Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh tóan quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Lời nói đầu Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy triển vọng. Lịch sử đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc cầu nối thương mại quốc tế. Theo dự báo của Ngân hàng tái thiết và phát triển Quốc tế (International Bank of Restructuring and Developing – IBRD) trong vòng 10 năm tới, thương mại quốc tế sẽ gia tăng 6% so với 4% trong 10 năm qua. Vượt

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh tóan quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua không gian và thời gian, những luồng chu chuyển hàng hoá, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết vững bền giữa cung và cầu ở những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi - thanh toán quốc tế. Được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, thuận tiện và nhanh chóng của các giao dịch thương mại. Cùng với xu hướng hội nhập ngày càng tăng, các mối giao lưu thương mại cũng ngày càng được mở rộng. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú. Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó. Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Thậm chí những đơn vị, tổ chức này đã phải nhận lấy những bài học kinh nghiệm đắt giá. Thực trạng trên cho thấy việc phát hiện, phòng ngừa những rủi ro trong thanh toán quốc tế đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ là một việc làm cần thiết mà các Ngân hàng Thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm chú trọng. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng chứng từ, đề tài: “Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín Dụng Chứng Từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam” được chọn làm nội dung nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp. Trên cơ sở kiến thức lý luận và thực tiễn cùng những phân tích, dẫn chứng cụ thể, người viết hy vọng luận văn vừa đảm bảo tính xác thực, vừa mang tính hữu ích khả thi. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, kết cấu của luận văn gồm 3 chương sau: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về Tín Dụng Chứng Từ và rủi ro tiềm ẩn trong phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ. Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế và những rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Phạm vi đề tài: Chủ yếu tìm hiểu tình hình, kinh nghiệm thực tế, những vấn đề thực trạng còn tồn tại trong công tác thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại hai ngân hàng thương mại điển hình nhất của Việt Nam: ngân hàng Ngoại thương trung ương và Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội. Từ thực tế đó, em xin nêu ra một số ý kiến đóng góp nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Rủi ro trong thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ mang tính chất tiềm ẩn và hết sức phức tạp, với thời gian nghiên cứu và tìm hiểu thực tế không nhiều, trình độ người viết còn hạn chế nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và chưa đáp ứng được hết yêu cầu của độc giả. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, bạn đọc và những người có cùng mối quan tâm tới vấn đề này. Hoàn thành luận văn này em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới thầy giáo PGS-TS Nguyễn Đức Dỵ đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành luận văn. Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại Thương – trường Đại học Ngoại Thương đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm học tập vừa qua. Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tín dụng chứng từ và rủi ro tiềm ẩn trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1. Thanh toán quốc tế và phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu 1.1. Khái niệm, điều kiện và vai trò của thanh toán quốc tế 1.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT) Dưới giác độ kinh tế, TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế trong quan hệ thanh toán giữa các nước. Trong quan hệ đó, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà các bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được quy định lại thành những điều kiện gọi là các điều kiện thanh toán quốc tế sau: Điều kiện về tiền tệ Điều kiện về địa điểm Điều kiện về thời gian Điều kiện về phương thức thanh toán Điều kiện về đảm bảo hối đoái Những điều kiện này được thể hiện trong các điều khoản thanh toán của hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, các hiệp định thương mại, các hợp đồng mua bán ngoại thương ký kết giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Trong quan hệ mua bán với các nước, người làm công tác thanh toán phải nghiên cứu kỹ các điều kiện TTQT để có thể vận dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thi hành các hợp đồng mua bán ngoại thương nhằm phục vụ các yêu cầu chính sách kinh tế đối ngoại của quốc gia cũng như đem lại lợi ích cho mỗi doanh nghiệp. 