Tài liệu Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Long: LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua 20 năm đổi mới và đã phát triển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, khẳng định sự phát triển vượt bậc. Đặc biệt hiện nay, hệ thống ngân hàng đang phát triển rất mạnh, nhiều ngân hàng mới ra đời và các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng ngày cũng rất đa dạng và phong phú, mới mẻ: dịch vụ huy động vốn, dịch vụ tín dụng, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thanh toán, và các dịch vụ khác: dịch vụ ngân hàng điện tử, thẻ ngân hàng, bao t... Ebook Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Long
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hanh toán...Chính sự phát triển đa dạng nhiều loại hình dịch vụ này đã góp phần đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy ngành ngân hàng ngày càng mở rộng tăng trưởng.
Tuy nhiên trong đó hoạt động cơ bản của ngân hàng vẫn là họat động tín dụng. Đây là một hoạt động đặc trưng không thể thiếu của các ngân hàng, là hoạt đông mang lại lợi nhuận cao nhất song cũng mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng gây ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và sự tồn tại phát triển của ngân hàng. Nếu rủi ro tín dụng xảy ra ở mức độ cao sẽ dẫn đến khủng hoảng thanh khoản và sẽ dẫn đến sự phá sản ngân hàng. Theo phản ứng dây chuyền sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng loạn của các ngân hàng khác, gây ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ ngành kinh tế. Tuy nhiên đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, là bạn đường trong kinh doanh chỉ có thể đề phòng và hạn chế chứ không thể loại trừ. Do vậy rủi ro tín dụng dự kiến luôn được xác định trong chiến lược họat động chung của ngân hàng.Quản lý rủi ro tín dụng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của tất cả các ngân hàng.
Nhận thức được điều đó, cùng với quá trình thực tập tại NHNN & PTNT chi nhánh Thăng Long tôi đã lựa chọn đề tài : "Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thăng Long" làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của chuyên đề như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản l rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Chi nhánh Thăng Long
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thăng Long
Rủi ro tín dụng là vấn đề rộng lớn và phức tạp do vậy trong bài viết này em chỉ tập trung nghiên cứu về rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Thăng Long trong giai đoạn 2005-2007. Mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn bài viết này còn nhiều thiếu sót vì vậy em rất mong nhận đuợc sự góp ý từ các thầy cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tiến sĩ Hoàng Xuân Quế và các anh chị tại Chi nhánh đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này
Sinh viên
Phan Thị Linh Giang
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh và các rủi ro của NHTM
1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một trung gia tài chính lớn nhất và quan trọng nhất trong nền kinh tế. Về ngân hàng thương mại, có rất nhiều đinh nghĩa.
Theo điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam định nghĩa thì :
“ Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tài chín tiền tệ, với các nội dung chính là huy động vốn, cho vay vốn và cung cấp các dịch vụ thanh toán và dịch vụ khác”
Theo giáo trình Ngân hàng thương mại thì định nghĩa về Ngân hàng được xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “ Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, thông qua các hoạt động của mình các ngân hàng thực hiện các chức năng tài chính và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa người muốn tiết kiệm và người muốn đầu tư, là nguồn tạo ra đổi mới tài chính nhanh chóng…
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
* Một số hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Huy động vốn: là hoạtđộng tạo nguồn vốn cho NHTM , đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng và hoạt động của ngân hàng bao gồm: nhận tiền gửi thanh toán,tiền gửi tiết kiệm , phát hàng giấy tờ có giá trên thị trường vốn và thị trường nợ như : cổ phiếu, trái phiếu…
Cấp tín dụng: Hình thức tín dụng của ngân hàng là cho khách hàng vay ngắn hạn và trung dài hạn, cho vay thương mại, tài trợ cho dự án ngoài ra còn có các hình thức : chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh cho khách hàng, cho thuê tài chính…
Cấp tín dụng là một hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng nhưng cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro, vì thế các nhà quản lý ngân hàng cần phải cân nhắc rất kỹ trước khi ra quyết định cấp tín dụng
Các hoạt động khác: ngoài những hoạt động cơ bản trên để tăng thêm lợi nhuận và đa dạng hoá các dịch vụ, ngân hàng còn cung cấp hàng loạt các dịch vụ khác: uỷ thác đầu tư và tư vấn đầu tư, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, bảo quản vật có giá, cung cấp dịch vụ đại lý, bao thanh toán…
* Chức năng của ngân hàng thương mại:
Trung gian tài chính: NHTM là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, là kênh dẫn vốn từ những người thừa vốn sang những người cần vốn vì thế NHTM đã giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp: sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian, rủi ro cao và chi phí cao…Như vậy, NHTM đã tăng thu nhập cho người tiết kiệm từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư
Tạo phương tiện thanh toán: Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán , họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…Khi các ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay(hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Trung gian thanh toán: NHTM đã trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như : thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng TW hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Người bảo lãnh: cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán (chẳng hạn phát hành thư tín dụng)
Là đại lý thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hàng hoặc chuộc lại chứng khoán.
Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
NHTM là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hóa tiền tệ.Hoạt động của NHTM gắn liền với rủi ro. Rủi ro hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ ngân hàng, muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro.Rủi ro của ngân hàng có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng đều có bản chất chung đó là : rủi ro là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến.Và rủi ro của ngân hàng gắn liền với giảm sút thu nhập ngoài dự kiến.
