Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại Ngân hàng công thương Thanh Ho

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 có những đổi mới đáng kể trong định hướng và phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN. Nhằm phát triển và hội nhập nền kinh tế thế giới qua những năm đối đầu đổi mới nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều thử thách và đã đạt được một số thành tựu nhất định đáng khích lệ. Để có được những thành tựu như ngày hôm nay, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi đáng kể về định hướng và cơ cấu ngành nghề. Bên cạnh sự thay đổi đó có một nhân tố tá

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại Ngân hàng công thương Thanh Ho, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c động mạnh mẽ tới sự phát triển của cả nền kinh tế đó là "ngân hàng". Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh tới sự phát triển của nền kinh tế thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền kinh tế, nhằm khai thác triệt để những tiềm lực vốn có của cả nền kinh tế về vốn và các công cụ tài chính. Thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền kinh tế Nhà nước có thể dựa vào ngân hàng để điều chỉnh nền kinh tế theo định hướng của mình để tạo nên một nền kinh tế phát triển vững mạnh về mọi mặt và có định hướng của XHCN. Tuy nhiên thông qua chức năng điều chuyển vốn của ngân hàng nó cũng có một số nhược điểm và gây tác hại cho ngân hàng, đó là rủi ro trong cho vay, đầu tư của ngân hàng cho các đối tượng của nền kinh tế. Vì vậy công tác hạn chế và phòng ngừa rủi ro cho vay luôn được các ngân hàng thương mại quan tâm. Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng công thương Thanh Hoá tôi đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại ngân hàng công thương Thanh Hoá". Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là: - Nghiên cứu về rủi ro trong cho vay trên phương diện lý thuyết. - Thông qua thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng công thương Thanh Hoá để đánh giá tình hình rủi ro trong cho vay của chi nhánh. - Đưa ra một số kiến nghị và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong cho vay. Để giải quyết các vấn đề này thì chuyên đề được trình bày làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về cho vay và rủi ro trong hoạt động cho vay. Chương II: Thực trạng cho vay và rủi ro cho vay tại Ngân hàng công thương Thanh Hoá. Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho vay đối với Ngân hàng công thương Thanh Hoá. Do kiến thức và trình độ còn hạn chế, bản thân lại chưa trải qua thực tế nên không tránh được những sai sót. Tôi rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của quý vị. Hoàn thành chuyên đề này tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo Thạc sĩ Lê Thanh Tâm và các cán bộ phòng kinh doanh Ngân hàng công thương Thanh Hoá. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng và nghiệp vụ cho vay của ngân hàng 1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm, hình thức sơ khai của ngân hàng xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức hoạt động của nó ngày càng được thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của sản xuất và trao đổi của hàng hoá. Khi mà nền sản xuất phát triển hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi quan hệ trao đổi hàng hoá phát triển vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng các loại đồng tiền khác nhau nó làm nảy sinh khó khăn trong thanh toán giữa các đồng tiền khác nhau. Khi đó, những thương gia giàu có và thông minh nhất đã nắm được cơ hội này và chuyển sang nghề buôn tiền: Họ thực hiện các nghiệp vụ về nhận tiền gửi, thu đổi tiền và bảo quản tiền (cho khách hàng) và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận tiền gửi các nhà ngân hàng dần dần còn thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng (người gửi tiền), nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những người có nhu cầu vay để mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi các nhà ngân hàng lại có sẵn trong két những khoản tiền lớn không sinh lời. Khi cho vay các nhà ngân hàng được nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay tiền. Chính vì các khoản thu này đã khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được nhiều tiền gửi để cho vay và họ đã chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi thậm chí còn trả cho người gửi tiền một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi mà tồn tại các nghiệp vụ cho vay, thanh toán và nhận tiền gửi có thể nói ngân hàng đã được hình thành. 1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM) Khi nghiên cứu về NHTM các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về NHTM. Có ý kién cho rằng: "NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay", có ý kiến lại cho rằng: "NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc". Sở dĩ có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM là do các nghiệp vụ của ngân hàng rất đa dạng, các thao tác của từng nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm khác nhau về NHTM. Còn theo luật ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính của Việt Nam ban hành ngày 24/5/1990 thì: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ NHTM đã chứng tỏ được sự cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị trường, ngân hàng là đòn bảy của nền kinh tế. 1.1.1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM - Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả của các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi của nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, phát hành trái phiếu, kì phiếu và phát hành các chứng từ tiền hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM còn phụ thuộc đáng kể vào vốn tự có của ngân hàng và những quy định cụ thể của nhà nước về tỉ lệ giữa vốn chủ sở hữu với vốn huy động thông qua tỉ lệ này NHNN đã hạn chế được một số rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có. - Nghiệp vụ cho vay và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM cũng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho các NHTM. Để thực hiện nghiệp vụ này NHTM sử dụng phần lớn là số vốn mà ngân hàng huy động được từ nền kinh tế để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế thông qua hình thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham gia, hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận. Thông qua các nghiệp vụ này NHTM đã trở thành một trung gian tài chính hoàn hảo. Nó đã điều chuyển vốn cho nền kinh tế từ nơi có vốn sang nơi cần vốn thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn và sâu hơn. Thông qua các nghiệp vụ này ngân hàng làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ tăng mạnh, nó góp phần đẩy nhanh qt sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Bên cạnh đó nó còn tác động tới lượng tiền mặt trong lưu thông cùng với chi phí lưu thông giảm một cách đáng kể và tận dụng được những nguồn vốn nhàn rỗi một cách tối đa thông qua đó còn thực thi được chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của NHTM (chủ yếu hoạt động cho vay). Hoạt động này nó có liên quan mật thiết với các ngành, lĩnh vực, đối tượng mà ngân hàng cấp tín dụng. Do vậy rủi ro trong hoạt động cho vay của các NHTM là rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành nghề các lĩnh vực mà ngân hàng cho vay. