lời nói đầu
Đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, là chìa khoá để tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tạo thế và lực để đưa đất nước hội nhập vào cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI.
Nhiều năm trước đây, hoạt động đầu tư và xây dựng gần như chỉ thực hiện trong khu vực Nhà nước. Mọi công trình dù lớn hay nhỏ đều được cân đối vốn, vật tư, thiết bị thi công, lao động và các yếu tố khác. Phương thức đó không động viên
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được mọi nguồn lực tham gia hoạt động đầu tư, hiệu quả thấp. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm, qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn gây nên một thói quen trì trệ trong suy nghĩ và hành động từ công tác huy động vốn, công tác kế hoạch hoá đến quá trình quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
Chính vì lẽ đó, Đảng ta đã khởi xướng cải cách kinh tế. Chỉ hai năm sau Đại hội lần thứ VI, Chính phủ đã có quyết định 80/HĐBT ngày 9/5/1988 ban hành chính sách đổi mới quản lý XDCB. Mục tiêu của Quyết định này là hạn chế đi đến xoá bao cấp về vốn đầu tư, chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở xây dựng sang hạch toán kinh doanh, xác định trách nhiệm và quyền hạn của Chủ đầu tư, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng. Tiếp đó, nhiều Nghị định của thời kỳ sau đổi mới về đầu tư và xây dựng đã được ban hành (như Nghị định 232/CP ngày 6/6/1981, Nghị định 385/CP ngày 7/11/1990, Nghị định 177/CP ngày 20/10/1994 thay thế Nghị định 385/CP, Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996, Nghị định 92/CP ngày 23/8/1997, đến nay là Nghị định số 52/CP...). Do vậy, hoạt động đầu tư và xây dựng thời kỳ này có những nét khác biệt so với thời kỳ trước đổi mới.
Lĩnh vực đầu tư phát triển là một mảng đề tài rộng lớn, bao gồm nhiều loại hình nguồn vốn và phương thức sử dụng khác nhau. Trong khóa luận tốt nghiệp này chỉ đề cập và đi sâu phân tích giải pháp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển hà nội.
Khoá luận này đi vào phân tích kết quả thực tiễn việc khai thác và sử dụng vốn đầu tư phát triển của Nhà nước trong những năm qua, chỉ ra những mặt còn tồn tại, từ đó đưa ra giải pháp để khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội.
Khoá luận này có những nội dung sau:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế.
Chương II: thực trạng việc sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội .
Chương III: một số giải pháp và kiến nghị nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội .
Khoá luận này đã được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thanh Sơn. Do năng lực bản thân còn hạn chế, vì vậy trong qua trình nghiên cứu sẽ không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được các thầy giáo, cô giáo, chỉ ra những thiếu sót để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo.
chương i
Lý luận chung về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế.
1.1 tín dụng đầu tư phát triển và vai trò của tín dụng đầu tư phát triển đối với quá trình phát triển kinh tế:
1.1.1 Những vấn đề cơ bản về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng:
Trong bất kỳ một nền kinh tế sản xuất hàng hoá nào, từ sản xuất giản đơn đến quy mô sản xuất lớn đều tồn tại tín dụng. Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người vay có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong mỗi cá nhân (hay tổ chức) nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một cá nhân (hay tổ chức) khác với những ràng buộc nhất định: về thời hạn hoàn trả (cả gốc và lãi), lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Đặc điểm của tín dụng biểu hiện ở các chủ thể của nó - những người cho vay và những người đi vay. Trong quan hệ tín dụng có mặt đồng thời cả người vay và người đi vay. Quan hệ tín dụng có thể xuất hiện giữa các Nhà nước, giữa các tổ chức kinh tế và ngân hàng, giữa Nhà nước và dân cư, giữa các tổ chức kinh tế với nhau và giữa các cá nhân.
Người cho vay là chủ thể cấp tín dụng. Để cấp tiền vay, người cho vay phải có một lượng tài sản nhất định, mà nguồn của nó có thể là tiền vốn tự có, là hàng hoá, tài sản vay mượn ở các chủ thể khác của quá trình tái sản xuất.
Người đi vay là chủ thể thứ 2 trong quan hệ tín dụng, trong đó có các doanh nghiệp cả trong và ngoài quốc doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Vị trí của người vay trong quan hệ tín dụng về cơ bản khác với người cho vay ở các điểm sau:
Người vay không phải là chủ sở hữu vốn vay mà chỉ là người có quyền sử dụng tạm thời số vốn vay đó theo đúng mục đích khi đi vay.
Người vay sử dụng vốn vay trong phạm vi lưu thông sản xuất. Còn người cho vay cấp tiền vay trong lĩnh vực trao đổi, không trực tiếp tham gia vào sản xuất.
Người vay hoàn trả vốn vay khi kết thúc tuần hoàn vốn với trách nhiệm phải tổ chức quá trình sản xuất sao cho đảm bảo giải phóng vốn đủ để thanh toán nợ vay. Người vay không chỉ hoàn trả số vốn vay mà còn phải trả lãi vay theo thoả thuận với người cho vay.
-Bản chất của tín dụng thể hiện thông qua tính hoàn trả tiền vay. Khác với hàng hoá khác, giá trị và giá trị sử dụng của nó trong khi bán được chuyển từ người bán sang người mua, còn vốn được chuyển thông qua tín dụng chỉ tạm thời chuyển nhượng. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ giá trị sử dụng được chuyển đến người chủ mới. Tính hoàn trả sẽ xuất hiện khi vốn tiền tệ được giải phóng sau một quá trình vật chất hay một chu kỳ tuần hoàn vốn. Khi đó người vay có khả năng hoàn trả được vốn vay. Trong thực tế tính hoàn trả được bảo đảm bằng tài sản vật tư của người đi vay hoặc bằng sự bảo lãnh của một người đại diện thứ ba liên quan đến trong những trường hợp đặc biệt.Thời gian hoàn trả của tín dụng được phân biệt dựa vào chu kỳ kinh doanh và vòng tuần hoàn vốn trong các doanh nghiệp. Tính hoàn trả biểu hiện thông qua vốn tín dụng, người đi vay sử dụng vốn vay vào quá trình sản xuất kinh doanh để rồi phải trả cho người vay số tiền gốc + lãi suất cho vay. Nhu cầu tín dụng sẽ biến động theo sự phát triển của nền kinh tế - nhu cầu sẽ tăng cao khi nền kinh tế phát triển và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường lãi suất tín dụng bị tác động theo quy luật cung - cầu và được quyết định theo sự thoả thuận của người vay và người cho vay.
Vốn được tăng lên trong quá trình sử dụng: Là việc các tổ chức cho vay sử dụng vốn tín dụng để cho vay lấy lãi.
1.1.1.2 Các hình thức tín dụng:
- Tín dụng Thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại phát sinh là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ: do đặc tính thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các nhà doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá cũng là một hình thức tín dụng vì nó chứa đầy đủ 3 nội dung cơ bản trong khái niệm tín dụng. Vai trò tích cực của tín dụng thương mại thể hiện ở chỗ: đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các nhà doanh nghiệp, giúp tiêu thụ hàng hoá nhanh chóng và kịp thời, tuy vậy tín dụng thương mại có những hạn chế sau đây: hạn chế về quy mô, hạn chế về thời gian, hạn chế về phương hướng.
- Tín dụng Ngân hàng: là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân.
Trong mối quan hệ này, ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người cho vay vừa là người đi vay.
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới dạng tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
- Tín dụng Nhà nước (tín dụng ưu đãi): chủ thể cho vay là Nhà nước và người đi vay là các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế, cá nhân...Lãi suất do Chính phủ qui định theo từng đối tượng sử dụng vốn vay cụ thể trong từng trường hợp, từng thời kỳ khác nhau.
Tín dụng Quốc tế: bao hàm các yếu tố của cả 3 hình thức tín dụng nêu trên và gắn liền với các quan hệ kinh tế quốc tế.
- Tín dụng ngắn hạn: mức cho vay thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: mức cho vay thời hạn từ 1 năm trở lên đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: mức cho vay thời hạn từ 5 năm trở lên.
- Tín dụng từ nguồn vốn trong nước: là nguồn vốn huy động trong nước để tài trợ cho đầu tư phát triển như: Lợi nhuận để lại, khấu hao, ngân sách Nhà nước hỗ trợ, cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công trình, các khoản thu từ thuế và các khoản thu khác.
- Tín dụng từ nguồn vốn nước ngoài: là nguồn vốn vay của Chính phủ các nước hoặc các tổ chức quốc tế tài trợ cho đầu tư phát triển như vốn huy động từ việc vay nợ, viện trợ của Chính phủ các nước khác, các tổ chức song phương, đa phương, tổ chức phi Chính phủ (IMF, WB, ADB, NGos), từ tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế...
1.1.2 Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đối với phát triển kinh tế:
* Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Vốn tín dụng đầu tư phát triển: Là việc Nhà nước sử dụng vốn ngân sách hoặc vốn do Nhà nước huy động để cho vay đầu tư các dự án theo kế hoạch hàng năm của Nhà nước như các chương trình mục tiêu phục vụ lợi ích quốc gia, các dự án đầu tư quan trọng trong từng thời kỳ kế hoạch, nhưng các dự án này phải đảm bảo có khả năng sinh lời, có khả năng hoàn trả được vốn vay cho Nhà nước. Nhà nước ưu đãi cho các dự án này vay vốn với thời gian tương đối dài tối đa từ 10 năm đến 12 năm ( trừ trường hợp cho vay lại bằng vốn ODA thì thời gian vay dài hơn), lãi suất thấp, điều kiện cho vay dễ dàng.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển được hình thành từ các nguồn sau:
+ Vốn ngân sách Nhà nước cấp hàng năm.
+ Vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại các dự án đầu tư phát triển.
+ Vốn nhận uỷ thác của các Quỹ đầu tư, các tổ chức trong và ngoài nước.
-Các đặc điểm chính của tín dụng đầu tư phát triển thể hiện như sau:
+ Nguồn vốn: chủ yếu thuộc Ngân sách Nhà nước.
+ Đối tượng cho vay: được Chính phủ quyết định cụ thể trong từng thời kỳ.
+ Phương thức cho vay:
Quỹ hỗ trợ phát triển trực tiếp cho vay và thu hồi nợ.
Uỷ thác cho các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính cho vay và thu hồi nợ.
+ Lãi suất cho vay: theo qui định của Chính phủ áp dụng trong từng thời kỳ:
Năm 1996-1997: Lãi suất cho vay là 1,1%/tháng.
Năm 1997-2000: Lãi suất cho vay 0,81%/tháng đối với các khoản vay bằng VNĐ và 8,5%/năm đối với các khoản vay bằng USD.
Từ 8/7/2000 đến 2001: lãi suất cho vay là 9%/năm (0,7%/tháng).
Từ 2001 đến 31/5/2002: lãi suất cho vay là 7%/năm (0,583%/tháng).
Từ 1/6/2002 đến nay: lãi suất cho vay là 5,4%/năm (0,45%/tháng).
* Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
+ Do đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản là sử dụng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, nên đối với một số dự án, chương trình đặc biệt phục vụ lợi ích kinh tế - xã hội, có tỷ suất lợi nhuận thấp, tính rủi ro cao nên các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng không thể cho vay theo cơ chế tín dụng ngân hàng mà chỉ có tín dụng ưu đãi của Nhà nước mới có thể đáp ứng được yêu cầu cho vay với lãi suất thấp, thời gian cho vay tương đối dài để các doanh nghiệp có thể thu hồi được vốn và phát triển được.