1.1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế Hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước. Thông qua hoạt động TTQT, chúng ta có thể tận dụng được vốn, công nghệ nước ngoài để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Hoạt động TTQT là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Hoạt động TTQT của các ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó là công cụ, là cấu nối trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới. Hoạt động TTQT giúp cho doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Do vị trí địa lý của các bạn hàng thường cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng của người mua, của bên nợ. Đồng thời trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, tình trạng lừa đảo ngày càng tăng nên rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu ngày càng nhiều. Tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp các nhà xuất khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình kinh doanh quốc tế, nhờ đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Đối với ngân hàng thương mại, việc mở rộng hoạt động TTQT có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Đây không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác phát triển. Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh doanh quốc tế, trên cơ sở đó ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ như huy động vốn ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác, nhờ đó quy mô hoạt động của ngân hàng ngày càng lớn. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh đối ngoại giúp cho ngân hàng nâng cao uy tín và ngày một tạo niềm tin vững chắc cho ngân hàng. Tóm lại, trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt và trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần tăng thu nhập, uy tín và khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. 2. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu Phương thức TTQT là việc tổ chức quá trình trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giưã người xuất khẩu và người nhập khẩu Thực chất phương thức thanh toán là cách thức người bán thu tiền còn người mua trả tiền. Trong buôn bán Quốc tế có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Tuy vậy, việc lựa chọn các phương thức đều phải xuất phát từ nhu cầu của người bán, thu tiền nhanh, đầy đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng. Trong ngoại thương có 5 phương thức thanh toán sau thường được áp dụng bao gồm: Phương thức thanh toán bằng tiền mặt (Cash Payment) + CIA: cash in advance + CBD: Cash before delivery + COD: Cash on delivery + CAD: Cash against document Phương thức chuyển tiền ( Remittance ) Phương thức ghi sổ ( Open account ) Phương thức nhờ thu ( Collection of payment ) + Nhờ thu phiếu trơn ( clean collection ) + Nhờ thu kèm chứng từ ( documentary collection ) Phương thức tín dụng chứng từ ( Documentary credit ) Mỗi phương thức thanh toán có những đặc trưng riêng về các bên tham gia, cách áp dụng cũng như ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên dưới đây chỉ đề cập đến ba phương thức thanh toán quốc tế phổ biến nhất. Trong mục này, phương thức Tín dụng chứng từ được phân tích một cách khái quát nhất về đặc trưng nhằm mục đích so sánh với đặc trưng của phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ thu. Bảng 1: Đặc trưng của 3 phương thức thanh toán Quốc tế chủ yếu Đặc trưng phương thức thanh toán Các bên tham gia Ưu, nhược điểm Trường hợp áp dụng Mức độ rủi ro đối với nhà xuất khẩu Mức độ rủi ro đối với nhà nhập khẩu Mức độ rủi ro đối với Ngân hàng Chuyển tiền (Remittance) -Người trả tiền -Người hưởng lợi -Ngân hàng chuyển tiền -Ngân hàng Đại lý của ngân hàng chuyển tiền - Ưu: đơn giản, chi phí thấp - Nhược: không chặt chẽ trong quy trình, không ràng buộc trách nhiệm giữa các bên Thanh toán tiền phi mậu dịch Rủi ro cao Không Không Nhờ thu (Collection of Payment) -Người bán -Người mua -Ngân hàng bên bán -Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán Nhờ thu phiếu trơn Thanh toán giữa công ty mẹ và công ty con hoặc các chi nhánh Rủi ro vì việc nhận hàng của người mua tách khỏi khâu thanh toán Rủi ro khi Hối phiếu đến sớm hơn chứng từ hàng hoá. Không Nhờ thu kèm chứng từ Lô hàng có giá trị nhỏ, hai bên mua bán tin nhau -Người mua trì hoãn thanh toán -Không khống chế được việc trả tiền của người mua Không Không 3. Tín dụng chứng từ (Documentay credit) -Người nhập khẩu -Người xuất khẩu -Ngân hàng mở L/C -Ngân hàng thông báo -Ngân hàng xác nhận -Ngân hàng thanh toán -Thanh toán chặt chẽ trên cơ sở chứng từ -Không căn cứ vào hàng hoá áp dụng phổ biến trong thanh toán Quốc tế -Lập chứng từ sai -Rủi ro khi vận chuyển… -Rủi ro vận chuyển hàng hoá chứng từ… -Rủi ro do tư cách nhà nhập khẩu -Rủi ro do nhà nhập khẩu phá sản… -Rủi ro do tỷ giá, do không tuân thủ UCP… 3. Khái niệm, trình tự tiến hành và nội dung của phương thức Tín dụng chứng từ 3.1. Khái niệm phương thức Tín dụng chứng từ Hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được áp dụng phổ biến nhất trong TTQT. Việc thực hiện các nghiệp vụ về thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ được điều chỉnh bởi văn bản “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, bản sửa đổi năm 1993” (gọi tắt là UCP.500) của Phòng thương mại quốc tế Paris. Theo văn bản này thì phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng), theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng), sẽ mở một thư tín dụng cho người hưởng lợi do khách hàng chỉ định trong đó cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người đó (người hưởng lợi của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. 