Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam

Tài liệu Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam: ... Ebook Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Trong cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta xuất phát điểm từ một nước có nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn về mọi mặt. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là đổi mới nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nó quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi sắc. Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với điều kiện mới. Hoạt động Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển bền vững. Đối với NHTM thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Song rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh không chỉ gây ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và hiểu rõ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Với kiến thức lý luận cơ bản tiếp thu được ở nhà trường, quá trình thực tế thực tập tại Hội sở NH Techcombank, được sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô, chú trong NH, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS.TS Lê Huy Đức, em đã nhận thấy được tầm quan trọng của công tác giám sát và phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó em đã mạnh dạn chọn đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp là: “Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank”. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Hệ thống lại những vấn đề có tính lý luận về rủi ro tín dụng để khẳng định rủi ro tín dụng là một tất yếu song có thể phòng ngừa và hạn chế được để đảm bảo an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng. Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NH Techcombank, từ đó rút ra các vấn đề còn tồn tại. Đưa ra một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NH Techcombank. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của khoá luận: Những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng NHTM. Thực trạng rủi ro tín dụng tại NH Techcombank. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NH Techcombank. Phạm vi nghiên cứu: Rủi ro tín dụng tại NH Techcombank. Phương pháp nghiên cứu. Sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic kết hợp với phương pháp duy vật lịch sử. Sử dụng số liệu thực tế để luận chứng thông qua các phương pháp so sánh, thống kê, đồ thị... Kết cấu của bài luận Chương 1: Lý luận chung về rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Techcombank. Chương 3: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Techcombank. CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG 1.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng Thuật ngữ “tín dụng” theo tiếng La Tinh gọi là Credittium, tiếng anh gọi là Credit, có nghĩa là “tin tưởng và tín nhiệm”. Theo thuật ngữ dân gian Việt Nam: “Tín dụng” có nghĩa là “sự vay mượn”. Về mặt tài chính, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sở hữu vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định. Cũng như các quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng có các đặc trưng sau: Thứ nhất, là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Thực chất của quan hệ tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó. Thứ hai, là tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả đúng hạn cả về thời gian và giá trị bao gồm hai bộ phận là gốc và lãi. Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan hệ tín dụng. 1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng 1.1.2.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội Thứ nhất, vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Thứ hai, một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thoả mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh. Thứ ba, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội. Thứ tư, các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro có thể xẩy ra với ngân hàng. Chính điều này buộc người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối quan hệ lâu dài với tổ chức cung ứng tín dụng. 1.1.2.2 Tín dụng là trung gian dẫn tác động của của Nhà nước đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô Mục tiêu kinh tế vĩ mô bao gồm: Ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Để đảm bảo đạt được các mục tiêu vĩ mô hài hoà phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét về cả mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này, nó lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất cho vay, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bão lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy, thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động cả nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết. 1.1.2.3 Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn lại từ Ngân sách Nhà nước. Song phương thức này bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế, phương thức này được thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn, việc tài trợ vốn cho người nghèo được thực hiện bằng việc cho vay với lãi suất thấp. Phương thức này ưu việt hơn, hiệu quả hơn. Điều này buộc các đối tượng chính sách phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn hơn và từ đó kỹ năng lao động của họ cũng được nâng lên. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng. 1.1.3 Phân loại tín dụng. 1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn của khoản tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau: - Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm. - Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm. - Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm. 1.1.3.2 Căn cứ vào đảm bảo tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau: - Tín dụng không có đảm bảo: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của bên thứ ba. - Tín dụng có đảm bảo: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của bên thứ ba. 1.1.3.3 Căn cứ vào mục đích tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau: - Tín dụng bất động sản: Đây là khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản, bao gồm: + Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai. + Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài. - Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải các khoản chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương. - Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc. - Tín dụng cá nhân: Đây là khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua hàng hoá tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong nhà... - Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. - Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê lại chúng. - Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở trên (Ví dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán). Tùy từng mục đích mà mỗi ngân hàng phân loại tín dụng theo các tiêu chí nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng quản lý và điều hành. 1.2 RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất rủi ro tín dụng Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như là: “Rủi ro là sự không chắc chắn mang tính khách quan về khả năng xẩy ra một sự kiện không mong muốn”. Như vậy, dù con người có nhận biết được rủi ro hay không thì nó vẫn tồn tại. Hay một khái niệm khác là: “Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất”. Ở Việt Nam trong từ điển kinh tế học hiện đại, rủi ro được định nghĩa: “Rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự kiện xẩy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện đó có một phân phối xác suất”. Khái niệm về rủi ro tín dụng: Theo Thomas P.Fitch: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xẩy ra khi người vay không thanh toán được nợ theo thoả thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Là rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Theo World Bank: Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là thiệt hại kinh tế của ngân hàng do một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng không hoàn trả được nợ vay cho ngân hàng. Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng như sau: - Rủi ro tín dụng khi người đi vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hẹn (delayed paymet) hoặc không thanh toán (nonpayment). - Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức làm giảm thu nhập ròng. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản. Những biểu hiện của rủi ro tín dụng được thể hiện ở mô hình sau: Rủi ro tín dụng Phát sinh lãi treo đóng băng Không thu được lãi đúng hạn Không thu đủ lãi Không thu đủ vốn cho vay Không thu được vốn đúng hạn Phát sinh nợ khó đòi Phát sinh lãi treo Phát sinh nợ quá hạn Khả năng thanh toán giảm, Hiệu quả kinh doanh giảm, Thất thoát vốn, Phá sản 1.2.2 Đặc điểm của rủi ro tín dụng - Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Đặc điểm này xuất phát từ trong quan hệ tín dụng, có sự chuyển giao vốn giữa ngân hàng và khách hàng và có sự tách rời giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, nếu khách hàng mà làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn không hiệu quả, năng lực tài chính khách hàng kém... sẽ gây rủi ro cho khách hàng và dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. - Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: Do mỗi quan hệ tín dụng có những đặc điểm riêng, do đó rủi ro trong mỗi trường hợp cụ thể cũng khác nhau. - Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh ngân hàng: Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động tín dụng luôn đi liền với rủi ro. Khi một khoản tín dụng được thiết lập thì đồng thời với nó là một mức rủi ro tiềm ẩn. Vì không có sự cân xứng thông tin giữa ngân hàng và khách hàng: Ngân hàng thì muốn tìm hiểu toàn bộ thông tin về khách hàng một cách chính xác, còn khách hàng luôn muốn làm đẹp các thông tin trước khi cung cấp cho ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh của khách hàng còn bị tác động bởi nhiều yếu tố khách quan như kinh tế - xã hội, pháp luật... và các yếu tố chủ quan như năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo... Vì vậy khoản tín dụng đó luôn tiềm ẩn rủi ro. 1.2.3 Những thiệt hại từ rủi ro tín dụng 1.2.3.1 Đối với nền kinh tế Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản dẫn đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp trở ngại, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. 1.2.3.2 Đối với ngân hàng - Làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận của ngân hàng Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, các khoản chi phí chủ yếu bao gồm: Chi phí trả lãi cho khách hàng gửi tiền, chi phí mua sắm phương tiện, thiết bị phục vụ hoạt động của ngân hàng... Khi rủi ro tín dụng xẩy ra, ngân hàng không thu hồi được số vốn như đã dự kiến, mất cơ hội đầu tư cho các dự án khả thi, từ đó làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. - Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng Khi rủi ro tín dụng xẩy ra, làm cho ngân hàng không thu hồi được vốn gốc và lãi trên số vốn đã cho vay, do vậy làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài có thể làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán và phá sản. - Làm uy tín của ngân hàng giảm Rủi ro tín dụng xẩy ra chứng tỏ hiệu quả quản lý, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng kém, từ đó lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng suy giảm, uy tín của ngân hàng trên thị trường giảm. Uy tín ngân hàng giảm sẽ tác động rất lớn tới nghiệp vụ huy động vốn, việc huy động vốn trở nên khó khăn, đồng thời ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thiết lập quan hệ đại lý, quan hệ vay vốn... với các tổ chức khác. - Nguy cơ phá sản ngân hàng Nếu rủi ro tín dụng có thể làm thất thoát một lượng vốn rất lớn nên NHTM có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản. Việc phá sản một ngân hàng có thể gây phản ứng dây chuyền tới các ngân hàng khác cũng phá sản theo và nó tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Nói chung, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xẩy ra ở mức độ các mức độ khác nhau: Nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.2.4 Các dấu hiệu cảnh báo khoản tín dụng có rủi ro Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro nhưng không phải nó thường xuyên xẩy ra bất ngờ mà có dấu hiệu báo trước. Vì vậy cán bộ tín dụng cần nhận diện được các dấu hiệu này để có biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng có thể xẩy ra. Sau đây là ba nhóm dấu hiệu chính: 1.2.4.1 Xuất phát từ môi trường khách quan - Các thảm hoạ thiên nhiên: Hạn hán, lũ lụt... ảnh hưởng gây khó khăn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng. - Các biến động về môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, công nghệ, cạnh tranh... đều có thể gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.4.2 Xuất phát từ phía khách hàng: Chia làm 3 nhóm: - Các dấu hiệu rủi ro xuất phát từ phương thức quản lý của khách hàng: Sức khoẻ của các nhà quản lý. Doanh nghiệp có sự thay đổi trong cơ cấu hệ thống quản trị. Quy trình quản lý xuất hiện nhiều tranh chấp. Việc thuyên chuyển nhân viên diễn ra quá thường xuyên. Doanh nghiệp xuất hiện nhiều chi phí quản lý bất hợp lý. Có sự sa sút sức khoẻ và tình trạng gia đình của nhà quản trị. - Các dấu hiệu liên quan đến kỹ thuật - thương mại: Doanh nghiệp gặp khó khăn trong phát triển sản phẩm mới. Doanh nghiệp có kế hoạch thay đổi thị trường và khách hàng mục tiêu. Doanh nghiệp thay đổi cách thức sản xuất và thực hiện cắt giảm các chi phí sữa chữa, thay thế hoặc phát triển sản phẩm. - Các dấu hiệu liên quan đến xử lý thông tin tài chính - kế toán. Ngân hàng nhìn vào các báo cáo tài chính, phân tích các báo cáo thấy có các biểu hiện: Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Tỷ lệ hoặc các khoản phải thu tăng với tỷ lệ không hợp lý. Khả năng tiền mặt doanh nghiệp giảm. Doanh nghiệp có dấu hiệu làm đẹp bảng cân đối kế toán thông qua việc bổ sung giá trị tài sản vô hình hoặc thông qua việc đánh giá lại tài sản hoặc doanh nghiệp thay đổi phương thức hạch toán. 1.2.4.3 Các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của khách hàng với ngân hàng - Khách hàng trả nợ vay không đúng thời hạn. - Khách hàng gặp khó khăn trong việc chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. - Khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo tài chính cần thiết. - Khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng đến kiểm tra cơ sở sản xuất kinh doanh. 