+ Trước đây dưới cơ chế bao cấp Nhà nước thường xuyên cấp phát vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng và mở rộng sản xuất điều này gây ra sự ỷ lại, trông chờ vào ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp và làm cho nguồn ngân sách Nhà nước đã nhỏ bé lại càng hạn chế trong việc thực hiện đầy đủ những mục tiêu phát triển đề ra. Như vậy, ngân sách Nhà nước không thể tài trợ dưới hình thức cấp phát cho các dự án đầu tư mãi được mà thông qua hình thức cho vay ưu đãi của Nhà nước, Nhà nước vừa bảo đảm phát huy nội lực để góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vừa có khả năng thu hồi và tăng nguồn vốn cho ngân sách để đầu tư cho các công trình tiếp theo trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp.Trên nguyên tắc ngân sách Nhà nước chỉ cấp phát cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn. Cơ chế này góp phần làm tăng ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư và dần nâng cao được hiệu quả đầu tư.
1.1.2.1 Vai trò của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong tái sản xuất mở rộng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
-Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân thông qua các đối tượng được ưu đãi để đầu tư phát triển.
-Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là phương tiện để Nhà nước cung ứng tiền cho nền kinh tế phù hợp với định hướng phát triển kinh tế trong từng thời kỳ kế hoạch thông qua lãi suất ưu đãi làm tăng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp để đầu tư phát triển. Cụ thể việc bán trái phiếu, tín phiếu của Nhà nước đã thu được một lượng tiền lớn trong lưu thông nhằm kiềm chế được lạm phát, ổn định được giá cả, tăng trưởng kinh tế. Đồng thời việc khai thác các đồng vốn trong và ngoài nước đã làm tăng cung về tín dụng, kích thích tăng trưởng kinh tế mà không tăng lạm phát.
-Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Điều đó thể hiện trong việc qui định các đối tượng vay ưu đãi theo từng thời kỳ, đối tượng vay là cả các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh thuộc các thành phần kinh tế, để mở rộng sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu..., tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, điều hoà và phân phối thu nhập giữa các ngành và lãnh thổ. Mặt khác tín dụng ưu đãi của Nhà nước thực hiện một trong các nhiệm vụ của Nhà nước là đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc đầu tư ưu đãi vào các đối tượng thuộc vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế.
1.1.2.2 Vai trò của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
-Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh doanh độc lập, với nguyên tắc tự bù đắp các chi phí, đồng thời phải có lãi. Thông qua hoạt động tín dụng các doanh nghiệp tạo ra được các loại nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là nguồn vốn tín dụng quan trọng, là nguồn vốn rẻ (với mức lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thương mại), ổn định trong thời gian dài. Thông qua nguồn vốn này Nhà nước hỗ trợ vốn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc đối tượng ưu đãi phát triển và kinh doanh có hiệu quả.
-Nguyên tắc của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lãi. Gắn liền với điều kiện đó là điều kiện cấp và hoàn trả tiền vay. Với ý nghĩa đó tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tác động đến các đối tượng thuộc diện vay ưu đãi, mở rộng tính tự chủ kinh doanh, quan tâm đến hiệu quả kinh tế, nâng cao mức doanh lợi, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại nguồn vốn cấp phát của Nhà nước, tạo điều kiện chuyển các doanh nghiệp sang hạch toán kinh doanh thực sự.
1.1.2.3 Vai trò của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong việc góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước dành cho đầu tư phát triển ở nước ta một phần được hình thành từ nguồn vốn vay nước ngoài và một phần từ nguồn tài trợ phát triển chính thức ODA của nước ngoài thông qua các Hiệp định tín dụng của Nhà nước.
Trên cơ sở các văn bản luật, pháp lệnh về khuyến khích đầu tư phát triển đã được ban hành. Nhà nước chủ động tạo ra môi trường đầu tư và hành lang pháp lý để thu hút các nguồn vốn tư bản nước ngoài - nguồn vốn này chủ yếu được đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, các công trình kinh tế trọng điểm, nhờ đó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng tưởng kinh tế và nâng cao mức sống vật chất của nhân dân. Mặt khác, trên cơ sở ký kết các hợp đồng tín dụng Nhà nước, sẽ tạo ra được các mối quan hệ kinh tế Quốc tế, thúc đẩy sự hoà nhập quan hệ kinh tế - xã hội của nước ta với cộng đồng Quốc tế.
1.2 hiệu quả của khai thác, sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
1.2.1 Quan điểm về hiệu quả:
Hiệu quả nói khái quát nghĩa là không lãng phí nhưng nó có quan hệ chặt chẽ với việc sử dụng năng lực sản xuất hiện có .Cốt lõi của mọi hoạt động trong sự hạn chế và khan hiếm của nguồn lực (sự thiếu hụt).
Khái niệm hiệu quả kinh tế xã hội:
- Hiệu quả tài chính: hiệu quả tính theo quan điểm kế toán, không tính đến chi phí cơ hội.
Hiệu quả kinh tế: tính cả chi phí cơ hội và khoản thu cơ hội.
Hiệu quả kinh tế- xã hội: bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội: những lợi ích mang lại cho xã hội, công ăn việc làm, thu nhập, môi trường, tài nguyên, công bằng xã hội, phân phối thu nhập, nâng cao mức sống, chủ trương chính sách của Nhà nước, công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chiến lược, mục tiêu, kế hoạch...
Hiệu quả trên quan điểm quản lý Nhà nước ( tính đầy đủ các chi phí cơ hội chứ không phải chỉ tính những chi phí theo giá trị thực tế):
Bảo hộ sản xuất trong nước .
Trợ giá, bao cấp
Các chính sách ưu đãi khác về thuế, tiền thuê đất, điện , xăng dầu...
Hiệu quả kinh tế của xã hội: GTGT sẽ là phần quan trọng của GDP, số lao đông có việc làm ( Lao động trực tiếp + lao đông gián tiếp- Số lao động mất việc do dự án.
Uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hiệu quả của việc khai thác sử dụng vốn tín dụng ưu đãi của Quĩ hỗ trợ phát triển chú trọng hiệu quả kinh tế xã hội, nhưng phải đảm bảo thu hồi được nợ vay. Hiệu quả kinh tế xã hội cụ thể phải phù hợp với các tiêu chuẩn sử dụng hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội:
Nguồn vốn khan hiếm sử dụng có hiệu quả.
Sự lựa chọn là hợp lý nhất trong các đề xuất đầu tư.
- Mang lại lợi ích cho những đối tượng chịu thiệt thòi trong hiện tại.
Sử dụng vốn tín dụng ưu đãi của Quĩ hỗ trợ phát triển là để đầu tư thực hiện dự án. Hiệu quả đầu tư của dự án được phân tích trên hai mặt: hiệu quả về mặt kinh tế -tài chính và hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội.
+ Phân tích hiệu quả kinh tế - tài chính:
Các dữ liệu tài chính được điều chỉnh thành các dữ liệu kinh tế. Chi phí và lợi ích của dự án được thẩm định từ quan điểm của cả nền kinh tế.
Phân tích kinh tế khác với phân tích tài chính ở chỗ phân tích tài chính chỉ tính tới lợi ích của nhà đầu tư hoặc chủ dự án còn phân tích kinh tế có tính đến lợi ích của cả quốc gia. Để phát triển phân tích tài chính thành phân tích kinh tế cần trả lời thêm một loạt các câu hỏi:
Mức độ khác biệt giữa các giá trị kinh tế và giá trị tài chính của các biến số bị ảnh hưởng bởi các quy định và kiểm soát của chính quyền hoặc thuế, trợ giá...
Mức độ khác biệt giữa các giá trị kinh tế và giá trị tài chính của các biến số bị ảnh hưởng bởi những điều không hoàn hảo của thị trường (đòi hỏi về mức lương của Công đoàn, biện pháp hạn chế kinh doanh).
Tính khả thi và mức độ ảnh hưởng của các biến số trong tính toán về thu chi tài chính.
Tính toán IRR phản ảnh đúng chi phí theo quan điểm của toàn bộ nền kinh tế thì có tạo ra được một NPV dương không.
Những biến động và rủi ro có thể sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh trong tương lai (biến động của các biến số).
+ Phân tích kinh tế - xã hội:
Dự án được thẩm định từ quan điểm của những đối tượng được hưởng lợi từ dự án và những đối tượng phải chịu chi phí cho dự án. Ta nên định lượng hoá mức lợi ích được hưởng và chi phí phải chịu của các nhóm này ở nhũng chỗ nào có thể làm được.
Cần định lượng hoá những tác động ngoài kinh tế của dự án.
Dự án có thể giúp được những mục tiêu xã hội nào của chính quyền.
Ai là đối tượng được hưởng lợi của dự án và ai là nhũng người chịu chi phí của dự án.
Các thức hưởng lợi của các đối tượng thụ hưởng cũng như cách trả chi phí của đối tượng chịu thiệt.
Những tác động về mặt chính trị xã hội và bằng cách nào.
Chính quyền có thể đạt được những mục tiêu xã hội như dự án theo cách như thế nào và chi phí bao nhiêu.
Chi phí kinh tế ròng của dự án là bao nhiêu.
Nguyên tắc cần ghi nhớ:
Khi đánh giá hiệu quả xã hội:
+ Lập luận rõ ràng dự án gây ảnh hưởng tới xã hội theo cách nào.
+ So sánh hiệu quả kinh tế của dự án đang được xem xét với các dự án, biện pháp khác đang được thực hiện.
Phân tích hiệu quả xã hội:
+ Hiệu quả kinh tế trực tiếp.
+ Hiệu quả kinh tế gián tiếp.
+ Hiệu quả xã hội có thể xác định chắc chắn.
+ Hiệu quả xã hội không định lượng được và xác định không chắc chắn.
Kết luận về chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Các kết quả về mặt xã hội mà dự án mang lại (Những mối lợi, các đối tượng được hưởng, những hậu quả dự tính sẽ xảy ra, đối tượng gánh chịu, biện pháp giải quyết, các tác động chính trị xã hội).
Những điều kiện để chính phủ có thể kiểm soát lợi ích.
Đề nghị ưu đãi mà dự án đầu tư có thể phù hợp với quy định chung.
Những vấn đề mới phát sinh ngoài các quy định của luật pháp và chính sách của nhà nước - kiến nghị các xử lý.
Những khả năng rủi ro.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả:
Sử dụng vốn tín dụng ưu đãi của Quĩ hỗ trợ phát triển là để đầu tư thực hiện dự án. Do vậy cơ sở để đánh giá chính là các chỉ tiêu hiệu quả của dự án, có thể thông qua một số chỉ tiêu chính như sau:
1.2.2.1 Chỉ tiêu hiện giá thuần (NPV):
Hiện giá thuần của dự án là tổng các chênh lệch giữa hiện giá lợi ích và hiện giá chi phí trong toàn bộ thời gian thực hiện dự án.
Bi: lợi ích hàng năm của dự án, bao gồm
+ Doanh thu ở năm thứ i
+ Giá trị thu hồi tài sản do hết tuổi thọ hay thời gian hoạt động của dự án kết thúc.
+ Giá trị vốn vay được giải ngân trong năm i
+ Các khoản thu khác từ dự án
Ci: Chi phí hàng năm của dự án, bao gồm:
+ Chi phí đầu tư để mua sắm hay xây dựng tài sản cố định ở thời điểm đầu và các thời điểm năm thứ i
+ Chi phí hoạt động sản xuât, kể cả các khoản chi phí tỉ lệ (không tính khấu hao tài sản cố định) và các khoản thuế theo qui định hiện hành.
+ Trả nợ vốn vay trong năm thứ i
+ Các khoản chi phí sản xuất khác.
