Tài liệu Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương: PHẦN MỞ ĐẦU
Sau hơn hai mươi năm năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã gặt hái được khá nhiều kết quả như tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống tinh thần vật chất người dân được cải thiện rõ rệt, uy tín của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao. Tuy đã đạt được thành tựu to lớn đó nhưng quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé, sản xuất nhỏ. Vì xuất phát điểm của chúng ta quá thấp nên muốn để hoà nhập vào nền kinh tế phát triển của thế giới, chúng ta cần phải đẩy nhanh sự nghiệp CNH- H... Ebook Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐH đất nước. Như vậy, nhu cầu về vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH sẽ là rất lớn, đặc biệt là Việt Nam đang cần một khối lượng vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xây dựng các công trình công nghiệp, nền tảng của tăng trưởng kinh tế dài lâu. Đại hội Đảng IX khẳng định “ Nhà nước có chính sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực nước ngoài; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất , phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ” . Nội dung này lại khẳng định một lần nữa nhu cầu to lớn về vốn đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng của nguồn vốn trong nước và quốc tế.
Là một trung gian tài chính – đi vay để cho vay Ngân hàng đầu tư và phát triển đã chủ trương tăng cường hoạt động huy động vốn, trước hết là để thực hiện kinh doanh của đơn vị mình, sau đó góp phần là một trong những kênh huy động vốn tích cực cho nền kinh tế
Sau khi được tìm hiểu về vấn đề trên, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương” làm đề tài viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Thông qua đề tài em mong muốn được góp phần nào đó, dù rất nhỏ bé vào việc tăng cường hoạt động huy động vốn của ngaan hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Đề tài này gồm ba chương :
Chương I : Cơ sở lý luận về huy động vốn.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Chương III : Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Để có thể hoàn thành được bài viết này, em xin chân thành cảm ơn đến giáo viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Và em cũng được xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất tới các cán bộ tại phòng Tổng hợp- hành chính và phòng kế hoạch và nguồn vốn đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình em thực hiện đề tài này.
CHƯƠNG I : CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
I. Nguồn vốn của NHTM
1. Khái niệm
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tài chính mà NHTM có quyền sử dụng để tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
2. Phân loại nguồn vốn
2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là toàn bộ giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của các chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng ( 3-4% ) nhưng nó rất quan trọng vì đó là điều kiện pháp lý bắt buộc để thành lập ngân hàng. Một ngân hàng phải có một tỷ lệ vốn sở hữu trên tổng nguồn vốn mới được phép tổ chức và hoạt động, tỷ lệ này phụ thuộc vào mỗi quốc gia. Vốn chủ sở hữu là cở sở ban đầu để các ngân hàng có được các nguồn vốn khác và thực hiện những hoạt động kinh doanh của mình.
Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu bao gồm :
Vốn ban đầu :
Là nguồn vốn do các chủ sở hữu đóng góp và được ghi trong điều lệ của ngân hàng và nó không được nhỏ hơn vốn pháp định. Nguồn vốn này được hình thành khác nhau tuỳ vào hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước thì vốn ban đầu sẽ do nhà nước cấp. Với các ngân hàng là ngân hàng cổ phần thì vốn ban đầu sẽ do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phiếu. Còn ngân hàng liên doanh thì vốn ban đầu sẽ do các bên liên doanh đóng góp. Ngân hàng tư nhân thì sẽ do chủ sỡ hữu của ngân hàng đó bỏ tiền của mình ra để làm vốn ban đầu.
Vốn bổ sung :
Để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh các ngân hàng sẽ tăng số vốn chủ sở hữu lên từ các nguồn là :
Vốn từ lợi nhuận :
Nguồn này chỉ trích ra khi lãi ròng của các ngân hàng lớn hơn 0. Và tỉ lệ nguồn vốn này được trích ra lại tuỳ thuộc vào từng chủ sở hữu ngân hàng, dựa trên cơ sở giữa lọi ích tiêu dùng và lợi ích tiêu dùng.
Vốn thu từ việc phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu : Các NHTM sẽ thực hiện việc này khi vốn chủ sở hữu và quy mô hoạt động chưa đảm bảo, tích tụ lợi nhuận thu được chưa đủ lớn. Nguồn thu nhập này lại phụ thuộc vào quy định chặt chẽ và sự quản lý của nhà nước về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu, do vậy nguồn vốn này không thu nhập thường xuyên.
