Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB)

LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động tín dụng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất (từ 60 - 70%) trong danh mục tài sản có và ảnh hưởng quan trọng đến thu nhập của ngân hàng. Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp - những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Rủi ro tín dụng được đánh giá như một mắt xích trong hoạt

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động ngân hàng, muốn tồn tại và phát triển được buộc các ngân hàng phải thay đổi tư duy và phương pháp quản lý, trong đó quản trị và hạn chế rủi ro tín dụng được coi là một trong những nội dung quan trọng nhất. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng đang phải đối đầu với những quy định gắt gao của cơ quan quản lý Nhà nước về đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng. Vì vậy dù là khách quan hay chủ quan thì hạn chế rủi ro tín dụng đang là yêu cầu được đặt lên hàng đầu trong quản trị ngân hàng. Không nằm ngoài quy luật đó, Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam (NHTMCPQT VN) hay còn được gọi là VIBank đang phải tìm mọi cách hạn chế rủi ro của các hoạt động cho vay. Qua thời gian thực tập tại Phòng Tín Dụng, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên nên em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình là : “Giải pháp phòng ngừa và Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam - VIBank”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI - Hệ thống lại những vấn đề có tính lý luận về rủi ro tín dụng để khẳng định rủi ro tín dụng là một tất yếu song có thể phòng ngừa và hạn chế được để đảm bảo an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng. - Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại VIBank, từ đó rút ra các vấn đề còn tồn tại. - Đưa ra một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại VIBank 3. PHạM VI Và ĐốI TƯợNG NGHIÊN CứU - Đối tượng nghiên cứu của khoá luận: + Những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng NHTM. + Thực trạng rủi ro tín dụng tại VIBank + Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại VIBank - Phạm vi nghiên cứu: Rủi ro tín dụng tại VIBank 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khóa luận sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic kết hợp với phương pháp duy vật lịch sử. Sử dụng số liệu thực tế để luận chứng thông qua các phương pháp so sánh, thống kê, đồ thị... 5. KẾT CẤU CỦA KHOÁ LUẬN Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Các vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại VIBank Chương 3: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại VIBank CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất rủi ro tín dụng: Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như là: “Rủi ro là sự không chắc chắn mang tính khách quan về khả năng xẩy ra một sự kiện không mong muốn”. Như vậy, dù con người có nhận biết được rủi ro hay không thì nó vẫn tồn tại. Hay một khái niệm khác là: “Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất”. ở Việt Nam trong từ điển kinh tế học hiện đại, rủi ro được định nghĩa: “Rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự kiện xẩy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện đó có một phân phối xác suất”. Khái niệm về rủi ro tín dụng: Theo Timothy W-Koch: Khi một ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lời, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thoả thuận. Rủi ro tín dụng có sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hoặc thanh toán trễ hạn (Bank management, University of South Carolina, The Dryden Press, 1995, pay 107). Rủi ro tín dụng là thiệt hại kinh tế của ngân hàng do một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng không hoàn trả được nợ vay cho ngân hàng. Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng như sau: - Rủi ro tín dụng khi người đi vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hẹn (delayed paymet) hoặc không thanh toán (non-payment). - Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức làm giảm thu nhập ròng. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản. RỦI RO TÍN DỤNG Không thu được vốn đúng hạn Không thu đủ vốn cho vay Không thu đủ lãi Không thu được lãi đúng hạn Phát sinh nợ quá hạn Phát sinh nợ khó đòi Phát sinh lãi treo đóng băng Phát sinh lãi treo Những biểu hiện của rủi ro tín dụng được thể hiện ở mô hình sau: Khả năng thanh toán giảm, Hiệu quả kinh doanh giảm, Thất thoát vốn, Phá sản. 2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng: - Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Đặc điểm này xuất phát từ trong quan hệ tín dụng, có sự chuyển giao vốn giữa ngân hàng và khách hàng và có sự tách rời giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, nếu khách hàng mà làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn không hiệu quả, năng lực tài chính khách hàng kém... sẽ gây rủi ro cho khách hàng và dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. - Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: Do mỗi quan hệ tín dụng có những đặc điểm riêng, do đó rủi ro trong mỗi trường hợp cụ thể cũng khác nhau. - Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh ngân hàng: Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động tín dụng luôn đi liền với rủi ro. Khi một khoản tín dụng được thiết lập thì đồng thời với nó là một mức rủi ro tiềm ẩn. Vì không có sự cân xứng thông tin giữa ngân hàng và khách hàng: Ngân hàng thì muốn tìm hiểu toàn bộ thông tin về khách hàng một cách chính xác, còn khách hàng luôn muốn làm đẹp các thông tin trước khi cung cấp cho ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh của khách hàng còn bị tác động bởi nhiều yếu tố khách quan như kinh tế - xã hội, pháp luật... và các yếu tố chủ quan như năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo... Vì vậy khoản tín dụng đó luôn tiềm ẩn rủi ro. 3. Tác động của RRTD 3.1. Tác động rủi ro tín dụng đối với ngân hàng: - Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng: Đối với mỗi ngân hàng, uy tín giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Với hoạt động cơ bản là huy động vốn, các ngân hàng luôn mong muốn tạo dựng uy tín để huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân. Trong trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng sẽ tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dẫn đến khả năng không thu hồi được gốc và lãi, lợi nhuận giảm, nợ xấu tăng lên. Đây là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút uy tín của ngân hàng - Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng: Ngân hàng luôn luôn phải duy trì khả năng thanh toán của mình trong mọi trường hợp. Bất cứ khi nào người gửi tiền đến rút khoản tiền mà họ gửi tại ngân hàng thì ngân hàng đều phải chi trả đầy đủ cả gốc và lãi. Với vai trò là trung gian huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động được khi xảy ra rủi ro tín dụng. Khi đó, ngân hàng bị tổn thất về nguồn vốn nhưng vẫn phải thanh toán đầy đủ cho các khoản nợ và khoản vay của ngân hàng. - Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Với mỗi ngân hàng, lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ rất lớn, từ 40-80% tổng lợi nhuận. Rủi ro tín dụng làm cho ngân hàng mất một phần lợi nhuận do không thu được lãi cho vay, đồng thời, ngân hàng phải bù đắp phần gốc vay không thu hồi được từ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Điều này làm cho lợi nhuận của ngân hàng còn lại càng bị thấp. - Rủi ro tín dụng có thể dẫn tới phá sản ngân hàng: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm uy tín, giảm khả năng thanh toán, giảm lợi nhuận và hậu quả xấu nhất là dẫn đến phá sản ngân hàng. Đó là khi mà tổn thất tín dụng xảy ra với quy mô lớn mà ngân hàng không thể chống đỡ được 3.