: hệ số chiết khấu của dự án
i: thứ tự năm trong thời gian thực hiện dự án (thời gian thực hiện dự án được xác định theo chế độ khấu hao tài sản cố định do Bộ Tài chính qui định)
i-1 : được qui ước trong tính toán dự án với ý nghĩa các giá trị đồng tiền phát sinh tại năm i =1 được coi như giá trị hiện tại của dòng tiền đó (không cần chiết khấu)
r: tỉ suất chiết khấu của dự án.
ý nghĩa của chi tiêu hiện giá thuần:
Hiện giá thuần biểu thị mối quan hệ so sánh giá trị tuyệt đối giữa hiện giá lợi ích và hiện giá chi phí.
Trường hợp NPV > 0 : Dự án có NPV càng lớn thì hiệu quả tài chính của dự án càng cao
Trường hợp NPV Ê 0: dự án không có hiệu quả tài chính.
1.2.2.2 Chỉ tiêu hệ số sinh lời của dự án (BCR):
Hoặc
Trong đó:
Bi : Lợi ích hàng năm của dự án.
Ci : Chi phí hàng năm của dự án.
hoặc chiết khấu của dự án tuỳ theo lựa chọn năm xây dựng là i=0 hoặc i=1.
r: Tỷ suất chiết khấu của dự án.
i: Thứ tự năm trong thời gian thực hiện dự án.
ý nghĩa:
Hệ số sinh lời cho biết 1 đồng hiện giá chi phí bỏ ra trong dự án có khả năng thu được mấy đồng hiện giá lợi ích.
Trường hợp BCR>1: Dự án có hiện giá hệ số sinh lời càng lớn hơn 1 thì hiệu quả tài chính của dự án càng cao.
Trường hợp BCR<1: Dự án không có hiệu quả tài chính.
1.2.2.3 Chỉ tiêu tỷ suất thu hồi bốn nội bộ của dự án (IRR):
Tỷ suất thu hồi vốn nội bộ của dự án là tỷ suất chiết khấu mà với tỷ suất này hiện giá thuần (NPV) của dự án = 0
hoặc
Trong đó:
IRR : Tỷ suất thu hồi vốn nội bộ của dự án (%)
Bi : Lợi ích hàng năm của dự án.
Ci : Chi phí hàng năm của dự án.
Trong đó:
r1: Tỷ suất chiết khấu ban đầu để tính NPV1 sao cho NPV1<0
r2: Tỷ suất chiết khấu giả định để tính NPV2 với điều kiện sao cho NPV2 có giá trị âm (r1
ý nghĩa:
Tỷ suất thu hồi vốn nội bộ (IRR) biểu thị khả năng sinh lời cao nhất đồng vốn đầu tư cảu chủ đầu tư.
Trường hợp dự án có IRR lớn hơn tỷ lệ lợi nhuận bình quân của ngành thì dự án có hiệu quả về tài chính. Nếu IRR càng lớn thì dự án chó hiệu quả càng cao.
Trường hợp dự án có IRR nhỏ hơng tỷ lệ lợi nhuận bình quân của ngành thì dự án không có hiệu quả tài chính.
1.2.2.4 Thời gian thu hồi vốn (T):
Là số năm cần thiết để dự án phải hoạt động để lợi nhuận và khấu hao thu được vừa đủ hoàn trả vốn đầu tư ban đầu.
+ Thời gian thu hồi vốn giản đơn: Là thời hạn thu hồi vốn không xét đến giá trị đồng tiền theo thời gian.
bình quân năm
+ Thời gian thu hồi vốn có chiết khấu:
Trong đó:
K: Vốn đầu tư ban đầu.
Pi: Lợi nhuận thu được năm thứ i
Di: Khấu hao thu được năm thứ i
NPV(Pi+Di): Tổng hiện giá tích luỹ hoàn vốn hàng năm.
1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triểncủa Nhà nước:
Hoạt động cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan. Những nhân tố này gây nên những tác động cả tích cực và tiêu cực. Vì vậy, để phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, chúng ta cần nghiên cứu những tác động này.
1.2.3.1 Những nhân tố khách quan
Xét về mặt khách quan, hoạt động tín dụng ưu đãi của nhà nước chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
- Các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước
Đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các cơ chế, chính sách của Chính phủ là khung pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói chung và hoạt động tín dụng ưu đãi nói riêng. Trên cơ sở các định hướng kinh tế chung của đất nước trong từng thời kỳ, Chính phủ sẽ hoạch định những vùng, những ngành, lĩnh vực được ưu tiên phát triển. Đó là cơ sở để đưa ra các qui định về đối tượng được hưởng tín dụng ưu đãi và mức độ ưu đãi. Căn cứ vào tình hình kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ mà chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có sự điều chỉnh linh hoạt, hợp lý, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và phát triển ổn định, có trọng tâm của nền kinh tế. Chính sách kinh tế của Nhà nước là nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển. Nếu phù hợp, chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và cho các đơn vị thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, trên cơ sở đó thúc đẩy hiệu quả hoạt động cho vay. Ngược lại, nếu bất hợp lý, đó sẽ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ngân sách trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của xã hội không có nguồn để đáp ứng.
- Điều kiện kinh tế vĩ mô của đất nước
Môi trường kinh tế vĩ mô của đất nước là nhân tố gián tiếp tác động đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Tuỳ theo điều kiện kinh tế vĩ mô khác nhau mà Chính phủ có những điều chỉnh trong chính sách tài chính quốc gia như điều chỉnh về tỷ giá, lãi suất, chính sách tài chính, tiền tệ. Đến lượt mình, các nhân tố này lại tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước nói riêng. Chẳng hạn, trong điều kiện nền kinh tế giảm phát, Nhà nước thường có chủ trương cắt giảm lãi suất ngân hàng để kích cầu nền kinh tế, kích thích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, hạ giá thành và giá bán sản phẩm. Điều này dẫn đến lãi suất cho vay đầu tư phát triển của nhà nước cũng phải giảm theo để đảm bảo tính chất ưu đãi. Hơn thế nữa, các dự án đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, dự án đầu tư chiều sâu cho sản xuất kinh doanh sẽ được xếp vào danh mục được hưởng ưu đãi dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu các ngành, các lĩnh vực được phép vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Ngoài ra, trong trường hợp này, Chính phủ thường có thêm những biện pháp khác như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm thực hiện mục tiêu kích cầu tiêu dùng từ phía nền kinh tế. Những biện pháp này tác động trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp, khuyến khích họ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước để đầu tư phát triển sản xuất của bản thân doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Mức độ hoạt động kinh tế, sự biến động của thị trường và cạnh tranh
Đây là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Các khoản vay gia tăng nhanh và có khả năng trả nợ cao hơn trong các thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế so với các giai đoạn suy thoái hơn . Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu, nó tồn tại một cách khách quan và buộc tất cả các đơn vị kinh tế đều phải tham gia để chiếm được một vị trí trên thị trường. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường lại thường xuyên thay đổi do tác động của rất nhiều nhân tố cả chủ quan và khách quan khác. Thị trường biến động đòi hỏi chủ đầu tư phải có những thay đổi linh hoạt để thích ứng. Vì vậy, có nhiều dự án do những thay đổi của thị trường và cạnh tranh mà không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng tiến độ hay không đem lại hiệu quả như phương án tài chính. Điều đó gây nên những tác động không nhỏ cho hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước.
- Các nhân tố khách quan khác như thiên tai, địch họa...Đây là các nhân tố bất khả kháng, nó tác động trực tiếp đến hoạt động của chủ đầu tư, hoạt động của toàn bộ nền kinh tế và do đó mà tác động đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước.
1.2.3.2 Những nhân tố chủ quan
Ngoài những nhân tố khách quan kể trên, hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước còn chịu tác động của nhiều nhân tố chủ quan khác. Một cách tổng quát, các nhân tố này được chia làm hai nhóm
* Các nhân tố thuộc về cơ quan thực hiện
Cơ quan thực hiện cho vay đầu tư phát triển của nhà nước gồm có các cơ quan quản lý nhà nước và các kênh thực hiện cho vay như các ngân hàng thương mại quốc doanh, các quỹ đầu tư phát triển... Hoạt động của các cơ quan này trực tiếp tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước.
- Các quy định về quy trình, thủ tục thực hiện
Các quy định này gồm có: quy trình lập kế hoạch và giao vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, thẩm định và xét duyệt dự án được hưởng ưu đãi, quy định về lãi suất cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay, quy định về giải ngân và thu hồi vốn...Căn cứ vào mục tiêu chiến lược lớn trong từng thời kỳ của đất nước mà các quy định này được điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện thực tế thúc đẩy hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Mặt khác, chính sự thay đổi thường xuyên của các quy định này lại gây nên không ít khó khăn cho không chỉ chủ đầu tư mà cho chính hoạt động của các đơn vị thực hiện cho vay đầu tư phát triển như các ngân hàng thương._. mại quốc doanh, quỹ hỗ trợ phát triển...
Một nhân tố khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động này là thủ tục hành chính. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, mặc dù việc cải cách hành chính đã và đang được thực hiện nhưng nhìn chung vẫn còn rất nặng nề. Trong khi đó, tín dụng ưu đãi của nhà nước lại thuộc lĩnh vực tài chính nhà nước, nghĩa là gắn liền với những thủ tục phức tạp, rườm rà, cứng nhắc không phù hợp với những biến động chung của tình hình. Điều này dẫn đến tâm lý ngại vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước của chủ đầu tư do phải thực hiện quá nhiều thủ tục hoặc phải thay đổi các yếu tố của dự án để đáp ứng đủ thủ tục vay vốn, mặt khác cũng gây khó khăn và làm giảm hiệu quả hoạt động của các đơn vị thực hiện.
- Sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan, Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố) và các cơ quan có liên quan.
Tín dụng ưu đãi của nhà nước là một lĩnh vực của tài chính nhà nước. Do đó, nó cần được sự quản lý và chỉ đạo của rất nhiều các cơ quan nhà nước để đảm bảo thực hiện đúng bản chất của nó và tránh những hiện tượng lạm dụng hay lãng phí vốn ngân sách. Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc quản lý này trên cơ sở không gây làm cản trở hoạt động cho vay thì cần phải có sự kết hợp hoạt động chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan đồng thời có sự phân định rõ ràng về trách nhiệm, thẩm quyền của từng đơn vị. Điều này không chỉ góp phần làm giảm thủ tục hành chính phiền hà, giảm thời gian và chi phí cho chủ đầu tư khi tiến hành làm thủ tục xin được vay vốn mà còn giúp cho việc xác định trách nhiệm khi có các vướng mắc nảy sinh, tránh trường hợp đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến tình trạng ách tắc trong quá trình thực hiện. Hơn nữa, sự nhất quán trong quan điểm chỉ đạo hoạt động của các cơ quan quản lý cũng tạo nên một môi trường ổn định cho các nhà đầu tư khi tiến hành lập phương án tài chính, phương án trả nợ là cơ sở để thực hiện cho vay tín dụng ưu đãi của nhà nước.
Cơ sở vật chất, địa điểm, công nghệ
Khách hàng mong muốn tiến hành giao dịch kinh doanh với một chi nhánh có trụ sở kiên cố và bề thế thuận tiện với các nhân viên dễ mến, thân thiện, lịch sự, nhanh chóng.