Các quỹ : Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ phúc lợi, quỹ thặng dư,…
2.2 Vốn tiền gửi
Là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các cá nhân trong và các tổ chức kinh tế trong xã hội thông qua các quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác được dùng làm vốn kinh doanh.
Vốn tiên gửi này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Vì qui mô của nó lớn hơn rất nhiều so với các nguồn vốn khác, thông thường nó chiếm khoảng 50% tổng nguồn vốn.
Đặc điểm của nguồn vốn này là chúng được thanh toán khi khách yêu cầu ngay kể cả khi chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Do sự biến động của nó nên các ngân hàng sẽ không sử dụng hết nguồn vốn này vào kinh doanh mà phải dự trữ bắt buộc một tỉ lệ hợp lý để đảm bảo cho việc thanh toán.
Lãi suất, tỷ giá, thu nhập cá nhân, chu kỳ tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến loại nguồn vốn này. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng đều ảnh hưởng đến tới qui mô và cấu trúc của nguồn tiền. Chu kỳ chi tiêu ảnh hưởng tới qui mô và tính ổn định của nguồn tiền. Cuối năm lễ tết dân chúng và các doanh nghiệp cần rất nhiều tiền mặt để chi tiêu, vì thế nguồn tiền này co xu hướng giảm. Ở những nơi có thu nhập cao như các thành phố dân cư đông hình thành nguồn tiền gửi lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiên để gia tăng qui mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn định ) hơn tiền gửi tiết kiệm.
2.3 Vốn đi vay
Là số vốn mà NHTM vay của NHTW và các tổ chức tín dụng khác trong trường hợp cần thiết cho thanh toán. Nguồn vốn này thường có thời hạn và qui mô xác định trước, do vậy tạo được sự ổn định cho ngân hàng. Nguồn vốn này có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn nên lãi suất cho vay thường lớn hơn lãi suất tiền gửi với cùng kỳ hạn. Các NHTM vay NHTW dưới hai hình thức vay: thanh toán và tái cấp vốn. Việc NHTW cho các NHTM vay dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá trước kia mà NHTM đã mua trên thị trường sơ cấp. Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay theo sơ đồ tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và sự ổn định vĩ mô sau đến là các kĩ thuật nhiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù lãi suất thường xuyên cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy tờ nợ trung và dài hạn khi tiền gửi khong đáp ứng được những yêu cầu như ổn định, qui mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
2.4 Các nguồn vốn khác
Bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán
Nguồn uỷ thác
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ. Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng.Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu như ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạnh lưới ngân hàng như kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quĩ để mở L/C ) Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền gửi của ngân hàng các thành viên chuyển về để thực hiện.
II. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
Khái niệm
Huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài để phục vụ cho kinh doanh của mình.
2. Các hình thức huy động vốn
Các hình thức huy động vốn có thể được phân loại theo tiêu thức phổ biến : theo thời gian huy động, theo đối tượng huy động, theo loại động tiền huy động và theo công cụ huy động.
Phân loại theo thời gian huy động
Cách huy động này gồm ba hình thức :
Huy động ngắn hạn
Là hình thức huy động vốn với thời gian từ 12 thánh trở xuống. Vốn ngắn hạn luôn chiêm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn huy động của các NHTM và được hình thành chủ yếu từ tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền thu được từ việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng.
Do thời gian huy động ngắn nên độ rủi ro trong hình thức huy động này thấp hơn các hình thức huy động vốn dài hạn. Vì vậy lãi suất huy động ngắn hạn bao giờ cũng thấp hơn lãi suất trung và dài hạn.
Huy động trung hạn
Là hình thức huy động vốn trong thời gian từ 1-5 năm. Vốn trung hạn được hình thành chủ yếu từ tiền gửi tiết kiệm trung hạn của dân cư, vốn uỷ thác, vốn thu được do phát hành trái phiếu trung hạn của ngân hàng. NTHM thường sử dụng nguồn vốn này và một tỷ lệ thích hợp vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn như cho vay các dự án sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng.
Huy động vốn dài hạn
Là hình thức huy động vốn trong thời gian lớn hơn 5 năm. Nguồn cung cấp cho hình thức huy động vốn này thường nhỏ hơn nhiều lần so với hình thức huy động vốn ngắn hạn hơn và nó chủ yếu bao gồm vốn thu được do phát hành trái phiếu ngân hàng, vốn uỷ thác. Ngoài ra, tiền gửi tiết kiệm dài hạn thông thường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm cho các kế hoạch chi tiêu trong tương lai của cư cũng như đóng góp một tỷ lệ không nhỏ.