1.2.5 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Cách phân loại thông dụng là phân tích nguyên nhân gây ra từ phía ngân hàng và người đi vay. 1.2.5.1 Nguyên nhân từ phía ngân hàng Một là, ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện vay. Hai là, chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, chưa có quy trình quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ. Đối với doanh nghiệp nhỏ và cá nhân, quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa áp dụng công cụ chấm điểm tín dụng. Ba là, kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng chưa phong phú. Bốn là, thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng. Năm là, về công tác giám sát cho vay. Công tác giám sát khoản vay, đánh giá định kỳ về khách hàng vay vốn, về vấn đề sử dụng vốn vay và tài sản thế chấp bị buông lỏng. Đặc biệt là đối với khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài, cán bộ tín dụng thường có tâm lý nể, tin khách hàng và bỏ qua việc kiểm tra định kỳ. Bên cạnh đó, phương pháp kiểm tra giám sát không khoa học nên không phát hiện được những dấu hiệu bất thường trong hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn. Sáu là, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng chưa đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ tín dụng chưa thỏa đáng. Năng lực dự báo, phân tích ngành, phân tích tài chính, phát hiện và xử lý khoản vay có vấn đề của cán bộ còn rất yếu. Nhiều quyết định cho vay mang tính cảm tính, được đưa ra trên cơ sở thông tin được cân nhắc không đầy đủ hoặc phiến diện như chỉ dựa vào tài sản thế chấp hay bản thân phương án kinh doanh mà bỏ qua năng lực tài chính của bản thân doanh nghiệp nên dẫn đến rủi ro. Các khoản cho vay có vấn đề đều không được phát hiện sớm và các biện pháp can thiệp của ngân hàng chỉ thực hiện khi có phát sinh nợ quá hạn hoặc doanh nghiệp gặp rắc rối với cơ quan pháp luật. Cán bộ tín dụng cũng chưa có khả năng tư vấn cho khách hàng để giúp khách hàng có thể vượt qua giai đoạn khó khăn tạm thời. Kỹ năng thương lượng với khách hàng, tính chủ động trong công việc, khả năng kiểm soát chứng từ vay, kiến thức pháp luật của cán bộ tín dụng cũng rất yếu. Nhiều cán bộ tín dụng đã máy móc áp đặt loại sản phẩm tín dụng và kỳ hạn nợ cho khách hàng mà không tìm hiểu nhu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh của khách hàng và không tư vấn cho khách hàng. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ không phù hợp với chu kỳ kinh doanh thực tế, với dòng tiền của doanh nghiệp và đây là nguyên nhân gây ra các khoản cho vay có vấn đề. Vì vậy có thể nói yếu tố con người là một yếu tố có tác động lớn nhất từ phía ngân hàng đến rủi ro trong hoạt động tín dụng. 1.2.5.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng vay Các nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng vay dẫn đến việc khách hàng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng được sắp xếp theo hai nhóm sau: - Nhóm nguyên nhân khách quan: Là những tác động ngoài chủ ý của khách hàng như do thiên tai, hoả hoạn, do sự thay đổi của các chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch ngành vùng, do hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu thay đổi... - Nhóm nguyên nhân chủ quan: Là nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng. Đó có thể là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và thông tin về đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh, công nghệ sản xuất không tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, hoặc khách hàng thiếu thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn... Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin về khách hàng vay và thông tin về môi trường kinh tế mà khách hàng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như: Do tính dễ thay đổi của các nhân tố rủi ro, tính không ổn định ngày càng tăng của thị trường tài chính, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các ngân hàng, sự can thiệp của chính quyền địa phương... 1.2.6 Các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng Hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế chứa đựng nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem là một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của NHTM. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi bởi vì ngân hàng không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên nhân từ phía bản thân ngân hàng mình, mà còn gánh chịu rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tai biến bất ngờ to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lan truyền của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế. Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày càng lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng để đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM. Dưới đây là một số biện pháp: 1.2.6.1 Nhóm biện pháp truyền thống Môt là, thực hiện việc phân loại, đánh giá khách hàng và khoản vay Để hạn chế rủi ro tín dụng, việc đánh giá và phân loại khách hàng là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đánh giá, phân loại khách hàng, ngân hàng sẽ có chính sách tín dụng cụ thể áp dụng cho từng đối tượng khách hàng. Do hoạt động kinh doanh của khách hàng luôn biến động, vì vậy việc thu thập thông tin, đánh giá khách hàng phải thường xuyên để có chính sách linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể, tránh cứng nhắc, chủ quan. Việc đánh giá khách hàng có thể đánh giá qua các chỉ tiêu: - Đánh giá uy tín khách hàng: Đánh giá uy tín, tính cách, tư cách đạo đức, phẩm chất của người đi vay, người điều hành và uy tín của họ với những người xung quanh như người thân, bạn bè, đồng nghiệp, đối thủ cạnh tranh, đánh giá về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp an toàn hay mạo hiểm. - Đánh giá năng lực quản lý của doanh nghiệp thông qua quyết định thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động, đánh giá năng lực của người đại diện. Từ đó cho biết khả năng trả nợ của người đi vay. - Phân tích đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp: Xem xét các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ba năm gần nhất thông qua tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ cơ cấu vốn, chỉ tiêu về khả năng sinh lời, sản phẩm