Các hệ thống thiết bị, máy móc hiện đại các công nghệ mới áp dụng trong quá trình thực hiện thao tác nghiệp vụ sẽ ảnh hưởng đến sự nhanh chóng, thời gian, chất lượng thực hiện nghiệp vụ cụ thể.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
Con người bao giờ cũng đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của xã hội. Do đó, nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả hoạt động cho vay tín dụng ưu đãi của nhà nước chính là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, từ đội ngũ cán bộ quản lý ở cơ quan giao kế hoạch đến cán bộ trực tiếp thực hiện cho vay tại các cơ quan giải ngân vốn vay. Cán bộ quản lý thành thạo nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao thì việc bố trí kế hoạch vốn được thực hiên đúng thời hạn. Cũng như vậy, trình độ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng sẽ đóng vai trò quyết định trong việc hướng dẫn các đơn vị được vay hoàn chỉnh thủ tục hồ sơ xin vay vốn sẽ tạo điều kiện giải ngân nhanh vốn vay, nhanh chóng đưa dự án đi vào cuộc sống, đồng thời thẩm định chính xác hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án, đảm bảo đồng vốn tín dụng ưu đãi được thực hiện đúng mục đích và bảo toàn phát triển nguồn vốn ngân sánh.
Bên cạnh đó, sự phối hơp hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa từng cá nhân cũng như sự quản lý điều hành tốt của các cán bộ quản lý sẽ là cơ sở để giảm chi phí hành chính, tiết kiệm và chống lãng phí trong sử dụng vốn tín dụng ưu đãi. Vì vậy, trong quá trình nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển thì vấn đề nâng cao trình độ nghiệp vụ và ý thực trách nhiệm của đội ngũ cán bộ phải được đặc biệt quan tâm đến song song với việc hoàn thiện cơ chế tín dụng, cải cách thủ tục hành chính.
* Các nhân tố từ phía chủ dự án vay vốn
Chủ đầu tư đóng vai trò trọng tâm trong việc thực hiện dự án đầu tư phát triển. Đó là người trực tiếp quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước. Do đó, những nhân tố từ phía chủ đầu tư luôn là một trong những nhân tố chủ quan quan trọng nhất tác động đên hoạt động cho vay đầu tư phát triển. Các nhân tố từ phía chủ đầu tư gồm có:
- Nhận thức của chủ đầu tư về tín dụng ưu đãi của nhà nước
Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng quyết định hành vi của chủ đầu tư. Nếu nhận thức đúng đắn về tín dụng ưu đãi của nhà nước, chủ đầu tư sẽ có ý thức cao trong việc sử dụng vốn vay đồng thời có những biện pháp tốt nhất đảm bảo sử dụng đúng hiệu quả, đúng mục đích, bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Đó là cơ sở để các kênh cho vay thực hiện tốt chức năng của mình, đảm bảo hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước, các nguồn vốn huy động khác cho tín dụng ưu đãi. Mặt khác, nếu chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của tín dụng ưu đãi của nhà nước, chủ đầu tư sẽ coi đó như một biến tướng của hình thức cấp phát vốn. Do đó hoặc là không có ý thức trách nhiệm đối với vốn vay dẫn đến mất khả năng trả nợ làm ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư cho các dự án khác của nhà nước hoặc là coi nó như là cơ chế xin-cho, chỉ chú trọng đến việc được ghi kế hoạch vốn mà không chú ý đến việc xây dựng dự án có hiệu quả.
- Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh doanh và mối quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường
Ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp là căn cứ để xác định xem nó có được hưởng tín dụng ưu đãi (tín dụng đầu tư phát triển) của nhà nước hay không. Qua đó, quyết định tín dụng đầu tư phát triển có được thực hiện đối với doanh nghiệp hay không. Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh quyết định khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, khả năng đảm bảo tài chính của doanh nghiệp. Cùng với tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, những yếu tố này sẽ quyết định khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các mối quan hệ thị trường của doanh nghiệp bao gồm quan hệ với khách hàng, quan hệ với nhà cung cấp, với các cơ quan quản lý nhà nước, các kênh cho vay và các tổ chức tài chính trung gian khác sẽ tạo nên tính linh hoạt của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng huy động nguồn vốn bổ sung cho dự án, phối hợp giả quyết các vấn đề chuẩn bị cho dự án như hoàn tất thủ tục, lựa chọn công nghệ thiết bị hợp lý, tổ chức đấu thầu thi công nhanh gọn và giả phóng mặt bằng. Đó là cơ sở đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện được dự án đầu tư phát triển và thực hiện có hiệu quả. Do đó, nó cũng được coi là nhân tố chủ quan tác động đến hoạt động cho vay tín dụng ưu đãi của nhà nước.
- Trình độ quản lý và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp
Nhân tố này trước hết đóng vai trò quyết định đối với việc xây dựng và lựa chọn dự án đầu tư là cơ sở để thực hiện tín dụng ưu đãi của nhà nước. Mặt khác, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng tác động đến việc thực hiện dự án, đến khả năng thanh toán nợ vay. Không những thế, trình độ của cán bộ trong từng bộ phận sẽ đảm bảo cho từng khâu thực hiện dư án theo qui định một cách nhanh chóng đảm bảo dự án được ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân nhanh chóng theo đúng kế hoạch.
1.3 Những quy định về huy động và sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
1.3.1 Quy chế huy động.
Quỹ Hỗ trợ phát triển hiện nay là nơi được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý hoạt động cho vay ưu đãi của Nhà nước. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển bao gồm vốn Điều lệ (3000 tỷ đồng), vốn tiếp nhận (vốn ngân sách Nhà nước cấp hàng năm; vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ; vốn nhận uỷ thác của các Quỹ đầu tư, các tổ chức trong và ngoài nước), và các nguồn huy động khác. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển được quản lý theo nguyên tắc tập trung thống nhất, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo hoàn vốn và bù đắp chi phí.
Kế hoạch huy động vốn hàng năm của Quỹ Hỗ trợ phát triển do Tổng giám đốc Quỹ xác định phù hợp với kế hoạch nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ giao hàng năm cho Quỹ.
Quỹ huy động nguồn vốn trung và dài hạn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi.
Vốn huy động của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm:
Vốn vay các Quỹ: Tích luỹ trả nợ nước ngoài; Tiết kiệm bưu điện và nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
Các nguồn vốn của các tổ chức kinh tế để đầu tư theo kế hoạch Nhà nước (bao gồm vốn khấu hao tài sản cố định và Quỹ đầu tư phát triển);
Vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ;
Vốn vay trung và dài hạn các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, ngân hàng trong và ngoài nước;
Vốn huy động khác theo quy định.
1.3.2 Quy chế cho vay.
1.3.2.1 Đối tượng được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Hàng năm Chính phủ đều có những quyết định về cơ chế vốn tín dụng ưu đãi dành cho đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước, trong đó có xác định về đối tượng được ưu tiên vay vốn, đến năm 2001 thì các đối tượng cụ thể được Nhà nước qui định đó là:
Các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp (bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế, bao gồm:
a) Những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) thuộc các ngành sau đây:
Sản xuất điện; khai thác khoáng sản (trừ dầu khí, nước khoáng, vàng, đá quý); hoá chất cơ bản; phân bón; thuốc trừ sâu vi sinh;
Chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ nông nghiệp;
Xây dựng cơ sở chế biến: nông sản, lâm sản, thuỷ sản, xây dựng cơ sở làm muối;
Sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động;
Trồng rừng nguyên liệu tập trung; trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả;
Cơ sở hạ tầng về giao thông, cấp nước, nhà ở có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
b) Các dự án nuôi trồng thuỷ hải sản, chăn nuôi bò sữa.
c) Các dự án thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao.
d) Các dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay lại.
e) Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.3.2.2 Điều kiện vay vốn:
* Đối với dự án:
- Thuộc đối tượng được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
- Có đủ thủ tục đầu tư và xây dựng theo quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng, cụ thể là:
Có báo cáo khả thi (hoặc báo cáo đầu tư đối với dự án có tổng mức vốn đầu tư thấp hơn 1 tỷ đồng hoặc dự án đầu tư theo thiết kế mẫu) và quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền được quy định tại Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
Các dự án nhóm C nhất thiết phải có quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Những dự án thuộc nhóm A, B nếu chưa có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt, thì trong Quyết định đầu tư phải quy định mức vốn của từng hạng mục và có thiết kế dự toán của hạng mục thi công trong năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
* Đối với chủ đầu tư:
a) Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và thuộc một trong các loại hình sau đây:
Doanh nghiệp Nhà nước;
Công ty cổ phần;
Công ty trách nhiệm hữu hạn;
Công ty hợp danh;
Doanh nghiệp tư nhân;
Hợp tác xã, liên hiệp tác xã;
Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, hội nghề nghiệp có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật;
Cơ sở giáo dục, đào tạo tư thục, dân lập, bán công; cơ sở y tế tư nhân, dân lập; cơ sở văn hoá dân tộc được thành lập và hoạt động hợp pháp;
Cá nhân, nhóm kinh doanh được thành lập và hoạt động hợp pháp.
b) Đối với dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị, chủ đầu tư phải có tình hình tài chính rõ ràng, lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả. Đối với các dự án thành lập doanh nghiệp mới chủ đầu tư phải có quyết định thành lập doanh nghiệp (trừ những đơn vị không có quyết định thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định) và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được cấp có thẩm quyền cấp.
c) Có phương án sản xuất kinh doanh có lãi, phương án trả nợ vốn vay được Quỹ hỗ trợ phát triển chấp nhận.
d) Đối với tài sản thế chấp và tài sản hình thành bằng vốn vay thuộc đối tượng phải mua bảo hiểm bắt buộc theo quy định của pháp luật, chủ đầu tư phải cam kết và thực hiện mua bảo hiểm tài sản trong suốt thời hạn vay vốn của dự án tại một Công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
e) Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển:
+ Đối với chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước: chủ đầu tư được dùng tài sản hình thành bằng vốn vay để bảo đảm tiền vay. Trong thời gian chưa trả hết nợ, chủ đầu tư không được chuyển nhượng, bán hoặc thế chấp, cầm cố tài sản đó để vay vốn nơi khác.
+ Đối với chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp Nhà nước, khi vay vốn tín dụng ưu đãi, ngoài việc dùng tài sản hình thành bằng vốn vay để đảm bảo tiền vay, phải có thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Trong thời gian chưa trả hết nợ, chủ đầu tư không được cho, tặng, bán, chuyển nhượng hoặc đem cầm cố, thế chấp các tài sản trên tại nơi khác để vay vốn.
+ Trình tự và thủ tục bảo đảm tiền vay, xử lý tài sản bảo đảm (kể cả tài sản thế chấp, tài sản hình thành bằng vốn vay) trong trường hợp chủ đầu tư không trả được nợ, chủ đầu tư chia tách, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá hoặc giải thể, phá sản... thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay, về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm.
1.3.2.3 Các bước tiến hành thực hiện cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
* Thẩm định dự án:
Hàng năm căn cứ vào nhu cầu đầu tư thực tế, các Bộ, Ngành, Tổng công ty 91, UBND tỉnh, thành phố phối hợp cùng với hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển tiến hành thẩm định các dự án có nhu cầu vay vốn tín dụng đầu tư trên các mặt:
+ Định hướng phát triển kinh tế hàng năm và dài hạn của Bộ, ngành, địa phương.
+ Quyết định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về chính sách đầu tư XDCB, cơ chế quản lý vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
+ Nghị định 43/1999/NĐ-CP ban hành ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển trong đó có qui định các đối tượng được vay nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Trong quá trình thẩm định, trách nhiệm thẩm định được phân cấp như sau:
+ Đối với các dự án nhóm A, do Hội đồng thẩm định Nhà nước tiến hành thẩm định trong đó Quỹ Hỗ trợ phát triển tham gia với tư cách thành viên.
+ Đối với các dự án nhóm B, sẽ do Quỹ Hỗ trợ phát triển thẩm định.
+ Đối với các dự án nhóm C và các dự án có giá trị bằng một nửa giá trị các dự án nhóm C do các Chi nhánh Quỹ tiến hành thẩm định.