Ở nước ta, vốn huy động trong thời hạn dưới 1 năm được gọi là ngắn hạn, từ 1-3 năm gọi là vốn trung hạn và từ 3 năm trở lên gọi là vốn dài hạn
2.2 Phân loại theo đối tượng huy động
Theo cách phân loại này, huy động vốn có thể chia ra làm 4 nhóm sau :
Dân cư
Đây là nguồn có nhiều tiềm năng nhất, cung cấp cho ngân hàng một nguồn vốn có qui mô lớn và tính ổn định cao. Dân cư có thu nhập và tích trữ nhưng một bộ phận lại không có khả năng hoặc điều kiện trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhu cầu sinh lợi đã khiến cho bộ phận này tiến hành đầu tư gián tiếp thông qua việc gửi vào ngân hàng, ủy thác vốn cho ngân hàng, nắm giữ các chứng khoán mua bảo hiểm. Lý do khác khiến người dân gửi tiêng vào ngân hàng là do nhu cầu đảm bảo an toàn vốn của họ hoặc giúp họ thực hiện các chương trình tiết kiệm cho tương lai hoặc vì những tiện ích mà các sản phẩm của ngân hàng mang lại.
Tổ chức kinh tế
Ngày nay, hầu hết các tổ chức kinh tế đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng để thuận tiện cho việc giao dịch của mình. Số dư trên mỗi tài khoản này thường xuyên biến động : doanh thu các tổ chức kinh tế nộp vào làm tăng số dư có tài khoản này, ngược lại các khoản thanh toán hoặc rút tiền mặt sẽ làm giảm số dư này. Tuy nhiên, xét trên tổng thể các tài khoản này đã đem lại cho ngân hàng một lượng vốn khá ổn định, đặc biệt là đối với các NHTM có số lượng khách hàng là các tổ chức kinh tế. Phát triển và quản lý tốt tài khoản này cho phép ngân hàng có được một nguồn vốn đáng kể với chi phí thấp.
Các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Đây là đối tượng huy động vốn khá thường xuyên của các NHTM. NHTM huy động vốn từ các đối tượng này dưới hình thức vay ngắn trên thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh toán, bù đắp thiếu hụt tạm thời. Các NHTM và tổ chức tín dụng khi có dự trữ vượt quá yêu cầu ( do có sự gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc giảm cho vay ) họ sẵn sàng cho vay ngắn hạn các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này để thu lợi nhuận.
Ngoài ra, việc một NHTM này mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại một NHTM khác cho phép NHTM giữ tài khoản một lượng vốn nhất định, mặc dù nguồn vốn này có tính ổn định rất thấp.
Ngân hàng Trung ương
NHTM vay vốn của NHTW khi không còn huy động được nguồn nào khác, và chỉ vay bù đắp thiếu hụt tạm thời hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.NHTW cho NHTM vay chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu hoặc cầm cố các thương phiếu mà NHTM nắm giữ.
NHTW thực hiện những khoản cho vay trên chủ yếu nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ của mình,giữ cho hệ thống thanh toán vận hành được trôi chảy hoặc để đảm bảo an toàn hê thống ngân hàng. NHTW do vậy có qui định rất chặt chẽ trong việc cho vay này nhằm buộc các NHTM phải quản lý nguồn vốn của mình một cáhc có hiệu quả, đảm bảo cho các nhu cầu sử dụng và khả năng thanh toán của mình, đồng thời cũng buộc các NHTM phải năng động và nỗ lực tìm kiếm các nguồn khác trên thị trường tài chính trước khi nghĩ đến việc vay từ NHTW.
2.3 Phân loại theo loại đồng tiền huy động
Tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng của bản thân và khả năng cung cấp của thị trường mà NHTM có thể huy động vốn bằng các loại tiền tệ khác nhau. Huy động vốn bằng đồng ngoại tệ, các ngân hàng phải cân nhắc đến rủi ro hối đoái, lạm phát, lãi suất tương ứng trên thị trường quốc tế để có lãi suất, kỳ hạn, qui mô huy động cho phù hợp đảm bảo kế hoạch huy động và hiệu quả.