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng hay rủi ro trong cho vay là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm: - Các hoạt động dịch vụ Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, nhằm thu hút khách hàng tới với ngân hàng và để có thêm khoản thu khác ngoài thu từ lãi cho vay. Các dịch vụ của ngân hàng như: +Dịch vụ thanh toán hộ + Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán + Dịch vụ tư vấn + Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá. Có thể nói các nghiệp vụ của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận hành của cả bộ máy. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ tạo tiền đề cho các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng để tái tạo các nguồn vốn khác. Còn các dịch vụ khác của ngân hàng nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng tạo điều kiện cho việc mở rộng huy động vốn và mở rộng thị trường kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất. Vì nghiệp vụ này nó quyết định đến cả một qt kinh doanh của ngân hàng đó là lợi nhuận. 1.1.2. Nghiệp vụ cho vay của NHTM 1.1.2.1. Khái niệm về cho vay Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng khi thực hiện tín dụng ngân hàng. Đây là nghiệp vụ chủ yếu khi ngân hàng quyết định cấp tín dụng cho khách hàng và cũng là nghiệp vụ mang về thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra với ngân hàng. Do vậy các NHTM luôn phải quan tâm tới rủi ro trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng. 1.1.2.2. Phân loại cho vay - Cho vay thầu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn xác định trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thầu chi. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có khoản thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô thuận lợi trong quá trình thanh toán nhanh và giúp khách hàng kịp thời. Hình thức thầu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, thủ tục đơn giản, thường những khoản vay thầu chi là không có tài sản đảm bảo. Hình thức này cho vay chỉ với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn. - Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thầu chi. Hình thức cho vay này tương đối đơn giản về thủ tục và có thể kiểm soát được các khoản cho vay. Hình thức này an toàn hơn hình thức thầu chi. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đólà số dư tối đa tại thời điểm tính. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về nhu cầu vốn khi cần thiết sẽ được ngân hàng giải quyết cho vay một cách nhanh chóng giúp khách hàng chớp được thời cơ trong kinh doanh. Ngân hàng dựa vào cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn của khách hàng để cấp cho khách hàng những hạn mức phù hợp. Bên cạnh những thuận lợi cho khách hàng thì về phía ngân hàng gặp một số khó khăn trong khâu quản lý nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của từng lần vay. - Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng khi có nhu cầu về vốn để mua hàng hoá, và sẽ thu vốn về khi khách hàng bán được hàng. Hình thức cho vay này đơn giản thuận lợi cho khách hàng về thời gian và thủ tục. - Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Hình thức này thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định. Cho vay trả góp chứa đựng rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập của ngời vay do đó lãi suất của hình thức này thường cao hơn lãi suất thông thường. - Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Các tổ chức có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong nhóm vay khi mà các thành viên không có tài sản thế chấp. Qua hình thức cho vay này ngân hàng có thể mở rộng thị trường và qua hình thức này ngân hàng hỗ trợ phát triển kinh tế cho các hộ nghèo không có điều kiện vay vốn của ngân hàng trực tiếp. 1.1.2.3. Vai trò của hàng hoá cho vay đối với nền kinh tế Hoạt động cho vay của ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Nó là đòn bảy kinh tế phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá bởi đặc trưng cơ bản của tín dụnglà sự vận động dựa trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Thông qua nghiệp vụ này nhà nước có thể điều chỉnh sự phát triển cơ cấu ngành nghề của cả nền kinh tế và thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo định hướng của đất nước. Thông qua nghiệp vụ cho vay của các NHTM nó đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Nó tác động trực tiếp tới từng ngành nghề tới công nghệ, máy móc trang thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần thiết để trang trải các chi phí. Hơn nữa để mở rộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu động vì vậy để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp này cần có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Còn với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch sẽ hoạt động ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng trang thiết bị vật chất phương tiện vận tải. Do đó hầu hết các doanh nghiệp đều cần tới tín dụng ngân hàng. Nói chung một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ xung vốn lưu động và vốn cố định cho các doanh nghiệp là vốn vay từ ngân hàng vì nếu chỉ dựa vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh các yếu tố trên tín dụng ngân hàng còn là một công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện các chương trình dự án mang tính xã hội. Mặt khác từ hoạt động tín dụng nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đưa ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh nền kinh tế theo chính sách tín dụng như chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu của nhà nước. - Để phát huy tốt những ưu điểm của tín dụng đối với nền kinh tế quốc dân thì các ngân hàng luôn phải đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. 1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM 1.2.1. Khái niệm về rủi ro Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay cụ thể thì trong hoạt động đó luôn hàm chứa rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này nó sẽ làm giảm khoản thu nhập của ngân hàng. Do đó trong hoạt động quản lý toàn bộ ngân hàng luôn xác định một tỷ lệ tổn thất dự kiến nhằm hạn chế mức tối thiểu các thiệt hại về tài sản do các rủi ro cho vay gây ra. 1.2.2. Các hình thức rủi ro cho vay Theo khái niệm về rủi ro tín dụng thì rủi ro tín dụng được chia thành các hình thức sau: - Không thu được lãi đúng hạn Lúc này ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp. - Không thu được vốn đúng hạn Khi không thu được vốn đúng hạn thì tình hình sử dụng vốn bị ảnh hưởng và ảnh hưởng tới tính thanh khoản của tài sản. Hình thức này gây rủi ro lớn trong nhiệm vụ đảm bảo thanh khoản và tình hình sinh lời của tài sản. - Không thu đủ lãi Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã gặp khó khăn không hiệu quả trong việc sử dụng vốn. Lúc này ngân hàng cần có những biện pháp hỗ trợ khách hàng như giảm lãi, tư vấn cho khách hàng hoặc có thể cung cấp thêm những khoản tín dụng cần thiết cho khách hàng nếu dự án đang đầu tư là khả thi. - Không thu đủ vốn cho vay Khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay tại thời điểm này, ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ. Trên đây là bốn hình thức rủi ro cho vay có thể xảy ra đối với các ngân hàng. Qua nghiên cứu để nhận biết và các biện pháp xử lý rủi ro một cách có hiệu quả nhất. 1.2.3 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro trong