Sau khi dự án có nhu cầu vay vốn được thẩm định thì Quỹ hỗ trợ phát triển phối hợp với các Bộ, ngành, Tổng công ty 91, các Sở Kế hoạch và Đầu tư cùng các ban ngành có liên quan của tỉnh báo cáo UBND tỉnh, thành phố sắp xếp danh mục dự án.
* Bố trí kế hoạch cho dự án:
Sau khi Chính phủ thông báo tổng mức tín dụng trong năm cho Quỹ Hỗ trợ phát triển, Quỹ sẽ tiến hành phân bổ tổng mức tín dụng cho các Bộ, ngành. Trên cơ sở mức tín dụng được phân bổ và danh mục các dự án đã được thẩm định, các Bộ, ngành sẽ tiến hành sắp xếp danh mục các dự án trong kế hoạch đầu tư và báo cáo với Quỹ Hỗ trợ phát triển để lập kế hoạch đầu tư.
Sau đó thông báo chính thức về mức vốn cho vay mỗi dự án trong năm. Trên các địa bàn, các Chi nhánh Quỹ có trách nhiệm thông báo cho đơn vị vay vốn biết và giúp đỡ họ lập hồ sơ vay vốn.
* Lập hồ sơ vay vốn:
Sau khi có thông báo về số vốn dành cho các dự án được đầu tư, các doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn và gửi toàn bộ hồ sơ cho Chi nhánh Quỹ trên địa bàn. Hồ sơ vay vốn gồm:
+ Dự án đầu tư và Quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Văn bản phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán hoặc thiết kế kỹ thuật và dự toán của hạng mục được đầu tư trong năm thuộc nhóm A, B mà hạng mục đó được xác định mức vốn trong Quyết định đầu tư.
+ Phương án vay vốn và trả nợ (trong đó có nêu tình hình tài chính của doanh nghiệp).
+ Các hợp đồng kinh tế (nếu có).
+ Giải trình thêm của doanh nghiệp vay vốn (nếu có).
Sau khi nhận đủ hồ sơ vay vốn và thông báo chỉ tiêu tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển thì Chi nhánh Quỹ và đơn vị vay vốn ký hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ vay theo đúng chỉ tiêu của Quỹ Hỗ trợ phát triển đã thông báo.
* Kiểm tra sau khi phát vốn vay:
Sau khi ký hợp đồng tín dụng và cho vay, hàng tháng Chi nhánh Quỹ phải lập báo cáo cho vay, thu nợ, thu lãi và tiến độ thực hiện dự án đối với các dự án vay vốn tại Chi nhánh Quỹ cho Quỹ Hỗ trợ phát triển để theo dõi, quản lý. Đồng thời, một tháng 2 lần Chi nhánh Quỹ có trách nhiệm lập nhu cầu vốn gửi Quỹ Hỗ trợ phát triển để Quỹ Hỗ trợ phát triển thực hiện việc chuyển vốn cho các dự án theo kế hoạch rút vốn của đơn vị vay vốn. Khi dự án hoàn thành việc trả nợ (gốc + lãi) thì Chi nhánh Quỹ có trách nhiệm thanh lý hợp đồng tín dụng.
Trên đây là những lý thuyết về vốn tín dụng nói chung và vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước nói riêng và những qui định của Chính phủ về qui chế huy động và sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi.
Hiện nay nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước do Quỹ Hỗ trợ phát triển trực tiếp quản lý và hiệu quả của vốn tín dụng này trong quá trình đầu tư cho phát triển của đất nước phụ thuộc vào cả hai lĩnh vực huy động và sử dụng.
Để nâng cao hiệu quả của nguồn vốn này đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về các qui chế do Chính phủ qui định đối với vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước và thực trạng hoạt động quản lý vốn này tại Quỹ Hỗ trợ phát triển. Việc nâng cao hiệu quả nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước là một sự cần thiết khách quan và là một đòi hỏi cấp thiết trong thời kỳ này ở nước ta.Trong khoá luận này em chỉ đi sâu phân tích việc sử dụng vốn tín dụng ưu đãi tại Chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội.
Chương II
Thực trạng hoạt động sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
2.1 Khái quát về Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi) bắt đầu được thực hiện gần 15 năm nay. Loại tín dụng này trước đây do Ngân hàng Kiến thiết (thuộc Bộ Tài chính) sau đó đổi tên là Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, nay là Ngân hàng Đầu tư phát triển thực hiện. Năm 1996, thực hiện nghị định 53/HĐBT về đổi mới hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Đầu tư phát triển chuyển sang hoạt động với vai trò là một ngân hàng thương mại, tiến hành kinh doanh tiền tệ theo tín hiệu thị trường. Do đó việc tiếp nhận vốn ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó tiến hành đầu tư phát triển kinh tế chuyển sang thuộc về chức năng của Bộ Tài chính, cụ thể là Tổng cục đầu tư phát triển.
Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới kinh tế, đặc biệt là đổi mới hệ thống tài chính quốc gia, năm 2000 Quỹ Hỗ trợ phát triển được thành lập theo nghị định 50/1999 NĐ- CP ngày 8/7/1999 và quyết định số 231/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ 1/1/2001. Quỹ Hỗ trợ phát triển là một tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện việc huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước để giảm lãi suất cho vay và giảm phí bảo lãnh.
Chi nhánh quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội đựoc thành lập căn cứ theo quyết định 01/QĐ-QHTPT ngày 20/12/1999 của Tổng giám đốc Quỹ hỗ trợ phát triển và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2001.
Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội là đơn vị hạch toán phụ thuộc Quỹ Hỗ trợ phát triển có nhiệm vụ tổ chức thực hiện việc huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận, quản lý và sử dụng các nguồn vốn của nhà nước (bao gồm cả vốn trong và ngoài nước) dành cho tín dụng đầu tư nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chi nhánh được coi là một tổ chức tài chính nhà nước, có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối, có con dấu riêng, đước mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn thành phố.
Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội được giao những nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Nghiên cứu và tổ chức thực hiện kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm trên địa bàn đã được Nhà nước giao, các quy định, chế độ hướng dẫn của Tổng giám đốc Quỹ về quy trình nghiệp vụ công tác cho vay, thu hồi nợ, uỷ thác và nhận uỷ thác cho vay, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh, tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh tín dụng đầu tư.
2. Chủ động phối hợp với các ngành, các đợn vị tài chính, tín dụng trên địa bàn để tổ chức thực hiện việc huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển đối với các dự án, chương trình thuộc diện ưu đãi đầu tư trên địa bàn theo quy định của Nhà nước.
3. Thực hiện thẩm định tài chính, phương án trả nợ của các dự án vay vốn tín dụng của Nhà nước trước khi cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư.
4. Tổ chức thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ, công tác kế toán, nghiệp vụ thanh toán, thống kê theo đúng quy định. Tiến hành nhận xét, đánh giá tình hình quản lý sử dụng vốn vay tín dụng đầu tư phát triển hàng năm của Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất với Quỹ Hỗ trợ phát triển và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội; chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp về các nội dung báo cáo, về các hoạt động tài chính, hoạt động nghiệp vụ của Chi nhánh Quỹ.
6. Báo cáo với cấp có thẩm quyền để giải quyết theo pháp luật hoặc khiếu nại theo quy định của pháp luật đối với các chủ đầu tư vi phạm hợp đồng kinh tế và các cam kết với Chi nhánh Quỹ.
7. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước, các quy định về thanh tra kiểm tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và các quy định khác có liên quan đến hoạt động của Quỹ.
Với chức năng nhiệm vụ như trên, Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội được tổ chức theo cơ cấu như sau:
Phòng kế hoạch nguồn vốn
Phòng kinh tế-kỹ thuật và thẩm định
Phòng tài chính kế toán
Phòng
tín dụng bảo lãnh và hỗ trợ lãi suất Trung ương
Phòng tín dụng bảo lãnh và hỗ trợ lãi suất địa phương
Phòng tổ chức hành chính
Giám đốc
phó giám đốc
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
Mỗi bộ phận có chức năng và nhiệm vụ cụ thể do Giám đốc chi nhánh Quỹ quy định:
* Phòng kế hoạch nguồn vốn có chức năng chủ yếu là làm tham mưu cho Giám đốc trong việc chỉ đạo thực hiện công tác kế hoạch hoá, tiếp nhận, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn dành cho tín dụng đầu tư phát triển trong toàn chi nhánh Quỹ, kiểm tra giám sát nội bộ các hoạt động của các phòng thuộc chi nhánh trong việc chấp hành chủ trương chính sách, thể lệ, nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn Chi nhánh.
* Phòng kinh tế-kỹ thuật và thẩm định có chức năng thẩm định kinh tế kỹ thuật các dự án do Chi nhánh Quỹ quản lý, giúp Giám đốc hướng dẫn các phòng nghiệp vụ trong công tác thẩm định kinh tế-kỹ thuật đẩm bảo đúng chế độ chính sách của Nhà nước trong quản lý xây dựng cơ bản.
* Phòng tài chính-kế toán có chức năng tham mưu cho Giám đốc về việc tổ chức và quản lý công tác tài chính, kế toán tại Chi nhánh Quỹ, thực hiện công tác kế toán các hoạt động nghiệp vụ, hoạt động thu chi tài chính theo quy định của Nhà nước và Quỹ Hỗ trợ phát triển.
* Phòng tín dụng, bảo lãnh và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trung ương (địa phương) có chức năng thực hiện nghiệp vụ tín dụng đầu tư phát triển
+ Cho vay, thu hồi nợ đối các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển cho các dự án thuộc kinh tế trung ương (địa phương).
+ Cho vay, thu hồi nợ vay đối với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi.
+ Cho vay lại, uỷ thác, nhận uỷ thác cho vay lại đối với các dự án tín dụng đầu tư phát triển sủ dụng vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư phát triển cho các dự án vay vốn.
+ Tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh cho các Quỹ đầu tư phát triển.
+ Cấp vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án hưởng ưu đãi đầu tư thuộc kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
* Phòng tổ chức hành chính: có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc về công tác tổ chức cán bộ, chính sách về tiền lương, tiền thưởng và đào tạo, tổ chức và quản lý công tác hành chính, công tác văn thư lưu trữ, quản lý và hướng dẫn thực hiện công tác tin học trong toàn chi nhánh, tổ chức trung tâm dữ liệu và xử lý thông tin phục vụ cho công tác quản lý của Chi nhánh Quỹ.
2.2 Tình hình hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
2.2.1 Tình hình đầu tư phát triển của thành phố Hà Nội trong những năm gần đây
2.2.1.1 Toàn cảnh đầu tư phát triển của thành phố
Trong thời gian gần đây, mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện chung của đất nước và những biến động của tình hình kinh tế thế giới song kinh tế Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực. Từ điểm xuất phát thấp năm 1990, Hà Nội đã phát triển liên tục và đặc biệt khởi sắc từ năm 1992, đạt được tốc độ tăng trưởng khá và tương đối toàn diện. GDP năm sau luôn cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ổn định ở mức hai con số, bình quân giai đoạn 1991-2001 đạt 12,17%/năm (trong đó năm 1996 đạt 15%), tỷ trọng GDP của Hà Nội đóng góp vào GDP cả nước luôn tăng và chiếm từ 6-7,5%. Cơ cấu kinh tế dần dần chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. GDP của ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế hiện chiếm khoảng 38% và đang có chiều hướng gia tăng. Trong cơ cấu công nghiệp thủ đô đã hình thành 3 nhóm ngành then chốt là cơ khí (20-23%), dệt-may-da (22-25%), lương thực thực phẩm (16-18%). Khu vực kinh tế quốc doanh từng bước được sắp xếp lại nhằm phát huy vai trò chủ đạo của mình trong phát triển kinh tế thủ đô. Kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt tốc độ tăng trưởng cao tạo thành một cực đối trọng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung của toàn thành phố. Sau nhiều năm xây dựng và cải tạo, bộ mặt đô thị đã có nhiều khởi sắc, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng đô thị được cải thiện.