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế: Ngân hàng - tài chính là lĩnh vực có ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và cá nhân, hộ gia đình... Khi nền kinh tế càng phát triển thì ngân hàng càng giữ vai trò quan trọng. Rủi ro tín dụng gây ra những hậu quả xấu cho chính ngân hàng như: giảm khả năng thanh toán, giảm uy tín, giảm lợi nhuận, đồng thời cũng gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế. Sự sụp đổ của các ngân hàng sẽ kéo theo sự xáo trộn rất lớn đối với kinh tế, xã hội. Người gửi tiền bị mất vốn, có thể bị khánh kiệt; các doanh nghiệp không có vốn để tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được... Như vậy hậu quả tất yếu là dẫn đến suy thoái kinh tế. Rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế của một nước mà ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế khu vực và thế giới. Bởi vì hiện nay, quan hệ tín dụng không chỉ hạn chế trong phạm vi một nước mà còn tồn tại quan hệ tín dụng toàn cầu, cho vay giữa các quốc gia với nhau. Do đó khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể tác động đến nền kinh tế. 4. Nguyên nhân rủi ro tín dụng 4.1. Nguyên nhân khách quan Môi trường kinh tế không ổn định: - Kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào nông nghiệp, các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp vốn chịu sự chi phối lớn của yếu tố thời tiết và giá cả thị trường thế giới. Giá nguyên liệu đầu vào,giá xăng dầu tăng…ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh mặt hàng phải nhập khẩu, trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu cũng chịu các tác động do sự biến động bất lợi của tỷ giá, sự khống chế hạn ngạch của nước nhập khẩu, các vụ kiện bán phá giá, các tiêu chuẩn chất lượng ngày càng khắt khe… Khi các doanh nghiệp Việt Nam - đối tác chủ yếu của các ngân hàng gặp rủi ro trong kinh doanh sẽ kéo theo rủi ro thanh toán, trả nợ cho chính ngân hàng. Bất cập do môi trường pháp lý: chưa có cơ chế cho phép các ngân hàng thực hiện việc thu hồi và thanh lý nhanh chóng thuận lợi tài sản đảm bảo của các tổ chức cá nhân khi vỡ nợ ngân hàng. Các văn bản pháp luật có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.  Từ phía khách hàng: rủi ro đạo đức xuất phát từ phía người vay chia làm 2 loại: không thực hiện nghĩa vụ và không có khả năng thực hiện nghĩa vụ như cam kết. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên lại có tính chất nguy hiểm mà ngân hàng sẽ khó dự báo hơn. Nhóm thứ hai trên thực tế cũng xảy ra khá nhiều nhưng ngân hàng có thể xét gia hạn trả nợ nếu cảm đánh giá thấy khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng. 4.2. Nguyên nhân chủ quan Rủi ro từ phía ngân hàng: - Từ phía nhà quản lý: Sự thành công của một ngân hàng phải kể đến trước hết là vai trò của nhà lãnh đạo. Công tác đánh giá trình độ đạo đức, bố trí sử dụng cán bộ không tốt có thể gây ra những rủi ro kinh doanh cho ngân hàng. Hiện nay trước sự phát triển mạnh của các ngân hàng cổ phần, việc cạnh tranh nguồn lực đang xảy ra rất gay gắt, nên vai trò của nhà quản lý càng cần fải được thấy rõ và đề cao. Hơn nữa ở một số ngân hàng thẩm quyền phán quyết khoản tín dụng lớn tập trung vào giám đốc hay một số người cũng hàm chứa rủi ro lớn nếu như người có quyền phán quyết thiếu năng lực đánh giá hoặc cố ý làm trái đạo đức vì mục đích cá nhân… - Từ phía các cán bộ tín dụng: Cần nhấn mạnh rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khó tránh khỏi hoàn toàn xong có thể hạn chế nếu các cán bộ tín dụng tuân thủ đúng quy trình từ xét duyệt, cho vay kiểm tra,giám sát sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ… Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. 5. Các chỉ tiêu đánh giá và nhận biết rủi ro tín dụng 5.1. Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân hàng. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ta dùng chỉ tiêu “tỷ lệ nợ quá hạn”. Tổng nợ quá hạn Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Nợ quá hạn bao gồm nợ nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng cao. Việc nợ quá hạn tăng chứng tỏ dư nợ khách hàng đang gặp khó khăn trong việc trả nợ cao, do đó xác suất sau này khách hàng trả nợ cho ngân hàng là thấp. Mặt khác, ngân hàng còn phải tăng chi phí trong việc giám sát, đôn đốc thu nợ và các chi phí khác có liên quan khác có thể có như chi phí liên quan đến toà án, tài sản đảm bảo, đặc biệt là chi phí cơ hội của việc thay vì cấp tín dụng cho một khách hàng có khả năng thanh toán tốt hơn. 5.2. Tỷ lệ nợ xấuDư nợ xấu Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ xấu = x 100% Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7. Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Nếu tỷ lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì đây là những khách hàng có dấu hiệu khó khăn về tài chính nên khó trả nợ cho ngân hàng. Dư nợ có khả năng mất vốn 5.3. Tỷ lệ mất vốn Tổng dư nợ Tỷ lệ mất vốn = x 100% Theo Quyết định 493/QĐ-NHNN: Nợ có khả năng mất vốn chính là các khoản nợ thuộc nhóm 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7. Tỷ lệ này càng cao thì thiệt hại cho ngân hàng càng lớn vì nó phản ánh những khoản tín dụng mà ngân hàng có khả năng bị mất vốn và phải dùng quỹ dự phòng để bù đắp. 5.4. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức: R = max { 0, ( A-C ) } x r Trong đó: R: Là số tiền dự phòng cụ thể phải trích. A: Là giá trị của khoản nợ. C: Là giá trị của tài sản đảm bảo. r: Là tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể. Tỷ lệ trích lập dự phòng chung: Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 và Điều 7 quy định này. Hai tỷ lệ này càng cao thì chứng tỏ rủi ro tín dụng càng cao vì dự phòng trích lập nhiều sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận, thậm chí là gây thua lỗ cho ngân hàng. 5.5. Mức độ tập trung tín dụng Mức độ tập trung tín dụng là tỷ trọng đầu tư vốn tín dụng phân theo đối tượng khách hàng, từng nhóm khách hàng, từng ngành, từng thời hạn, từng loại tiền và từng khu vực địa lý. Mức độ tập trung tín dụng cụ thể đối với từng chỉ tiêu là bao nhiêu thì tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng, vào chiến lược và mục tiêu của từng ngân hàng trong từng thời kỳ. 6. Các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng Hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế chứa đựng nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem là một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của NHTM. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi bởi vì ngân hàng không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên nhân từ phía bản thân ngân hàng mình, mà còn gánh chịu rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tai biến bất ngờ to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lan truyền của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế. Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày càng lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng để đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM. Dưới đây là một số biện pháp: 6.1. Nhóm biện pháp truyền thống a) Thực hiện việc phân loại, đánh giá khách hàng và khoản vay Để hạn chế rủi ro tín dụng, việc đánh giá và phân loại khách hàng là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đánh giá, phân loại khách hàng, ngân hàng sẽ có chính sách tín dụng cụ thể áp dụng cho từng đối tượng khách hàng. Do hoạt động kinh doanh của khách hàng luôn biến động, vì vậy việc thu thập thông tin, đánh giá khách hàng phải thường xuyên để có chính sách linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể, tránh cứng nhắc, chủ quan. Việc đánh giá khách hàng có thể đánh giá qua các chỉ tiêu: - Đánh giá uy tín khách hàng: Đánh giá uy tín, tính cách, tư cách đạo đức, phẩm chất của người đi vay, người điều hành và uy tín của họ với những người xung quanh như người thân, bạn bè, đồng nghiệp, đối thủ cạnh tranh, đánh giá về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp an toàn hay mạo hiểm. - Đánh giá năng lực quản lý của doanh nghiệp thông qua quyết định thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động, đánh giá năng lực của người đại diện. Từ đó cho biết khả năng trả nợ của người đi vay. - Phân tích đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp: Xem xét các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ba năm gần nhất thông qua tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ cơ cấu vốn, chỉ tiêu về khả năng sinh lời, sản phẩm của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường... - Phân tích khả năng tạo lợi nhuận thông qua sản phẩm của doanh nghiệp, chính sách giá cả, chiến lược kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, sự ưa thích sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, chất lượng quản lý chi phí vốn, sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đồng thời phân tích điều kiện kinh doanh. Bên cạnh việc đánh giá khách hàng, cán bộ tín dụng cũng cần thường xuyên đánh giá từng khoản vay, khả năng thu hồi của khoản vay, từ đó đánh giá mức độ rủi ro và có biện pháp thích hợp bảo đảm thu hồi vốn, an toàn trong hoạt động tín dụng. Các NHTM cũng cần thường xuyên rà soát, quản lý danh mục tín dụng của mình để đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu về giới hạn, cơ cấu tín dụng được NHTM cấp trên giao trên cơ sở đó vận dụng phù hợp với thực tế từng địa bàn, từng khoảng thời gian. b) Khai thác có hiệu quả thông tin trong hoạt động tín dụng - Thu thập thông tin về khách hàng: Đối với cán bộ tín dụng, bên cạnh việc thu thập và thẩm định tính xác thực của thông tin do chính khách hàng cung cấp, cần thu thập thêm thông tin từ các bên có liên quan như đối tác của khách hàng, những ngân hàng mà khách hàng có quan hệ, các cơ quan quản lý khách hàng, Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC), Trung tâm thông tin của NHTM (TPR), hoặc từ cán bộ, nhân viên của khách hàng... Cán bộ tín dụng cũng cần đặc biệt chú ý những biểu hiện không bình thường của các luồng tiền mặt, chu chuyển thanh toán, bán hàng của khách hàng. - Thu thập thông tin về thị trường: Khi khách hàng đặt quan hệ tín dụng, bên cạnh việc khai thác thông tin về khách hàng, cán bộ tín dụng còn phải khai thác thông tin mang tính chất thị trường về sản phẩm khách hàng kinh doanh như: Dự đoán tình hình cung - cầu, giá cả sản phẩm trong từng thời kỳ và từng địa bàn nhất là những mặt hàng nhạy cảm, diễn biến thị trường của tài sản đảm bảo tiền vay. - Phân tích xử lý thông tin: Sau khi đã thu thập các nguồn thông tin, cán bộ tín dụng phải sàn lọc nguồn thông tin đã thu thập để phân tích, đánh giá khách hàng về khả năng tài chính, từ đó cán bộ tín dụng ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay, điều kiện cho vay nhằm hạn chế rủi ro có thể xẩy ra. c) Thắt chặt và thực hiện đúng quy trình tín dụng Trong thực hiện quy trình tín dụng cần phải tuân thủ đúng quy trình xét duyệt cho vay, cán bộ tín dụng phải kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng cần kiểm tra các điều kiện vay vốn của khách hàng như hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, nhu cầu vay, tính hiệu quả của dự án... Việc kiểm tra trong khi cho vay giúp cho cán bộ tín dụng kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không. Việc kiểm tra này thông thường dựa trên các hoá đơn tài chính, hợp đồng kinh tế, những diễn biến khác của khách hàng. Ngoài ra, trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, việc kiểm tra có thể định kỳ hoặc đột xuất để đảm bảo tính khách quan. Việc kiểm tra này giúp cán bộ tín dụng đánh giá chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn. Đối với những khách hàng là doanh nghiệp vay lần đầu hay khách hàng cá nhân lớn đều phải thông qua Hội đồng tín dụng, qua đó sàn lọc khách hàng có khả năng tài chính, kinh doanh hiệu quả để hạn chế rủi ro. d) Nâng cao chất lượng thẩm định Thẩm định dự án/phương án sản xuất kinh doanh chính là việc đưa ra những nhận định về khả năng trả nợ, tính hiệu quả của dự án/phương án đó. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, cần bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm về nghiệp vụ tín dụng, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khoá học về thẩm định để cập nhật thông tin, cách thức thẩm định. NHTM cũng cần áp dụng công nghệ phần mềm về thẩm định dự án, trên cơ sở đó để đưa ra các kết quả chính xác và nhanh chóng. Khi thẩm định dự án ở các lĩnh vực khác nhau, cán bộ làm công tác thẩm định cần tham khảo và tìm hiểu thông tin dự án cũng lĩnh vực đầu tư để đưa ra các nhận định chính xác cũng như tìm hiểu lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật của dự án/phương án xin vay vốn của khách hàng. Cán bộ tín dụng cần thẩm định uy tín, khả năng tài chính của khách hàng. Công tác thẩm định tài chính giúp ngân hàng đánh giá đúng thực trạng tài chính của khách hàng trước khi có quyết định cho vay. Nếu khách hàng có dự án khả thi và có đủ nguồn vốn tham gia như cam kết... sẽ hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng. Để đánh giá tính hiệu quả của dự án, trong khi thẩm định, cán bộ tín dụng cần đánh giá dự án trên phương án động, các tình huống có thể xẩy ra, từ đó so sánh, đánh giá dự án và ra quyết định cho vay. Thẩm định dự án đồng thời cũng là tư vấn để khách hàng có thể sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả nhất, hoặc không nên đầu tư, hoặc cân nhắc lại vấn đề thiết bị, kỹ thuật, chủng loại sản phẩm... Ngoài ra, để nâng cao chất lượng thẩm định, cán bộ tín dụng không chỉ thẩm định khi cho vay mà còn cả sau khi cho vay để đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án sau được tốt hơn. e) Mở rộng cho vay có tài sản bảo đảm Đây là một giải pháp rất cần thiết và xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của các TCTD, vì để đảm bảo an toàn khi cho vay thì cần phải có TSBĐ tiền vay. Thực tế cho thấy, diễn biến kinh tế phức tạp, hoạt động tín dụng luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Một trong những biện pháp để đảm bảo an toàn và hạn chế tổn thất khi rủi ro xẩy ra là tăng cường cho vay có bảo đảm, đây chính là nguồn ngân hàng thu hồi nợ sau xử lý. Tuy nhiên, việc xác định giá trị TSBĐ cần đảm bảo tính khách quan, TSBĐ phải có khả năng chuyển nhượng, đủ điều kiện pháp lý. Ngoài ra, các TCTD cũng cần thường xuyên theo dõi TSBĐ, nắm bắt các thông tin về TSBĐ, nếu có biến động lớn cần xem xét định giá lại tài sản. Thường xuyên thu thập các thông tin về tài sản cùng loại trên