cho vay - Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Chỉ tiêu này ảnh hưởng đáng kể tới tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản của ngân hàng, ảnh hưởng tới chi phí gia tăng làm giảm thu nhập của ngân hàng. - Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gia hạn nợ. Những khoản nợ này ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp để thu lại tiền vay sao cho hợp lý nhất. Bởi vì các khoản nợ này hi vọng thu lại tiền vay là khó, lúc này khả năng chi trả của khách hàng hạn hẹp. Loại nợ này chứa đựng rủi ro cao và thường mang lại tổn thất cho ngân hàng. 1.2.4. Ảnh hưởng của rủi ro cho vay đối với ngân hàng 1.2.4.1. Rủi ro cho vay làm giảm doanh thu của ngân hàng Những khoản cho vay gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài sản khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm doanh thu của ngân hàng. Còn trong trường hựop ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng ảnh hưởng tới tính thanh toán và rủi ro thanh khoản của ngân hàng do đó ảnh hưởng tới doanh thu của ngân hàng. 1.2.4.2. Rủi ro cho vay làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng Rủi ro cho vay nó đã ảnh hưởng tới việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Các khoản đầu tư, cho vay thu hồi chậm hoặc không thu hồi được trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả vốn huy động một cách đều đặn cả vốn, lãi đúng kỳ hạn. Chính vì thế nó đã làm hạn chế khả năng thanh toán của ngân hàng. 1.2.4.3. Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng và khả năng kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro là ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Điều này tác động mạnh tới uy tín của ngân hàng làm cho lòng tin của khách hàng vào ngân hàng bị giảm. Nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lượng khách hàng tới ngân hàng để gửi tiền cũng như sử dụng các dịch vụ của ngân hàng do đó quy mô hoạt động của ngân hàng bị ảnh hưởng và gây ra những tổn thất về tài chính. Mặt khác nếu ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro trong cho vay thì khả năng phá sản của các ngân hàng đó là rất cao. Bởi vì khi mà ngân hàng gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh thì khả năng thanh toán hay tính thanh khoản của ngân hàng là không cao. Mà khi ngân hàng hoạt động không hiệu quả sẽ gây tâm lý bất ổn cho người gửi tiền về khả năng chi trả củann dẫn tới họ rút tiền hàng loạt thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn nó có thể sẽ bị phá sản. Hậu quả phá sản của một ngân hàng không chỉ mình bản thân ngân hàng đó gánh chịu mà nó còn tác động tới những ngân hàng có quan hệ với ngân hàng này. Điều này gây ra sự phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Chính vì những hậu quả khó lường khi mà rủi ro tín dụng gây ra như các cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Nó đã làm nền kinh tế các nước khu vực châu Á lâm vào khủng hoảng nặng nề. Vì vậy mỗi ngân hàng phải luôn quan tâm tới rủi ro trong cho vay cũng như rủi ro tín dụng để đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng thực sự là đòn bảy cho nền kinh tế phát triển. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro cho vay 1.3.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng - Trong quá trình cho vay, cán bộ ngân hàng làm sai quy tắc tín dụng, hoặc trình độ yếu kém không đủ khả năng thẩm định những dự án phức tạp, trình độ chuyên môn còn hạn chế chưa bắt kịp với những thay đổi của thị trường, chính những yếu điểm này đã tạo ra khe hở cho khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân hàng. - Bên cạnh đó yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng đã quên nhiệm vụ đảm bảo an toàn mà chạy theo chính sách lợi nhuận. Bỏ qua các quy tắc phòng ngừa rủi ro, làm sai lệch các nguyên tắc co vay, trong thẩm định dự án. Đây là chính sách mạo hiểm trong kinh doanh nó sẽ mang lại tổn thất lớn nếu xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh. - Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ kinh doanh trong thời kỳ mới, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế cả nghiệp vụ và hiểu biết nắm bắt những thay đổi của thị trường. - Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không tốt các đảm bảo tín dụng, người bay không đáp ứng đủ các điều kiện về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh nhưng NHTM vẫn cho vay. Bên cạnh đó có một số cán bộ tín dụng biến chất đã thông đồng với khách hàng nâng giá trị tài sản nhằm nhằm mục đích vay được nhiều tiền. Tuy tài sản thế chấp là tiêu chuẩn thứ yếu nhưng chính nó là nguồn đảm bảo thu nợ thứ hai khi khách hàng không có khả năng trả nợ bằng nguồn thu thứ nhất. Chính vì vậy việc định giá tài sản đảm bảo cũng là một yếu tố tác động tới rủi ro ngân hàng. 1.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng Nguyên nhân dẫn tới rủi ro cho vay của NHTM từ phía khách hàng có thể chia làm hai trường hợp sau: 1.3.2.1. Nguyên nhân do chủ quan của người vay Trong hoạt động cho vay 1.3.2.2. Nguyên nhân do khách quan mang lại Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt và để tồn tại thì các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong những quan hệ phức tạp của xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn luôn là điều không thể tránh khỏi như trên đã nêu: nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng là từ các doanh nghiệp thông qua hoạt động tín dụng; chính vì vậy hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng và rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới rủi ro tín dụng của ngân hàng. Rủi ro của doanh nghiệp xảy ra như: + Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan: thiên tai hoả hoạn, động đất… Đây là trường hợp bất khả kháng khó mà lường trước được. + Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bị ảnh hưởng từ phía khách hàng của doanh nghiệp. Ngoài các trường hợp nêu trên còn có rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn đặt doanh nghiệp trong tình trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì một sự sai sót nào trong phương thức quản lý kinh tế cũng như quản lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ, phá sản doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp 1.3.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh - Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ được cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng điều này ảnh hưởng tới các khoản nợ của các ngân hàng. Ngoài ra, các chính sách kinh tế vĩ mô nó tác động tới hoạt động của ngân hàng. Chính phủ sẽ ưu tiên hơn về luật pháp, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực chính phủ khuyến khích đầu tư phát triển và ngược lại. Do những chính sách kinh tế của chính phủ nó đã làm giảm bớt khách hàng đến với ngân hàng từ các lĩnh vực mà nhà nước không khuyến khích phát triển. - Môi trường chính trị, xã hội Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư phát triển. Đây cũng là điều kiện để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp. Ngược lại nếu môi trường chính trị, xã hội không ổn định thì các doanh nghiệp không thể yên tâm mà phát triển và luôn đặt trong rủi ro có thể ập tới bất kì lúc nào đối với doanh nghiệp cũng như ngân hàng. - Môi trường pháp lý: Nếu như một đất nước xây dựng được một hành lang pháp lý thông thoáng và có hiệu lực sẽ thu htú được đông đảo các nhà đầu tư vào đầu tư phát triển đây