Theo tiêu thức phân loại này, huy động vốn chia làm hai loại :
+ Huy động vốn bằng đồng bản tệ
+ Huy động vốn bằng đồng ngoại tệ
Ở Việt Nam hiện nay, USD và EUR là đồng ngoại tệ chủ yếu được NHTM tổ chức huy động và nó trở thành một nguồn vốn quan trọng, chiếm một tỉ trọng không nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM.
2.4 Phân loại theo công cụ huy động
Huy động bằng nghiệp vụ nhận tiền gửi
NHTM thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi từ các đối tượng khác nhau như : dân cư, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ,các ngân hàng, chúng ta có thể phân các món tiền gửi này theo các nhóm
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán chi trả các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các chi phi phát sinh khác trong quá trình kinh doanh hoạt động một cách thưòng xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường dược bảo quản ở ngân hàng trên hai loại tài khoản : tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đich đảm bảo thế năng và sử dụng dễ dàng thuận lợi đồng vốn của mình khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Về phía ngân hàng, mặc dù tiền gửi thanh toán nếu xét trên từng món là nguồn vốn không ổn định, ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán nó tại bất kỳ thời điểm nào theo yêu cầu của chủ tài khoản. Nhưng nếu xét trên tổng thể các khoản tiền gửi với qui mô khá ổn định. Quản lý và dự báo tốt tình hình biện động tiền gửi thanh toán sẽ giúp ngân hàng có một nguồn vốn không nhỏ với chi phí thấp phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt các hoạt động vay ngắn hạn, các hoạt động nắm giữ các tài sản sinh lời có tính lỏng cao như tín phiếu kho bạc.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn có thu nhập từ thu phí dịch vụ thanh toán. Tiền gửi thanh toán là một nguồn vốn quan trọng đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng luôn cố gắng huy động ngày càng nhiều loại tiền này.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền mà cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi là chính, bên cạnh mục đích an toàn hoặc để thực hiện các chương trình tiết kiệm cho tương lai. Khách hàng không thể trực tiếp sử dụng tiền trong tài khoản tiết kiệm để thanh toán qua ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn. Sử dụng hình thức gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào họ muốn. Tuy nhiên, lãi suất cho hình thức này thấp hơn lãi suất cho hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Sử dụng hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn, khách hàng cũng có thể rút tiền trước kỳ hạn khi họ muốn. Trong trường hợp này thì khách hàng sẽ chỉ được nhận với lãi suất bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm, đặc biệt là loại có kỳ hạn được đánh giá là nguồn vốn quan trọng đối với các NHTM bởi tính ổn định và khả naeng cung ứng cực lớn của thị trường mặc dù chi phí huy động tương đối cao. Nắm giữ nguồn vốn này trong tay, các NHTM vó thể tiến hành cjo vay trung và dài hạn nhiều hơn với độ rủi ro thanh khoản thấp.
Các NHTM ở nước ta hiện nay đang thiếu vốn để cho vay trung và dài hạn. Trong tình hình nhu cầu của nền kinh tế về loại vốn này không ngừng gia tăng, tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư đang là nhiệm vụ trọng tâm của nhiều ngân hàng.
Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu
Để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là việc cho vay trung và dài hạn, NHTM chủ động huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu trên thị trường tái chính.
Kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng đều là các giấy tờ nhận nợ của ngân hàng, trong đó ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho người nắm giữ nó. Kỳ hạn huy động là điểm khác nhau cơ bản giữa hai công cụ ghi nợ trên: kỳ phiếu ngân hàng dùng để huy động vốn ngắn hạn ; trái phiếu ngân hàng dùng để huy động vốn trung và dài hạn. Kỳ phiếu có thời gian ngắn hơn, tính lỏng hơn trái phiếu nên được thị trường ưa thích hơn. Vì vậy, các NHTM phát hành kỳ phiếu thường xuyên hơn phát hành trái phiếu. Trái phiếu thường được các ngân hàng phát hành để chuẩn bị tài trợ cho những dự án cụ thể có vốn đầu tư lớn, thời hạn dài.
Huy động vốn qua nghiệp vụ uỷ thác
NHTM thực hiện các nghiệp vụ ủy thác như : ủy thác cho vay. ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, ủy thác thu hộ. Theo đó ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay, đầu tư giải ngân cho khách hàng của mình bằng nguồn vốn của họ. Nhưng cũng thực hiện hoạt động thu hộ cho khách hàng khi họ yêu cầu. Thực hiện nghiệp vụ ủy thác, bên cạnh lợi ích từ việc thu phí dịch vụ ngân hàng còn được nắm giữ vốn ủy thác của khách hàng và có thể sử dụng nguồn vốn không phải trả lãi này trong những khoảng thời nhất định.