của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường... - Phân tích khả năng tạo lợi nhuận thông qua sản phẩm của doanh nghiệp, chính sách giá cả, chiến lược kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, sự ưa thích sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, chất lượng quản lý chi phí vốn, sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đồng thời phân tích điều kiện kinh doanh. Bên cạnh việc đánh giá khách hàng, cán bộ tín dụng cũng cần thường xuyên đánh giá từng khoản vay, khả năng thu hồi của khoản vay, từ đó đánh giá mức độ rủi ro và có biện pháp thích hợp bảo đảm thu hồi vốn, an toàn trong hoạt động tín dụng. Các NHTM cũng cần thường xuyên rà soát, quản lý danh mục tín dụng của mình để đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu về giới hạn, cơ cấu tín dụng được NHTM cấp trên giao trên cơ sở đó vận dụng phù hợp với thực tế từng địa bàn, từng khoảng thời gian. Hai là, khai thác có hiệu quả thông tin trong hoạt động tín dụng - Thu thập thông tin về khách hàng: Đối với cán bộ tín dụng, bên cạnh việc thu thập và thẩm định tính xác thực của thông tin do chính khách hàng cung cấp, cần thu thập thêm thông tin từ các bên có liên quan như đối tác của khách hàng, những ngân hàng mà khách hàng có quan hệ, các cơ quan quản lý khách hàng, Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC), Trung tâm thông tin của NHTM (TPR), hoặc từ cán bộ, nhân viên của khách hàng... Cán bộ tín dụng cũng cần đặc biệt chú ý những biểu hiện không bình thường của các luồng tiền mặt, chu chuyển thanh toán, bán hàng của khách hàng. - Thu thập thông tin về thị trường: Khi khách hàng đặt quan hệ tín dụng, bên cạnh việc khai thác thông tin về khách hàng, cán bộ tín dụng còn phải khai thác thông tin mang tính chất thị trường về sản phẩm khách hàng kinh doanh như: Dự đoán tình hình cung - cầu, giá cả sản phẩm trong từng thời kỳ và từng địa bàn nhất là những mặt hàng nhạy cảm, diễn biến thị trường của tài sản đảm bảo tiền vay. - Phân tích xử lý thông tin: Sau khi đã thu thập các nguồn thông tin, cán bộ tín dụng phải sàn lọc nguồn thông tin đã thu thập để phân tích, đánh giá khách hàng về khả năng tài chính, từ đó cán bộ tín dụng ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay, điều kiện cho vay nhằm hạn chế rủi ro có thể xẩy ra. Ba là, thắt chặt và thực hiện đúng quy trình tín dụng Trong thực hiện quy trình tín dụng cần phải tuân thủ đúng quy trình xét duyệt cho vay, cán bộ tín dụng phải kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng cần kiểm tra các điều kiện vay vốn của khách hàng như hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, nhu cầu vay, tính hiệu quả của dự án... Việc kiểm tra trong khi cho vay giúp cho cán bộ tín dụng kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không. Việc kiểm tra này thông thường dựa trên các hoá đơn tài chính, hợp đồng kinh tế, những diễn biến khác của khách hàng. Ngoài ra, trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, việc kiểm tra có thể định kỳ hoặc đột xuất để đảm bảo tính khách quan. Việc kiểm tra này giúp cán bộ tín dụng đánh giá chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn. Đối với những khách hàng là doanh nghiệp vay lần đầu hay khách hàng cá nhân lớn đều phải thông qua Hội đồng tín dụng, qua đó sàn lọc khách hàng có khả năng tài chính, kinh doanh hiệu quả để hạn chế rủi ro. Bốn là, nâng cao chất lượng thẩm định Thẩm định dự án/phương án sản xuất kinh doanh chính là việc đưa ra những nhận định về khả năng trả nợ, tính hiệu quả của dự án/phương án đó. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, cần bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm về nghiệp vụ tín dụng, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khoá học về thẩm định để cập nhật thông tin, cách thức thẩm định. NHTM cũng cần áp dụng công nghệ phần mềm về thẩm định dự án, trên cơ sở đó để đưa ra các kết quả chính xác và nhanh chóng. Khi thẩm định dự án ở các lĩnh vực khác nhau, cán bộ làm công tác thẩm định cần tham khảo và tìm hiểu thông tin dự án cũng lĩnh vực đầu tư để đưa ra các nhận định chính xác cũng như tìm hiểu lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật của dự án/phương án xin vay vốn của khách hàng. Cán bộ tín dụng cần thẩm định uy tín, khả năng tài chính của khách hàng. Công tác thẩm định tài chính giúp ngân hàng đánh giá đúng thực trạng tài chính của khách hàng trước khi có quyết định cho vay. Nếu khách hàng có dự án khả thi và có đủ nguồn vốn tham gia như cam kết... sẽ hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng. Để đánh giá tính hiệu quả của dự án, trong khi thẩm định, cán bộ tín dụng cần đánh giá dự án trên phương án động, các tình huống có thể xẩy ra, từ đó so sánh, đánh giá dự án và ra quyết định cho vay. Thẩm định dự án đồng thời cũng là tư vấn để khách hàng có thể sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả nhất, hoặc không nên đầu tư, hoặc cân nhắc lại vấn đề thiết bị, kỹ thuật, chủng loại sản phẩm... Ngoài ra, để nâng cao chất lượng thẩm định, cán bộ tín dụng không chỉ thẩm định khi cho vay mà còn cả sau khi cho vay để đánh giá h._.iệu quả của dự án đầu tư, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án sau được tốt hơn. Năm là, mở rộng cho vay có tài sản bảo đảm Đây là một giải pháp rất cần thiết và xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD), vì để đảm bảo an toàn khi cho vay thì cần phải có TSBĐ tiền vay. Thực tế cho thấy, diễn biến kinh tế phức tạp, hoạt động tín dụng luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Một trong những biện pháp để đảm bảo an toàn và hạn chế tổn thất khi rủi ro xẩy ra là tăng cường cho vay có bảo đảm, đây chính là nguồn ngân hàng thu hồi nợ sau xử lý. Tuy nhiên, việc xác định giá trị TSBĐ cần đảm bảo tính khách quan, TSBĐ phải có khả năng chuyển nhượng, đủ điều kiện pháp lý. Ngoài ra, các TCTD cũng cần thường xuyên theo dõi TSBĐ, nắm bắt các thông tin về TSBĐ, nếu có biến động lớn cần xem xét định giá lại tài sản. Thường xuyên thu thập các thông tin về tài sản cùng loại trên thị trường và trung tâm bán đấu giá sẽ giúp TCTD có cơ sở định giá TSBĐ. Sáu là, phân tán rủi ro tín dụng Rủi ro luôn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, một trong những biện pháp để hạn chế rủi ro và đạt được mục tiêu lợi nhuận là: “Không nên bỏ trứng vào một giỏ”. Trong kinh doanh, NHTM cần phân tán rủi ro theo các cách sau: - Đa dạng hoá phương thức cho vay: Trong hoạt động tín dụng có nhiều phương thức cho vay như : Cho vay hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay đồng tài trợ, cho vay theo dự án đầu tư... Cho vay hạn mức: Là việc cho vay ngắn hạn thường áp dụng cho khách hàng đã có quan hệ tín dụng thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả. Cho vay từng lần: Thường áp dụng cho khách hàng vay ngắn hạn và có chu kỳ hoạt động kinh doanh không ổn định, thường xuyên. Cho vay đồng tài trợ: Trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng có những khách hàng có nhu