Rủi ro tín dụng của NHTM có thể được phân thành các loại rủi ro chính sau:
1.1.2.1. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất ngân hàng thay đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản và bên nguồn vốn) thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất không những gắn với biến động của lãi suất ngân hàng mà còn gắn với nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và nguồn vốn, qui mô và kì hạn của các hợp đồng kì hạn…Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng hay nói cách khác rủi ro tín dụng thường bắt nguồn từ rủi ro lãi suất.
1.1.2.2. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường , tỷ giá hối đoái thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Để phòng ngừa rủi ro hối đoái phát sinh thì ngân hàng phải làm cho cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với mỗi loại ngoại tệ trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng mình.
1.1.2.3.Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá (hoặc nhỏ hơn) khả năng thanh khoản dự kíên làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Rủi ro thanh khoản ở mức ngân hàng phải gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản sẽ làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng; ở mức cao hơn ngân hàng mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến phá sản.
1.1.2.4. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đủ cả gốc lẫn lãi
1.1.2.5. Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Hiện này, các dịch vụ ngoại bảng của NHTM ngày càng được mở rộng và phát triển. Theo định nghĩa hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng) bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ sơ cấp hay các ngân hàng phát hành chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy nhiên các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra các tài sản có hoặc tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Ví dụ như phát hành thư tín dụng dự phòng bảo lãnh cho công ty phát hành trái phiếu. Thư bảo lãnh tín dụng chỉ được sử dụng trong trường hợp nếu công ty phát hành trái phiếu không có đủ khả năng thanh toán một phần hay toàn bộ số tiền gốc và lãi trái phiếu. Còn trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu thanh toán đủ cả gốc lẫn lãi thì thư tín dụng bảo lãnh sẽ tự động hết hiệu lực do đó sẽ không có bất kỳ điều gì xảy ra đối với bảng cân đối nội bảng của NHTM. Tuy nhiên khoản chi phí phát hành thư bảo lãnh tín dụng được hạch toán vào báo cáo thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh của NHTM và được hạch toán vào nội bảng.
Tuy hoạt động ngoại bảng tạo nguồn thu nhập cho khách hàng nhưng hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ví dụ đó là khi bên được bảo lãnh không có đủ khả năng thanh toán một phần hoặc tất cả gốc và lãi, hoặc là vi phạm hợp đồng… thì ngân hàng phải dùng một phần vốn kinh doanh của mình để trả cho bên hưởng bảo lãnh. Trong thực tế những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã gây ra tổn thất rất lớn cho ngân hàng và gây phá sản.
Ngoài bảo lãnh, hoạt động ngoại bảng còn có nhiều dịch vụ phong phú và đa dạng: bao thầu phát hành trái phiếu, trạng thái ngoại hối có kì hạn, tương lai, hoán đổi; cam kết tín dụng…Hiệu quả kinh doanh của hoạt động ngoại bảng rất cao nhưng rủi ro trong kinh doanh không phải là nhỏ. Do đó quản trị rủi ro hoạt động ngoại bảng rất được coi trọng với một mô hình hoạt động của một ngân hàng hiện đại.
1.1.2.6. Rủi ro khác:
Các rủi ro khác xảy ra đối với ngân hàng ví dụ như rủi ro công nghệ ( xảy ra khi những khoản đầu tư cho công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính), rủi ro hoạt động ( xảy ra khi hệ thống công nghệ trục trặc hay hệ thống bên trọng ngừng hoạt động ), rủi ro từ trách nhiệm của cán bộ ngân hàng, rủi ro từ các chính sách vĩ mô của nhà nước, rủi ro từ hoả hoạn, cướp bóc….
1.1.3.Rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.1.3.1. Khái niệm
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội…Hơn nữa ngân hàng kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như hoạt động huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán…Do đặc thù kinh doanh của NHTM nên rủi ro của NHTM là rất đa dạng: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro ngoại bảng…Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng chiếm tỉ lệ đáng kể nhất và phức tạp nhất
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất tài chính ngoài dự kiến cho ngân hàng khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất và có qui mô lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm cho rằng rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh của NHTM, chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể loại bỏ hoàn toàn. Do vậy rủi ro tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.1.3.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
a, Nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý thức trả nợ của khách hàng mà do môi trường bên ngoài tác động vào. Những nguyên nhân này tác động thường xuyên liên tục tới người vay tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay và khách hàng cho vay. Nhóm những nguyên nhân khách quan này bao gồm:
Rủi ro do biến động của môi trường thiên nhiên
Những biến động về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài sự kiểm soát của con
người. Vì vậy khi có thiên tai địch hoạ xảy ra thì nguy cơ tổn thất của khách hàng cùng ngân hàng cho vay sẽ rất lớn, phương án kinh doanh sẽ không có nguồn thu. Ở Việt Nam thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên được coi là một trong nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công, …vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế. Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt khiến hầu hết các doanh nghiệp , những ngân hàng thường xuyên của khách hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và qui luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị ngân hàng nước ngoài thu hút
Sự tấn công của hàng nhập lậu. Hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
Thiếu sự qui hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành và lãng phí tài nguyên quốc gia.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Trong những năm gần đây, Quốc hội, chính phủ và NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên luật và văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Điều này dẫn đến tình trạng các NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Sự thanh tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN còn chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới, Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu….