thị trường và trung tâm bán đấu giá sẽ giúp TCTD có cơ sở định giá TSBĐ. g) Phân tán rủi ro tín dụng Rủi ro luôn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, một trong những biện pháp để hạn chế rủi ro và đạt được mục tiêu lợi nhuận là: “Không nên bỏ trứng vào một giỏ”. Trong kinh doanh, NHTM cần phân tán rủi ro theo các cách sau: - Đa dạng hoá phương thức cho vay: Trong hoạt động tín dụng có nhiều phương thức cho vay như : Cho vay hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay đồng tài trợ, cho vay theo dự án đầu tư... Cho vay hạn mức: Là việc cho vay ngắn hạn thường áp dụng cho khách hàng đã có quan hệ tín dụng thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả. Cho vay từng lần: Thường áp dụng cho khách hàng vay ngắn hạn và có chu kỳ hoạt động kinh doanh không ổn định, thường xuyên. Cho vay đồng tài trợ: Trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng có những khách hàng có nhu cầu vay lớn, một ngân hàng không đủ đáp ứng được nhu cầu vay đó hoặc việc tập trung cho vay một khách hàng dễ dẫn đến rủi ro nếu khách hàng không trả được nợ. Thông thường, các ngân hàng này sẽ cùng nhau tham gia thẩm định dự án và góp vốn cho vay để chia sẻ rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn thực hiện trên cơ sở ngân hàng đáp ứng cho toàn bộ hoặc một phần chi phí phát sinh trong dự án đầu tư của một doanh nghiệp. - Đa dạng hoá khách hàng: Để phân tán rủi ro và đạt được mục tiêu lợi nhuận, các NHTM có thể mở rộng cho vay với các thành phần kinh tế, cho vay nhiều đối tượng khách hàng và không tập trung vào một khách hàng. - Thực hiện bảo hiểm tín dụng: Đây chính là biện pháp nhằm san sẻ rủi ro tín dụng và thường được thực hiện dưới các loại như: Bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay. Để hạn chể rủi ro với tài sản bảo đảm, ngân hàng yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho toàn bộ giá trị tài sản bảo đảm và người hưởng quyền bồi thường là ngân hàng. h) Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư Việc làm này giúp ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng, nguồn tiền của ngân hàng được đầu tư vào nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề khác nhau. Để đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư có hiệu quả và an toàn, các chi nhánh NHTM cần có chiến lược kinh doanh lâu dài, ổn định dựa trên các vấn đề sau: - Bám sát định hướng tín dụng của toàn Ngành trong giai đoạn tới và những lĩnh vực mà Hội sở chính NHTM khuyến khích đầu tư để xây dựng kế hoạch, lĩnh vực cần đầu tư. - Trên cơ sở Định hướng hoạt động tín dụng của một số NHTM tại một số vùng kinh tế, căn cứ vào thực tế, thuận lợi và khó khăn trên địa bàn để xác định lĩnh vực đầu tư. Đối với các chi nhánh ngân hàng ở tỉnh, thành phố có thuận lợi về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, NHTM cần có định hướng phát triển đầu tư theo hướng mở rộng cho vay đối với lĩnh vực công nghiệp chế biến, các loại hình dịch vụ phục vụ xuất khẩu hàng nông sản như chè, cà phê, cao su, thuỷ hải sản... và cho vay đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm hàng xuất khẩu. i) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - Về năng lực công tác: Yêu cầu mỗi cán bộ trong ngân hàng, đặc biệt có liên quan tới công tác cho vay không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là phát hiện và ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng. - Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: Mỗi cán bộ ngân hàng phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm với công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao thì càng phải gương mẫu trong việc thực hiện quy chế cho vay, quy định về đảm bảo tiền vay, quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có như vậy không những giữ vững được phẩm chất đạo đức mà ý thức trách nhiệm cũng được nâng lên, xử lý công việc hiệu quả hơn, khắc phục được tư tưởng ỷ lại, trông chờ tạo ra chuyển biến tích cực trong quản lý. Quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong công tác, đồng thời phải căn cứ vào kết quả công tác của họ để có chế độ đãi ngộ, đối xử công bằng: Đối với cán bộ có thành tích xuất sắc cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ đạt được. Còn đối với cán bộ có sai phạm, tuỳ theo tính chất, mức độ mà có thể phê bình, hoặc xử phạt kỉ luật. k) Luôn nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng Việc bổ nhiệm các chức vụ liên quan đến công tác cho vay phải thực sự khách quan, đúng quy trình, lựa chọn những người có đủ năng lực và phẩm chất thực sự. Việc bố trí cán bộ tín dụng phải được chọn lọc và phù hợp với năng lực thực tế cũng như lĩnh vực công việc được phân công. 6.2. Nhóm biện pháp sử dụng các công cụ phái sinh Các nhà quản lý rủi ro tín dụng sẽ tập trung việc chuyển giao rủi ro tín dụng từ một ngân hàng này sang một đối tác khác bằng cách sử dụng các công cụ phái sinh. Đặc điểm chung của các công cụ này, chúng giữ nguyên tài sản có trên sổ sách kế toán của TCTD khởi tạo ra tài sản đó, đồng thời chuyển giao một phần tài sản này sang các đối tác khác, thông qua đó đạt được các mục tiêu như: Các ngân hàng khởi tạo có phương tiện để chuyển giao rủi ro tín dụng mà không cần phải bán tài sản có đi, khi việc bán tài sản làm suy yếu mối quan hệ khách hàng thì việc chuyển giao đảm bảo duy trì được mối quan hệ đó. a. Hợp đồng trao đổi tín dụng Đây là một trong những hình thức điển hình nhất của công cụ tín dụng phái sinh. Trong đó, hai tổ chức cho vay thoả thuận trao đổi cho nhau một phần các khoản thanh toán theo các hợp đồng tín dụng của mỗi bên. Ví dụ về hợp đồng trao đổi tín dụng Ngân hàng B Ngân hàng A Tổ chức trung gian Tiền thanh toán vốn và lãi Tiền thanh toán vốn và lãi Tiền thanh toán vốn và lãi. Tiền thanh toán vốn và lãi Khi tham gia hợp đồng trao đổi tín dụng, các ngân hàng có thể đa dạng hoá danh mục cho vay, đặc biệt nếu các ngân hàng hoạt động trong những thị trường khác nhau. Bởi vì mỗi ngân hàng hoạt động trong một thị trường khác nhau với cơ sở khách hàng khác nhau nên hợp đồng trao đổi tín dụng cho phép các ngân hàng có thể nhận được các khoản thanh toán từ một hệ thống thị trường rộng hơn và do vậy làm giảm sự phụ thuộc của ngân hàng vào một thị trường truyền thống duy nhất. b. Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập Hợp đồng này có thể bao gồm cả những tổ chức tài chính đứng ra đảm bảo cho các bên tham gia một tỷ lệ thu nhập cụ thể trên các khoản tín dụng của họ. Ví dụ, tổ chức trung gian sẽ đảm bảo cho ngân hàng A có một tỷ lệ thu nhập trên khoản cho vay kinh doanh cao hơn mức lãi suất trái phiếu dài hạn của Chính phủ là 3%. Như vậy, ngân hàng A đã đổi những khoản thu nhập rủi ro từ khoản tín dụng lấy khoản thu nhập ổn định hơn. Vốn gốc+Tiền ._.lãi+Mức tăng giá khoản vay Ví dụ về hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập: Ngân hàng B (Ngân hàng đảm bảo) Ngân hàng A (Bên thụ hưởng) LIBOR+Mức lãi suất bổ sung+Mức giảm giá khoản vay Cho vay Trả gốc và lãi Khách hàng vay vốn c. Hợp đồng quyền tín dụng Hợp đồng quyền tín dụng là công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng giảm sút. Nếu ngân hàng lo lắng về chất lượng tín dụng của một khoản cho vay mới thực hiện, ngân hàng có thể ký hợp đồng quyền chọn tín dụng với một tổ chức kinh doanh quyền. Hợp đồng này sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ khoản cho vay nếu như khoản cho vay này giảm giá đáng kể hoặc không thể được thanh