Các ngân hàng thường nhận được ủy thác cho vay, ủy thác giải ngân của khách hàng lớn như chính phủ, các tổ chức kinh tế lớn, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài. Do vậy vốn ủy thác thường có qui mô lớn.
Vốn ủy thác là một nguồn vốn chi phí thấp, qui mô lớn và việc sử dụng nó thường nằm trong kế hoạch nên giúp ngân hàng chủ động trong sử dụng. Do vậy các NHTM luôn cố gắng mở rộng nguồn vốn này.
III - Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Các yếu tố bên ngoài
Thực trạng nền kinh tế
Sự ảnh hưởng của nền kinh tế đến hoạt động huy động vốn của hệ thồng NHTM dưới 2 giác độ :
Khi nền kinh tế đang trong tăng thời kỳ tăng trưởng sẽ tạo ra hàng loạt các điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn như sự tích luỹ của nền kinh tế cao, các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu đầu tư cao. Các dịch vụ của ngân hàng được sử dụng nhiều hơn tạo ra các nguồn vốn cho ngân hàng.
Ngược lại khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái thì sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế đình đốn, vật tư hàng hoá ứ đọng, công nhân thất nghiệp… dẫn đến thu nhập của các doanh nghiệp và dân chúng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, điều đó đồng nghĩa tích luỹ trong nền kinh tế giảm mạnh. Các nhà đầu tư không muốn đầu tư vào kinh doanh sản xuất. Và sự lạm phát luôn đi kèm với nền kinh tế suy thoái, làm giá trị đồng tiền giảm. Tâm lý của dân chúng không muốn gửi tiền vào ngân hàng để tránh bị trượt giá của đồng tiền, họ chuyển sang cất trữ bằng ngoại tệ hay vàng để đảm bảo an toàn hơn. Như vậy hoạt động huy động vốn của ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
1.2 Môi trường kinh tế
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của các NHTM.
Khi hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tài chính phi ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Nói chung sự cạnh tranh mà càng gay gắt thì càng bất lợi cho các ngân hàng, ít nhất là việc gia tăng chi phí đầu vào và thu hẹp giá cả đầu ra. Tuy nhiên trong cuộc cạnh tranh này thì lại mang cho các ngân hàng những cơ hội và thách thức, nếu ngân hàng nào biết quản lý và có những chiến lược tốt thì sẽ chiến thắng. Khi đó ngân hàng sẽ mở rộng được thị phần cả đầu vào và đầu ra của mình; ngược lại sẽ bị thu hẹp qui mô hoạt động có thể dẫn tới phá sản.
Sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM. Khi thị trường chứng khoán phát triển nó sẽ dễ thu hút được các nguồn vốn của các nhà đầu tư vì nó có ưu điểm là đầu tư trực tiếp, tinh lỏng cao và nhiều tiện ích hơn. Tuy nhiên sự phát triển của thị trường chứng khoán không chỉ toàn những tác động tiêu cực tới hoạt động huy động vốn của NHTM. Nhờ có thị trường chứng khoán các NHTM sẽ dễ dàng thực hiện trong việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu hơn và các kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng sẽ có tính lỏng cao. Như vậy, việc huy động vốn bằng phát hành công cụ nợ sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài ra, các NHTM có thể cung cấp cho các khách hàng tham gia vào thị trường chứng khoán hàng loạt các dịch vụ liên quan như: môi giới chứng khoán, tư vấn chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Đây là những dịch vụ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, ngoài ra còn có một số dịch vụ cho phép ngân hàng nắm giữ và sử dụng tiền vốn của khách hàng.
Cơ chế chính sách nhà nước
Hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đối với nền kinh tế và mức độ rủi ro trong hoạt động nên phải chịu sự điền chỉnh rất chặt chẽ của một hệ thống các văn bản pháp luật, chịu sự quản lý sát sao của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Hoạt động huy động vốn là một trong các hoạt động ngân hàngchịu sự điều tiết khắt khe của qui định pháp luật. Như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sẽ giới hạn quy mô huy động của mỗi NHTM trên cơ sở căn cứ vào vốn chủ sở hữu, các qui định liên quan tới hoạt động nhận gửi tiền ; tới việc vay vốn tại NHNN ; việc phát hành các công cụ nợ ; và các qui định liên quan đến việc sử dụng vốn. Các qui định nhìn chung đều nhằm mục đích đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. Tuy nhiên, khi sự điều tiết này là bất hợp lý, nó sẽ gây ra các tác động ngược lại với mong muốn.