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay ở VN còn chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàn (CIC) của NHNN đã hoạt động quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả.
b, Nguyên nhân chủ quan
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức
Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Nhiều cán bộ tín dụng làm trái qui trình tín dụng để mưu lợi cá nhân, đinh giá tài sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do thông đồng với khách hàng, lập hồ sơ vay vốn giả, tẩy xoá sửa chữa chứng từ….
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo. Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. .
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khách quan và luôn tồn tại trong từng nghiệp vụ tín dụng cuả NHTM. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại trừ. Do đó rủi ro tín dụng cần được các nhà quản lý ngân hàng dự kiến và lường trước. Đó chính là xuất phát điểm hình thành nên quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
Hơn nữa, rủi ro tín dụng chỉ là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng và không phải bao giờ cũng xảy ra tuy nhiên do tính lặp lại của rủi ro nên trong nhiều trường hợp người ta nhận thức được qui luật của rủi ro tín dụng. Chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.
Vậy quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro của NHTM nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng bao gồm các hoạt động: nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro , đo lường phân tích rủi ro , kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro và báo cáo về rủi ro.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng chiếm khoảng 60-80% trong danh mục tài sản có của ngân hàng. Các rủi ro tín dụng vì thế có ảnh hưởng rất lớn va chiếm 90% các rủi ro cơ bản. Do đó quản lý rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề trọng tâm, đang được các ngân hàng quan tâm.
Khi ngân hàng không kiểm soát được rủi ro tín dụng sẽ gây nên nhiều bất lợi cho cả ngân hàng cho vay nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
1.2.2.1. Đối với ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm phát sinh các khoản nợ khó đòi, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay đồng thời lại phát sinh thêm các chi phí quản lý và chi phí giám sát thu nợ. Thế nhưng ngân hàng vẫn phải trả vốn và lãi khi đến hạn cho các khoản tiền gửi. Vì thế ngân hàng bị giảm lợi nhụân và bị mất cân đối thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả.
Không những thế, các món vay được thanh toán không đúng hạn và đầy đủ sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền ra và dòng tiền vaò của ngân hàng làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền lương trả cho công nhân viên vì thế nhưng người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khắn cho ngân hàng.
1.2.2.2. Đối với khách hàng:
Đối với khách hàng vay vốn: Khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không có gì đảm bảo các hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn còn nguyên giá trị. Quá trình giải ngân bị dừng lại, do vậy sẽ có tác động xấu tới tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gây nên tình trạng đình đốn trong sản xuất kinh doanh.
Đối với khách hàng gửi tiền: Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm khả năng thanh toán và giảm uy tín của ngân hàng. Khi đó người gửi tiền sẽ đồng loạt rút tiền ở ngân hàng để tránh rủi ro cho đồng tiền của mình. Mặc dù ngân hàng luôn ưu tiên thanh toán cho khách hàng gửi tiền tại ngân hàng nhưng điều đó không đảm bảo rằng ngân hàng sẽ thanh toán đầy đủ cho tất cả các khách hàng của mình. Người gửi tiền sẽ không chắc chắn về khả năng ngân hàng sẽ thanh toán cho mình.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm, chỉ một ảnh hưởng cũng có thể gây tác động lớn đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành, nhiều cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Do đó khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ cho đồng tiền của mình, sẽ ồ ạt đi rút tiền. Hiệu ứng dây chuyền này gây ra sự hoảng loạn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.Trường hợp xấu nhất có thể dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn đinh. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế mỗi khu vực và thế giới. Cuộc khủng hoảnh tài chinh châu Á (1997) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở các mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản gây hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Chính vì thế, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.3.1. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là tổn thất xảy ra ngoài dự kiến tuy nhiên trước khi rủi ro đó xảy ra, cũng có dấu hiệu báo động. Có dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt, có dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng, Vì vậy ngân hàng cần có biện pháp để nhận ra những dấu hiệu ban đầu của các khoản vay có vấn đề và ngăn chặn và xử lý chúng. Đây chính là một nội dung trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Có thể sắp xếp dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
* Trong qua trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng bao gồm”
Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối
Khó khăn trong thanh toán lương
Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi
Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản
Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau
Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí
Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.
* Các hoạt động cho vay
Mức độ cho vay thường xuyên gia tăng
Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi
Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn
Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến
* Phương thức tài chính
Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn
Chấp nhấn sử dụng các nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn
Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu
Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu
Có biểu hiện giảm vốn điều lệ
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng:
Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc điều hành
Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện:
Được hoạch định bởi hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm
Hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật
Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ
Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý không thuộc gia đình, cho thành viên của gia đình chưa được huần luyện đào tạo đầy đủ đảm đương vị trí then chốt
Có tranh chấp trong quá trình quản lý
Có các chi phí quản lý bất hợp lý
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:
Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ấn tượng bởi một khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt được hơp đồng lớn
Dấu hiệu có hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác
Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn đến việc tung ra sản phẩm quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc về vấn đề kỹ thuật và thương mại, biểu hiện:
Khó khăn trong phát triển sản phẩm
Nhưng thay đổi trên thị trường: tỷ._. giá, lãi suất, chỉ số chứng khoán, thay đổi thị hiếu, cập nhật kĩ thuật mới, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh
Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: sự tác động của chính sách thuế…
Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao
Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa thay thế
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán
Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính
Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy:
Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên
Khả năng giảm tiền mặt
Tăng doanh thu nhưng lợi nhuận giảm hoặc không có
Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp
Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán
Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh số bán.
Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được kéo dài
Hoạt động lỗ
Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ
Không hạch toán đúng tài sản cố định
Làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra các tài sản vô hình
Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng
Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản
Phân bố nợ không thích hợp
Lệ thuộc vào các sản phẩm bất thường để tạo lợi nhuận
…..
Những dấu hiệu phi tài chính khác
Trong các dấu hiệu trên thì đối với ngân hàng dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là khách hàng chậm thanh toán các khoản cho vay
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá đo lường rủi ro tín dụng
a, Các tiêu chuẩn về an toàn tín dụng của ngân hàng theo các quy đinh quốc tế và trong nước
* Các nguyên tắc chung của Ủy ban giám sát ngân hàng Basel về quản trị rủi ro tín dụng
Basel là Ủy ban Giám sát ngân hàng do các NHTW các nước G10 thành lập năm 1975 dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Thanh toán quốc tế. Sau một thời gian hoạt động, Ủy ban đã nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu về an toàn vốn, được ban hành lần đầu vào năm 1988 và gọi là Basel 1. Năm 1999, Ủy ban đã đề ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu, đây là những nguyên tắc tối thiểu và được xem là tài liệu để các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và các nhà quản lý tài chính tham khảo. Do những hạn chế của Basel 1, một hiệp ước mới về vốn đã được thông qua vào năm 2001 và gọi là Basel 2. Hiệp ước Basel 2 gồm 3 trụ cột:
Trụ cột thứ nhất: Yêu cầu về vốn tối thiểu Trụ cột thứ hai: Cơ quan thanh tra trực tiếp đánh giá mức độ tuân thủ yêu cầu vốn tối thiểu của ngân hàng;-Trụ cột thứ ba: Nguyên tắc thị trường và minh bạch thông tin
So với Basel 1, Basel 2 chỉ làm tinh xảo hơn cách thức đo lường và tính toán những rủi ro này nhằm giúp các ngân hàng quản lý rủi ro. Basel 2 vẫn qui định mức vốn an toàn tối thiểu là 8% và chỉ thay đổi cách tính ở mẫu số trong công thức tỷ lệ đủ vốn: bao gồm cả 3 loại rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro họat động. Basel 2 đã bãi bỏ cách tiếp cận rủi ro của Basel 1 và thay bằng cách phân định các mức rủi ro trên cơ sở xếp hạng chính xác hơn mức độ rủi ro, các ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu vào kết quả xếp hạng và đánh giá tín nhiệm của các tổ chức độc lập như Mooody và S&P. Hệ thống đo lường theo Basel 2 phức tạp hơn nhưng có khả năng đánh giá chính xác mức độ an toàn vốn.
Theo Basel 2, các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng bao gồm:
Phương pháp chuẩn hóa: phụ thuộc vào đánh giá của tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập. Theo phương pháp này, các nội dung hoạt động của ngân hàng được chia thành 8 lĩnh vực. Theo đó, ngân hàng sẽ tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo cho từng lĩnh vực kinh doanh bằng cách nhân thu nhập thuần từ lĩnh vực kinh doanh đó với các hệ số tương ứng theo quy định của Ủy ban giám sát ngân hàng. Lượng vốn tối thiểu đối với rủi ro trong hoạt động của toàn ngân hàng sẽ bằng tổng vốn tối thiểu của từng lĩnh vực kinh doanh.
Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ cơ bản: Các ngân hàng đưa ra những khoản rủi ro ngầm định
Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ tiên tiến: Các ngân hàng đưa ra một loạt thông tin đầu vào về rủi ro
* Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng của Basel 2 bao gồm:
Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét chiến lược rủi ro tín dụng theo định kỳ, xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ khả năng sinh lời
Nguyên tắc 2: Thực hiện chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các chính sách tín dụng. Xây dựng các qui trình thủ tục cho các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác đinh, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng
Nguyên tắc 3: Xác đinh và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm và hoạt động.
Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: những hiểu biết về người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng. nguồn thanh toán
Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho từng khách hàng riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới nhau, trong và ngoài bảng cân đối kế toán
Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ rang được thiết lập cho việc phê duyệt các khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có
Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: Cơ sở giao dịch thương mại thông thường, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh nghiệp và cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro cho vay đối với các bên có liên quan
Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ đối với các danh mục tín dụng
Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiếm soát đối với các điều kiện liên quan đến từng khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của các khoản dự phòng rủi ro tín dụng
Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ. Hệ thống đánh giá cần phải nhất quán với các hoạt động của ngân hàng
Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin kỹ thuật phân tích giúp ban quản lý ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán, cung cấp thông tin về cơ cấu và thành phần danh mục tín dụng.
Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với cơ cấu tổng thể của danh mục tín dụng, chất lượng danh mục tín dụng
Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong tương lai trong những tình trạng khó khăn khi đánh giá danh mục tín dụng
Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục
Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ thể là việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp dụng kiểm soát nội bộ. những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín dụng cần được báo cáo kịp thời
Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín dụng có vấn đề.
* Các quyết định của Việt Nam về tiêu chuẩn đánh giá an toàn tín dụng
Tại Việt Nam, NHNN đã ban hành 2 văn bản quan trọng liên quan đến an toàn tín dụng của ngân hàng là Quyết định 493/ 2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ trích lập để xử lý dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng và Quyết đinh 457/2005/QĐ-NHNN về tỷ lệ đảm bảo an toàn tín dụng trong hoạt động của tổ chức tín dụng
* Theo quyết định 493 các khoản nợ trong hoạt động tín dụng của NHTM được phân loại thành 5 nhóm như sau:
Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cà gốc lẫn lãi đúng thời hạn
Các khoản nợ được trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi theo thời hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn và ba tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được các tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi theo đúng thời hạn đã được cơ cấu lại
Nhóm 2 ( nợ cần chú ý) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại
Các khoản nợ khác theo quy định: do khách hàng có một trong nhiều khoản nợ với TCTD bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn nên các khoản nợ khác cũng phải chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng; các khoản nợ mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm và chủ động phân loại thành nhóm các nợ có rủi ro cao hơn
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại
Các khoản nợ khác theo quy đinh
Nhóm 4 ( nợ nghi ngờ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại nợ
Các khoản nợ khác theo quy định
Nhóm 5 ( nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý
Các khoản nợ đã cơ cấu lạo thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại nợ
Trong đó nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá han
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,5 theo quy đinh trên.
Theo quyết định 493 tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ trên
được quy định như sau:
Nhóm 1: 0%
Nhóm 2: 5%
Nhóm 3: 10%
Nhóm 4: 20%
Nhóm 5: 100%
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể tùy theo tình hình tài chính của ngân hàng
* Quyết định 457:
Quyết định 457 lần đầu tiên đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ và cụ thể về “vốn tự có” của các tổ chức tín dụng. Quyết định 457 lần đầu tiên cho phép các tổ chức tín dụng được phép xác định vốn tự có của mình theo hai cấp, trong đó về cơ bản vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ và vốn cấp 2 là các nguồn vốn tự bổ sung hoặc có nguồn gốc từ bên ngoài của tổ chức tín dụng
Theo quyết định 457, ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro. Tổng tài sản “Có” rủi ro là tổng tài sản “Có” nội bảng (bao gồm, ngoài những mục khác, tiền mặt, vàng, tiền gửi, các khoản cho vay và các khoản phải đòi) và tài sản “Có” ngoại bảng (bao gồm, ngoài các mục khác, cam kết bảo lãnh, cho vay, thư tín dụng và chấp nhận thanh toán) được điều chỉnh theo hệ số rủi ro.
Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản “Có” nội bảng gồm 4 nhóm là 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% trước khi nhân với các hệ số rủi ro (gồm 3 nhóm là 100%, 50% và 0%). Ví dụ, một khoản bảo lãnh dựthầu có giá trị 1.000.000 Đồng có hệ số chuyển đổi là 50% và hệ số rủi ro là 100% thì giá trị tài sản “Có” rủi ro tương ứng sẽ là (1.000.000 Đồng x 50% x 100% = 500.000 Đồng).
b, Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng:
Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng đã cụ thể hóa thành những chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng:
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tồng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm các khoản nợ đến hạn là chưa được thanh toán đã chuyển thành nợ quá hạn. Tỷ lệ này phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng của ngân hàng, tỷ lệ này càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn. Ở Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% được xếp laoị A, 5% - 8% được xếp loại B, trên 8% xếp loại C
Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ gia hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn + nợ gia hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ gia hạn =
Tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ này cũng trực tiếp phản ánh mức độ rủi ro của khoản nợ tín dụng nhưng tỷ lệ này phản ánh những rủi ro tiềm ẩn mà tỷ lệ trên không phản ánh hết được
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.Nợ khó đòi là các khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như: quá một kỳ gia hạn nợ hoặc không có tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản…
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh tổn thất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Lãi treo phát sinh
Tỷ lệ lãi treo =
Tổng thu nhập từ hợp đồng tín dụng
Lãi treo là tiền lãi của khoản cho vay mà ngân hàng chưa thu hồi được. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thiệt hại trong thu nhập dự tính của ngân hàng do rủi ro tín dụng
Nợ khoanh, xóa nợ
Tỷ lệ nợ khoanh =
Tổng doanh số cho vay
Nợ khoanh là những khoản cho vay không thu hồi được, thường là các
khoản cho vay chính sách và Nhà nước phải khoanh lại. Tỷ lệ này càng lớnthì mức độ rủi ro tín dụng càng cao, ngân hàng có nguy cơ mất một phần hoặc toàn bộ nợ không thu hồi được.
Dư nợ có khoản thanh toán chậm
Tỷ lệ rủi ro theo thời gian =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này xem xét toàn bộ dư nợ còn lại kể từ khi xuất khoản nợ quá hạn do đó tỷ lệ này phản ánh trung thực và đầy đủ nhất vấn đề rủi ro đang diễn ra tại ngân hàng.