3.2. ý nghĩa của phương thức tín dụng chứng từ Trong giao dịch thương mại quốc tế hiện đại, các bên đối tác mua bán thường lựa chọn Tín dụng chứng từ làm phương thức thanh toán. Sở dĩ tín dụng chứng từ được ưa chuộng và sử dụng phổ biến như vậy là do nó có những đặc điểm nổi bật so với các phương thức thanh toán khác. Nếu như phương thức chuyển tiền, nhờ thu gây bất lợi cho một bên người mua hoặc một bên người bán, cũng có khi là cả hai bên thì phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt hơn, nó không những mang lại một số quyền lợi nhất định cho Ngân hàng mà nó còn đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên tham gia xuất nhập khẩu: Người bán đảm bảo được thanh toán nếu xuất trình được bộ chứng từ hoàn chỉnh, hợp lệ, còn người mua cũng đảm bảo nhận được hàng đúng thời hạn, đúng như quy định trong hợp đồng. Cụ thể, sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có những ý nghĩa nhất định như sau: 3.2.1. Đối với nhà xuất khẩu Là người hưởng lợi của thư tín dụng, nhà xuất khẩu có được đảm bảo rằng khi xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của thư tín dụng (L/C) cho ngân hàng, nhà xuất khẩu sẽ nhận được tiền thanh toán. Tình trạng tài chính của người mua được thay thế bằng việc ngân hàng mở thư tín dụng cam kết trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu trên cơ sở chứng từ được trao phù hợp với các điều khoản của L/C. 3.2.2. Đối với nhà nhập khẩu Trước hết, nhà nhập khẩu sẽ nhận được hàng hoá như thể hiện trong các chứng từ được ngân hàng mở L/C ghi rõ trong thư tín dụng. Anh ta cũng được bảo đảm rằng tài khoản của mình sẽ chỉ bị ghi nợ số tiền của thư tín dụng khi tất cả các chỉ thị của thư tín dụng được thực hiện đúng. Trong trường hợp ngân hàng áp dụng mức miễn ký quỹ 100% hoặc một tỷ lệ miễn ký quỹ nhất định nào đó, nhà nhập khẩu sẽ không bị đọng vốn vì không phải ứng trước tiền. Hơn nữa, nhờ có sự bảo đảm về thanh toán, nhà nhập khẩu có thể tiến hành thương lượng các điều kiện tốt hơn về hàng hóa như giá cả, chất lượng và trên hết là có thêm cơ hội để nhập được hàng hoá mà mình cần. 3.2.3. Đối với ngân hàng thương mại (NHTM) Có thể nói, thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ là một loại hình dịch vụ không thể thiếu của ngân hàng phục vụ cho người nhập khẩu nên khi hoạt động thanh toán đạt hiệu quả cao sẽ đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng với một mức rủi ro tương đối thấp. Khi tiến hành nghiệp vụ thanh toán L/C, ngân hàng có được một nguồn thu ổn định từ việc thu phí như phí mở, sửa đổi, điều chỉnh L/C, phí thông báo, thanh toán, xác nhận L/C (các khoản phí trong nghiệp vụ thanh toán L/C nói chung khá cao, cao hơn so với những phương thức thanh toán khác vì nghiệp vụ này tương đối phức tạp, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao). Ngoài ra khi quy định các khoản ký quỹ cho doanh nghiệp mở L/C ngân hàng còn huy động thêm được một lượng vốn đáng kể phục vụ cho hoạt động của các nghiệp vụ khác như cho vay xuất nhập khẩu, xác nhận, bảo lãnh... Hơn nữa, với việc thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán L/C sẽ góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên nhiều phương diện khác nhau không chỉ ở trong nước mà ngay cả trên trường quốc tế. 3.3. Cơ sở pháp lý của thanh toán Tín dụng chứng từ: Ngày nay, thương mại Quốc tế phát triển rộng khắp trên toàn cầu, các quốc gia tham gia giao dịch, mua bán trên thị trường Quốc tế rất lớn. Với lịch sử phát triển, nền văn hoá mang bản sắc riêng, hệ thống pháp luật, thể chế chính trị khác biệt…, các quốc gia luôn gặp phải những khó khăn trở ngại trong giao dịch thương mại với nhau. Vì vậy, cần thiết phải có những quy định, luật lệ mang tính thống nhất cho tất cả các quốc gia tham gia thương mại Quốc tế, do các tổ chức có trách nhiệm, uy tín trên thế giới soạn thảo và ban hành nhằm ngăn ngừa, giải quyết những khó khăn và trở ngại trong thương mại Quốc tế. 3.3.1. Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ (Bản sửa đổi 1993, số xuất bản 500 Phòng thương mại Quốc tế Paris (The uniform customs and practice for documentary credit – UCP) (1993 Revision- ICC Publication No.500). Để thống nhất các quy tắc trong Tín dụng chứng từ, tránh cho các bên tham gia gặp phải khó khăn và hạn chế được những tranh chấp, kiện tụng có thể xảy ra do luật lệ các nước khác nhau, phòng thương mại Quốc tế (The International Chamber of Commerce – ICC) đã biên soạn “Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ”. Qua nhiều lần sửa đổi, bản điều lệ sửa đổi năm 1993 (1993 Revision), ấn bản số 500 (Publication No.500) là bản điều lệ hoàn thiện và sâu sắc nhất, đáp ứng được yêu cầu của các bên tham gia, mà phần lớn các quy định trong bản điều lệ số 500 có liên quan đến hoạt động Ngân hàng. Kể từ khi được phát hành năm 1933, bản điều lệ đã qua 06 lần sửa đổi với mục đích theo kịp sự phát triển chung của nền mậu