Những kết quả đạt được kể trên một phần là nhờ các đơn vị trên địa bàn thành phố, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, đã huy động được một lực đáng kể cả trong và ngoài nước phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển thành phố. Trong giai đoạn 1991-1999, toàn thành phố đã huy động được khoảng 80.000 tỷ đồng cho đầu tư phát triển trong đó ngân sách thành phố đầu tư khoảng 10.400 tỷ, chiếm 13% và chủ yếu đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, phúc lợi công cộng. Vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng là 12.888 tỷ, chiếm 16% chủ yếu đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân cư được huy động nhằm mục đích đầu tư phát triển đạt 12.000 tỷ, chiếm 15%. Không chỉ huy động vốn đầu tư trong nước, trong những năm qua Hà Nội đã thu hút được một lượng không nhỏ vốn đầu tư nước ngoài, đạt khoảng 3 tỷ USD, đứng thứ hai trong cả nước (sau thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương). Nguồn vốn này đã hỗ trợ đáng kể cho kế hoạch đầu tư phát triển của thành phố và có những đóng góp lớn cho sự phát triển của kinh tế thủ đô.
Cơ cấu đầu tư phát triển được thực hiện tương đối hợp lý, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước, tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Đầu tư vốn cho ngành giao thông vận tải và bưu điện chiếm khoảng 30,6% tổng vốn đầu tư phát triển và tập trung cho các dự án cải tạo đường sá, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước và hạ tầng viễn thông. Đầu tư cho ngành công nghiệp chiếm 27,6% tập trung vào các lĩnh vực then chốt của thành phố như cơ khí, điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng xây dựng những ngành trọng điểm tạo nên thế mạnh kinh tế vùng. Đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiếm 3,72%, khoa học công nghệ chiếm 8,2%, giáo dục đào tạo chiếm 10,5%, văn hoá y tế và thể thao chiếm 20%.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định song trong những năm qua, tình hình thực hiện đầu tư phát triển của thành phố còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Đầu tư vào các hoạt động kinh tế chưa thực sự đem lại hiệu quả, hoạt động sản xuất kinh doanh mới chỉ nặng về phát triển số lượng mà chưa chú trọng đến chất lượng. Hầu hết các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, thiết bị và công nghệ lạc hậu nên sản phẩm kém khả năng cạnh tranh trên thị trường, không chỉ thị trường quốc tế mà cả thị trường nội địa. Đầu tư cho công tác đào tạo, đặc biệt là đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến kết quả là trình độ cán bộ yếu kém không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu của cơ chế kinh tế mới. Cơ cấu đầu tư về căn bản là tương đối hợp lý song những ngành công nghiệp mũi nhọn của vùng như điện tử, dệt may, cơ kim khí, chế biến thực phẩm và công nghiệp xây dựng vẫn chưa được đầu tư tương xứng với vị trí của nó. Chiến lược sản xuất hàng xuất khẩu chưa được quan tâm đúng mức nên năng lực sản xuất còn hạn chế, manh mún chưa tạo ra được những măt hàng chủ lực phục vụ cho xuất khẩu.
Hệ thống hạ tầng đô thị tuy đã được ưu tiên đầu tư nhưng vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Cơ sở hạ tầng ngày càng trở nên quá tải không theo kịp tốc độ đô thị hoá diễn ra quá nhanh. Chẳng hạn như giao thông công cộng mới chỉ đáp ứng được 3% nhu cầu đi lại của nhân dân, mạng lưới giao thông chất lượng kém và không đồng bộ, tình trạng thiếu nước sạch và ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc hơn. Bên cạnh đó, những nhu cầu đầu tư để tạo công ăn việc làm, đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã hội hóa giáo dục, y tế…ngày càng tăng trong khi vốn đầu tư vào những lĩnh vực này còn rất thấp.
Như vậy, xét một cách toàn diện, đầu tư phát triển của thành phố Hà Nội trong những năm qua đã đem lại những kết q._.mức độ chính xác của các báo cáo tài chính trên cơ sở điều tra tại doanh nghiệp, thu thập thông tin từ cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp và từ các cơ quan thuế.
+ Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC): Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt là đối với dự án vay của các chủ đầu tư thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh nên tham khảo thông tin về khách hàng từ CIC. Trung tâm này cung cấp những thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng, các khoản vay, tình hình thực hiện nghĩa vụ trả lãi và trả nợ, các khoản nợ quá hạn trước đây của đơn vị. Qua đó giúp Chi nhánh đánh giá được ý thức và khả năng trả nợ của khách hàng. Mặt khác, CIC còn cung cấp thông tin về tài sản thế chấp giúp Chi nhánh ngăn ngừa được tình trạng đơn vị đem tài sản thế chấp đi thế chấp tại ngân hàng khác hoặc dùng tài sản đã thế chấp để bảo đảm nợ vay.
- Về thẩm định dự án:
Yếu tố trực tiếp quyết định đến quyết định cho vay là hiệu quả tài chính của dự án. Hiện nay, Chi nhánh thường sử dụng 4 phương pháp để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đó là phương pháp tính giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tính thời gian hoàn vốn đầu tư (PP) và phương pháp tính hệ số sinh lời của dự án (BCR). Ngoài ra cũng xem xét đánh giá kế hoạch thị trường của dự án. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hơn hiệu quả của dự án trong điều kiện những biến động của môi trường, Chi nhánh nên kết hợp sử dụng phương pháp phân tích tình huống trong thẩm định dự án. Phân tích tình huống là một kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại. Trong phương pháp này đòi hỏi phải xem xét cả tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu và sắc xuất xảy ra so với trường hợp có sắc xuất xảy ra lớn nhất (trường hợp cơ sở). Tập hợp những hoàn cảnh tài chính xấu là hoàn cảnh trong đó số lượng bán thấp, giá bán thấp, chi phí biến đổi cao…và ngược lại đối với tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt. Trong từng trường hợp ta sẽ tính NPV và so sánh với NPV cơ sở từ đó xác định được NPV mong đợi của dự án
3
NPVmong đợi = ồ Pi x NPVi
i =1
Trong đó: Pi là sắc xuất xảy ra tình huống i
NPVi là NPV của dự án trong tình huống i
NPV mong đợi cho phép đánh giá đúng hơn khả năng sinh lợi của dự án.
- Nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh có thêm một bước nữa là xác định đối tượng áp dụng cho vay đầu tư phát triển của nhà nước của dự án để làm cơ sở cho việc ký kết hợp đồng tín dụng, xác định mức lãi suất cho vay và thời hạn cho vay. Tuy Chính phủ và Quỹ Hỗ trợ phát triển đã ra nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện song trên thực tế, việc xác định đối tượng trong nhiều trường hợp là rất khó khăn, đặc biết là đối với những lĩnh vực chưa có qui hoạch cụ thể như xã hội hoá giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao hoặc những dự án có nhiều hạng mục thuộc các đối tượng khác nhau. Trong trường hợp này, Chi nhánh cần tham khảo qui hoạch phát triển ngành của các Bộ, ngành có liên quan trên cơ sở vận dụng các văn bản pháp luật và kế hoạch vốn do Sở kế hoạch đầu tư bố trí.
3.2.1.6 Tiến hành rà soát, phân loại nợ vay và có những biện pháp xử lý thích hợp
Việc theo dõi nợ vay của Chi nhánh hiện nay hoàn toàn do các cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Chi nhánh nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực hiện dự án. Định kỳ, Chi nhánh sẽ tiến hành rà soát phân loại nợ vay trên cơ sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cho vay, đánh giá kịp thời và ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, Chi nhánh nên có bộ phận chuyên trách về vấn đề này. Bộ phận này sẽ làm nhiệm vụ tập hợp thông tin từ các cán bộ tín dụng trên cơ sở xem xét tình hình thực tế để tiến hành phân loại nợ vay, từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp. Trên thực tế, những dấu hiệu cho thấy một khoản dư nợ có thể xảy ra rủi ro là:
- Doanh nghiệp chậm trễ trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình với Chi nhánh.
- Doanh nghiệp có biểu hiện trốn tránh khi cán bộ tín dụng xuống kiểm tra đơn vị.
- Hoàn trả lãi vay và nợ gốc chậm hoặc không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã ký.
Khi phát sinh những biểu hiện trên, cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên nhân và tuỳ thuộc vào nguyên nhân mà đề xuất với lãnh đạo Chi nhánh hoặc trình cấp trên phương hướng giải quyết.
- Đối với những dự án gặp khó khăn tạm thời do những biến động của tình hình thị trường ngoài khả năng tính toán thì nên xem xét miễn giảm lãi vay đồng thời phối hợp với chủ dự án để nhanh chóng tìm phương hướng khắc phục. Trong một số trường hợp không nên ngừng giải ngân đối với các dự án thuộc diện này mà nên đẩy nhanh giải ngân vì tăng vốn đầu tư trong giai đoạn này có thể giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Nếu không có khoản gia tăng đầu tư kịp thời này, doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và rủi ro của Chi nhánh càng lớn hơn.
- Đối với những khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan (được qui định cụ thể trong Qui chế cho vay) thì phối hợp với chủ đầu tư hoàn thiện hồ sơ trình Quỹ trung ương và Chính phủ xem xét khả năng gia hạn nợ hoặc khoanh nợ. Chú ý rằng những khoản nợ này sau khi được gia hạn hoặc khoanh nợ vẫn cần theo dõi thường xuyên để hạn chế các rủi ro tiếp theo và thu hồi vốn kịp thời cho Chi nhánh khi có khả năng.
- Đối với những khoản nợ khó đòi mà chủ đầu tư mất khả năng thanh toán do các nguyên nhân khách quan thì phối hợp với chủ đầu tư lập hồ sơ trình Chính phủ xem xét xoá nợ. Trong trường hợp này cũng cần theo sát đơn vị để thu hồi phần nào vốn vay từ tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm. Bên cạnh đó, đồng thời tiến hành các thủ tục bù đắp rủi ro từ Quỹ dự phòng rủi ro của Chi nhánh.
- Đối với những khoản nợ khó đòi (sau khi đã thực hiện đầy đủ các biện pháp giãn nợ, khoanh nợ) do nguyên nhân chủ quan của chủ đầu tư trước hết cần báo cáo kịp thời với cơ quan chủ quản và cơ quan ra quyết định đầu tư. Trong thời gian đó chuẩn bị đầy đủ hồ sơ thủ tục cho việc phát mại tài sản hình thành bằng vốn vay hoặc tài sản thế chấp để thu hồi vốn cho Chi nhánh.
3.2.1.7 Phát huy nhân tố con người trong hoạt động của Chi nhánh
Con người luôn luôn đóng vai trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội cũng không nằm ngoài thông lệ đó. Trong thời gian qua, phát huy nhân tố con người luôn là mục tiêu hàng đầu của Chi nhánh. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ biến các qui định của Chính phủ và Hội đồng quản lý Quĩ được thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn chú trọng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viện tạo điều kiện nâng cao hiệu suất lao động. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa nhân tố con nguời đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Chi nhánh, trong thời gian tới Chi nhánh nên chú ý một số vấn đề sau:
- Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Chi nhánh nên thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ về các nghiệp vụ có liên quan như thẩm định dự án, qui trình cho vay. Để các bài giảng này phát huy hiệu quả hơn nữa có thể mời các chuyên gia hoặc cán bộ của Quỹ Hỗ trợ phát triển về trực tiếp thực hiện. Sau đó, đề nghị cán bộ tham gia tập huấn viết báo cáo thu hoạch để xem kiến thức được tiếp thu đến đâu. Qua những đợt học nghiệp vụ như vậy, cán bộ tín dụng có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế, giữa kinh nghiệm và kiến thức để nâng cao chất lượng công việc.