là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường. Và ngược lại nếu hành lang pháp lý lỏng lẻo tạo ra nhiều khe hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau từ đó nó ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cho ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Như vậy trong nền kinh tế thị trường, do những biến động của thị trường, những nguyên nhân khác nhau của nền kinh tế tác động tới hoạt động của doanh nghiệp và chính bản thân ngân hàng làm nảy sinh các biến cố trong quan hệ tín dụng làm cho các quan hệ tín dụng vận động theo những chiều hướng xấu, không có lợi cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là điều không thể tránh khỏi hay nói cách khác: Rủi ro xảy ra là điều tất yếu khách quan trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại, rủi ro thường xuyên đưa ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn cả về tài chính lẫn các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Vì vậy cần phải phòng tránh rủi ro. Loại bỏ rủi ro là điều không thể có nhưng phòng ngừa và hạn chế nó thì các nhà kinh doanh Ngân hàng hoàn toàn có thể làm được. Việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro giúp cho Ngân hàng Thương mại hoàn toàn được vốn, tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh và tăng thu nhập, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao được uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, nhờ đó Ngân hàng có thể mở rộng kinh doanh và phát huy được vai trò của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG - THANH HOÁ 2.1. Khái quát về Ngân hàng - Công thương Thanh Hoá. Ngân hàng công thương Thanh Hoá được thành lập theo quyết định số 258/QĐ - NH5 ngày 21.9.1996 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở Ngân hàng Công thương đã được thành lập trước đây theo quyết định số 67/QĐ - NH5 ngày 27.3.1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam bao gồm có hội sở chính tại Thành PhốThanh Hoá và hai đơn vị phụ thuộc là Ngân hàng công thương Bỉm Sơn và Ngân hàng Công thương Sầm Sơn. Ngân hàng Công thương Thanh Hoá có số biên chế 295 cán bộ với mạng lưới hoạt động. - Hội sở chính gồm có 7 phòng ban trong đó phòng giao dịch và một khách sạn. - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bỉm Sơn bao gồm 4 phòng ban và 2 phòng giao dịch. - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Sầm Sơn bao gồm: 4 phòng ban và một phòng giao dịch. Thanh thoá là một tỉnh nằm trên trục giao thông chính Bắc Nam với dân số khoảng 3,5 triệu người sinh sống rộng khắp trên bốn vùng kinh tế lớn các tỉnh đó là đồng bằng vùng biển, miền núi và trung du và miền núi nên có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế như nguồn nhân lực dồi dào, số lao động phổ thông đông đảo đủ để phát triển nông lâm, ngư nghiệp. Nhưng nền kinh tế có xuât phát điểm thấp kém nhịp độ tăng trưởng còn chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước, khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu kinh tế lớn. Kinh tế quốc doanh với thiết bị công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm hàng hoá còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao, thiếu năng động, chưa xây dựng được nhiều dự án khả thi để đầu tư và gọi vốn nước ngoài. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm từ những điểm cơ bản này nó ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng nói chung trong đó có Ngân hàng Công thương. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã góp phần tích cực cho sự phát triển của kinh tế tỉnh nhà bằng việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các ngành các lĩnh vực để phát triển kinh tế tỉnh nhà một cách cân đối trong cơ cấu ngành. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương không ngừng tăng trưởng về vốn góp phần không nhỏ trong việc giải quyết tình trạng thiếu vốn tăng sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, góp phần vào quan trọng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 2.2. Tình hình huy đọng vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá. Trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại thì việc huy động vốn nó sử dụng vốn là hai hoạt động chủ yếu quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Để có một cái nhìn tương đối khái quát về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá ta sẽ nghiên cứu tình hình huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây. 2.2.1. Tình hình huy động vốn: Xác định được tầm quan trọng của công tác huy động vốn là khâu đầu tiên quyết định qui mô và cơ cấu hoạt động tín dụng Ngân hàng. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã luôn chú trọng đến công tác huy động vốn bằng cách sử dụng nhiều hình thức huy động vốn với lãi suất hợp lý đã khuyến khích người gửi tiền đến với Ngân hàng họ gửi bừng nhiều hình thức như TGTK không kỳ hạn, TGTK có kỳ hạn, kỳ phiếu có kỳ hạn... bằng nhiều biện pháp cải tiến nghiệp vụ, đổi mới phong cách Ngân hàng Công thương Thanh Hoá giao dịch đã từng bước lấy được lòng tin của người gửi tiền. Nhờ vậy mà những năm qua nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá luôn tăng trưởng cao và ổn định. Bảng 1: Thực trạng huy động vốn ở Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá phân tích theo tốc độ tăng trưởng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền %/2000 Số tiền %/2000 Số tiền %/2000 Tổng vốn huy động 515522 112 600178 116 615165 102 TGTCKT 57030 110 68363 120 80890 118 Tiền gửi dân cư 432119 109 450220 104 483670 107 Kp - tp 23669 102 41294 174 24506 60 Nguồn: Báo cáo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Qua số liệu bảng trên cho ta thấy tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá trong ba năm gần đây liên tục tăng trưởng ổn định với tốc độ cao. Trong số các nguồn vốn huy động nguồn tiền gửi các TCKT và TG dân cư liên tục tăng trong ba năm từ 2001 - 2003. Nguồn tiền gửi của TCKT tăng trưởng với mức độ bình quân từ 18% - 20% trên một năm. Còn nguồn tiền gửi của dân cư cũng tăng nhưng kém hơn nó tăng khoảng 4% - 7% trên một năm. Điều này chứng tỏ uy tín của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá ngày càng cao được nhiều người tín nhiệm và qua tốc độ tăng trưởng vốn của tiền gửi của TCKT tăng hàng năm vào khoảng 20% vào năm 2002 18%._. vào năm 2003. Chứng tỏ Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã tạo được lòng tin cho khách hàng và hoạt động dịch vụ của Ngân hàng phục vụ cho khách hàng ngày càng được nâng cao. Trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã nắm bắt được đặc điểm của tình, đa số người dân trong tỉnh là dân lao động nên lượng tiền nhàn rỗi trong dân tương đối lớn, triệt để khai thác nguồn vốn này là một chủ trương đúng đắn của Ngân hàng Công thương nhằm nâng cao chất lượng nguồn vốn huy động được trong hai năm gần đây nguồn tiền gửi dân cư liên tục tăng từ 4% 2002 tới 7% 2003. So với các năm trước với những chính đúng đắn nhất lãi suất, phát triển các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong những năm gần đây với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn cao. Huy động được phần lớn nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư vào sản xuất kinh doanh. 