toán. d. Hợp đồng quyền chọn trái phiếu Đối với việc sử dụng quyền chọn trái phiếu để phòng chống rủi ro tín dụng, NHTM chủ yếu sử dụng công cụ này trong các trường hợp nền kinh tế rơi vào các điều kiện khó khăn. Nguyên lý là lấy lãi ngoại bảng từ hợp đồng quyền chọn để bù đắp thua lỗ nội bảng. Theo đó, các NHTM sẽ thực hiện bảo hiểm trên cơ sở mua các quyền chọn bán trái phiếu nếu nhận thấy tình hình kinh tế bất lợi với các khoản cho vay. Ví dụ, theo kết quả dự báo, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng khó khăn trong thời gian tới. Theo đó, nếu kinh tế thực sự khó khăn, các khoản cho vay sẽ khó được hoàn trả. Nếu dự báo như trên, ngân hàng ngay lập tức thực hiện mua các quyền chọn bán trái phiếu. Lợi ích là nếu kinh tế thực sự khó khăn, giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm. Khi đó, chênh lệch giữa giá trái phiếu trên hợp đồng quyền chọn và giá trái phiếu trên thị trường sẽ là khoản lãi ngoại bảng. Ngân hàng sẽ dùng khoản lãi ngoại bảng này bù đắp những thua lỗ nội bảng bắt nguồn từ khoản cho vay bị ảnh hưởng bởi tình hình nền kinh tế. e. Hợp đồng tương lai Về cơ chế xử lý nghiệp vụ, sử dụng công cụ tương lai cũng tương tự như sử dụng hợp đồng quyền chọn. 7. Kinh nghiệm về quản lý rủi ro tín dụng của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 7.1. Kinh nghiệm về quản lý rủi ro tín dụng của một số ngân hàng trên thế giới Kinh nghiệm của Thái Lan Mặc dù có bề dày hoạt động hàng trăm năm nhưng vào năm 1997-1998, hệ thống ngân hàng Thái Lan vẫn bị chao đảo trước cơn khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Trước tình hình đó, các ngân hàng Thái Lan đã có một loạt thay đổi căn bản trong hệ thống tín dụng: Thứ nhất, họ tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu trong quy trình giải quyết các khoản vay. Có thể thấy điều này ở các ngân hàng Bangkok bank và Siam Comercial bank. Còn quy trình cho vay của Kasikorn bank lại được tổng kết như sau: Tiếp xúc khách hàng/phân tích tín dụng/thẩm định tín dụng/đánh giá rủi ro/quyết định cho vay/thủ tục giấy tờ hợp đồng/phân tích tín dụng/thẩm định tín dụng/đánh giá rủi ro/quyết định cho vay/thủ tục giấy tờ hợp đồng/đánh giá chất lượng, xem lại khoản vay. Thứ hai, tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong tín dụng và quan tâm rất nhiều đến thông tin của khách hàng như: Tư cách/hiệu quả hoạt động kinh doanh/mục đích vay/dòng tiền và khả năng trả nợ/khả năng kiểm soát vay/năng lực quản trị và điều hành/thực trạng tài chính... Thứ ba, tiến hành cho điểm khách hàng (Credit Scoring) để quyết định cho vay. Điển hình cho hình thức này là Siam city bank hay Kasikorn bank. Thứ tư, tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng. Theo đó, họ quy định việc quyết định tín dụng theo mức tăng dần: Mức phán quyết của một người, một nhóm người hay hội đồng quản trị. Ví dụ >10 triệu Baht: 1 người chịu trách nhiệm; = 100 triệu Baht: phải qua 2 người chịu trách nhiệm; = 3 tỷ Baht phải do HĐQT quyết định. Thứ năm, giám sát khoản vay. Sau khi cho vay, ngân hàng rất coi trọng việc kiểm tra, giám sát các khoản cho vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin về khách hàng, thường xuyên giám sát và đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro. Kinh nghiệm của Canada Ở Canada để giúp các nhà ngân hàng, các nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết, đáng tin cậy, người ta đã thành lập các công ty chuyên kinh doanh thông tin tín dụng. Một trong những công ty hàng đầu về lĩnh vực này là Công ty Ben (Services Financiers BEN). Công ty này có một số quan điểm và cách thức hoạt động như sau: - Ai cần thông tin tín dụng: Theo kinh nghiệm của BEN thì các nhà sản xuất và buôn bán, các công ty tài chính và dịch vụ, các ngân hàng và các khách hàng lớn họ cần những thông tin tín dụng để có quyết định đúng đắn về kinh doanh, giảm tối đa rủi ro có thể xẩy ra. - Cách thu thập thông tin thông tin tín dụng: Trước hết cần tra cứu những thông tin đã có được cập nhật và lưu trữ một cách khoa học. Bước tiếp theo, là thu thập qua việc nghiên cứu các tài liệu, tin tức của các cơ quan và các tổ chức dịch vụ của Nhà nước, như cơ quan thống kê, tài chính, thuế... Đồng thời cũng phải quan tâm đến nguồn thông tin bên ngoài như báo chí, các nhà cung cấp, khách hàng... Nhiệm vụ của cơ quan thông tin tín dụng: Thứ nhất, thu thập thông tin đảm bảo, chính xác, trung thực và nhanh chóng. Thứ hai, trong quá trình điều tra bảo đảm tính khách quan, không thiên vị hay vụ lợi. Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của người đưa tin và người mua tin. Thứ tư, tôn trọng và bảo vệ sự kín đáo của người đưa tin. - Cách thức điều tra: Trước tiên là cần phải đến đúng giờ. Các nhân viên điều tra phải là những người chuyên nghiệp, có kinh nghiệm. Khi tiếp xúc phải sử dụng các phương pháp phỏng vấn ban điều hành doanh nghiệp. Điều quan trọng là sau cuộc tiếp xúc là nhân viên thông tin tín dụng phải có một khả năng nhận xét. - Cách thức sử dụng thông tin: Trước hết là phải xác thực thông tin, sau đó phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bước tiếp theo là xem xét sự phát triển và mối quan hệ qua lại với các nhà cung cấp, tiêu thụ hàng hoá. Qua việc phân tích những thông tin đã có, cần phải tiến hành “phân hạng rủi ro tín dụng”. 7.2. Bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc quản lý rủi ro tín dụng Qua kinh nghiệm quản lý rủi ro của một số nước ở trên đã đem lại một số bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam như sau: Thứ nhất, phân quyền phán quyết tín dụng. NHTM cần chú ý hơn đến việc phân quyền và kiểm soát việc phân quyền phán quyết trong cho vay để có thể giải quyết nhanh trong cho vay, tăng trách nhiệm của mỗi cán bộ tín dụng trong cho vay. Có thể kết hợp việc phân quyền những hạn mức tín dụng cho các cán bộ tín dụng dựa vào kinh nghiệm công tác, năng lực, uy tín của họ để họ có quyền phán quyết tín dụng, từ đó họ phải chịu trách nhiệm và cũng chủ động, sáng tạo hơn trong cho vay những khoản nằm trong phạm vi của họ. Thứ hai, các NHTM Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến tính chính xác, đầy đủ, kịp thời của thông tin tín dụng. Các NHTM cần phải đào tạo các nhân viên của mình không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn là những nhà “săn tin” chuyên nghiệp để giúp ngân hàng có được đầy đủ các thông tin cần thiết trong việc quyết định cho vay. Thứ ba, tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay. Thứ tư, cần chú trọng trong công tác giám sát các khoản cho vay/khách hàng vay để xem khách hàng vay có sử dụng vốn đúng mục đích không, tình hình tài chính khách hàng như thế nào.... Một số lớn cán bộ tín dụng ở các NHTM Việt Nam cho rằng giải ngân, thu nợ là xong mà chưa quan tâm đến khâu kiểm tra, giám sát khoản cho vay/khách hàng vay hoặc là rất lơ là trong việc kiểm tra giám sát và điều này là rất sai lầm và chính là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VIBANK 1. Khỏi quỏt về VIBank 1.1. Vài nét về VIBank. NHTMCPQT VN (VIBank) được thành lập theo quyết định số 22/QĐ/NH5. Ngày 25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 18/09/1996, VIBank chính thức khai trương hoạt động, hội sở tại số 5 Lê Thánh Tông - Hà Nội. Cổ đông sáng lập VIBank gồm: Các cá nhân và doanh nhân hoạt động thành đạt tại Việt Nam và trên trường Quốc Tế, Ngân hàng Ngoại Thương Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Việt nam. VIBank đang tiếp tục củng cố vị trí mình trên thị trường tài chính tiền tệ Việt nam. Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng, VIBank đang phát triển thành một trong những tổ chức tài chính trong nước dẫn đầu thị trường Việt Nam. Là một ngân hàng bán lẻ, VIBank tiếp tục cung cấp một loạt các sản phẩm, dịch vụ tài chính trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định. Đến thời điểm này, vốn điều lệ của VIBank là 2.000 tỷ đổng. Tổng sản lượng đạt trên 40.000 tỷ đồng. VIBank luôn được Ngân hàng nhà nước Việt nam xếp hạng tốt nhất theo các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt nam trong nhiều năm liên tiếp. Đến nay, ngoài hội sở chính tại Hà Nội, VIBank đã phát triển được gần 100 chi nhánh tại các địa bàn: Hà nội, Thành Phố HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Nha trang, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, Hải Dương, Vĩnh Phúc, An Giang, Vũng Tầu, Nghệ An,... Sau đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức hoạt động các phòng ban của VIBank (trang bên). Từ sơ đồ ta thấy: Cơ quan quyền lực cao nhất là Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng Quản trị do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Hoạt động kinh doanh hàng ngày thuộc về ban tổng giám đốc gồm: Tổng giám đốc và hai phó giám đốc thực hiện quản lý điều hành toàn hệ thống và trực tiếp chỉ đạo giao dịch kinh doanh tại hội sở. Các phòng ban thuộc hội sở được tổ chức linh hoạt thực hiện chức năng, quản lý hệ thống và quản lý nghiệp vụ kinh doanh hội sở. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của NHTMCP Quốc tế Đại hội đồng cổ đông Chi nhánh Gò vấp Ban kiểm soát Hội đồng Quản trị Ban Điều Hành Chi nhánh TP HCM Chi nhánh Hà Đông Phòng Quan hệ đối ngoại và thanh toán Quốc tế Phòng tín dụng cá nhân Văn phòng Phòng Tín dụng doanh nghiệp Phòng Kế toán Phòng Tin học Phòng Nguồn vốn và giao dịch ngoai tệ Phòng Ngân quỹ Chi nhánh Cầu Giấy Chi nhánh Đống Đa Phòng Phát triển kinh doanh Kiểm tra – Kiểm toán nội bộ Chi nhánh Hai Bà Trưng 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank năm 2006, 2007, 2008 Trải qua chặng đường 13 năm xây dựng và phát triển, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Đến nay VIBank đã đạt được nhiều thành công nhất định trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.2.1. Về tình hình huy động vốn Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của bản thân VIBank, nhu cầu huy động vốn luôn là mục tiêu đặt ra đối với ngân hàng này. Trước yêu cầu phát huy các nguồn nội lực cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, các NHTM trong những năm qua đã nỗ lực tìm kiếm và sử dụng nhiều giải pháp có hiệu quả. Với vị trí và uy tín đã tạo dựng qua nhiều năm, VIBank đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn theo kế hoạch đã đề ra, đóng góp một phần lớn vào thành tích huy động vốn chung cho toàn hệ thống VIBank. Tình hình huy động vốn qua các năm của VIBank được thể hiện theo bảng 2.1 như sau: Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của VIBank (Đơn vị: Tỷ VND) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 2008 Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Tổng nguồn vốn 16.526,00 100,00 39.305,00 100,00 34.719,00 100,00 VHĐ từ dân cư và TCKT 9.814,00 59,39 19.226,00 48,92 23.958,00 69,00 VHĐ từ nguồn khác 6.712,00 40,61 20.079,00 51,08 10.761,00 31,00 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank năm 2006, 2007, 2008) Từ bảng số liệu trên cho thấy: Nhìn chung thì tổng nguồn vốn qua các năm của ngân hàng là tăng trưởng cao. Năm 2006, với tổng nguồn vốn 16.526 tỷ đồng trong đó VHĐ từ dân cư và các tổ chức kinh tế khác là khoảng 9.814 tỷ đồng tương đương 59,39% còn lại là từ các nguồn huy động khác (40,61%). Năm 2007, tổng nguồn VHĐ là 39.305 tỷ đồng, tăng 137,84% so với năm 2006. Tuy nhiên, tỷ trọng về nguồn vốn huy động có sự đổi chiều khi vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế khác chỉ chiếm 48,92%, trong khi đó huy động vốn từ các nguồn khác chiếm tới 51,08% tuy nhiên thì sự thay đổi này cũng không quá lớn. Năm 2008 so với năm 2007 tổng nguồn VHĐ của VIBank không có sự thay đổi lớn, trong đó hai quý đầu năm 2008 có sự tăng trưởng rõ rệt, tuy nhiên hai quý sau thì con số này đã giảm đáng kể dẫn tới tổng nguốn VHĐ cho năm 2008 chỉ còn 34.719 tỷ đồng tương đương 11,66%, chủ yếu giảm từ nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng (- 41,83%), giảm đầu tư và các giấy tờ có giá (có lãi suất cố định) (-28,58%) trong khi đó huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế tăng 24.61% và tín dụng cũng tăng 18,1%. 1.2.2. Tình hình cho vay Công tác cho vay củaVIBank tiếp tục thực hiện với phương châm: “hiệu quả và an toàn”. Tình hình cho vay của Ngân hàng được thể hiện dưới đây. Bảng 2.2: Tổng quan tình hình hoạt động cho vay (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng dư nợ 9.111,00 16.662,00 19.775,00 Tổng nợ quá hạn từ nhóm 2 trở lên 247,154 454,192 644,775 Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 2,71 2,73 3,26 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank năm 2006, 2007,2008) Tình hình hoạt động cho vay của VIBank: Năm 2006, tổng dư nợ cho vay đạt 9.111 tỷ đồng, trong đó tổng nợ quá hạn chiếm 247,154 tỷ đồng tương đương 2,71%. Năm 2007, tổng dư nợ cho vay chiếm 16.662 tỷ đồng, trong đó tổng nợ quá hạn chiếm 454,192 tỷ đồng tương đương 2,73%, qua bảng 2.2 đã chỉ ra rằng tỷ lệ nợ quá hạn của năm 2007 (2,73%) tăng so với năm 2006 (2,71%), song con số này là không nhiều. Năm 2008, tổng dư nợ cho vay đạt con số 19.775 tỷ đồng, trong đó tổng dư nợ quá hạn chiếm 644,775 tỷ đồng tương đương 3,26% tăng so với năm 2007 là 0,53% về nợ quá hạn, song con số này vẫn ở trong biên độ cho phép. Qua quá trình phân tích bảng 2.2, có thể thấy tổng dư nợ cho vay của VIBank tăng hàng năm, đây là một tín hiệu đáng mừng bởi cho vay là một trong những hoạt động chính đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn tăng nhẹ qua các năm, song đây cũng là một hệ quả tất yếu của xu thế làm ăn của các ngân hàng nói chung, và VIBank nói riêng bởi sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. 1.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng thu 1.174,41 2.291,59 4.392,26 Tổng chi 976,66 1.865,89 4.161,81 Lợi nhuận trước thuế 197,74 425,69 230,44 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank năm 2006,2007,2008) Năm 2006, tổng thu của VIBank đạt tới 1.174,41 tỷ đồng, trong khi đó tổng chi là 976,66 tỷ đồng, như vậy lợi nhuận trước thuế đạt con số 197,74 tỷ đồng. Trong năm 2007, VIBank đã đạt con số 2.291,59 tỷ đồng về tổng thu trong khi tổng chi của ngân hàng này là 1.865,89 tỷ đồng, đạt lợi nhuận trước thuế 425,69 tỷ đồng tăng mạnh so với năm 2006 (197,74 tỷ đồng) là 227,95 tỷ đồng. Từ bảng số liệu trên cho thấy lợi nhuận trước thuế của VIBank có xu hướng giảm đặc biệt vào năm 2008 chỉ còn 230,44 tỷ đồng, trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, sự suy giảm phát triển của nền kinh tế trong nước và các biện pháp chống lạm phát của chính phủ, chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN, kết quả kinh doanh của VIBank nói riêng và của hệ thống các ngân hàng nói chung đều bị tác động mạnh. Lợi nhuận của VIBank năm 2008 đạt 230,445 tỷ đồng giảm 195,25 tỷ đồng so với năm 2007 (425,69 tỷ đồng). Thành quả kinh doanh của 2008 tuy chưa được như mong đợi, nhưng trong cơn trấn động của cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến hàng loạt các ngân hàng lâu đời trên thế giới bị phá sản, sáp nhập và rất nhiều ngân hàng trong nước cũng gặp khó khăn thì việc VIBank vẫn tiếp tục phát triển và có lãi là một kết quả đáng nghi nhận. 2. THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VIBANK 2.1. Tình hình về hoạt động cho vay tại VIBank Công tác cho vay của VIBank được thực hiện với phương châm: “Hiệu quả và an toàn”. Với nỗ lực của cán bộ VIBank trong những năm qua hoạt động cho vay đạt được một số kết quả thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.4: Tình hình hoạt động cho vay của VIBank Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 2008 Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ cho vay 9.111,00 100 16.662,00 100 19.775,00 100 2. Theo loại tiền VND 6.624,00 72,49 11.306,00 67,52 14.803,00 74,86 Ngoại tệ và vàng 2.513,00 27,51 5.438,00 32,48 4.971,00 25,14 3. Theo thời hạn Ngắn hạn 5.885,00 64,41 10.025,00 59,87 11.609,00 58,71 Trung hạn 2.279,00 24,94 4.084,00 24,39 3.701,00 18,25 Dài hạn 973,00 10,65 2.635,00 15,74 4.465,00 23,04 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank năm 2006,2007,2008) Nhận xét chung về hoạt động cho vay của VIBank: Năm 2006, dư nợ cho vay đạt 9.111 tỷ đồng, chiếm 55,13% tổng nguồn vốn. Năm 2007, dư nợ cho vay đạt 16.662 chiếm 42,39%. Mức tăng trưởng của toàn hệ thống VIBank là 15,7%, trong khi đó, dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn Hà Nội tăng 20,6% so với cuối năm 2006, Như vậy, năm 2007, mặc dù dư nợ cho vay của VIBank có tăng nhưng tốc độ tăng không cao bằng các tổ chức khác. Năm 2008, tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng tính đến thời điểm 31/12/2008 là 19.775 tỷ đồng tăng 18,09% so với cuối năm 2007. Đây là tỷ lệ tăng trưởng tín dụng khá thấp so với mức tăng trưởng 83,2% của năm 2007 so với cuối năm 2006. Ngoài nguyên nhân chung do khó khăn của kinh tế thế giới, kinh tế trong nước và ngành ngân hàng thì còn có nguyên nhân là những tháng đầu năm 2008 VIBank phải chịu áp lực tuân thủ mức an toàn vốn tối thiểu là 8% do NHNN quy định. Còn giai đoạn từ giữa năm 2008 VIBank có chính sách thắt chặt tín dụng vì nguy cơ nợ xấu cao, không đảm bảo chất lượng: Thứ nhất, do nhu cầu vay của khách hàng. Thứ hai, do nội tại bản thân Ngân hàng có sự thay đổi về quy trình tín dụng, quy trình mới kiểm soát gắt gao hơn, điều kiện cấp tín dụng chặt chẽ hơn và thời gian tạm ứng cho khách hàng chậm hơn. Dưới đây là tình hình cho vay của VIBank theo từng cách phân loại: Tình hình cho vay theo loại tiền tại VIBank Nhận xét về tình hình cho vay theo loại tiền: Năm 2006, cho vay bằng VND là 6.624 tỷ đồng (chiếm 72,7% trong tổng dư nợ cho vay) và cho vay bằng ngoại tệ quy VND là 2.513tỷ đồng (chiếm 27,3% trong tổng dư nợ cho vay). Năm 2007, cho vay bằng VND là 11.306 tỷ đồng (chiếm 67,85% trong tổng dư nợ cho vay) và cho vay bằng ngoại tệ quy VND là 5.438 tỷ đồng (chiếm 32,15% trong tổng dư nợ cho vay). Năm 2008, cho vay bằng VND là 14.803 tỷ đồng (chiếm 74,86% trong tổng dư nợ cho vay) và cho vay bằng ngoại tệ quy VND là 4.971 tỷ đồng (chiếm 25,14% trong tổng dư nợ cho vay). Dư nợ cho vay bằng VND chiếm tỷ trọng cao hơn cho vay bằng ngoại tệ quy VND. Điều này là do: Thứ nhất là nhu cầu vay của khách hàng vay nhiều VND hơn. Thứ hai là do cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng trong năm 2008: Tỷ trọng nguồn vốn bằng VND cao hơn tỷ trọng nguồn vốn bằng ngoại tệ Năm 2007, năm 2008: Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ quy VND chiếm tỷ trọng cao hơn cho vay bằng VND, kết quả này là do bên cạnh khách hàng có nhu cầu vay bằng ngoại tệ ở Ngân hàng cao hơn vay VND . Tình hình cho vay theo thời hạn Nhìn vào biểu đồ cho thấy: Trong 3 năm từ 2006 - 2008 thì cho vay ngắn hạn có xu hướng giảm dần qua các năm. Năm 2006 là 64,4%, năm 2007 giảm xuống còn 59,87% và đến năm 2008 thì chỉ còn 58,7% tỷ trọng cho vay ngắn hạn đều lớn hơn nhiều so với tỷ trọng cho vay trung dài hạn nhưng tỷ lệ cho vay ngắn hạn của ngân hàng là khá cao so với nguồn tiền huy động được và đặc biệt đối với các khoản cho vay trung hạn và dài hạn đã gây khó khăn, rủi ro lãi suất thậm chí giảm thu cho VIBank, bởi những biến động lãi suất tăng mạnh và bất ngờ của thị trường và can thiệp của NHNN. Sự chênh lệch lớn về tỷ trọng cho vay có thể gây rủi ro cho ngân hàng khi tập trung quá nhiều vào cho vay ngắn hạn, Sở dĩ có điều này là do: Thứ nhất, do nhu cầu vay của khách hàng chủ yếu là vay ngắn hạn. Thứ hai, do khách hàng của Ngân hàng là những khách hàng ít làm dự án. Thứ ba, do Ngân hàng cũng chưa đẩy mạnh đầu tư dự án nên chủ yếu là cho vay ngắn hạn. 2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại VIBank Qua phân tích về tình hình hoạt động tín dụng của VIBank có thể thấy: Tín dụng tăng trưởng khá tốt qua các năm, cơ cấu cho vay ngày càng hợp lý. Tuy nhiên, để đánh giá tình hình tăng trưởng tín dụng có thực sự tốt không và chất lượng tín dụng có thực sự cao hay không thì cần phải xem mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng được thể hiện đặc các chỉ tiêu dưới đây: 2.2.1. Nợ xấu, nợ quá hạn và trích lập DPRRTD theo quy định 493 sửa đổi: Trước năm 2005, việc phân loại nợ được tiến hành theo QĐ 488, theo đó việc phân loại nợ chỉ dựa trên thời gian phát sinh các khoản nợ quá hạn. Do đó, có những khoản nợ mặc dù chưa quá hạn theo tiêu chí phân loại nợ áp dụng nhưng thực chất là nợ xấu, đặc biệt là các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn. Từ năm 2005, VIBank bắt đầu phân loại theo QĐ 493 với các tiêu chí phân loại nợ chặt chẽ hơn theo đó các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ được phân loại vào từng nhóm cụ thể tuỳ theo thời gian cơ cấu lại. Phân loại nợ như vậy đánh giá chính xác hơn chất các khoản vay, tuy nhiên so với các tiêu chuẩn của quốc tế thì tiêu chuẩn đó của Việt nam còn rất xa vời. Đến năm 2007, NHNN ban hành QĐ 18 sửa đổi bổ sung cho QĐ 493. Bảng 2.5: Phân loại nợ theo QĐ 493/2005 – NHNN (Đơn vị : Tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Nhóm 1 8.770,14 96,26 16.208,69 97,27 19.130,62 96,74 Nhóm 2 208,92 2,29 214,18 1,29 280,22 1.42 Nhóm 3 67,04 0,74 80,01 0,48 111,55 0,56 Nhóm 4 29,26 0,32 67,59 0,41 110,33 0,55 Nhóm 5 35,67 0,39 92,40 0,55 142,66 0,73 Tổng dư nợ 9.111.03 100 16.662,88 100 19.775,40 100 (Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2006, 2007, 2008 của VIBank) Biểu đồ phân loại nhóm loại nợ qua các năm Nhìn vào bảng trên và biểu đồ các năm 2006, 2007 và 2008 cho thấy nợ nhóm 1(nợ đủ tiêu chuẩn) luôn luôn chiếm tỷ trọng rất lớn và đều lớn hơn 96% tổng dư nợ qua các năm và giảm dần tỷ trọng theo nhóm 2,3,4, tuy nhiên tỷ trọng dư nợ nhóm 5 có xu hướng tăng nhẹ so với nợ nhóm 3 và nhóm 4. Tỷ trọng nợ nhóm 1 có xu hướng tăng trong các năm gần đây đặc biệt năm 2007 thì tỷ trọng nợ nhóm 1 đạt 97,27% tổng dư nợ. Điều này cho thấy ngân hàng VIBank đã và đang quản lý tốt công tác tín dụng nâng cao tỷ trọng nhóm nợ mang tính an toàn. 2.2.2. Thực trạng nợ xấu Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, thì nợ xấu là các khoản nợ các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Tình hình nợ xấu của VIBank trong 3 năm gần đây thể hiện như sau: Bảng 2.6: Tình hình nợ xấu tại VIBank (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 2008 Tổng dư nợ cho vay 9.111,00 16.662,00 19.775,00 Tổng nợ xấu 131,97 240,00 364,55 Nhóm 3 67,04 80,01 111,55 Nhóm4 29,26 67,59 110,33 Nhóm 