Mặt khác, nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước chịu điều tiết của rất nhiều những văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó, với điều kiện Việt Nam hệ thống những văn bản này thường xuyên thay đổi. Vì vậy, mỗi khi có những qui định và hướng dẫn thực hiện mới Chi nhánh nên tổ chức một buổi tập huấn cho cán bộ. Qua đó cũng thu thập các ý kiến đóng góp của cán bộ về vấn đề trong thực tế để trình Quỹ Hỗ trợ và Chính phủ xem xét sửa đổi cho phù hợp
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao dịch với khách hàng của cán bộ nhận viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng.
- Phát huy vai trò chủ động của cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm dự án đầu tư, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án và chủ động phối hợp với chủ đầu tư trong việc hoàn tất hồ sơ thủ tục. Với chức năng của mình cán bộ tín dụng nên chủ động tìm kiếm các dự án đúng đối tượng và hướng dẫn chủ đầu tư hoàn tất thủ tục vay vốn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định cũng nên cùng với chủ đầu tư xây dựng dự án, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án. Tuy nhiên, trên góc độ của mình, cán bộ tín dụng chỉ nên đề xuất các định hướng chứ không nên đưa ra các con số cụ thể để tránh việc vừa lập vừa thẩm định dự án.
- Qui định rõ trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ. Đối với nghiệp vụ cho vay, công việc qui định càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả đạt được càng cao bấy nhiêu. Vì vậy, Chi nhánh nên qui định rõ trách nhiệm của từng bộ phận và phân định quyền hạn và chức năng cụ thể của từng bộ phận giữa thẩm định và tín dụng để trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì xác định được trách nhiệm thuộc về ai, có sai phạm trong quá trình thực hiện hay không và sai phạm đến đâu. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên xây dựng một qui chế khen thưởng kịp thời và phù hợp đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể gắn quyền lợị vật chất của cán bộ với chất lượng công việc được đánh giá tổng hợp qua những chỉ tiêu nhất định như dư nợ cho vay, tiến độ giải ngân vốn vay, thời gian thực hiện, số nợ quá hạn và lãi treo…
3.2.1.8 Thực hiện theo dõi, tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư
Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ trong công tác thực hiện nhiệm vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh. Trong khi đó, xét về bản chất hoạt động thì hiệu quả cho vay ưu đãi không phải chỉ là thu hồi được cả gốc và lãi mà điều quan trọng hơn là vốn tín dụng đầu tư phát triển đem lại kết quả gì cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và thành phố nói chung. Vì vậy, Chi nhánh nên tiến hành theo dõi và đánh giá hiệu quả sau đầu tư của dự án. Việc thu thập những thông tin này hoàn toàn không mất nhiều thời gian và công sức, các cán bộ tín dụng hoàn toàn có thể đảm nhận được. Mặt khác nó đem lại hiệu quả đáng kể cho hoạt động của Chi nhánh. Thông qua tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư, Chi nhánh có thể rút ra những kinh nghiệm quí báu trong việc thực hiện nhiệm vụ. Không những thế nó còn là cơ sở để Chi nhánh xây dựng định hướng và kế hoạch hoạt động cả ngắn và dài hạn một cách cụ thể, chính xác và phù hợp với tình hình phát triển của thành phố. Kết quả đầu tư tổng hợp của các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển còn là những dữ liệu quan trọng để báo cáo Quỹ Hỗ trợ phát triển trung ương và Chính phủ làm cơ sở cho việc giao vốn cũng như kế hoạch thực hiện cho Chi nhánh.
3.2.1.9 Bổ sung trang thiết bị tin học
Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã làm cho xu thế tin học hóa diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thiết bị tin học được áp dụng rộng rãi trong nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh đã đem lại những kết quả to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Để theo kịp sự phát triển chung của đất nước và đáp ứng yêu cầu công việc, Chi nhánh cần sớm bổ sung các trang thiết bị cần thiết cho hoạt động, đặc biệt là hoạt động cho vay đầu tư phát triển. Cần xây dựng một mạng thông tin nội bộ để phục vụ cho công tác quản lý và khai thác tìm kiếm thông tin của cán bộ tín dụng. Mặt khác, cũng nên trang bị đầy đủ máy vi tính để phục vụ cho công tác thẩm định dự án nhằm nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian thẩm định. Trên cơ sở đó, đẩy nhanh tiến độ ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay.
3.2.2 Một số kiến nghị với các cơ quan có liên quan
Cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước là một nghiệp vụ thuộc lĩnh vực tài chính công. Do đó, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội chỉ có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển nếu được sự phối hợp và ủng hộ của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan. Mặt khác, chủ dự án vay vốn tín dụng tại Chi nhánh cũng đóng vai trò trực tiếp quyết định đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. Xuất phát từ đặc trưng đó, trên cơ sở nghiên cứu đề tài, xin đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước và các đơn vị có liên quan. Các kiến nghị đều xuất phát từ lợi ích của cả 3 phía: Nhà nước, Chi nhánh Quỹ và chủ đầu tư như tiêu chí của tín dụng đầu tư phát triển và hướng vào mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh .
Kiến nghị đối với Nhà nước
3.2.2.1 Tập trung tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước vào một đầu mối
Như đã trình bày ở phần thực trạng, việc tồn tại quá nhiều kênh thực hiện cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn thành phố khiến cho việc quản lý rất khó khăn, hơn nữa nguồn vốn lại phân tán, không có khả năng tập trung cho vay vào những dự án trọng điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Điều này không chỉ làm giảm sút hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội mà còn gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại được phân công thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước bởi vì các ngân hàng thương mại đều phải hạch toán riêng phần kinh doanh thương mại và phần cho vay ưu đãi để quyết toán với cơ quan tài chính. Từ thực tế trên, xin kiến nghị Nhà nước nên tập trung thống nhất tín dụng ưu đãi còn đang tồn tại đan xen ở các ngân hàng thương mại và kho bạc sang cho Quỹ Hỗ trợ phát triển đảm nhận. Theo đó, mô hình hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển sẽ tương tự như một ngân hàng chính sách. Có thể tham khảo mô hình hoạt động của ngân hàng chính sách Nhật Bản (policy-based financial institution) để xây dựng Quỹ Hỗ trợ phát triển như sau: Đây là một cơ quan tài chính-chính sách độc lập với ngân hàng trung ương, có vốn pháp định và được phép huy động vốn của các ngành Bưu điện và bảo hiểm xã hội, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ tài chính cho các mục tiêu kinh tế do Chính phủ đề ra trong mỗi thời kỳ. Lãi suất của ngân hàng chính sách dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do ngân hàng trung ương công bố. Ngân hàng chính sách hoàn toàn không có cạnh tranh mà chỉ có phối hợp hoạt động với các tổ chức tín dụng khác nhằm hỗ trợ và thúc đẩy các mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Cơ quan này được Nhà nước (Bộ tài chính) kiểm sát và tạo các điều kiện để nó hoàn thành nhiệm vụ do Chính phủ và Bộ tài chính giao.
Quỹ Hỗ trợ phát triển kể từ khi được thành lập đến nay đã xây dựng cho mình một hệ thống từ trung ương đến địa phương có cơ sở vật chất tương đối ổn định, có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm trong việc cấp phát và cho vay vốn Nhà nước đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra, tổ chức này không chịu sự điều chỉnh của Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng do đó hoàn toàn có thể chuyển về Bộ tài chính quản lý để thực hiện theo mô hình trên. Thực hiện điều này, chắc chắn sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng đồng thời công tác kiểm tra kiểm soát của Nhà nước sẽ tốt hơn, hiệu quả kinh tế xã hội tập trung hơn và đây cũng là nội dung cải cách hành chính thiết thực nhất.
3.2.2.2 Các cơ quan quản lý trung ương cần giao kế hoạch vốn đúng thời hạn, cơ quan quản lý thành phố cần bố trí đủ vốn cho các dự án đầu tư để dứt điểm nhanh, sớm đưa dự án vào hoạt động phát huy hiệu quả.
Việc chậm trễ trong giao kế hoạch vốn hàng năm của Chính phủ khiến cho Quỹ Hỗ trợ phát triển luôn luôn ở trong tình trạng bị động. Nhiều dự án có hiệu quả cao đã không được chấp thuận cho vay do chưa có kế hoạch vốn. Hơn nữa, việc giao kế hoạch vốn nhỏ giọt, số vốn cân đối quá ít so với nhu cầu cũng làm cho đầu tư dàn trải và manh mún. Vì vậy để tạo điều kiện cho Chi nhánh Quỹ nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, đề nghị Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ tài chính thực hiện giao kế hoạch hàng năm đúng theo qui định vào khoảng tháng 10 năm trước, cùng với tiến độ giao các kế hoạch kinh tế xã hội khác. Mặt khác, cũng nên thực hiện cân đối vốn luôn một lần, tránh trường hợp đến cuối năm mới thông báo kế hoạch vốn bổ sung gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh. Đó là cơ sở để cho Chi nhánh xây dựng kế hoạch hoạt động và triển khai thực hiện cho vay phát triển ngay từ đầu năm. Có như vậy mới đảm bảo hoàn thành kế hoạch vốn được giao và có điều kiện tìm kiếm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển bằng các nguồn khác.
Về phía cơ quan quản lý thành phố, trong thời gian qua việc bố trí vốn cho các dự án nhìn chung còn dàn trải, chưa tập trung dứt điểm gây ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Dự án bị chậm trễ do không đủ vốn đầu tư làm phát sinh hàng loạt những chi phí khác khiến cho dự toán thay đổi nhiềulần và kết quả là vốn đầu tư thực tế tăng lên rất nhiều so với dự toán ban đầu. Hậu quả của việc này là vốn kế hoạch được cân đối lại càng không đủ để bố trí cho dự án và dự án càng chậm trễ, vốn đầu tư của Nhà nước càng không có khả năng thu hồi. Để khắc phục tình trạng này, UBND thành phố mà trực tiếp là Sở kế hoạch đầu tư cần bố trí đủ vốn và dứt điểm cho các dự án. Tiêu chí bố trí vốn nên được xét theo thứ tự ưu tiên như sau:
- Các dự án chuyển tiếp đang thực hiện có hiệu quả
- Các dự án trọng điểm của thành phố thuộc các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ
- Các dự án nhóm C mới có hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ cao
- Các dự án nhóm B cần có thiết kế chi tiết và dự toán cho từng hạng mục để tạo điều kiện cho thành phố bố trí vốn theo đúng tiến độ của dự án
- Các dự án dở dang nếu thấy không đạt hiệu quả thì chấm dứt ngay việc bố trí vốn để chuyển sang các dự án có hiệu quả hơn.
3.2.2.3 Xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp và linh hoạt hơn
Về đối tượng ưu đãi, với mục tiêu công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, Chính phủ nên tập trung vào những đối tượng thực sự đem lại hiệu quả về mặt tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Không nên coi tín dụng đầu tư phát triển là nguồn vốn để thực hiện công tác chính sách của Nhà nước mà nên đặt tín dụng đầu tư phát triển vào đúng vai trò của nó: tạo ra sự phát triển kinh tế cả về mặt lượng và mặt chất. Để đạt được mục đích này, Chính phủ nên tập trung ưu tiên cho các đối tượng thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành kỹ thuật công nghệ cao, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu và các dự án sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc các đối tượng được khuyến khích đầu tư trong Luật khuyến khích đầu tư. Các dự án mang tính xã hội nhiều hơn tính kinh tế nên chuyển sang cho ngân sách thực hiện cho đúng với chức năng của nó. Việc qui định các đối tượng ưu đãi cần có sự ổn định tương đối trong một thời gian dài để các doanh nghiệp có định hướng chính xác trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư.