Các chỉ tiêu khác: ngoài các chỉ tiêu định lượng trên , nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng các chỉ tiêu khác để đo rủi ro tín dụng như : tính đa dạng hóa của tài sản, chấm điểm khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, tính kém đa dạng của tín dụng, quan hệ giữa tín dụng và khách hàng, các khoản vay có hay không có TSĐB.
1.2.3.3. Các mô hình đánh giá rủi ro tín dụng của NHTM
a, Mô hình chất lượng:
Mô hình này dựa trên yếu tố 6 C bao gồm:
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng củ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm phòng ngừa rủi ro …
- Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc vào qui định luật pháp của quốc gia. Đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng; đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành.
- Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính sau:
+ Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios):
Khả năng thanh toán ngắn hạn = tài sản lưu động / nợ đến hạn . Hệ số này phải lớn hơn 1, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ đúng hạn.
Khả năng thanh khoản nhanh = (tài sản lưu động – hàng tồn kho) / nợ đến hạn. Các doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho chậm đòi hỏi hệ số này phải cao, còn doanh nghiệp có hệ số vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu này có thể nhỏ hơn 1.
Hệ số ngân quỹ = ngân quỹ / nợ ngắn hạn
+ Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ (Leverage ratios):
Hệ số nợ = (tổng tài sản – vốn chủ sở hữu) / tổng tài sản. Hệ số này có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 là lý tưởng vì có ít nhất phân nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu.
Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi. Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ.
+ Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios):
Hệ số vòng quay hàng tồn kho = giá vốn hàng bán / hàng tồn kho
Hệ số vòng quay các khoản phải thu = doanh thu / các khoản phải thu
Hệ số vòng quay tài sản = doanh thu thuần / tổng tài sản
+ Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios):
Hệ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần
Hệ số thu nhập trên tổng tài sản = tổng lợi tức sau thuế / tổng tài sản
Hệ số thu nhập trên vốn thuần = tổng lợi tức sau thuế / vốn chủ sở hữu thuần
Tuỳ theo từng loại hình tín dụng mà ngân hàng quan tâm đến các chỉ số khác nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, chỉ số về nợ; cho vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
- Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của NHTW quy định theo từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng
b, Mô hình điểm số Z
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó,
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
c. Mô hình chấm điểm tín dụng
Ngày nay nhiều NHTM sử dụng phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng để xem xét việc cấp tín dụng cho khách hàng. Các tiêu chí mà ngân hàn dựa vào để cho điểm khách hàng là:
Đối với khách hàng doanh nghiệp thì tiêu chí là : vốn kinh doanh, lao động. doanh thu thuần, giá trị nộp ngân sách nhà nước
Đối với khách hàng cá nhân, tiêu chí cho điểm là : trình độ học vấn, tuổi, nghề nghiệp, thời gian công tác, thời gian làm công việc hiện tại, thu nhập hàng tháng, số người ăn theo, tổng nợ hiện tại, trạng thái tài khoản của khách hàng tại ngân hàng….
Ví dụ chấm điểm quy mô doanh nghiệp như sau:
STT
Tiêu chí
Trị số
Điểm
1
Vốn kinh doanh
Trên 50 tỷ
Từ 40 tỷ đến dưới 50 tỷ
30
25
2.
Lao động
Trên 1500 người
Từ 1000 đến 1500 người
15
12
3
Doanh thu thuần
Trên 200 tỷ
Từ 100 đến 200 tỷ
40
30
4
Nộp ngân sách
Trên 10 tỷ
Từ 7 đén 10 tỷ
15
12
Mô hình chấm điểm tín dụng loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay tuy nhiên có nhược điểm là không tự điều chỉnh được một cách nhanh chóng thích ứng với những thay đổi của nền kinh tế.
d, Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s:
Rủi ro tín dụng hay rủi ro không hoàn được vốn trái phiếu của công ty thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu. Những đánh giá này được chuẩn bị bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó Moody’s và Standard & Poor’s là những dịch vụ tốt nhất.
Xếp hạng
Tình trạng
Moody’s
Aaa
Chất lượng cao nhất
Aa
Chất lượng cao
A
Chất lượng vừa cao hơn
Baa
Chất lượng vừa
Ba
Nhiều yếu tố đầu cơ
B
Đầu cơ
Caa
Chất lượng kém
Ca
Đầu cơ có rủi ro cao
C
Chất lượng kém nhất
Standard & Poor’s
AAA
Chất lượng cao nhất
AA
Chất lượng cao
A
Chất lượng vừa cao hơn
BBB
Chất lượng vừa
BB
Chất lượng vừa thấp hơn
B
Đầu cơ
CCC-CC
Đầu cơ có rủi ro cao
C
Trái phiếu có lợi nhuận
DDD-D
Không hoàn được vốn
Đối với Moody’s xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor’s thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody’s) và AA (Standard & Poor’s) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đo, chứng khoán trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán nên đầu tư, còn các loại chứng khoán bên dưới bị coi như vô giá trị, không nên đầu tư..Nhưng do có mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nên tuy việc xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng có lợi nhuận cao nên đôi lúc khách hàng chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán này.