dịch, nền công nghiệp vận tải và truyền thông trên thế giới. Nhiều bản dịch tiếng Việt ra đời nhằm tạo sự thuận lợi trong việc vận dụng vào giao dịch thực tế. UCP được thừa nhận là một bộ quy tắc điều chỉnh việc thực hiện tín dụng chứng từ trên phạm vi toàn thế giới. Cho tới nay các hiệp hội ngân hàng và các ngân hàng riêng lẻ trên 160 nước trên thế giới đã công nhận và áp dụng bản sửa đổi gần đây nhất năm 1993 (UCP 500). Bản điều lệ 500 ra đời trên cơ sở sửa đổi nội dung của bản điều lệ số 400. Yêu cầu của sự sửa đổi này là nêu bật sự phát triển của nền công nghiệp vận tải và việc ứng dụng công nghệ mới. Sửa đổi này cũng làm hoàn thiện chức năng của bản điều lệ. Một số nghiên cứu cho thấy khoảng 50% chứng từ xuất trình bị từ chối vì bất hợp lệ. Điều này đã vô hiệu hoá Tín dụng chứng từ và tạo ra những áp lực tài chính đối với nhà sản xuất. Vấn đề này cũng làm tăng mức độ rủi ro dẫn đến tăng chi phí, giảm thu nhập đối với cả nhà xuất khẩu, nhập khẩu và Ngân hàng. Sự gia tăng đáng kể về tranh chấp trong giao dịch Tín dụng chứng từ cũng là điều được các nhà soạn thảo bản sửa đổi quan tâm. Được soạn thảo bởi đội ngũ các chuyên gia Ngân hàng Quốc tế, các Giáo sư luật và các Luật sư về Ngân hàng (đứng đầu là ngài Charles Dil Busto – Chủ tịch Uỷ ban về kỹ thuật và nghiệp vụ Ngân hàng, Phòng thương mại Quốc tế), nội dung của bản điều lệ 500 bao gồm 49 điều là sự tổng hợp của các yêu cầu sau: Đơn giản hoá các Quy tắc UCP 400 Tổng hợp mọi hoạt động thực tế của các Ngân hàng Quốc tế cũng như tạo thuận lợi tiêu chuẩn hoá những thực tiễn đó. Củng cố sự toàn vẹn và sự tin cậy của cam kết trong Tín dụng chứng từ bằng nghĩa vụ không huỷ ngang và rõ ràng không chỉ của Ngân hàng phát hành mà còn cả Ngân hàng xác nhận. Nêu ra những vấn đề của những điều kiện không cần chứng từ. Lập danh mục chi tiết về những chứng từ vận tải khả dĩ chấp nhận. Cho đến nay bản điều lệ số 500 đã tỏ rõ vai trò không thể thiếu của nó trong việc hướng dẫn và thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ tạo điều kiện cho phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ ngày càng phát triển hoàn thiện cũng như giảm thiểu những rủi ro phát sinh trong phương thức này. 3.3.2. Một số quy định và chính sách khác a. Bộ Luật Thương mại Mĩ ( Uniform Commercial Code). Bộ luật thương mại Mĩ ra đời từ năm 1965 nhằm đơn giản hoá hiện đại hoá các luật điều chỉnh các giao dịch thương mại cho phép các bên trong giao dịch thương mại được mở rộng giao dịch dựa trên những thoả thuận tập quán thực hành và nhằm thống nhất các quan diểm khác nhau về luật điều chỉnh. Bộ luật thương mại Mĩ dành hẳn một chương- Article V.UCC- Letter of Credit để điều chỉnh những vấn đề về giao dịch thư tín dụng nói chung và những quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ thư tín dụng. Theo điều 5.102.9 " thư tín dụng là cam kết chắc chắn thoả mãn...của một ngân hàng phát hành với người hưởng lợi theo yêu cầu của một cá nhân hay tổ chức tài chính , bằng tiền của cá nhân hay tổ chức đó, thanh toán hoặc chuyển giao tài vật khi nhận được bộ chứng từ xuất trình hợp lệ". Như vậy khi tiến hành các giao dịch bằng phương thức tín dụng chứng từ nói chung và giao dịch tín dụng thư dự phòng nói riêng trên đất Mĩ hoặc với một bên là người Mĩ thì ngoài UCP 500 các bên có thể dùng UCC để điều chỉnh các vấn đề có liên quan tới giao dịch. UCC được sử dụng rộng rãi tại đa số các bang của Mĩ vì không có sự mâu thuẫn nhiều với UCP 500. Hơn nữa nếu có sự mâu thuẫn giữa UCP và UCC thì UCC sẽ loại trừ UCP trong các quy định về giao dịch thư tín dụng. Cũng theo UCC mọi giao dịch tín dụng chứng từ đều phải tuân theo một yêu cầu bắt buộc về nguyên tắc "ngân hàng phát hành trả tiền cho người hưởng lợi khi nhận được bộ chứng từ theo thông lệ chuẩn của các tổ chức tài chính thường xuyên phát hành thư tín dụng có sự tuân thủ nghiêm ngặt trên bề mặt của chứng từ với các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng ". UCC còn có quy định khá rõ ràng về những rủi ro gian lận và lừa gạt trong giao dịch thư tín dụng (Điều 5-109). Điều này cho thấy sự khá chặt chẽ của bộ luật này vì vấn đề này không được đề cập trong UCP. b. Tại Việt Nam hiện nay, các Ngân hàng tiến hành hoạt động thanh toán Quốc tế căn cứ vào những văn bản quy định chung của ngành cũng như những văn bản hướng dẫn cụ thể của Ngân hàng thương mại đó. Tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam VCB, công tác thanh toán Quốc tế dựa theo các văn bản sau đây: Quy định chung về quy trình thanh toán xuất, nhập khẩu và chuyển tiền áp dụng trong toàn hệ thống Ngân hàng Ngoại thương số 67/NHNT-QĐ. Quy định này có hiệu lực từ ngày 01/04/1997. Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước về việc ban hàng quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm số 207/QĐ-NH7. Quyết định của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại Thương về việc ban hành quy định mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số 156/NHNT có hiệu lực từ 09/1997 Quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm (Ban hành kèm theo quyết định số 207/QĐ-NH7 ngày 01/07/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). 