2.2.2. Tình hình sử dụng vốn. Nhờ nguồn vốn huy động dồi dài, Ngân hàng Công Thương - Thanh Hoá đã tiến hành đa dạng hoá các mặt nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ Ngân hàng như cho vay đầu tư, bảo lãnh,... trong đó chủ yếu là hoạt động cho vay. Hoạt động này nó tác động trực tiếp tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Vì thế Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá luôn đặt ra mục tiêu mở rộng cho vay đồng thì hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Trong những năm qua, với quyết tâm cao chi nhánh đã vận dụng kịp thời, linh hoạt các chủ trương chính sách của nhà nước, của ngành, bám sát với sự phát triển của nền kinh tế và có những giải pháp tích cực nên kết quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã đạt được những kết quả tốt cả về tốc độ tăng trưởng lẫn chất lượng của các khoản cho vay. Ngân hàng đã thực hiện cho vay với các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trong nhiều lĩnh vực của các nền kinh tế, trong đó tăng cường đầu tư cho khu vực kinh tế quốc, các ngành kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn có định hướng của Nhà nước nước như: Xi măng, mía đường, công nghiệp, dịch vụ giao thông vận tải ưu tiên cho các dự án lớn có tính khả thi cao. Cùng với hoạt động cho vay đơn thuần, Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá còn thực hiện một số tường trình cho vay ưu đãi đối với những hộ đói nghèo, cho vay sinh viên, và một số chương trình cho vay tạo việc làm.... các trường trình này đều thực hiện với lãi suất ưu đãi thông qua các chương trình này Ngân hàng đã tự nâng cao được uy tín của mình trong mọi tầng lớp nhân dân. Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn ở Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền %/2000 Số tiền %/2000 Số tiền %/2000 Tổng vốn huy động 515522 112 600178 116 615165 102 Sử dụng vốn 289615 127 386336 113 526208 136 Hệ số sử dụng vốn 56% 64% 86% Nguồn: Báo cáo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Theo số liệu bảng trên cho ta thấy tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá trong ba năm gần đây đều tăng với mức tăng trưởng cao. Năm sau cao hơn năm trước năm 2001 tốc độ tăng trưởng khoảng 27% thì các năm 2002 và 2003 đạt tới mức 33% và 36%. Qua bảng số liệu này cho chúng ta biết được sự tăng tưởng trong nền kinh tế của tỉnh đang được hâm nóng. Đây cũng là kết quả hoạt động tích cực của các hộ công nhân viên trong chi nhánh - Thanh Hoá cộng với những chính sách phù hợp trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã được những kết quả đáng khích lệ, góp phần vào phát triển nền kinh tế đang còn non trẻ của tỉnh nhà. Mặt khác quan hệ số sử dụng vốn qua ba năm hoạt động kinh doanh 2001, 2002, 2003 ta thấy được hệ số sử dụng vốn ngày càng tăng từ 56%, 64%, 86% qua hệ số này chứng tỏ việc huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá ngày càng có hiệu quả cao về số tương đối và số tuyệt đối. Riêng có năm 2003 hệ số sử dụng vốn đạt mức 86% đây là hệ số; tiền gửi Ngân hàng nào đạt được lượng vốn huy động được từ nền kinh tế đã được Ngân hàng sử dụng có hiệu quả cao trong nghiệp vụ tài trợ. Bảng 3: Thực trạng dư nợ tại Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá phân tích theo thời hạn tín dụng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Số tiền % %/2000 Số tiền % %/2001 Số tiền % %/2002 Dư nợ 289615 100 116 386336 100 133 526208 100 136 NH 238513 82 123 321942 83 135 440644 84 137 TDH 51102 18 116 64394 17 126 85564 16 133 Nguồn: Báo cáo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Theo bảng số liệu trên cho thấy tỉ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn luôn ở mức cao trong tổng dư nợ tín dụng, nó chiếm khoảng 80% có thể nói tín dụng ngắn hạn luôn là thế mạnh của các Ngân hàng Việt Nam vì phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần và kinh doanh nhỏ lẻ một nước đang phát triển như nước ta. Xét về tỷ lệ tăng trưởng các nguồn vốn trung dài hạn cũng như ngắn hạn liên tục trong ba năm với mức tăng trưởng cao mà đặc biệt là nguồn ngắn hạn riêng trong năm 2003. Tổng dư nợ của nguồn này tăng 37% so với năm trước đó tức là tăng 118702 triệu đồng, còn hai năm trước đó nguồn vốn tăng cũng cao nhưng kém hơn năm 2003 nó chỉ đạt ở mức 23% năm 2001, 35% năm 2002. Để đạt được mức tăng trưởng tín dụng ngắn hạn như trên Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã áp dụng sáng tạo, triển khai kịp thời các chủ trương chỉ đạo của ngành của chính phủ, với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp có thái độ giao dịch tốt với tinh thần trách nhiệm cao cùng với chuyên môn vững chắc do đó đã nâng cao được hoạt động tín dụng cho chi nhánh cũng như toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó Ngân hàng có quan hệ tất với khách hàng và áp dụng chính sách khách hàng một cách linh hoạt phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt quan tâm tới khách hàng truyền thống, những đơn vị có tình tình tài chính tốt, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra Ngân hàng còn đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút thêm nhiều khách hàng mới đến giao dịch. Còn về tín dụng TDH qua những năm qua cũng tăng đáng kể ở mức cao nhưng vẫn chậm hơn so với tín dụng Ngân hàng, nhưng riêng năm 2003 tín dụng TDH đã đạt mức 33% cao nhất so với những năm trước đây. Để đạt tốt mức đột tăng trưởng tín dụng như những năm qua ngoài nước nghiệp vụ chuyên môn kinh nghiệm trong kinh doanh chi nhánh còn đi sâu vào đầu tư một số dự án lớn như: Dự án nâng cấp dây chuyền sản xuất gạch của công ty cổ phần VLXD Bỉm Sơn. Công ty gồm Bỉm Sơn và đang giải ngân Dự án mở rộng 13 mạng cáp quang của Bưu điện tỉnh Thanh Hoá. Thẩm định xong dự án chế biến sữa của công ty cổ phần Đường Lam Sơn và đang thẩm định dự án Khách Sạn Sao Mai... đã có hoạch giải ngân vào năm 2004. Bên cạnh các dự án đầu tư trên chi nhánh còn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế trang trai, dự án chăm sóc và trồng 3.200 ha cà phê chè với tổng dự án là 42 tỷ đồng. Chi nhánh cũng đã quan tâm tới các dự án cho vay phát triển kinh tế biển nuôi trồng thuỷ, hải sản và chế biến từ đó tạo công ăn việc làm cho người dân và góp phần phát triển kinh tế của toàn tỉnh. Nhìn chung vốn tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã thực sự phát huy hiệu quả. Nhờ vay vốn Ngân hàng mà các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ hiện đại, thay thế dây chuyền sản xuất, thiết bị máy móc lạc hậu không phù hợp với quy mô sản xuất, từ đó làm tăng năng lực sản xuất tạo thế ổn định và phát triển trong kinh doanh cho các doanh nghiệp và để lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đây là kết quả đạt được đồng khích lệ đối với toàn bộ cán bộ công nhân viên của chi nhánh đã góp phần cho sự phát triển của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá của nền kinh tế tỉnh nhà. 2.2.3. Các hoạt động khác của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá. Ngoài hai hoạt động cơ bản trên là huy động và cho vay thì Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá còn thực hiện một số hoạt động như: - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ. - Do đặc điểm kinh tế của tỉnh chủ yếu là phát triển nông lâm nghiệp, thủ công nghiệp và chưa có những chính sách thu hút đầu tư bên ngoài. Do đó tên địa bàn chưa phát triển nhiều doanh nghiệp mua - bán và hợp tác kinh doanh với các đối tác bên ngoài. Vì vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá cũng bị hạn chế. Trong năm 2003 chi nhánh đã thực hiện công tác kinh doanh ngoại tệ đạt kết quả : Chi trả kiểu hồi : Với giá trị là 4.800 ngàng USD tăng 3733 ngàn USD. So với năm 2002. Bên cạnh đó nghiệp vụ mua - bán ngoại tệ cũng tăng đáng kể và đạt được bởi kinh doanh 377 triệu đồng. Doanh số mua vào mua vào đạt 23.336 nghìn USD tăng 12.990 ngàn USD so với năm trước. Còn bán ra đạt 23.007 ngàn USD tăng 12.366 ngàn USD so với năm 2002. Song song với nghiệp vụ này thì hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá cũng được chú trọng phát triển nhằm phục vụ nhu cầu về thanh toán cho mọi khách hàng trong tỉnh và quốc tế. L/C nhập khẩu đạt giá trị 5476 ngàn USD tăng 847 ngàn USD so với năm trước. L/C xuất khẩu đạt giá trị 582 ngàn USD tăng 423 ngàn USD so với năm trước. Trong hoạt động kinh doanh của mình Ngân hàng Công thương Thanh Hoá còn có một số hoạt động dịch vụ khác như: Dịch vụ thanh toán thẻ, séc du lịch, dịch vụ chuyển tiền nhanh và một số dịch vụ khác đã đạt được doanh số là 464 triệu đồng. - Hoạt động bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá chưa thực sự phát triển Ngân hàng mới chỉ tham gia bảo lãnh trong nước, như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Nhìn chung hoạt động này chưa được phát triển ở chi nhánh. Số dư bảo lãnh ở các năm 2001, 2002, 2003 lần lượt là 350, 172, 1068 (triệu đồng). Đây là những chỉ số khá khiêm tốn so với một số Ngân hàng khác khi thực hiện nghiệp vụ này. 2.3. Rủi ro cho vay tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá. 2.3.1. Thực trạng rủi ro cho vay. 2.3.1.1. Thực trạng nợ quá hạn những năm gần đây ở Ngân hàng Công thương Thanh Hoá. Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá những năm gần đây liên tục có những biến độ theo chiều hướng sâu. Bảng 4: Thực trạng nợ quá hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1. NQH 4084 12178 7843 2. Tổng dư nợ 289615 386336 526208 3. Tỷ trọng (1/2) 1,41% 3,15% 1,49% Nguồn: Báo cáo tình hình huy động vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá có những chuyển biến sâu tình hình nợ quá hạn đột nhiên tăng 8094 triệu đồng của năm 2002 so 2001 đây là chỉ số chứng tỏ năm hoạt động kinh doanh của ngân hàng là không tốt. Mặt tỷ trọng giữa NQH/Tổng dư nợ của năm 2002 tăng 1,74%. So với năm 2001. Nói tóm lại tình hình xử lý nợ và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá ở năm 2002 gặp khó khăn và không hiệu quả Qua một năm 2002 hoạt động kinh doanh và xử lý nợ quá hạn không hiệu quả tới năm 2003 Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã có những điều chỉnh nề quy chế pháp lý và một số điều chỉnh khác. Do đó năm 2003 đã đạt được một số kết quả trong kinh doanh và xử lý nợ quá hạn kìm hãm sự gia tăng của nợ quá hạn. So với năm 2002 tỉ trọng nợ quá hạn giảm 1,66%. Đây là tỷ lệ đáng khích lệ trong công tác xử lý nợ và kìm hãm sự gia tăng lúc nợ quá hạn. So với năm 2002 thì năm 2003 số nợ quá hạn đã giảm 4335 triệu đồng. Tuy năm 2003 đã đạt được một số hiệu quả trong việc xử lý nợ quá hạn và kìm hãm sự gia tăng của nó. Nhưng tỷ lệ NQH vẫn còn cao hơn so với năm 2001 là 0,08% và về số tuyệt đối là 3759 (triệu đồng). Đây là một điều đáng lo ngại trong công tác xử lý NQH của chi nhánh vì vậy trong công tác quản trị kinh doanh của mình Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá phải luôn quan tâm tới công tác xử lý NQH sao cho có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và hạn chế rủi ro trong kinh doanh của chi nhánh. Bảng 5: Thực trạng NQH tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá phân tích theo thời hạn tín dụng. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu NQH phân theo thời hạn tín dụng Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng NQH 4084 100 12178 100 7843 100 Ngân hàng 1325 32 9529 78 78 36 TDH 2759 68 2649 22 22 64 Nguồn: Báo cáo tình hình huy động vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá liên tục biến động qua các năm. Nợ qua hạn ngắn hạn năm 2001 chiếm 32% tổng NQH thì tới năm 2002 tăng đột biết chiếm tới 78% tổng NQH tăng 8204 (triệu đồng). So với năm trước, tương đương với tỷ lệ đó thì tình hình nợ quá hạn của những khoản cho vay trung hài hạn đã được xử lý tốt do đó tỷ lệ nợ quá hạn của TDH giảm mạnh từ 68% còn 22% giảm 46% tức là 110 (triệu đồng). Tiếp sau đó tình hình xử lý NQH của năm 2003, lại là năm không thành công với những khoản nợ TD hạn do đó NQH TD hạn tăng một cách chóng mặt từ 22% lên tới 64% tăng 42% tức là tăng khoảng 2384 (triệu đồng). Đây là điều lao động cho những khoản vay TDH cần phải có những điều chỉnh trong hoạt động kinh doanh khi cho vay TDH, để không có thêm những món vay sau: Bên cạnh đó thì trong năm 2003 tình hình xử lý NQH ngắn hạn đã đạt được một số kết quả khó quan trọng việc xử lý NQH và kìm hãm gia tăng NQH ngắn hạn do đó trong năm 2003 tỷ lệ NQH ngắn hạn của Ngân hàng Công thương -Thanh Hoá giảm còn 36%, giảm 42% tức là 6719 (triệu đồng) so với năm 2003. Qua phân tích bản số liệu trên ta thấy tình hình xử lý nợ quá hạn và việc kìm hãm những khoản nợ mới chuyển sang NQH của NHCT - Thanh Hoá chưa được tốt. Cả trong khâu xử lý và trong hoạt động kinh doanh vẫn còn để cho tình trạng NQH phát sinh nhưng được năm 2003 tình trạng này đã được Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá chú trọng xem xét nên các khoản NQH có phầm giảm nhẹ so với năm trước đó. Đây là kết quả mà Ngân hàng cần phát huy hơn nữa trong hoạt động kinh doanh cũng như trong công tác xử lý NQH của những năm tiếp theo. Bảng 6: Thực trạng nợ quá hạn tại Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá phân tích theo khả năng thu hồi Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Tổng dư nợ QH 4084 100 12178 100 7843 100 2. NQH dưới 6 tháng 1058 25 8327 68 462 6 3. NQH từ 6 - 12 tháng 269 7 1202 10 2349 30 4. NQH trên 12 tháng 2759 58 2649 22 5033 64 Nguồn: Báo cáo tình hình huy động vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá Qua bảng số liệu này ta thấy tình hình nợ quá hạn trên 125 (nợ khó đòi) của NHCT - TH chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nợ quá hạn trong hai năm 2001, 2003 tỷ lệ này chiếm 68% và 67%, tổng NQH của ngân hàng. Riêng có năm 2002 tỷ lệ nó khó đòi có giảm so với hai năm tỷ lệ này là 22%. Tuy năm 2002 NHCT - TH đã giảm được đáng kể tỷ lệ nợ khó đòi so với năm 2001 là 46%. Nhưng do quá trình quản lý nợ và xử lý nợ trong quá trình kinh doanh năm 2003 tỷ lệ này lại tăng 42% so với năm 2002 tức là tăng 2384 (triệu đồng). Đây là điều cảnh báo cho công tác xử lý nợ và quản lý các món vay của chi nhánh cần phải có những biện pháp phi hợp với điều kiện, môi trường nhằm hạn chế bớt tỷ lệ nợ khó đòi trong các năm kế tiếp. 2.3.1.2. Tình hình nợ quá hạn phát sinh của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá trong năm 2003 Tính đến 31/12/2003 nợ quá hạn của chi nhánh là 10.169 triệu giảm 7.339 triệu đồng so với năm 2002 là (17.508 triệu đồng). Trong năm 2003 chi nhánh đã xử lý tài sản thu hồi nợ tồn đọng được 2430 triệu đồng đạt 123% kế hoạch Ngân hàng Công thương Việt Nam giao (chỉ tiêu Ngân hàng Công thương Việt Nam) giao 2.000 tỷ đồng) góp phần giảm tỷ lệ nợ sấu của chi nhánh xuống còn 1,49% so với 1,15% năm 2002. Ngoài việc xử lý thu hồi nợ tồn đọng nội bảng, chi nhánh còn tổ chức tốt và thực hiện xử lý thu hồi nợ đã được xử lý bằng nguồn rủi ro đong hoạch toàn ngoại bảng tăng thu nhập cho cả chi nhánh là 1.662 triệu đồng. Bên cạnh đó Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá còn thực hiện Quyết định H9 của chính phủ về xử lý nợ tồn đọng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính liên bộ... chi nhánh đã xác định công tác trọng tâm xuyên suốt trong năm KH là tập trung xử lý nợ sấu theo đề án xử lý nợ của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trong năm 2003 chi nhánh được chính phủ chấp thuận xử lý cho 247 khách hàng với tổng số tiền là 9698 triệu đồng. Nợ tồn đọng nhóm II là các khoản nợ quá hạn phát sinh do nguyên nhân khách quan như thiên tai, thay đổi cơ chế, rủi ro bất khả không phát sinh trước năm 1996 đã được bên nợ kiểm tra, xác nhận đưa vào diện khoanh nợ, gián nợ. Ngoài ra chi nhánh còn quan tâm tới công tác xét duyệt xử lý các khoản nợ tồn đọng bằng nguồn dự phòng rủi ro và xét duyệt miễn giảm lãi vay đối với khách hàng vay vốn Ngân hàng công thương theo quy chế ban hành. Trong năm chi nhánh đã xét duyệt cho 227 khách hàng đã xử lý hơn hết tài sản hiện không cư trú tại địa phương và có tài sản đảm bảo nhưng tài sản ở vị trí khó bán và chưa thể bán ngay được số tiền 5976 triệu đồng bằng quỹ dự phòng, xét duyệt giảm miễn bãi cho 74 khách hàng với tổng số tiền là 4672 triệu đồng. 2.3.