1.2.3.4. Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
a, Xây dựng chính sách tín dụng và qui trình tín dụng hợp lý
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng, đòi hỏi sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách, qui tắc và sự kiểm soát chung.
Chính sách tín dụng: với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng thời hạn chế rủi ro tín dụng nằm nâng cao thu nhập của ngân hàng. Toàn bộ các vấn đề liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng như: qui mô, lãi suất, kì hạn, đảm bảo, phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề và nội dung khác…Chính sách tín dụng bao gồm các nội dung chính sau:
Chính sách khách hàng
Chính sách qui mô và giới hạn tín dụng
Lãi suất và phí suất tín dụng
Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán
Chính sách đối với các tài sản có vấn đề
Quy trình tín dụng : là tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị ngân hàng cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng.Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Về cơ bản, qui trình tín dụng bao gồm các bước sau:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Sau khi tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn và tiến hành điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án vay vốn, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích thẩm đinh khách hàng. Nội dung phân tích bao gồm: đánh giá tài sản của khách hàng, đánh giá các khoản nợ, phân tích luông tiền, sử dụng các nhóm tỷ lệ về thanh khoản, rủi ro, sinh lời…để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đây là bước quan trọng nhất quyết định chất lượng của phân tích tín dụng.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Sau khi tiến hàng phân tích và thẩm đinh khách hàng , nếu đồng ý cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng và khách hàng sẽ kí kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giũa người nhận tài trọ (khách hàng) và ngân hàng, nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho ngân hàng một khoản tín dụng trong khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều kiện của các luật, các qui định…Do vậy cả ngân hàng và khách hàng đều cân nhắc kĩ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng. Một hợp đồng tín dụng thường có các nội dung cơ bản sau: khách hàng ( họ tên, tư cách pháp nhân), số lượng hoặc hạn mức tín dụng, lãi suất và phí, thời hạn tín dụng, các loại đảm bảo, điều kiện và thời hạn giải ngân, điều kiện thanh toán….
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như thỏa thuận. Và kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu thua lỗ hay ko?
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho thấy các trục trặc hoạt động của khách hàng. Việc xem xét tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định đến tín an toàn của khoản tín dụng. Nếu khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý tức là sử dụng các biện pháp có thể thu hồi được để thu hồi khoản nợ, bao gồm phong tỏa và bán các tài sản thế chấp…Nếu khách hàng có khó khắn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNN & PTNT CHI NHÁNH THĂNG LONG
2.1. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của NHNN & PTNT chi nhánh Thăng Long
2.1.1. Giới thiệu chung về chi nhánh NHNN & PTNT Thăng Long
NHNN & PTNN chi nhánh Thăng Long là một trong 2.564 chi nhánh của NHNN & PTNN Việt Nam, có trụ sở chính đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội. Chi nhánh NHNN & PTNT Thăng Long là doanh nghiệp được nhà nước xếp hạng I của một trong những ngân hàng quốc doanh uy tín nhất Việt Nam. Chi nhánh NHNN&PTNT trước đây là Sở Giao dịch I của NHNN&PTNT Việt Nam được thành lập từ ngày 06/03/1991. Đến ngày 14/04/2003, Sở Giao dịch I được đổi tên thành Chi nhánh NHNN&PTNT Thăng Long với chức năng kinh doanh là chính. Ban giám đốc đã có nhiều giải pháp để nhanh chóng xây dựng thương hiệu kinh doanh mới, đồng thời phát huy lợi thế của Chi nhánh cấp I.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy tại chi nhánh Thăng Long
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức quản lý và sơ đồ tổ chức hoạt động
Trong năm 2005 NHNN & PTNT chi nhánh Thăng Long đã triển khai tốt các nội dung của Đề án cơ cấu lại ngân hàng theo chỉ đạo của NHNNVN. Để củng cố chất lượng hoạt động, sắp xếp lại địa bàn hoạt động của các chi nhánh, các phòng giao dịch đã được thành lập để phát huy hiệu quả tối đa. Đến 31/12/2005, có 31 điểm giao dịch, trong đó:
- 01 Trụ sở chính
- 09 Chi nhánh cấp 2
- 08 Phòng giao dịch
Tổng số cán bộ công nhân viên của chi nhánh tính đến 31/12/2005 là 255 người. Trong đó: 07 cán bộ có trình độ trên Đại học, 176 cán bộ có trình độ Đại học, 21 cán bộ có trình độ Cao đẳng, Chứng chỉ nghiệp vụ Ngân hàng, 50 cán bộ có trình độ Trung cấp, sơ cấp. Tính đến tháng 12/2006, số cán bộ công nhân viên là 252 người, trong đó 73% là đại học. Và đến 12.2007 thì số cán bộ công nhân viên là 258 người trong đó 76% là đại học. Số cán bộ trên được hình thành từ các nguồn :
Cán bộ của Sở giao dịch I NHNN&PTNT
Cán bộ tuyển dụng từ sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng và các nguồn khác của XH.
- Cán bộ từ các đơn vị trong hệ thống ngân hành điều về
Cán bộ của Nhà in Ngân hàng, Tổng công ty Vàng bạc chuyển về, do sắp xếp lại các đơn vị trên.