3.4. Nội dung của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 3.4.1. Thư tín dụng thương mại (Letter of Credit - L/C) a. Khái niệm Thư tín dụng là một chứng thư (điện hoặc ấn chỉ) do ngân hàng viết ra theo yêu cầu của người nhập khẩu (người xin mở thư tín dụng) cam kết trả tiền cho người xuất khẩu (người hưởng lợi) một số tiền nhất định, trong một thời gian nhất định với điều kiện người này thực hiện đúng và đầy đủ những điều khoản quy định trong lá thư đó. Thư tín dụng là một văn bản pháp lý quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ, không có L/C thì người xuất khẩu không giao hàng và như vậy, phương thức này cũng không được hình thành. Về bản chất, thư tín dụng mang tính chất độc lập với hợp đồng mua bán. Thư tín dụng đóng một vai trò rất quan trọng, nó được hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán, tức là phải căn cứ vào nội dung và yêu cầu của hợp đồng để người nhập khẩu làm đơn yêu cầu mở L/C. Nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Ngân hàng mở L/C chỉ căn cứ vào L/C mà thôi. Điều này được quy định rất rõ trong UCP.500 là: “Điều 3: Về bản chất: Tín dụng chứng từ là những giao dịch riêng biệt với các hợp đồng mua bán hoặc các hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở của Tín dụng và các ngân hàng không bị liên can đến hoặc bị ràng buộc vào các hợp đồng như thế thậm chí ngay cả trong Tín dụng có bất kỳ sự dẫn chiếu nào đến các hợp đồng đó. ” “Điều 4: Trong các nghiệp vụ tín dụng chứng từ, tất cả các bên hữu quan chỉ giao dịch căn cứ vào chứng từ chứ không căn cứ vào hàng hoá, dịch vụ và/hoặc các giao dịch khác mà các chứng từ có thể liên quan đến.” Điều này có nghĩa là ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán khi người bán xuất trình đầy đủ chứng từ theo đúng yêu cầu của thư tín dụng, ngân hàng hoàn toàn không quan tâm đến hợp đồng mà cũng không quan tâm đến hàng hoá thực. b. Nội dung của thư tín dụng Trong một thư tín dụng thường có những điều khoản sau đây: Số hiệu, địa chỉ và ngày mở L/C Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ Loại thư tín dụng Số tiền của thư tín dụng Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng Những nội dung về hàng hoá Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở thư tín dụng Những điều khoản đặc biệt khác Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng, nếu L/C mở bằng thư. Đây là những nội dung quan trọng tất yếu phải có trong bất kỳ một thư tín dụng nào. Đây đồng thời cũng là những nội dung mà các ngân hàng cũng như hai bên mua bán thường tiến hành kiểm tra rất kỹ trước khi tiến hành thanh toán. c. Các loại tín dụng thư (Letter of credit – L/C) Trong thanh toán quốc tế thường có các loại thư tín dụng chủ yếu sau: (1) Phân theo loại hình (types): * Tín dụng thư không huỷ ngang (Irrevocable L/C) Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả thuận khác của các bên tham gia thư tín dụng. Một L/C không ghi chữ Irrevocable thì vẫn được coi là không huỷ bỏ được. L/C không thể huỷ bỏ là loại L/C được áp dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế, là loại L/C cơ bản nhất. * Tín dụng thư huỷ ngang (Revocable L/C): Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C và người nhập khẩu có thể sửa đổi, bổ sung hoặc có thể huỷ bỏ L/C bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi L/C. Thực chất đây mới chỉ là lời hứa trả tiền chứ không phải là sự cam kết. Do đó đây là loại thư tín dụng mang lại nhiều rủi ro cho nhà xuất khẩu nên nó hầu như không được sử dụng. (2) Phân theo phương thức sử dụng (uses) * Tín dụng thư không huỷ ngang có giá trị trực tiếp (Irrevocable straight document credit) Là loại tín dụng thư mà chứng từ được yêu cầu xuất trình trực tiếp để thanh toán tại ngân hàng phát hành. Do vậy thời hạn hiệu lực sẽ kết thúc tại ngân hàng phát hành. Loại tín dụng thư này thường có cam kết của ngân hàng phát hành Thực ra, trong giao dịch thỉnh thoảng ta vẫn gặp loại Tín dụng thư này mặc dù cách gọi có vẻ mới lạ. * Tín dụng thư không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable Letter of Credit) Là loại L/C không thể huỷ bỏ, được một ngân hàng khác xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. Với loại L/C này người xuất khẩu ký phát hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở L/C nhưng gửi thẳng cho ngân hàng xác nhận để thanh toán. Điều này có nghĩa là ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm thanh toán tiền cho người xuất khẩu nếu như ngân hàng mở L/C không trả tiền được cho người xuất khẩu. Như vậy, trách nhiệm của ngân hàng xác nhận giống như ngân hàng mở L/C, do đó ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí xác nhận, có khi còn phải đặt cọc tiền tới 100% trị giá L/C tại ngân hàng xác nhận (full cash over). Nguyên nhân có loại L/C này là do người xuất khẩu không hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng mở L/C và giá trị của L/C tương đối lớn. Do có hai ngân hàng cùng đứng ra cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nên L/C loại này là loại đảm bảo nhất cho người xuất khẩu nhưng lại có thể làm giảm uy tín của ngân hàng mở L/C. * Tín dụng thư không thể huỷ bỏ, miễn truy đòi (Irrevocable without recourse Letter of