Về lãi suất, hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước không nhằm mục đích kinh doanh và hoàn toàn không cạnh tranh với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện dự án lại phải cạnh tranh với các đơn vị kinh tế khác. Vì vậy để đảm bảo tính ưu đãi rõ ràng là lãi suất cho vay đầu tư phát triển cần phải thấp hơn lãi suất cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại. Thực tế là mức lãi suất áp dụng hiện nay tại Chi nhánh chưa đảm bảo nguyên tắc đó (trừ một số dự án thuộc diện ưu đãi đặc biệt như cơ khí 3,5%/năm, chương trình kiên cố hoá kênh mương 0%) Do đó, Chính phủ nên phối hợp với Bộ tài chính nghiên cứu một chính sách lãi suất phù hợp hơn. Có thể dựa trên các điều kiện kinh tế vĩ mô và đặc điểm, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mức độ khuyến khích đầu tư, Chính phủ qui định một tỷ lệ hỗ trợ nhất định đối với các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển so với lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố. Trên cơ sở tỷ lệ hỗ trợ này và lãi suất cho vay trung dài hạn bình quân của các ngân hàng thương mại, Quỹ Hỗ trợ phát triển sẽ xác định lãi suất cho vay trong từng thời kỳ theo nguyên tắc trên. Như thế vừa đảm bảo tính linh hoạt hợp lý của lãi suất cho vay, vừa đảm bảo được khả năng định hướng và quản lý của Nhà nước, vừa nâng cao ý thức trách nhiệm của Quỹ Hỗ trợ phát triển đối với hoạt động.
Về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay tối đa 10 năm hiện nay là không phù hợp, nhất là đối với các dự án có thời gian thu hồi vốn lâu như trông cây công nghiệp, trồng rừng nguyên liệu. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu qui định thời gian cho vay đối với các dự án này đảm bảo tiêu chí của đầu tư phát triển. Mặt khác, thời hạn cho vay được xác định từ khi nhận được khoản vay đầu tiên đến khi trả hết nợ. Tuy nhiên, do đặc trưng của các dự án đầu tư phát triển, trên thực tế có một số dự án trong thời gian thực hiện bị gián đoạn không giải ngân tiếp được do những điều kiện khách quan như những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đấu thầu máy móc thiết bị…nên thời gian sử dụng vốn thực tế ít hơn nhiều. Vì vậy các cơ quan chức năng cần nghiên cứu đưa ra qui định cụ thể đối với những trường hợp này. Ngoài ra, qui định về thời gian ân hạn đối với dự án được tính từ thời điểm rút vốn cũng chưa thật hợp lý, đặc biệt là đối với những dự án có thời gian đầu tư dài và giải ngân rải rác. Vì vậy, Chính phủ nên qui định thời gian ân hạn được tính riêng theo từng lần phát sinh nợ vay.
Các điều kiện về bảo đảm tiền vay nên bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để đảm bảo tiêu chí cho vay ưu đãi của Nhà nước.
3.2.2.4 Các Bộ ngành và Quỹ Hỗ trợ phát triển cần phối hợp hoạt động với nhau để sớm đưa ra văn bản thống nhất hướng dẫn thực hiện các nghị định của Chính phủ và các quyết định của thủ tướng Chính phủ.
Việc chậm trễ và không đồng bộ trong hướng dẫn thi hành các nghị quyết, nghị định của Chính phủ và thủ tướng Chính phủ của các Bộ, ngành không những đã làm cho chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng chậm đi vào cuộc sống mà còn gây lúng túng cho Chi nhánh trong việc thực hiện. Cho đến nay, Chi nhánh vẫn chưa triển khai cho vay đối với các dự án đầu tư thuộc các chương trình phát triển nông nghiệp, chế biến, trang trại, đống tàu, nuôi trồng thuỷ sản và các dựa án xã hội hoá giáo dục, y tế do thiếu những hướng dẫn cụ thể của các Bộ ngành hau sự không đồng bộ trong các văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn, đối với kinh tế trang trại, nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ có 2 văn bản hướng dẫn được đưa ra sau đó 4-6 tháng. Thông tư liên tịch của liên bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn-Tổng cục thống kê ngày 23/6/2001qui định đối tượng để xác định kinh tế trang trại là các hộ nông dân, công nhân, viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong khi đó, thông tư 82/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 của Bộ tài chính lại qui định là các trang trại sản xuất hành xuất khẩu, trồng rừng nguyên liệu tập trung, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ hải sản và chăn nuôi bò sữa, xây dựng hhẹ thống dẫn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trang trại, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh, chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở chế biến nông lâm thuỷ sản. Bên cạnh đó, một loạt các dự án thuộc chương trình cơ khí cũng bị trì hoãn giải ngân để chờ đợi các qui định cụ thể về lãi suất và các điều kiện ưu đãi theo nghị quyết 11/2000/NQ-CP.
Do đó, đề nghị các Bộ ngành có liên quan sớm nghiên cứu để ban hành các văn bản hướng dẫn tạo khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn cho hoạt động Chi nhánh. Mặt khác, giữa các cơ quan này nên có một sự phối hợp nhất định trên cơ sở các qui định của Nhà nước để tránh việc các văn bản hướng dẫn không thống nhất hoặc khác về cơ bản so với văn bản qui định của Chính phủ gây khó khăn cho hoạt động triển khai thực hiện của Chi nhánh.
Kiến nghị về phía chủ đầu tư
3.2.2.5 Chủ đầu tư cần sử dụng vốn đúng mục đích, thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ
ý thức của chủ đầu tư đóng vai trò quyết định đỗi với kết quả hoạt động của Chi nhánh. Vì vậy, khi được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh, chủ đầu tư nên sử dụng vốn vay đúng mục đích theo kế hoạch, thực hiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm trong quá trình hoạt động của đơn vị trên nguyên tắc đảm bảo khả năng sinh lợi của đồng vốn. Đồng thời cần có ý thức thực hiện các điều kiện về trả lãi và trả gốc theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký, tránh tình trạng chiếm dụng vốn cũng như tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, xin chuyển vốn vay thành vốn cấp phát gây ảnh hưởng đến hiệu quả đồng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Điều này không chỉ góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động của Chi nhánh mà còn mang lại lợi ích cho chính chủ đầu tư. Dự án đầu tư có hiệu quả cao và quan hệ tín dụng tốt sẽ là cơ sở để chủ đầu tư dễ dàng được vay vốn ưu đãi cho các dự án đầu tư phát triển tiếp theo.
3.2.2.6 Nâng cao năng lực thiết kế và thực hiện dự án
Trong quá trình sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hiện nay, việc thiếu kinh nghiệm của chủ đầu tư về thủ tục đầu tư, thủ tục đấu thầu và giải phóng mặt bằng, ký kết các hợp đồng ngoại thương hay thiết kế xây dựng dự án, tính toán tổng vốn đầu tư đã gây chậm trễ trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay làm giảm hiệu quả hoạt động của Chi nhánh rất nhiều. Để giải quyết vấn đề này, chủ đầu tư cần xây dựng một đội ngũ những cán bộ có kiến thức và am hiểu về các lĩnh vực trên hoặc thuê chuyên gia tư vấn để giải quyết tốt các vấn đề còn vuớng mắc. Về phía Chi nhánh, điều này góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân để hoàn thành kế hoạch được giao. Về phía chủ đầu tư nó cũng là điều kiện để dự án được thực hiện một cánh nhanh nhất và ít tốn kém nhất.
3.2.2.7 Chủ đầu tư khi đã ký kết hợp đồng tín dụng cần phải nhanh chóng hoàn tất mọi thủ tục để giải ngân vốn vay tránh tình trạng cố tình trì hoãn để không phải nhận nợ sớm
Hiện nay còn tồn tại tình trạng một số chủ đầu tư chỉ quan tâm đến việc được ghi kế hoạch và vay vốn chứ chưa thực sự quan tâm đến dự án đầu tư. Vì vậy, một số hợp đồng tín dụng đã ký kết từ năm 99 nhưng đến nay vẫn chưa giải ngân do chủ đầu tư chậm trễ trong việc đưa dự án vào thực hiện để tránh phải nhận nợ sớm. Vì thế, đề nghị các chủ đầu tư chỉ đăng ký vay vốn và ký hợp đồng tín dụng khi thực sự có nhu cầu, tránh tình trạng vay “để dành” nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đồng thời nhanh chóng hoàn tất thủ tục hoặc bổ sung kịp thời những giấy tờ, khoản mục được yêu cầu để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Đề xuất kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phối hợp tìm hiểu nguyên nhân và nhanh chóng tìm biện pháp tháo gỡ.
Kết luận
Là một bộ phận của tín dụng Nhà nước, tín dụng đầu tư phát triển ra đời trong giai đoạn còn muôn vàn khó khăn của công cuộc đổi mới đất nước đã góp phần hình thành nên một quan hệ kinh tế mới giữa Nhà nước và các chủ thể khác của nền kinh tế. Những thành quả mà tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã và đang góp phần tạo dựng là không thể phủ nhận. Nó chứng minh được việc sử dụng vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển theo định hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là hoàn toàn đúng đắn.
Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội-đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội-tuy mới đi vào hoạt động hơn một năm song đã phát huy được vai trò của mình, trở thành nguồn cung ứng vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển thủ đô. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, mà đặc biệt là hình thức cho vay ưu đãi đã thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại không ít mặt hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội thủ đô nói chung. Do đó, trên cơ sở định hướng phát triển của thành phố giai đoạn 2002-2010 và phương hướng hoạt động của Quỹ trong thời gian tới, Chi nhánh cần chủ động, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc nhằm đẩy mạnh vai trò hoạt động của mình cũng như hiệu quả vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội thủ đô. Nhất định với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội sẽ phát huy hiệu quả tương xứng với tiềm năng và vị thế của Chi nhánh cũng như yêu cầu phát triển của thành phố.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Nguyễn Thanh Sơn đã giúp em hoàn thành khoá luận này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-Federic Minskin
2. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ-Trường đại học kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh
3. Giáo trình Kinh tế đầu tư-Trường đại học Kinh tế quốc dân
4. Giáo trình Tài chính công
5. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)
6. Nghị định 43/1999/NĐ-CP, 50/1999/NĐ-CP, Nghị định 52/1999/NĐ-CP và một số văn bản pháp luật của Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển, các Bộ ngành khác có liên quan
7. Japan policy-based financial institution
8. Báo cáo thực hiện kế hoạch đầu tư và kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước của Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
9. Báo cáo tổng kết,quyết toán của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
10. Tạp chí tài chính, thông tin tài chính, tạp chí kinh tế phát triển, báo đầu tư
11.Nghị định số 385 - HĐBT ngày 7 tháng 11 năm 1990
12.Nghị định số 177/CP ngày 20 tháng 10 năm 1994
13.Nghị định số 42 - CP ngày 16 tháng 7 năm 1996
14.Nghị định số 92 - CP ngày 23 tháng 8 năm 1997
15.Nghị định số 52 - 1999 - NĐCP ngày 8 tháng 7 năm 1999
16.Nghị định số 43 - CP ngày 16 tháng 7 năm 1996
17.Nghị định số 93 - CP ngày 23 tháng 8 năm 1997
Nghị định số 88/1999/NĐCP ngày 4 tháng 9 năm 1999.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0098.doc