2.1.2.2. . Sắp xếp, bố trí nhân lực:
Ban giám đốc, lãnh đạo các phòng chuyên môn nghiệp vụ; Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh cấp 2; Trưởng, phó phòng giao dịch: 66 người.
53 cán bộ tín dụng
13 cán bộ Thanh toán quốc tế
94 cán bộ Kế toán, thủ quỹ
- 28 cán bộ làm các nghiệp vụ khác
Sơ đồ 1:Tổ chức hoạt động của Chi nhánh NHNN&PTNT Thăng Long:
GIÁM ĐỐC
Phó GĐ phụ trách tín dụng
Phòng tín dụng
Phó GĐ phụ trách kế toán
Phòng kế toán
Phòng kế hoạch
Các chi nhánh và phòng giao dịch
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ
Phòng hành chính
Phòng thẩm định
Phó GĐ phụ trách thanh toán
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng vi tính
( Nguồn số liệu: Phòng tổ chức cán bộ)
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNN &PTNT chi nhánh Thăng Long từ năm 2005 đến 2007
2.1.2.1.Nguồn vốn
Đối với một ngân hàng thì nguồn vốn là yếu tố đầu vào của quá trình hoạt động kinh doanh. Khi nguồn vốn có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh Thăng Long:
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chỉ tiêu
Số tiền
So KH
05/04(%)
Số tiền
So KH
06/05(%)
Số tiền
So KH
07/06(%)
Tiền gửi dân cư
1394,40
129,6%
1603
114,95%
1602
99,94%
Tỷ trọng
18,7%
19,5%
15,2%
Không KH
20,457
60,6%
14
68,4%
14
100%
TG<12 tháng
314,503
97,56%
381
121,14%
380
99,74%
TG>12 tháng
1059,444
147,23%
1208
114,02%
1208
100%
Tiền gửi TCKT,XH
4737,199
89,66%
5978
126,19%
7960
133,15%
Tỷ trọng
63,58%
72,7%
75,69%
Không KH
3374,943
93,35%
4120
122,076%
5529
134,2%
TG <12 tháng
286,804
226,97%
236
82,29%
290
122,88%
TG>12 tháng
1075,452
69,76%
1622
150,82%
2141
131,99%
Tiền gửi TCTD & khác
1319,453
69,66%
639
48,43%
955
149,45%
Tỷ trọng
17,7%
7,77%
9,08%
Không KH
391,453
63,44%
165
42,15%
32
19,39%
TG<12 tháng
928
103,4%
474
51,07%
423
89,24%
TG>12 tháng
0
0
500
Tổng nguồn vốn
7451,056
72%
90,28%
8221
108%
110,33%
10517
131%
127,93%
Trong đó: Ngoại tệ qui đổi VNĐ
1164,906
1367
863
(Nguồn: Phòng tín dụng , NHNN & PTNT chi nhánh Thăng Long)
Theo bảng trên ta thấy tình hình huy động vốn từng năm của chi nhánh NHNN&PTNT Thăng Long.
* Năm 2005, bám sát chỉ đạo của NHNN&PTNTVN, chi nhánh Thăng Long đã tích cực thực hiện các giải pháp tăng nguồn vốn từ dân cư, kiên quyết giảm dần nguồn vốn nhận từ các TCTD khác nhằm tạo dần nguồn vốn ổn đinh, góp phần đảm bảo khả năng thanh toán của toàn hệ thống (đã giảm 31% so năm 2004). Tính đến cuối năm 2005, tổng nguồn vốn huy động được là 7.451 tỷ đồng, đạt 72% kế hoạch của năm 2005, trong đó tiền gửi dân cư chiếm 18.7% tổng nguồn vốn và tăng 30% so với 2004.
Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn (2005):
nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỷ trọng 51% tổng nguồn vốn;
nguồn có kỳ hạn < 12 tháng chiếm tỷ trọng 20% tổng nguồn vốn
nguồn có kỳ hạn > 12 tháng chiếm tỷ trọng 29% tổng nguồn vốn
* Năm 2006, tổng nguồn vốn đạt 8.221 tỷ VNĐ, đạt 108% kế hoạch năm 2006 và tăng 10% so với năm 2005 trong đó tiềm gửi dân cư chiếm 19.5% tổng nguồn tăng 15% so với năm 2005 còn tiền gửi và tiền vay các TCTD thì giảm 48.04% so với năm 2005 và chỉ chiếm 7.6% tổng nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn:
nguồn vốn không kỳ hạn chiếm 52,29% tổng nguồn
nguồn vốn kỳ hạn < 12 tháng chiếm 13.27% tổng nguồn
nguồn vốn kỳ hạn > 12 tháng chiếm 34.44% tổng nguồn
Năm 2006,chi nhánh đã tiếp tục giảm phần lớn nguồn vốn nhận được từ các TCTD khác đồng thời đẩy mạnh các hoạt động nhằm huy động nguồn vốn bù đắp phần nguồnđã trả các TCTD và tăng trưởng nguồn vốn:
- Tổ chức lễ ký kểt thoả thuận hợp tác giữa NHNN&PTNT VN và Bảo hiểm xã hội Việt Nam nhằm củng cố mối quan hệ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12875.doc