Credit) Là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào. Khi dùng loại L/C này, người xuất khẩu khi ký phát hối phiếu phải ghi câu “miễn truy đòi lại người ký phát” (without recourse to drawers) đồng thời trong L/C này cũng phải ghi như vậy. Đây cũng là loại L/C được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. * Tín dụng thư chuyển nhượng (Transferable Letter of Credit) Là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác nhưng chỉ được chuyển nhượng một lần nghĩa là người được chuyển nhượng không có quyền được chuyển nhượng tiếp cho người khác. Chi phí chuyển nhượng do người hưởng lợi đầu tiên chịu. Việc chuyển nhượng L/C không có nghĩa là hợp đồng mua bán cũng được chuyển nhượng. Người thụ hưởng đầu tiên là người chịu trách nhiệm chính với người nhập khẩu. * Tín dụng thư tuần hoàn (Revolving Letter of Credit) Là loại L/C không thể huỷ bỏ, sau khi sử dụng xong đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ, và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. L/C tuần hoàn được chia làm hai loại: ă Loại L/C tuần hoàn có tích luỹ (Cummulative revolving Letter of Credit): Là loại L/C cho phép chuyển phần trị giá L/C trước chưa dùng hết cộng thêm vào trị giá L/C sau và cứ như vậy cho đến L/C cuối cùng. Có nghĩa là trong thời gian hiệu lực của L/C, người xuất khẩu vì một lý do nào đó mà không thực hiện đầy đủ trị giá trên L/C thì qua L/C kế tiếp người xuất khẩu có thể tiếp tục thực hiện trị giá của kỳ trước chưa thực hiện được cộng với trị giá thực hiện trong kỳ này. ă Loại L/C tuần hoàn không tích luỹ (No cummulative revolving Letter of Credit): là loại L/C không cho phép chuyển trị giá L/C trước vào trị giá L/C sau. Thư tín dụng tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn và giá trị tối thiểu của mỗi lần đó. Loại L/C này thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, mua hàng thường xuyên, định kỳ, khối lượng lớn và trong thời gian dài. * Tín dụng thư giáp lưng (Back to back Letter of Credit) Loại L/C này thường được người xuất khẩu áp dụng để thanh toán tiền với người cung cấp hàng cho mình để xuất khẩu. Trong trường hợp này, sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình hưởng, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người hưởng lợi khác hưởng với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng. Về cơ bản L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau nhưng cũng có một số điểm khác nhau như sau: Người thụ hưởng (người xuất khẩu) L/C gốc là người xin mở L/C giáp lưng. Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn L/C gốc. Kim ngạch L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, khoản chênh lệch này do người trung gian hưởng dùng để trả tiền chi phí mở L/C giáp lưng và phần hoa hồng của họ. Thời hạn giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc. Nghiệp vụ L/C giáp lưng rất phức tạp, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của L/C gốc với L/C giáp lưng, nhất là các vấn đề có liên quan đến vận đơn và các chứng từ hàng hoá khác. * Tín dụng thư với điều khoản đỏ (Red clause Letter of Credit) Là loại L/C mà trong đó quy định một khoản tiền tr._.ả trước cho người xuất khẩu vào một thời điểm xác định trước khi hàng hoá và chứng từ hàng hoá được xuất trình. Đối với khoản ứng trước này, người ta thường quy định vào một điều khoản đặc biệt nhằm tạo điều kiện cho các bên liên quan trong L/C. Đến lúc phải thanh toán theo L/C, phần ứng trước cộng với lãi suất sẽ được trừ ra từ tổng số tiền phải thanh toán. * Tín dụng thư dự phòng (Stand-by Letter of Credit) Ngân hàng mở L/C đứng ra thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu khi người xuất khẩu đã giao hàng đúng theo những điều khoản quy định trong L/C, tuy nhiên có trường hợp người xuất khẩu không có khả năng giao hàng làm thiệt hại đến quyền lợi của người nhập khẩu. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, ngân hàng của người xuất khẩu sẽ phát hành một L/C trong đó sẽ cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. L/C như vậy được gọi là L/C dự phòng. (3) Phân theo phương thức thanh toán (Payment) * Tín dụng thư trả ngay (Sight credit) Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó quy định về nghĩa vụ trả tiền ngay sau khi nhận được bộ chứng từ thanh toán của người bán/ngân hàng phát hành. Có nghĩa là L/C phải được thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng. * Tín dụng thư trả chậm (Deferred/usance credit) Là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C hay là ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần toàn bộ số tiền của L/C trong những thời hạn quy định rõ trong L/C đó. Đây là loại L/C trả chậm từng phần. * Tín dụng thư đối ứng (Reciprocal Letter of Credit) Trong phương thức mua bán hàng đổi hàng, hai bên chỉ phải ký với nhau một hợp đồng mua bán có tổng giá trị hàng hoá trao đổi với nhau bằng nhau. Mục đích của giao dịch hàng đổi hàng là giá trị sử dụng của hàng chứ không phải là tiền tệ mặc dù phần chênh lệch của trao đổi có thể thanh toán bằng tiền. Do không thể loại trừ khả năng xảy ra sau khi một trong hai bên không hoàn thành đúng nghĩa vụ giao hàng như đã quy định của hợp đồng, hơn nữa việc giao hàng khó có thể tiến hành đồng thời. Để đảm bảo việc thanh toán, hai bên thống nhất sử dụng thư tín dụng đối ứng cho nhau hưởng. L/C đối ứng là loại L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã mở ra. Nghĩa là nhà xuất khẩu khi nhận được L/C do nhà nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương ứng thì mới có giá trị. 3.4.2. Quy trình tiến hành thanh toán tín dụng chứng từ a. Các bên tham gia trong thanh toán bằng L/C Trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ thường có các bên tham gia như sau: * Người yêu cầu mở thư tín dụng (The Applicant for the credit) Người yêu cầu mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người mua uỷ thác cho người khác. Khi tiến hành giao dịch thanh toán, người nhập khẩu căn cứ vào các điều khoản trong hợp đồng lập đơn xin mở thư tín dụng rồi gửi đến một ngân hàng đã được chỉ định hoặc tự chọn để yêu cầu mở L/C cho người được hưởng. Đây thường là ngân hàng mà người yêu cầu mở L/C có tài khoản hoặc quan hệ tín dụng. * Người hưởng lợi thư tín dụng (The beneficiary) Người hưởng lợi của L/C là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người bán chỉ định. Quyền lợi và nghĩa vụ của người hưởng lợi là kiểm tra L/C do người nhập khẩu mở xem có phù hợp với quy định trong hợp đồng hay không; nếu đồng ý thì tiến hành giao hàng theo đúng thoả thuận trong hợp đồng đồng thời lập bộ chứng từ gửi cho người mua thông qua ngân hàng trung gian. * Ngân hàng mở thư tín dụng (Opening Bank/ Issuing Bank) Ngân hàng mở thư tín dụng (còn được gọi là ngân hàng phát hành) là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu. Trước tiên, ngân hàng phát hành đứng ra mở L/C theo yêu cầu của người nhập khẩu. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm thanh toán tiền cho người xuất khẩu khi người xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C. Ngân hàng mở L/C thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng này như sau: ă Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C và tìm cách thông báo L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất khẩu. Thông thường việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải thông qua một ngân hàng đại lý của nó ở nước người xuất khẩu. Ngân hàng này cũng có thể gửi thẳng bản gốc L/C cho người xuất khẩu nhưng trong thực tế, trường hợp này ít xảy ra. ă Sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C của người xuất khẩu đối với L/C đã được mở nếu có sự đồng ý của họ. ă Kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy những chứng từ đó phù hợp với những điều quy định trong L/C và không mâu thuẫn lẫn nhau thì trả tiền cho người xuất khẩu và đòi lại tiền người nhập khẩu, ngược lại thì từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra “bề ngoài” của chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không, chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ... Mọi sự tranh chấp về tính chất “bên trong” của chứng từ là do người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết. ă Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào đúng các trường hợp bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt lội, động đất, hoả hoạn... Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi đã có những quy định dự phòng. ă Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm. Ngân hàng được hưởng thủ tục phí nhất định. * Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising Bank) Ngân hàng thông báo thư tín dụng thường là ngân hàng đại lý cho ngân hàng phát hành tại nước của người xuất khẩu. Ngân hàng thông báo có trách nhiệm thông báo L/C nhận được từ ngân hàng phát hành cho người xuất khẩu sau khi xác định được tính chân thực của L/C. Ngân hàng thông báo có quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu như sau: ă Khi nhận được điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C, ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. ă Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã nhận được thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. ă Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới ngân hàng mở L/C. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do chậm trễ và/ hoặc mất mát chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở L/C, miễn là chứng minh rằng mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua bưu điện. Ngân hàng thông báo thường được ngân hàng mở L/C uỷ nhiệm làm nhiệm vụ của Ngân hàng trả tiền. * Ngân hàng hoàn trả tiền (Reimbursement Bank) Là Ngân hàng được ngân hàng phát hành uỷ nhiệm để chuyển tiền trả cho Ngân hàng trả tiền khi Ngân hàng trả tiền đã trả tiền cho người xuất khẩu. Thông thường ngân hàng này là ngân hàng mà ngân hàng phát hành có duy trì tài khoản tại đó. * Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank) Khi người bán không tín nhiệm ngân hàng phát hành, họ yêu cầu thư tín dụng phải được xác nhận bởi một ngân hàng khác gọi là Ngân hàng xác nhận. Đây thường là ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. Ngân hàng xác nhận thường là ngân hàng thông báo nhưng có thể là ngân hàng khác theo yêu cầu của người xuất khẩu. * Ngân hàng chiết khấu (negotiating bank) Ngân hàng chiết