Chính sách tiền tệ cung là yếu tố ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động huy động vốn của NHTM. Lãi suất chiếu khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở là những công cụ chủ yếu để NHTW thực hiện chính sách này, ngoài ra lãi suất tín dụng do NHTW áp đặt đối với các NHTM cũng là công cụ cua chính sách tiền tệ của một số quốc gia. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTW sẽ lựa chọn một hoặc một số biện pháp sau : tăng lãi suất chiết khấu, bán ra thị trường mở các giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tất cả những động thái này sẽ dẫn đến sự giảm mức cung tiền trong nền kinh tế, lãi suất gia tăng…NHTM vì thế rất khó khăn trong hoạt động huy động vốn nói riêng và các hoạt động kinh doanh khác nói chung. Ngược lại một chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của NHTM.
Tập quán tiêu dùng, cất trữ và yếu tố tâm lý của khách hàng
Những thói quen thanh toán hoặc cất trữ bằng tiền mặt của một bộ phận dân cư ở nước ta vẫn rất lớn, thậm chí có cả một số bộ phận tổ chức kinh tế xã hội ( vì nhiều lí do khác nhau như tính bí mật, hoạt động ngầm….) đã làm hạn chế khả năng huy động vốn của các NHTM. Dân cư nắm trong tay một vốn lớn, và nếu tập lập cho họ được thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được một nguồn vốn vô cùng tiềm năng này.
Tâm lý của khách hàng cũng ảnh hưởng nhiều đến huy động vốn của ngân hàng. Khi muốn gửi tiền vào ngân hàng thì tâm lý chung của khách hàng muốn gửi vào ngân hàng nào có bề thế, uy tín cao, có lãi suất huy động vốn hấp dẫn, thủ tục gửi vào rút ra thuận tiện, đặc biệt là phải giữ được bí mật về việc gửi tiền của họ. Ngân hàng nào thoả mãn được các yếu tố trên của khách hàng thì ngân hàng đó sẽ được khách hàng lựa chọn.
2. Những yếu tố bên trong
Trong tình hình cạnh tranh rất gay gắt như hiện nay thì khả năng và hiệu quả huy động vốn phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các NHTM. Năng lực cạnh tranh đó chủ yếu được thể hiện qua chính sách lãi suất, chính sách sản phẩm, chính sách ưu đãi và chăm sóc khách hàng.
2.1 Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất ( lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra ) có tác động mạnh mẽ đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Lãi suất đầu ra cao sẽ cho phép lãi suất đầu vào nhích lên mà vẫn đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Lãi suất đầu vào phải có tính cạnh tranh đối thủ mới cho phép ngân hàng đạt kết quả huy động vốn như mong muốn. Tuy nhiên, ngân hàng cũng xó thể cạnh tranh thông qua các chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ.
2.2 Chính sách sản phẩm
Sự đa dạng hoá về sản phẩm ảnh hưởng nhiều đến huy động vốn. Các ngân hàng luôn phải làm sao cung cấp nhiều loại hình sản phẩm để làm thoả mán nhu cầu đa dạng của khách hàng. Để thực hiện được điều này, ngân hàng phải có một bộ phận chuyên thu nhập thông tin, nghiên cứu về khách hàng, về thị trường, từ đó rút ra được các sản phẩm có nhiều tiện ích nhất. Như về hoạt động huy động vốn thì việc đưa ra các hình thức khác nhau về công cụ huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi, khả năng hoàn trả khi khách hàng có nhu cầu rút đột xuất. Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm là việc nâng cao chất lượng phục vụ của ngân hàng, các tiện ích mà sản phẩm đem lại cho khách hàng, độ an toàn của sản phẩm.
2.3 Chính sách ưu đãi và chăm sóc khách hàng
Đối với một số khách hàng đặc biệt các ngân hàng tạo cho họ một số ưu đãi đặc biệt về một số dịch vụ của ngân hàng. Và dịch vụ chăm sóc khách hàng có tính chất rất quan trọng đối với sự lựa chọn của khách hàng. Chính sách này thực hiện có hỉệu quả sẽ đảm bảo chí phí vốn huy động hợp lý và đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng trong việc thu phí dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh cao cộng với một bề dày thành tích hoạt động làm nên uy tín của một ngân hàng. Đay là yếu tố quyết địng đến kết quả kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của một ngân hàng.