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro cho vay tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá 2.3.2.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng 2.3.2.1.1. Do kinh doanh thua lỗ, phá sản hàng hoá chậm tiêu thụ Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nợ quá hạn hiện nay tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá. Nguyên nhân này bát nguồn từ việc khách hàng chọn phương án kinh doanh những mặt hàng ít có nhu cầu của thị trường, không có sức cạnh tranh. Hơn nữa trong quá trình điều chỉnh sản xuất kinh doanh tỏ ra yếu kém về năng lực quản lý, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu dẫn tới năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, không đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nhập ngoại và phong phú về mẫu mã chủng loại chất lượng tốt, giá cả hợp lý, do vậy hàng hoá khó tiêu thụ và thu lỗ là điều tất yếu không có tiền trả nợ nguồn hàng. 2.3.2.1.2. Do công nợ chưa thu được Nợ quá hạn do nguyên nhân này cũng khá lớn trong tổng số nợ qúa hạn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá. Đây chính là hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau để kinh doanh, do đó gây khó khăn cho một số khách hàng vay vốn ngân hàng, họ phải chịu lãi và trả chậm cho ngan hàng. 2.3.2.1.3. Do sử dụng sai mục đích Nợ quá hạn bắt nguồn từ nguyên nhân này chủ yếu là từ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong thực tế, việc ngân hàng quản lý vốn vay của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh khó hơn nhiều so với kinh tế quốc doanh bởi vì mua bán kinh doanh của khu vực này đặc biệt là các cá nhân kinh doanh thường không có chứng từ sổ sách ghi chép đầy đủ theo chế độ kế toán. Nhận thức được điều này và do ham lợi họ đã không đầu tư vào phương án kinh doanh đã trình ngân hàng mà đầu tư vào những lĩnh vực khác có khả năng thu lợi nhuận cao nhưng mức độ rủi ro rất lớn, do đó khi thua lỗ không có khả năng trả nợ ngân hàng. 2.3.2.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 2.3.2.2.1.Cán bộ tín dụng thiếu trình độ Đây là một trong những yếu tố mà các ngân hàng đáng quan tâm nhất trong quá trình hoạt động của mình. Vì trình độ của các cán bộ tín dụng nó quyết định tới tính khả quan hay không của khoản cho vay, về các phườn diện như: thẩm định dự án, thu thập thông tin từ khách hàng đánh giá các báo cáo tài chính của khách hàng.... Vì vậy cán bộ tín dụng cần phải có trình độ bao quát để có những nhân phán quyết đúng về các khoản vay. 2.3.2.2.2. Ngân hàng và tin tưởng vào tài sản thế chấp Theo nguyên tắc cho vay là phải có tài sản thế chấp song cán bộ tín dụng cũng không nên quá cứng nhắc trong điều kiện này. Có đơn vị kinh doanh tốt thì có thể không cần tài sản thế chấp, và ngược lại có những khách hàng vay có tài sản thế chấp lớn vẫn làm ăn thu lỗ dẫn tới ngân hàng phải phát mọi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Nhưng việc bán tài sản thế chấp để thu hồi với vốn đọng còn là bài toán khó cho các ngân hàng phát sinh. Mặt khác việc định giá các tài sản thế chấp nó cũng là một trong các yếu tố quyết định tới các khoản cho vay và thu hồi vốn sau khi cho vay. 2.3.2.3. Nguyên nhân do môi trường cho vay 2.3.2.3.1. Môi trường kinh tế, không ổn định Do các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Do vậy các doanh nghiệp phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh khong theo kịp với sự thay đổi của cơ chế, chính sách. Từ đó dẫn tới thu lỗ trong kinh doanh hoặc không đủ điều kiện về vốn để tiếp tục đổi mới và kinh doanh tiếp. Bên cạnh đó hầu hết các doanh nghiệp đều nghèo vốn nàn về vốn về khả năng quản lý yếu kém, tầm say nghĩ, cung cách làm ăn còn mang nặng tư tưởng thời bao cấp. Chưa đổi mới chưa theo kịp với sự phát triển của thị trường non buôn lậu, hàng giá chưa được ngăn chặn triệt để đây là yếu tố gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất trong nước. 2.3.2.3.2. Môi trường pháp lý không thuận lợi Hệ thống pháp luật được hạn hành không đòng bộ và chưa phù hợp với yêu cầu thực tế của nền kinh tế thị trường. Mặc dù trong những năm gần đây hệ thống pháp luật của nước ta đã có những chuyển biến tích cực nhưng vãn chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. + Việc ban hành các văn bản tín dụng còn bị chồng chéo, trùng lặp nên hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản gặp nhiều khó khăn. + Bên cạnh cạnh đó một số chính sách văn bản tín dụng được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự phát triển, nhưng điều kiện thực tế còn bất cập nên việc thực hiện các văn bản này cũng gặp không ít khó khăn. Về quy định vốn cho vay của ngân hàng chỉ là phần vốn bổ sung thêm, còn doanh nghiệp phải có một tỷ lệ vốn tự có để tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thực tế vốn của doanh nghiệp thường rất ít ỏi, phần lớn vốn hoạt động là vốn vay nguồn hàng hoặc đi chiếm dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Có trường hợp, ngân hàng cho vay gấp nhiều lần vốn tự có của doanh nghiệp nên khả năng rủi ro rất cao khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh. Về độ hạch toán, kế toán: Việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê chưa nghiêm túc. Doanh nghiệp chưa phải thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc nên nhiều trường hợp số liệu quyết toán không phản ánh chính xác tình hình sản xuất kinh doanh tài chính của doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân thì hầu hết không ghi chép hoặc ghi chép theo kiểu số nợ không theo quy định của nhà nước để trốn thuế gây ảnh hưởng không tốt tới kết quả thẩm định và quyết định đầu tư vốn của Ngân hàng. Việc thực hiện pháp luật của các chủ thể kinh doanh không nghiêm cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật kém hiệu lực. Tính trong phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp vi phạm pháp luật ở các mức độ khác nhau. Đặc biệt là các pháp lệnh về kinh tế không được coi trọng, việc ký và thực hiện các hợp đồng kinh tế không nghiêm túc, có trường hợp ký hợp đồng giả để lừa đảo vay vốn Ngân hàng pháp lệnh về kế toán không được thực hiện một cách nghiêm túc. Thực tế đó đòi hohỉ có chế vận hành pháp luật phải thực hiện đồng bộ và thống nhất từ việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thời gian qua nhà nước rất chú trọng ban hành các bộ luật nhưng việc