5 35,67 92,40 142,66 Tỷ lệ nợ xấu(%) 1,43 1,44 1,84 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank năm 2006-2008) Từ bảng số liệu trên cho thấy: Năm 2006, tổng nợ xấu là 131,97 tỷ đồng tương đương 1,43% so với tổng dư nợ cho vay. Chủ yếu tập trung ở nhóm 3, chiếm tỷ lệ cao nhất là 67,04 tỷ đồng. Nguyên nhân tỷ lệ nợ xấu cao chủ yếu tập trung ở đối tượng vay là các cá nhân, còn các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chiếm tỷ lệ thấp. Đến năm 2007, tổng nợ xấu là 240 tỷ đồng, chiếm 1,44% tổng dư nợ cho vay, tăng mạnh so với năm 2006, trong đó năm 2007 tỷ lệ nợ xấu tập trung chủ yếu ở nhóm 5 chiếm tới 92,40 tỷ đồng. Trong năm này, nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao chủ yếu tập trung ở khối doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Năm 2008, có thể nói đây là một năm diễn ra những biến động rất lớn đối với VIBank, tổng nợ xấu đạt con số 19.775 tỷ đồng, chiếm 1,84% tổng dư nợ cho vay trên toàn hệ thống VIBank. Đây là năm ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng (Chỉ số VN-Index tụt dưới 500 điểm), cũng là thời điểm nhiều doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, và các cá nhân lâm vào tình trạng phá sản và mất khả năng thanh toán. Được thể hiện qua các con số nợ xấu như sau: Khối doanh nghiệp chiếm: 258,24 tỷ đồng, Cá nhân chiếm con số là: 106,32 tỷ đồng. 2.2.3. Thực trạng trích lập và sử dụng dự phòng Với mỗi khoản tín dụng thì tương ứng với nó là một mức rủi ro tiềm ẩn. Vì vậy, khi quyết định cấp tín dụng cho khách hàng thì ngân hàng nào cũng xác định là có thể gặp phải rủi ro. Để chủ động trong việc hạn chế những hậu quả do rủi ro tín dụng có thể gây ra, một trong những biện pháp hiện nay các ngân hàng đang thực hiện là trích lập dự phòng rủi ro. Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng của VIBank thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.7: Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng tại VIBank (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 2008 Tổng dư nợ cho vay 9.111,00 16.662,00 19.775,00 Trích DPRR 78,92 133,25 186,65 Sử dụng dự phòng 107,63 70,57 73,47 Tỷ lệ trích lập dự phòng (%) 136,37 52,96 39,36 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VIBank 2006, 2007, 2008) Trong 3 năm qua, số tiền trích lập dự phòng rủi ro tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tương đối: Năm 2006, số tiền trích lập là chiếm 0,8% tổng dư nợ; Năm 2007, số tiền trích lập là chiếm 0,8% tổng dư nợ, không tăng so với năm trước nhưng sang năm 2008 số tiền trích lập là chiếm 0,94% tổng dư nợ và tăng so với năm 2007 là 53,51 tỷ đồng. Như vậy, tỷ lệ trích lập dự phòng trong tổng dư nợ tăng dần qua các năm từ 0,8% năm 2006 và 2007 đến 0,94% năm 2008. Điều này chứng tỏ chất lượng các khoản cho vay có suy giảm nhưng không lớn lắm, các khoản nợ của khách hàng bị chuyển sang nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn tăng lên. Nhưng cũng chứng tỏ công tác trích lập dự phòng để phòng ngừa rủi ro có thể xẩy ra với Ngân hàng được thực hiện nghiêm túc, khi các khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn thì tương đương với việc đó Ngân hàng cũng trích lập dự phòng bổ sung. Điều này cũng dễ hiểu bởi các doanh nghiệp đang lâm vào khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới. Tuy nhiên thì sử dụng dư phòng của các năm về số tương đối thì giảm mạnh so với tổng dư nợ 2.2.4. Mức độ tập trung tín dụng Là mức độ dồn vốn tín dụng vào một đối tượng khách hàng, một ngành nghề kinh doanh, một loại tiền hay một thời hạn xác định. Các chỉ tiêu được xem xét cụ thể như sau: a. Mức độ tập trung tín dụng loại tiền Như phân tích ở trên về tình hình hoạt động cho vay theo loại tiền của VIBank cho thấy tỷ trọng cho vay ngoại tệ quy VND luôn nhỏ hơn cho vay VND thể hiện ở chỗ năm 2006: Cho vay ngoại tệ chiếm 27,51%, cho vay VND chiếm 72,49% trong tổng dư nợ cho vay; Năm 2007: Cho vay VND chiếm 67,52%, cho vay ngoại tệ chiếm 32,48% trong tổng dư nợ cho vay; Còn năm 2008, thì tỷ trọng cho VND tăng lên 74,86 %, cho vay ngoại tệ 25,14% trong tổng dư nợ cho vay. Mức dồn vốn tín dụng vào một loại tiền tiềm ẩn rủi ro rất lớn như năm 2006, việc dồn vốn tín dụng đi kèm đó là nợ quá hạn chủ yếu tập trung vào các khoản cho vay bằng VND. Vì vậy, Ngân hàng cần phải chú ý cân đối giữa cho vay VND và ngoại tệ để nhằm hạn chế rủi ro. b. Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn Hiện nay VIBank chưa đẩy mạnh cho vay dự án nên dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay được thể hiện ở tỷ trọng cho vay ngắn hạn giảm dần qua các năm: 64,41% (năm 2006); 59,87% (năm 2007); 58,71% (năm 2008).Tỷ trọng cho vay trung hạn giảm dần qua các năm: 24,94% (năm 2006); 24,39% (năm 2007); 18,25% (năm 2008). Tỷ trọng cho vay dài hạn có xu hướng đổi chiều tăng dần qua các năm: 10,65% (năm 2006); 15,74% (năm 2007); 23,04% (năm 2008). Việc tập trung vốn tín dụng vào thời hạn ngắn cũng tiềm ẩn nhiểu rủi ro cho Ngân hàng. Vì vậy Ngân hàng cần cân đối cơ cấu cho vay hợp lý, mở rộng cho vay các dự án trung dài hạn khả thi. 3. ĐÁNH GIÁ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VIBANK 3.1. Đánh giá rủi ro tín dụng tại VIBank Trong những năm qua với những nỗ lực trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, VIBank đã đạt được một số kết quả: - Ngân hàng thực hiện nghiêm túc việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo quy định của NHNN. - Tình hình sử dụng dự phòng để xử lý nợ xấu giảm dần chứng tỏ công tác thu nợ củaVIBank khá tốt. - Cơ cấu cho vay ngày càng hợp lý: Ngân hàng chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các phương án/dự án khả thi. Hạn chế cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, các ngành kinh tế, các mặt hàng (kinh doanh nhà cửa, sắt thép...) có nhiều biến động về thị trường. Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả, các ngành kinh tế, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định (điện, viễn thông...). Chính điều này đã tăng chất lượng các khoản cho vay. - Thực hiện tốt các quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng bao gồm giới hạn cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, giới hạn cho vay một nhóm khách hàng không vượt quá 50%, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo ở mức an toàn theo quy định của NHNN với tỷ lệ nợ quá hạn < 3%... - Trong năm vừa qua, VIBank đã tích cực đề ra các biện pháp để thu hồi nợ xấu như là thành lập Tổ xử lý nợ xấu với quyết tâm và triệt để trong công tác xử lý nợ xấu. Mặt khác, VIBank rất quan tâm, đốc thúc các khách hàng vay trong việc chi trả gốc và lãi. - Tích cực thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Để thuận tiện trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, NH đã tiến hành phân loại khách hàng vay vốn theo: Thời hạn vay, loại tiền để quản lý khoản cho vay có hiệu quả và hợp lý hơn. VIBank cũng tích cực trong công tác đào tạo và nâng cao trình độ, khả năng xử lý công việc độc lập bộ phận tín dụng. Áp dụng quy trình tín dụng mới đối với các đối tượng khách hàng khác nhau: Khách hàng doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân. Quy trình mới quy định chặt chẽ hơn, phân tách rõ chức năng, trách nhiệm của từng phòng ban trong bộ phận tín dụng. Từ đó chất lượng tín dụng tốt hơn. 3.2. Những tồn tại trong hoạt động cho vay và nguyên nhân 3.2.1. Những tồn tại t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31324.doc