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH HẢI DƯƠNG
I. Khái quát tình hình hoạt động của ngân hàng
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định số 177/ TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng chính phủ với tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam trực thuộc bộ tài chính, có nhiệm vụ quản lý cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Là một thành viên của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Hải Dương cũng được thành lập từ rất sớm ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế. Với số lượng cán bộ có 9 đồng chí: - Đ/c Đặng Huy Sách giữ chức vụ trưởng chi nhánh , có 2 bộ phận cấp phát và kế toán. Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương đã trưởng thành gắn liền với sự nghiệp cách mạng, sự chuyển mình của đất nước, của ngành và của địa phương với các tên gọi :
Ngân hàng kiến thiết Hải Dương ( 26/4/1957)
Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Hải Hưng (1981) trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hải Hưng (1991)
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hải Dương (12/1996)
Đến nay Ngân hàng Đầu tư và phát triên tỉnh Hải Dương đã trở thành một ngân hàng lớn có tổng tài sản hàng ngàn tỷ đồng, còn có 2 phòng giao dịch tại 2 khu vực công nghiệp quan trọng của tỉnh là Hoàng Thạch ( Kinh Môn) và Tiền Trung (Nam Sách), 2 điểm giao dịch, 12 phòng nghiệp vụ, tổng số 120 cán bộ công nhân viên.
Cùng với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển cảu toàn hệ thống. Bằng sự cố gắng, nỗ lực, năng động, sáng tạo, Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức và trưởng thành một ngân hàng chủ lực phục vụ đầu tư phát triển, huy động vốn, cho vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn cho các thành phần kinh tế, có nhiều kinh nghiệm đầu tư các dự án trọng điểm. Đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp CNH- HĐH đât nước và phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Chi nhánh đã trưởng thành và đạt được những thành tích rất quan trọng trong việc lo vốn đầu tư phát triển bằng nhiều biện pháp huy động : Tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, tiết kiệm cho vay xây dựng nhà… năm 1990 tổng số vốn đầu tư huy động đạt 1tỷ 665 triệu đồng, đến năm 2006 đạt 1.107 tỷ đồng, gấp 664 lần. Dư nợ cho vay năm 1990 đạt 6tỷ 492 triệu đồng đến 31/12/2006 đạt 801tỷ đồng, gấp 123,3 lần.
Lượng khách hàng tăng bình quân hàng năm 3-4 lần. Từ chỗ không có khách hàng là dân cư, tư nhân, cá thể gửi tiền, đến nay ngân hàng đã có gần 50.000 khách hàng.
Nguồn vốn huy động của chi nhánh luôn luôn tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước. Do vậy, chi nhánh luôn đáp ứng ddủ nhu cầu vốn vay của khách hàng, tập trung vốn cho những dự án đầu tư, sử dụng vốn có hiệu quả, không để ứng đọng vốn, đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời mọi trường hợp và an toàn vốn toàn hệ thống.
Dư nợ tín dụng tăng trưởng, doanh số hoạt động lớn. Cùng với tăng trưởng là việc nâng cao chất lượng tín dụng, nợ quá hạn thông thường qua các năm bình quân chỉ chiếm 1% tổng dư nợ, đặc biệt là cuối năm 2000, 2001 không có nợ quá hạn. Thị phần tín dụng chiếm trên 20% trên địa bàn. Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương tham gia đầu tư có hiệu quả cao vào các công trình dự án mũi nhọn của tỉnh và đất nước như: Kinh Môn, Thành phố Hải Dương, công trình nông nghiệp và nông thôn, xây dựng cở sở hạ tầng, văn hoá xã hội.
Công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển, từ chỗ lao động thủ công đến nay chi nhánh đã thiết bị dàn hệ thống vi tính hiện đại, ứng dụng nhiều tiến bộ kĩ thuật công nghệ vào hoạt động kinh doanh và điều hành, các chương trình phần mền phục vụ công tác: quản trị điều hành, kế toán, nguồn vốn, tín dụng, thanh toán quốc tế, ngân quỹ, tiền lương, quản lý hồ sơ… Do vậy việc hoạch toán, thanh toán, chuyển tiền kịp thời, chính xác, phục vụ khách hàng thuận tiện, nhanh chóng.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, để đáp ứn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10572.doc