cầu vay lớn, một ngân hàng không đủ đáp ứng được nhu cầu vay đó hoặc việc tập trung cho vay một khách hàng dễ dẫn đến rủi ro nếu khách hàng không trả được nợ. Thông thường, các ngân hàng này sẽ cùng nhau tham gia thẩm định dự án và góp vốn cho vay để chia sẻ rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn thực hiện trên cơ sở ngân hàng đáp ứng cho toàn bộ hoặc một phần chi phí phát sinh trong dự án đầu tư của một doanh nghiệp. - Đa dạng hoá khách hàng: Để phân tán rủi ro và đạt được mục tiêu lợi nhuận, các NHTM có thể mở rộng cho vay với các thành phần kinh tế, cho vay nhiều đối tượng khách hàng và không tập trung vào một khách hàng. - Thực hiện bảo hiểm tín dụng: Đây chính là biện pháp nhằm san sẻ rủi ro tín dụng và thường được thực hiện dưới các loại như: Bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay. Để hạn chể rủi ro với tài sản bảo đảm, ngân hàng yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho toàn bộ giá trị tài sản bảo đảm và người hưởng quyền bồi thường là ngân hàng. Bảy là, đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư Việc làm này giúp ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng, nguồn tiền của ngân hàng được đầu tư vào nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề khác nhau. Để đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư có hiệu quả và an toàn, các chi nhánh NHTM cần có chiến lược kinh doanh lâu dài, ổn định dựa trên các vấn đề sau: - Bám sát định hướng tín dụng của toàn Ngành trong giai đoạn tới và những lĩnh vực mà Hội sở chính NHTM khuyến khích đầu tư để xây dựng kế hoạch, lĩnh vực cần đầu tư. - Trên cơ sở Định hướng hoạt động tín dụng của một số NHTM tại một số vùng kinh tế, căn cứ vào thực tế, thuận lợi và khó khăn trên địa bàn để xác định lĩnh vực đầu tư. Đối với các chi nhánh ngân hàng ở tỉnh, thành phố có thuận lợi về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, NHTM cần có định hướng phát triển đầu tư theo hướng mở rộng cho vay đối với lĩnh vực công nghiệp chế biến, các loại hình dịch vụ phục vụ xuất khẩu hàng nông sản như chè, cà phê, cao su, thuỷ hải sản... và cho vay đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm hàng xuất khẩu. Tám là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - Về năng lực công tác: Yêu cầu mỗi cán bộ trong ngân hàng, đặc biệt có liên quan tới công tác cho vay không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là phát hiện và ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng. - Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: Mỗi cán bộ ngân hàng phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm với công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao thì càng phải gương mẫu trong việc thực hiện quy chế cho vay, quy định về đảm bảo tiền vay, quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có như vậy không những giữ vững được phẩm chất đạo đức mà ý thức trách nhiệm cũng được nâng lên, xử lý công việc hiệu quả hơn, khắc phục được tư tưởng ỷ lại, trông chờ tạo ra chuyển biến tích cực trong quản lý. Quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong công tác, đồng thời phải căn cứ vào kết quả công tác của họ để có chế độ đãi ngộ, đối xử công bằng: Đối với cán bộ có thành tích xuất sắc cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ đạt được. Còn đối với cán bộ có sai phạm, tuỳ theo tính chất, mức độ mà có thể phê bình, hoặc xử phạt kỉ luật. Chín là, luôn nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng Việc bổ nhiệm các chức vụ liên quan đến công tác cho vay phải thực sự khách quan, đúng quy trình, lựa chọn những người có đủ năng lực và phẩm chất thực sự. Việc bố trí cán bộ tín dụng phải được chọn lọc và phù hợp với năng lực thực tế cũng như lĩnh vực công việc được phân công. 1.2.6.2 Nhóm biện pháp sử dụng các công cụ phái sinh Các nhà quản lý rủi ro tín dụng sẽ tập trung việc chuyển giao rủi ro tín dụng từ một ngân hàng này sang một đối tác khác bằng cách sử dụng các công cụ phái sinh. Đặc điểm chung của các công cụ này, chúng giữ nguyên tài sản có trên sổ sách kế toán của TCTD khởi tạo ra tài sản đó, đồng thời chuyển giao một phần tài sản này sang các đối tác khác, thông qua đó đạt được các mục tiêu như: Các ngân hàng khởi tạo có phương tiện để chuyển giao rủi ro tín dụng mà không cần phải bán tài sản có đi, khi việc bán tài sản làm suy yếu mối quan hệ khách hàng thì việc chuyển giao đảm bảo duy trì được mối quan hệ đó. a. Hợp đồng trao đổi tín dụng Đây là một trong những hình thức điển hình nhất của công cụ tín dụng phái sinh. Trong đó, hai tổ chức cho vay thoả thuận trao đổi cho nhau một phần các khoản thanh toán theo các hợp đồng tín dụng của mỗi bên. b. Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập Hợp đồng này có thể bao gồm cả những tổ chức tài chính đứng ra đảm bảo cho các bên tham gia một tỷ lệ thu nhập cụ thể trên các khoản tín dụng của họ. Ví dụ, tổ chức trung gian sẽ đảm bảo cho ngân hàng A có một tỷ lệ thu nhập trên khoản cho vay kinh doanh cao hơn mức lãi suất trái phiếu dài hạn của Chính phủ là 3%. Như vậy, ngân hàng A đã đổi những khoản thu nhập rủi ro từ khoản tín dụng lấy khoản thu nhập ổn định hơn. Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập có thể được xây dựng trên cơ sở một khoản cho vay thương mại mà ngân hàng A mới thực hiện. Ngân hàng A sau đó đồng ý thanh toán cho ngân hàng B toàn bộ các khoản thu từ món cho vay này, bao gồm cả vốn và lãi và cả những khoản tăng (giảm) giá trị thị trường của khoản cho vay. Về phần mình, ngân hàng B sẽ cam kết thanh toán cho ngân hàng A lãi suất LIBOR cộng với một lãi suất bổ sung và thanh toán cho ngân hàng A mức giảm giá trị thị trường của khoản cho vay. Về bản chất, ngân hàng B đã chấp nhận toàn bộ rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất (nếu khoản cho vay có lãi suất thả nổi hay giá trị của khoản cho vay nhạy cảm với những biến động trong lãi suất thị trường) gắn với khoản cho vay của ngân hàng A. Điều này như thể là ngân hàng B là người cho vay. c. Hợp đồng quyền tín dụng Hợp đồng quyền tín dụng là công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng giảm sút. Nếu ngân hàng lo lắng về chất lượng tín dụng của một khoản cho vay mới thực hiện, ngân hàng có thể ký hợp đồng quyền chọn tín dụng với một tổ chức kinh doanh quyền. Hợp đồng này sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ khoản cho vay nếu như khoản cho vay này giảm giá đáng kể hoặc không thể được thanh toán. Hợp đồng quyền tín dụng cũng được sử dụng để bảo vệ ngân hàng trước rủi ro chi phí vay vốn tăng do chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm. Khi ngân hàng lo ngại rằng mức xếp hạng tín nhiệm của mình có thể giảm trước khi ngân hàng phát hành các trái phiếu dài hạn để huy động thêm vốn và do vậy ngân hàng có thể bị buộc phải trả một mức lãi suất huy động vốn cao hơn. Trong trường hợp này ngân hàng sẽ mua hợp đồng quyền bán với mức chênh lệch lãi suất cơ bản cam kết trong hợp đồng được xác định là mức phổ biến trên thị trường hiện tại áp dụng đối với mức rủi ro tín dụng hiện tại của ngân hàng. Giống như các loại hợp đồng quyền khác, hợp đồng quyền tín dụng cũng mang mức chênh lệch lãi suất cơ bản. Hợp đồng quyền sẽ thanh toán toàn bộ phần chênh lệch lãi suất cơ bản thực tế (so với một chứng khoán không có rủi ro) vượt lên phần chênh lệch lãi suất cơ bản được thoả thuận. d. Hợp đồng quyền chọn trái phiếu Đối với việc sử dụng quyền chọn trái phiếu để phòng chống rủi ro tín dụng, NHTM chủ yếu sử dụng công cụ này trong các trường hợp nền kinh tế rơi vào các điều kiện khó khăn. Nguyên lý là lấy lãi ngoại bảng từ hợp đồng quyền chọn để bù đắp thua lỗ nội bảng. Theo đó, các NHTM sẽ thực hiện bảo hiểm trên cơ sở mua các quyền chọn bán trái phiếu nếu nhận thấy tình hình kinh tế bất lợi với các khoản cho vay. Ví dụ, theo kết quả dự báo, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng khó khăn trong thời gian tới. Theo đó, nếu kinh tế thực sự khó khăn, các khoản cho vay sẽ khó được hoàn trả. Nếu dự báo như trên, ngân hàng ngay lập tức thực hiện mua các quyền chọn bán trái phiếu. Lợi ích là nếu kinh tế thực sự khó khăn, giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm. Khi đó, chênh lệch giữa giá trái phiếu trên hợp đồng quyền chọn và giá trái phiếu trên thị trường sẽ là khoản lãi ngoại bảng. Ngân hàng sẽ dùng khoản lãi ngoại bảng này bù đắp những thua lỗ nội bảng bắt nguồn từ khoản cho vay bị ảnh hưởng bởi tình hình nền kinh tế. e. Hợp đồng tương lai Về cơ chế xử lý nghiệp vụ, sử dụng công cụ tương lai cũng tương tự như sử dụng hợp đồng quyền chọn. 1.2.7 Các chỉ tiêu đánh giá và nhận biết rủi ro tín dụng 1.2.7.1 Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân hàng. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ta dùng chỉ tiêu “tỷ lệ nợ quá hạn”. Tổng nợ quá hạn Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Nợ quá hạn bao gồm nợ nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng cao. Việc nợ quá hạn tăng chứng tỏ dư nợ khách hàng đang gặp khó khăn trong việc trả nợ cao, do đó xác suất sau này khách hàng trả nợ cho ngân hàng là thấp. Mặt khác, ngân hàng còn phải tăng chi phí trong việc giám sát, đôn đốc thu nợ và các chi phí khác có liên quan khác có thể có như chi phí liên quan đến toà án, tài sản đảm bảo, đặc biệt là chi phí cơ hội của việc thay vì cấp tín dụng cho một khách hàng có khả năng thanh toán tốt hơn. 1.2.7.2 Tỷ lệ nợ xấu Dư nợ xấu Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ xấu = x 100% Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7. Dư nợ có khả năng mất vốn Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Nếu tỷ lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì đây là những khách hàng có dấu hiệu khó khăn về tài chính nên khó trả nợ cho ngân hàng. 1.2.7.3 Tỷ lệ mất vốn Tổng dư nợ Tỷ lệ mất vốn = x 100% Theo Quyết định 493/QĐ-NHNN: Nợ có khả năng mất vốn chính là các khoản nợ thuộc nhóm 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7. Tỷ lệ này càng cao thì thiệt hại cho ngân hàng càng lớn vì nó phản ánh những khoản tín dụng mà ngân hàng có khả năng bị mất vốn và phải dùng quỹ dự phòng để bù đắp. 1.2.7.4 Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng Tỷ lệ trích lập dự phòng tự do = Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức: R = max { 0, ( A-C ) } x r Trong đó: R: Là số tiền dự phòng cụ thể phải trích. A: Là giá trị của khoản nợ. C: Là giá trị của tài sản đảm bảo. r: Là tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể. Tỷ lệ trích lập dự phòng chung: Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 và Điều 7 quy định này. Hai tỷ lệ này càng cao thì chứng tỏ rủi ro tín dụng càng cao vì dự phòng trích lập nhiều sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận, thậm chí là gây thua lỗ cho ngân hàng. 1.2.7.5 Mức độ tập trung tín dụng Mức độ tập trung tín dụng là tỷ trọng đầu tư vốn tín dụng phân theo đối tượng khách hàng, từng nhóm khách hàng, từng ngành, từng thời hạn, từng loại tiền và từng khu vực địa lý. Mức độ tập trung tín dụng cụ thể đối với từng chỉ tiêu là bao nhiêu thì tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng, vào chiến lược và mục tiêu của từng ngân hàng trong từng thời kỳ. a. Mức độ tập trung tín dụng theo từng ngành nghề kinh doanh Mức độ tập trung tín dụng theo ngành nghề kinh doanh là mức độ dồn vốn tín dụng theo danh mục các ngành kinh tế như: Ngành điện, xi măng, xây lắp... Mức độ tập trung này lại còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố: Thứ nhất, là chính sách tín dụng, mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ. Thứ hai, tuỳ vào trạng thái nền kinh tế và định hướng chung của Nhà nước mà mỗi ngành kinh tế có những xu hướng phát triển khác nhau, mở rộng hay thu hẹp. Khi tập trung vốn tín dụng lớn vào một ngành nghề thì điều đó cũng có nghĩa là mức độ rủi ro có thể gặp phải là rất lớn. Vì vậy, ngân hàng cần nghiên cứu để nắm bắt được xu hướng phát triển của từng ngành nghề kinh doanh để từ đó có chính sách tín dụng hợp lý, tránh được rủi ro. b. Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn là tỷ trọng dồn vốn tín dụng vào các hình thức tín dụng: Ngắn hạn, trung hạn, dài hạn trong danh mục đầu tư của ngân hàng. Mức độ tập trung tín dụng càng cao thì rủi ro càng lớn. Dư nợ tín dụng ngắn hạn Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn = x 100% Dư nợ tín dụng trung, dài hạn Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ tín dụng TDH = x 100% c. Mức độ tập trung theo loại tiền Dư nợ bằng VND Mức độ tập trung tín dụng theo loại tiền là tỷ trọng dồn vốn tín dụng vào VND hay ngoại tệ, phụ thuộc vào chính sách tín dụng của từng ngân hàng trong từng thời kỳ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng bằng đồng tiền nào càng cao thì rủi ro có thể gặp phải càng lớn. Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ tín dụng bằng VND = x 100% Dư nợ bằng ngoại tệ Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ = x 100% d. Mức độ tập trung tín dụng theo đối tượng khách hàng Đối tượng khách hàng được xem xét ở đây bao gồm: Một khách hàng và một nhóm khách hàng. Dư nợ tín dụng của 1 KH Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ TD của 1 KH = x 100% Dư nợ tín dụng của 1 nhóm KH Tổng dư nợ = x 100% Nếu tập trung tín dụng vào một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng càng lớn thì điều này có thể giúp cho ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận nhưng cũng tương đương với việc là có thể gặp phải rủi ro rất lớn. Vì vậy trước khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải thẩm định khách hàng/nhóm khách hàng thật kỹ lưỡng để tránh rủi ro tín dụng có thể xẩy ra. 1.3 KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1.3.1 Kinh nghiệm về quản lý rủi ro tín dụng của một số ngân hàng trên thế giới. Kinh nghiệm của Canada Ở Canada để giúp các nhà ngân hàng, các nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết, đáng tin cậy, người ta đã thành lập