thực hiện giám sát chưa đi vào cuộc sống vì chưa có một bộ máy đủ năng lực chuyên môn đi thực hiện, thậm chí còn nhiều cán bộ thi hành pháp luật có biểu hiện thoái hoá; bền chặt gây chậm trễ rắc rối trong quá trình thực hiện làm mất lòng tin của nhân dân. 2.3.3. Một số biện pháp Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã và đang thực hiện nhằm hạn chế rủi ro cho vay tại Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá. 2.3.3.1. Điều chỉnh phương hướng đầu tư hợp lý. Trước tình hình kinh doanh của những năm gần đây Ngân hàng Công thương Thanh Hoá cần phải thay đổi một số yếu tố trong các hoạt động kinh doanh của mình mà đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng. Trong nghiệp vụ này qua kết quả hoạt động của những năm trước đây thì để giảm thiểu lượng NQH và tình hình lãi theo Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu tư tín dung, tập trung đầu tư cho những DNNN có khả năng tài chính tốt, thu hép cho vay với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Ngân hàng đã tích cực đầu tư vào những ngành nghề nằm trong phát triển kinh tế những ngành mũi nhọn. Ngân hàng đã lựa chọn các dự án đầu tư có hiệu quả cao không đầu tư tràn lan chạy theo doanh số vì vậy nợ quá hạn và lãi treo trong năm vừa qua đã giảm. 2.3.3.2. Tạo điều kiện giúp đỡ khách hàng, từ vốn cho khách hàng trong hoạt động kinh doanh. Bất kỳ một khoản vay nào phát sinh đều chịu sự giám sát của ngân hàng đến doanh nghiệp sử dụng khoản vay đó. Không chỉ có xem doanh nghiệp đó có sử dụng vốn có dùng mục đích hay không mà còn xem xét hiệu quả của món vay đó. Trong quá trình hoạt động nếu mà doanh nghiệp gặp khó khăn như trong việc xâm nhập thị trường chuyển giao công nghệ... hay bế tắc về các vấn đề về pháp lý hành chính, ngân hàng luôn ở bên cạnh để từ vốn giúp doanh nghiệp thão gỡ vướng mắc để tiếp tục sản xuất - kinh doanh có hiệu quả. Đâylà một trong nước quan điểm trọng yếu trong kinh doanh của ngân hàng đối với việc chăm sóc khách hàng sau cấp tín dụng. 2.3.3.3. Vận dụng triệt để và linh hoạt các quy định về bảo đảm mtín dụng. Các quy định về cho vay luôn được Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá thực hiện tuân theo nguyên tắc đã ban hành của Ngân hàng Trung ương. Tuy nhiên không vì thế mà áp dụng một cách mà các nguyên tắc này vào thực tế. Mà Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã biết vận dụng các nguyên tắc một cách linh hoạt và có hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của mình đói với từng đối tượng khách hàng để nâng cao được mức độ bảo đảm an toàn cho nguồn tín dụng. 2.3.3.4. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Trong lĩnh vực hoạt động tín dụng rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi, Ngân hàng đã đặt ra vốn để là vốn có một quỹ dự phòng để đảm bảo an toàn dự phòng ngừa rủi ro tránh cho Ngâ hàng khỏi rơi vào tình thế khó khăn khi rủi ro xảy ra. Từ các năm hoạt động kinh doanh trước mỗi năm chi nhánh trích từ lợi nhuận sau thuế một tỷ lệ phần trăm phù hợp với nhu cầu thanh toán của chi nhánh của mỗi năm. Hình thức trích lập quỹ là một hình thức tự bảo hiểm cho chi nhánh, đó là một việc làm thiết thực trong điều kiện hiện nay để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh nên được chi nhánh thực hiện tốt. 2.3.3.5. Chú trọng công tác đánh giá lựa chọn khách hàng và xử lý thông tin về khách hàng. Ngân hàng không chỉ chú trọng tới phương hướng đầu tư tíndụng đã lựa chọn mà trong từng phương hướng, ngành nghề đó ngân hàng còn chú trọng đến công tác chọn lựa khách hàng. Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã chú trọng tới đối tượng cho vay, kiên quyết không cho vay đối với nước khách hàng không đủ điều kiện về tư cách đạo đức, về tình hình tài chính, về tài sản thế chấp, về phương án kinh doanh. Chính nhờ một số biện pháp về khách hàng Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã giảm đáng kể tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2003. Bên cạnh đó chi nhánh cũng đã quan tâm tới những thông tin về khách hàng nhiều hơn. Để biết rõ hơn về khách hàng mà Ngân hàng quyết định cho vay nhằm hạn chế tối rủi ro xảy ra đối với chi nhánh. Tóm lại: Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn hoạt động kinh doanh có hiệu quả điều này được thể hiện qua tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của chi nhánh. Tuy nhiên trong hoạt động kinh doanh, nhất là kinh doanh tín dụng rủi ro là điều khó tránh khỏi. Phân tích tình hình rủi ro ở chi nhánh thể hiện qua tình hình nợ quá hạn ta thấy được mức độ rủi ro cho vay ở chi nhánh trong năm 2003 được hạn chế ở mức tối thiểu chỉ còn 1,49%. Có những nguyên dẫn tới rủi ro ở chi nhánh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá như từ phía khách hàng, từ phía Ngân hàng và những nguyên nhân từ môi trường kinh doanh. Chi nhánh đã đề ra nhiều biện pháp khắcphục những hạn chế nhằm làm tốt hơn nữa công tác tín dụng như các biện pháp tăng cường thông tin, lựa chọn khách hàng... ngoài ra chi nhánh còn lập quỹ dự phòng rủi ro tới hoạt động của ngân hàng. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO CHO VAY TỚI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG - THANH HOÁ 3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá. Với khẩu hiểu hành động của chi nhánh Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã đề ra là "Đối với phong cách giao dịch và điều hành, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh" từ khẩu hiệu này kết hợp với kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2003 chi nhánh dựng mục tiêu kinh doanh năm 2004 với các nội dung. + Tiếp tục phát triển nguồn vốn huy động VNĐ từ các tổ chức kinh tế và dân cư để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tín dụng và đầu tư. + Mở rộng đầu tư tín dụng có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế. + Mở rộng địa bàn hoạt động, giảm thấp mức nợ quá hạn gắn hiệu quả kinh doanh với an toàn vốn tín dụng, an toàn tài sản. thể là: Xuất phát từ những tư tưởng trên chi nhánh đã đề ra một số chỉ tiêu cụ + Nguồn vốn huy động tăng trưởng 20%. So với năm 2003. + Dư nợ cho vay và đầu tư khác tăng trưởng 18%. So với 2003. + Thu hồ nợ đọng nội 1.500 triệu đồng + Thu dịch vụ Ngân hàng tăng 20% + Lợi nhuận và thu dịch vụ trong kinh doanh Ngoại tệ tăng 30%. So với năm 2003. + Lợp nhuận và trích lập quỹ dự phòng rủi ro thực hiện theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam, mục tiêu của chi nhánh là 20 tỷ đồng. 3.2. Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho vay tại Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá. 3.2.1. Công tác tổ chức đào tạo cán bộ việc đào tạo cán bộ tín dụng: có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp và có tinh thần trách nhiệm tốt đối với công việc là một trong những mục tiêu hàng đầu của chi nhánh để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã có những biện pháp đào tạo cán bộ như cứ cán bộ tham gia các chương trình tập huấn hội thảo do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức hay những buổi học tập nghiệp vụ tại chỗ do trung tâm đào tạo Ngân hàng Công thương Việt Nam giảng dạy. Đây là những dấu hiệu đáng mừng chứng tỏ ý thức của ban lãnh đạo trong công tác đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của chi nhánh. Hiện nay tại Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá, các c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH457.doc
Tài liệu liên quan