gọn, hiệu quả cao. 3.4.8 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi người thấy rõ mục đích của việc cổ phần hóa, sắp xếp DNNN một cách có hiệu quả. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức không những chỉ cho các cán bộ nhân viên mà cho cả người lao động trong các DNNN và công chúng. Những giải pháp cụ thể cho việc nâng cao nhận thức này có thể bao gồm: - Thiết lập những chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng về cổ phần hóa, giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của công chúng, của doanh nghiệp về các vấn đề cụ thể của cổ phần hoá, nhất là từ phía lao động trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá cũng như từ phía công chúng. - Cần tổ chức các khoá tập huấn cho Ban lãnh đạo DNNN nhằm nâng cao nhận thức của họ đối với cổ phần hoá, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện cổ phần hoá. Như đã nêu, cổ phần hoá gắn liền với sự ra đời, tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, tuyệt đại đa số các giám đốc DNNN chưa hiểu biết nhiều về công ty cổ phần. Trong quá trình cổ phần hoá và sau cổ phần hoá, các cán bộ lãnh đạo của Công ty lúng túng rất nhiều khi đối mặt với những vấn đề tưởng chừng là đơn giản như cổ động, bỏ phiếu bầu Hội đồng quản trị, phân chia cổ tức.v.v… Vì vậy, trong chương trình tập huấn cần chú trọng nội dung về công ty cổ phần, về TTCK. Thực hiện việc công bố thường xuyên, định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng về kết quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để củng cố lòng tin của công chúng vào triển vọng và tác động kinh tế, xã hội to lớn của giải pháp này. Kết luận Luận văn đã nghiên cứu thực trạng tài chính, tác động của các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quá trình cải cách DNNN trên địa bàn Hà nội nói riêng và trên cả nước nói chung. Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề cơ bản lý luận về chính sách tài chính trong cổ phần hóa DNNN của Chính phủ. Luận văn đã chuẩn hóa các khái niệm về DNNN, tài chính doanh nghiệp, tình hình cổ phần hóa của các doanh nghiệp và phần nào trình bày được cơ sở khoa học và thực tiễn cũng như đánh giá những tác động của chính sách tài chính trong quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội. “Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội” là phương pháp luận nghiên cứu đánh giá đi từ việc cập nhật các sự kiện, đến sử dụng phương pháp quy nạp, lôgíc, toàn diện để đưa ra những nhận xét đánh giá quá trình thực hiện các chính sách tài chính về cổ phần hóa DNNN. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện chính sách của Chính phủ đối với việc cổ phần hóa DNNN. Đề tài trên là một vần đề lớn, cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc và thấu đáo để đề ra phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính trong cổ phần hóa DNNN. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, việc cổ phần hóa DNNN trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả SXKD, phát huy tính tự chủ của doanh nghiệp, tăng cường năng lực cạnh tranh của DNNN đang được đặt ra bức thiết trong bối cảnh chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Do đó, việc không ngừng hoàn thiện các cơ chế chính sách về cổ phần hóa DNNN sẽ là một vấn đề cần được sự quan tâm thích đáng của Đảng và Chính phủ trong những năm tới. Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và các bạn quan tâm đến sự nghiệp phát triển DNNN, giúp tác giả tiếp tục hoàn thiện luận văn ở mức độ cao hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32747.doc