các công ty chuyên kinh doanh thông tin tín dụng. Một trong những công ty hàng đầu về lĩnh vực này là Công ty Ben (Services Financiers BEN). Công ty này có một số quan điểm và cách thức hoạt động như sau: - Ai cần thông tin tín dụng: Theo kinh nghiệm của BEN thì các nhà sản xuất và buôn bán, các công ty tài chính và dịch vụ, các ngân hàng và các khách hàng lớn họ cần những thông tin tín dụng để có quyết định đúng đắn về kinh doanh, giảm tối đa rủi ro có thể xẩy ra. - Cách thu thập thông tin thông tin tín dụng: Trước hết cần tra cứu những thông tin đã có được cập nhật và lưu trữ một cách khoa học. Bước tiếp theo, là thu thập qua việc nghiên cứu các tài liệu, tin tức của các cơ quan và các tổ chức dịch vụ của Nhà nước, như cơ quan thống kê, tài chính, thuế... Đồng thời cũng phải quan tâm đến nguồn thông tin bên ngoài như báo chí, các nhà cung cấp, khách hàng... Nhiệm vụ của cơ quan thông tin tín dụng: Thứ nhất, thu thập thông tin đảm bảo, chính xác, trung thực và nhanh chóng. Thứ hai, trong quá trình điều tra bảo đảm tính khách quan, không thiên vị hay vụ lợi. Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của người đưa tin và người mua tin. Thứ tư, tôn trọng và bảo vệ sự kín đáo của người đưa tin. - Cách thức điều tra: Trước tiên là cần phải đến đúng giờ. Các nhân viên điều tra phải là những người chuyên nghiệp, có kinh nghiệm. Khi tiếp xúc phải sử dụng các phương pháp phỏng vấn ban điều hành doanh nghiệp. Điều quan trọng là sau cuộc tiếp xúc là nhân viên thông tin tín dụng phải có một khả năng nhận xét. - Cách thức sử dụng thông tin: Trước hết là phải xác thực thông tin, sau đó phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bước tiếp theo là xem xét sự phát triển và mối quan hệ qua lại với các nhà cung cấp, tiêu thụ hàng hoá. Qua việc phân tích những thông tin đã có, cần phải tiến hành “phân hạng rủi ro tín dụng”. 1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc quản lý rủi ro tín dụng Qua kinh nghiệm quản lý rủi ro của một số nước ở trên đã đem lại một số bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam như sau: Thứ nhất, phân quyền phán quyết tín dụng. NHTM cần chú ý hơn đến việc phân quyền và kiểm soát việc phân quyền phán quyết trong cho vay để có thể giải quyết nhanh trong cho vay, tăng trách nhiệm của mỗi cán bộ tín dụng trong cho vay. Có thể kết hợp việc phân quyền những hạn mức tín dụng cho các cán bộ tín dụng dựa vào kinh nghiệm công tác, năng lực, uy tín của họ để họ có quyền phán quyết tín dụng, từ đó họ phải chịu trách nhiệm và cũng chủ động, sáng tạo hơn trong cho vay những khoản nằm trong phạm vi của họ. Thứ hai, các NHTM Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến tính chính xác, đầy đủ, kịp thời của thông tin tín dụng. Các NHTM cần phải đào tạo các nhân viên của mình không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn là những nhà “săn tin” chuyên nghiệp để giúp ngân hàng có được đầy đủ các thông tin cần thiết trong việc quyết định cho vay. Thứ ba, tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay. Thứ tư, cần chú trọng trong công tác giám sát các khoản cho vay/khách hàng vay để xem khách hàng vay có sử dụng vốn đúng mục đích không, tình hình tài chính khách hàng như thế nào.... Một số lớn cán bộ tín dụng ở các NHTM Việt Nam cho rằng giải ngân, thu nợ là xong mà chưa quan tâm đến khâu kiểm tra, giám sát khoản cho vay/khách hàng vay hoặc là rất lơ là trong việc kiểm tra giám sát và điều này là rất sai lầm và chính là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK 2.1 KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của NH Techcombank. Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam (Techcombank) là một trong những Ngân hàng TMCP đầu tiên xuất hiện trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang chuyển sang nền Kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng. Được thành lập từ ngày 27 tháng 9 năm 1993 theo giấy phép hoạt động số 0040/ NĐ- GP ngày 06/08/1993 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp, giấp phép thành lập số 1543/QĐ của UBND Hà Nội cấp ngày 04/9/1993 và giấy phép kinh doanh số 055679 cấp ngày 07/9/1993 của Hội KTVN trong thời hạn 20 năm. Sau một thời gian hoạt động với nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế đất nước, ngày 18/10/1997, Techcombank đã được Ngân hàng nhà nước Việt Nam ra quyết định số 330/QĐ-NH5 kéo dài thời gian hoạt động lên 99 năm. Vốn điều lệ của Ngân hàng tính đến thời điểm ngày 25/1/2006 đã là 830,895tỷ VND trải qua 26 lần tăng vốn điều lệ, trong 3-5 năm tới Ngân hàng phấn đấu là một trong những Ngân hàng tư nhân có vốn điều lệ > 1000tỷ. Số cán bộ công nhân viên đã lên tới gần 1000 người. Mạng lưới chi nhánh giao dịch ngày càng được mở rộng và hiện nay là hơn 50 chi nhánh, điểm giao dịch trên toàn quốc, phấn đấu tới năm 2010 là 200 chi nhánh và điểm giao dịch. Tốc độ tăng doanh thu và tổng tài sản hàng năm thường đạt 30%, đến nay tổng tài sản ước khoảng trờn 10850 tỷ VND. Sơ đồ tổ chức bộ máy Ban kiÓm so¸t §¹i héi cæ ®«ng V¨n phßng H§QT H§QT Héi ®ång tÝn dông Ban tæng gi¸m ®èc Uû ban qu¶n lý tµi s¶n cã – nî Trung t©m UD&PT s¶n phÈm dÞch vô c«ng nghÖ Ng©n hµng Trung t©m thÎ Trung t©m thanh to¸n Ng©n hµng ®¹i lý Phßng kiÓm so¸t néi bé Phßng kÕ ho¹ch tæng hîp Phßng kÕ to¸n tµi chÝnh Phßng qu¶n lý nguån vèn, giao dÞch tiÒn tÖ vµ ngo¹i hèi Phßng qu¶n lý nh©n sù Phßng qu¶n lý tÝn dông Phhßng tiÕp thÞ, ph¸t triÓn s¶n phÈm vµ ch¨m sãc kh¸ch hµng V¨n phßng Ban ®µo t¹o Ban ph¸t triÓn s¶n phÈm dÞch vô Ng©n hµng doanh nghiÖp Ban qu¶n lý chÊt l­îng Phßng hç trî vµ PT øng dông Phßng c«ng nghÖ thÎ vµ Ng©n hµng ®iÖn tö Phßng h¹ tÇng CN vµ TT Phßng dÞch vô thÎ Phßng hÖ thèng th«ng tin thÎ Ban PTSPDV NH c¸ nh©n Phßng thanh to¸n quèc tÕ Phßng thanh to¸n trong n­íc Ban HT&KS giao dÞch Ban dich vô Ng©n hµng quèc tế tÕ Ban qu¶n trÞ rñi ro Ban qu¶n lý uû th¸c ®Çu t­, qu¶n lý tµi s¶n vµ thÞ tr­êng vèn 2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của NH Techcombank năm 2001 – 2007 2.1.2.1 Huy động vốn Trong hoạt động Ngân hàng, huy động vốn là một lĩnh vực cạnh tranh gay gắt và sôi động. Trong những năm qua, vốn huy động tại Techcombank liên tục tăng, đặc biệt trong năm 2004 con số này đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua (166%). Số vốn huy động từ các doanh nghiệp và tổ chức năm 2004 của Techcombank đạt 2.096 tỷ đồng, chiếm 30% tổng vốn huy động của Ngân hàng. Trong số đó phần lớn là huy động đồng vốn nội tệ (chiếm 78%). Nguồn vốn huy động từ nhóm khách hàng cá nhân của Techcombank đạt 2.129 tỉ đồng, chiếm 36% trong cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng. Trong đó, nguồn vốn huy động bằng Ngoại tệ quy đổi đạt 803 tỉ đồng, tăng 117 tỉ đồng, VND đạt 1.326 tỉ đồng, tăng 366 tỉ đồng. Biểu đồ 1: Tình hình huy động vốn Đơn vị tính: triệu VNĐ (Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank) 2.1.2.2. Hoạt động cho vay Bảng 1: Dư nợ cho vay của Techcombank theo các ngành kinh tế. Đơn vị tính: triệu VNĐ Khách hàng theo ngành kinh tế 31/12/2003 Tỷ trọng 31/12/2004 Tỷ trọng Thương mại 1.133.371 50% 1.497.585 43% Nông lâm nghiệp 86.112 4% 70.007 2% Sản xuất và chế biến 674.211 29% 123.171 4% Xây dựng 108.630 5% 163.607 5% Vận tải và thông tin liên lạc 53.418 2% 134.679 4% Khách sạn 48.303 2% 140.322 4% Các ngành khác 192.461 8% 1.336.169 38% 2.296.506 100% 3.465.540 100% (Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank) Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng được Techcombank xây dựng và thực hiện nhất quán trong toàn hệ thống, đó là cơ sở nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá, cấp tín dụng và giám sát trong toàn hệ thống Techcombank đồng bộ và hiệu quả. Các hoạt động chính của quản trị rủi ro tín dụng tập trung vào việc phân loại và đánh giá khách hàng, phân loại khoản vay, hệ thống phê duyệt và kiểm soát tín dụng. Đến cuối ngày 31/12/2004, tỉ lệ nợ quá hạn trước dự phòng rủi ro trong tổng dư nợ của Techcombank đạt 3,34% tổng dư nợ giảm so với cùng thời điểm năm 2003 (3,68%). Tỷ lệ nợ quá hạn sau dự phòng tính đến cuối ngày 31/12/2004 là 0,61%. 2.1.2.3 Dịch vụ thanh toán và các hoạt động phi tín dụng. Ngân hàng Techcombank là một ngân hàng có dịch vụ thanh toán có chất lượng cao. Năm 2004 là năm thứ 3 liên tiếp Techcombank được trao chứng chỉ của Ngân hàng The Bank of New York cho “Ngân hàng hoạt động xuất sắc nhất trong thanh toán quốc tế với tỉ lệ điện chuẩn (STP) cao” và các chứng chỉ tương tự từ ngân hàng Citibank và Standard Chartered.Doanh thu từ dịch vụ phi tín dụng cũng đạt 50 tỉ đồng, tăng 43% so với năm 2003. Doanh số thanh toán quốc tế đạt 520 triêu USD qui đổi, tăng gần 42% so với năm 2003, tỉ lệ điện chuẩn đạt trên 99%. Biểu đồ 2: Mức tăng trưởng doanh số thanh toán quốc tế (triệu USD) (Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank) Hệ thống Ngân hàng đại lý của Techcombank cũng càng ngày càng được mở rộng, đã có thêm 3 Ngân hàng nước ngoài cấp hạn mức xác nhận L/C cho Techcombank là KBC, HSBC và Sumitomo Mitsui. Cùng với việc kí kết hợp đồng tài trợ thương mại với ADB, Techcombank có thể đảm bảo đủ hạn mức cho các đơn vị có nhu cầu thanh toán và bước đầu đàm phán giảm phí xác nhận L/C, mang lại lợi ích trực tiếp cho khách hàng và Ngân hàng. Tính đến thời điểm cuối năm 2004, Techcombank đã có quan hệ với 196 ngân hàng đại lý tại 86 quốc gia trên thế giới, với hơn 10.000 địa chỉ. 2.2 KHÓ KHĂN, TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NH TECHCOMBANK 2.2.1 Tình hình về hoạt động cho vay tại NH Techcombank. Cùng với sự tăng trưởng ổn định của nguồn vốn huy động, hoạt động tín dụng của Techcombank cũng có chuyển biến tích cực cả về lượng và chất. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ cho vay 3.518 100,00 4.274 100,00 2.553 100,00 1. Theo loại hình doanh nghiệp DN quốc doanh 2.974,614 84,55 3.604,573 82,33 869,81 75,3 DN ngoài quốc doanh 543,386 15,45 669,427 17,67 625,312 24,7 2. Theo loại tiền VND 1.710,531 48,76 2.014,913 47,14 1.393,046 54,57 Ngoại tệ quy VND 1.797,814 51,24 2.259,087 52,86 1.159,954 45,43 3. Theo thời hạn Ngắn hạn 2.392,77 68,02 3.128,216 73,19 1.962,906 76,88 Trung, dài hạn 1.125,23 31,98 1.145,784 26,81 590,094 23,12 (Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank) Bảng 3. Cho vay và tạm ứng cho khách hàng đơn vị: triệu VNĐ Khoản mục 2006 2007 Cho vay thông thường 5.562.678 7.356.145 Nợ chờ xử lý đã có tài sản xiết nợ, gán nợ 58.586 52.508 Nợ chờ xử lý không có tài sản xiết nợ, gán nợ 16.736 10.890 Nợ cho vay được khoanh 2.094 - Tổng cộng 5640094 7419543 2.2.2 Thực trạng rủi ro tín dụng tại NH Techcombank Qua phân tích về tình hình hoạt động tín dụng của NH Techcombank có thể thấy: Tín dụng tăng trưởng khá tốt qua các năm, cơ cấu cho vay ngày càng hợp lý. Tuy nhiên, để đánh giá tình hình tăng trưởng tín dụng có thực sự tốt không và chất lượng tín dụng có thực sự cao hay không thì cần phải xem mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng được thể hiện đặc các chỉ tiêu dưới đây: 2.2.2.1 Thực trạng nợ quá hạn Nợ quá hạn là các khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Một khách hàng có nhiều khoản vay mà chỉ một khoản vay quá hạn thì các khoản vay khác mặc dù chưa đến hạn thanh toán cũng bị chuyển sang nợ quá hạn. Chỉ tiêu nợ quá hạn được xem xét theo bốn tiêu thức đó là: Nợ quá hạn theo thời hạn, nợ quá hạn theo loại tiền, nợ quá hạn theo loại hình doanh nghiệp, nợ quá hạn theo loại hình kinh tế. Thực trạng nợ quá hạn theo thời hạn Ngân hàng đã phân loại nợ quá hạn theo thời hạn. Việc phân loại theo cách này sẽ giúp Ngân hàng thấy được nợ quá hạn chủ yếu tập trung ở cho vay ngắn hạn hay cho vay trung dài hạn và nguyên nhân là tại sao, từ đó Ngân hàng sẽ cân đối giữa các hình thức cho vay theo thời hạn và các biện pháp quản lý nợ cũng như các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro có thể xẩy ra cho Ngân hàng. Bảng 4 : Tình hình nợ quá hạn theo thời hạn Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền (tỷ đồng) Tỷ lệ NQH Số tiền (tỷ đồng) Tỷ lệ NQH Số tiền (tỷ đồng) Tỷ lệ NQH Nợ quá hạn 96,5 2,74% 105 2,46% 19,9 0,78% Nợ quá hạn (ngắn hạn) 83,337 3,48% 89,67 2,87% 2,997 0,15% Nợ quá hạn (trung, dài hạn) 13,163 1,17% 15,33 1,33% 16,903 2,86% (Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NH Techcombank năm 2005-2007) Năm 2005, NQH là 96,5 tỷ đồng, tỷ lệ NQH là 2,74%. Năm 2006, NQH tăng lên 105 tỷ đồng, tăng 4,5 tỷ đồng so với năm 2005 về số tuyệt đối, nhưng tỷ lệ NQH giảm xuống còn 2,46%. Năm 2007, NQH giảm xuống còn 19,9 tỷ đồng, giảm 85,1 tỷ đồng so với năm 2006 và tỷ lệ NQH giảm xuống rất nhiều còn 0,78%. Tỷ lệ NQH giảm dần qua các năm, điều này chứng tỏ chất lượng tín dụng nói chung ngày càng tăng, công tác quản lý nợ tại Ngân hàng ngày càng tốt. Đạt được kết quả như vậy là do bộ phận tín dụng đã thực hiện nghiêm túc quy trình cho vay đối với từng loại khách hàng, phân tách rõ ràng chức năng, trách nhiệm của từng phòng ban trong bộ phận tín dụng, đảm bảo các bước trong quy trình tín dụng được khách quan, hạn chế được sự thông đồng giữa cán bộ tín dụng và khách hàng vay. Ngoài ra đây còn là kết quả của việc thực hiện kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay của bộ phận tín dụng và bộ phận kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó là sự nỗ lực rất lớn của Ngân hàng trong việc chủ động tìm kiếm khách hàng có hoạt động kinh doanh tốt để hỗ trợ vốn, tìm kiếm các phương án/dự án kinh doanh khả thi. NQH ngắn hạn trong tổng NQH ở năm 2005, 2006 chiếm tỷ trọng rất lớn (thể hiện rõ trên biểu đồ), NQH ngắn hạn chủ yếu tập trung ở ngành công nghiệp chế biến, xây dựng, thương nghiệp, nông lâm nghiệp... Chứng tỏ chất lượng một số khoản cho vay ngắn hạn còn chưa tốt. Nguyên nhân của sự gia tăng NQH ngắn hạn: Thứ nhất là do các khách hàng vay gặp nhiều khó khăn: Sức ép cạnh tranh từ hàng hoá ngoại nhập do thực hiện các cam kết hội ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22422.doc
Tài liệu liên quan