khấu là ngân hàng thanh toán, chấp nhận, chiết khấu hối phiếu do người bán ký phát và người bán phải xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng này. Tuỳ theo quy định của từng thư tín dụng, ngân hàng chiết khấu thường là ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C chỉ định. b. Quy trình nghiệp vụ thanh toán bằng L/C Sơ đồ 1: Quy trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ Người xuất khẩu (Người hưởng lợi L/C) Người nhập khẩu (Người xin mở L/C) Ngân hàng thông báo L/C Ngân hàng mở L/C (2) (5) (6) (8) (7) (1) (6) (5) (3) (4) Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng Ngân hàng mở L/C căn cứ vào đơn xin mở L/C sẽ lập một L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở L/C Ngân hàng thông báo L/C cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung L/C Nếu người xuất khẩu chấp nhận L/C sẽ giao hàng cho người nhập khẩu nếu không thì yêu cầu sửa đổi bổ sung cho phù hợp Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình tới ngân hàng thông báo để qua đó xin ngân hàng mở L/C thanh toán Ngân hàng mở L/C kiểm tra toàn bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì sẽ trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp sẽ từ chối thanh toán và gửi lại chứng từ cho người xuất khẩu. Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ cho người nhập khẩu nếu người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. (8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối không trả tiền. Trường hợp này, Ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra do kiểm tra bộ chứng từ không cẩn thận. 4. Tín dụng chứng từ - một phương thức thanh toán quốc tế ẩn chứa nhiều rủi ro: Trong hoạt động kinh doanh nói chung, mục tiêu tiên quyết được đặt ra đó là làm thế nào để đảm bảo được lợi nhuận, còn riêng đối với các ngân hàng thương mại, bên cạnh lợi nhuận các ngân hàng luôn coi an toàn là mục tiêu quan trọng nhất để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình. Ngân hàng có nhiều quan hệ rộng khắp nơi với nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, do vậy nó có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống kinh tế xã hội. Một rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những phản ứng dây chuyền tới các ngân hàng khác và tới toàn bộ nền kinh tế. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới và ngày nay vẫn đang là mối đe doạ của nhiều quốc gia, kể cả các nước đi trước có dày dạn kinh nghiệm. Bởi vậy, nghiên cứu rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại luôn là mối quan tâm lớn của mọi bên tham gia trong quá trình thanh toán. Bản thân phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn cả, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nó hoàn toàn loại trừ mọi rủi ro cho cả hai bên mua và bán. Còn đối với ngân hàng, tín dụng chứng từ ẩn chứa những rủi ro của một loại tín dụng ngắn hạn. 4.1. Các loại rủi ro trong thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ 4.1.1. Khái niệm Theo nghĩa chung, rủi ro là khả năng một sự kiện không mong muốn, không thuận lợi có thể xảy ra dẫn đến sự mất mát hoặc hư hỏng. Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham gia bị vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán. Rủi ro trong thanh toán bằng L/C có thể xảy ra đối với các bên: đối với người bán, đối với người mua và đối với các ngân hàng. a. Rủi ro đối với bên xuất khẩu: Trong thanh toán theo phương thức TDCT, người xuất khẩu thường gặp phải những rủi ro cả do chính bản thân mình tạo ra và cả do các chủ thể khác gây nên, điển hình là các rủi ro sau đây: * Do người xuất khẩu không lập và nộp bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với quy định trong L/C. Sai lầm này dẫn đến thời gian thanh toán bị kéo dài, thậm chí trong một số trường hợp không được thanh toán. Và cũng chính vì thời gian thanh toán bị chậm nên có thể gây ra một loại rủi ro về tỷ giá. Nếu tỷ giá ngoại tệ so với nội tệ giảm thì người xuất khẩu sẽ bị thâm hụt vì lúc này giá trị thực tế thu được giảm xuống kéo theo sự giảm sút khả năng tái đầu tư sản xuất trong những chu kỳ tiếp theo. * Rủi ro do người nhập khẩu lừa đảo cấu kết với những cá nhân hay tổ chức phi ngân hàng lập nên những bộ chứng từ giả để lừa đảo hòng chiếm đoạt hàng mà không phải trả tiền. Mặc dù rủi ro này không dễ dàng thực hiện được nhưng không phải là không có bởi chỉ cần ngân hàng thông báo vô tình hoặc cố ý không phát hiện ra tính chất chân thực của L/C. Đến đây người nhập khẩu dễ dàng lấy được hàng hoá ra khỏi cảng mà không lo lắng phải trả tiền vì anh ta đã có vận đơn trong tay. Vậy với người nhập khẩu thì sao? Anh ta có rủi ro không? b. Rủi ro với bên nhập khẩu Người nhập khẩu thường gặp phải những rủi ro sau đây: * Hàng hoá nhận được không đúng với quy định trong L/C. Điều này xảy ra khi người xuất khẩu thiếu trung thực đã lập chứng từ không đúng với thực trạng hàng hoá miễn là phù hợp L/C. ở đây ta cũng không thể cho rằng đó là trách nhiệm của ngân hàng bởi ngân hàng đã thực hiện đúng nguyên tắc thanh toán quy định trong UCP 500. * Người nhập khẩu không nhận được hàng hoá bởi người xuất khẩu không gửi hàng nhưng đã lập nên một bộ chứng từ giả nhằm rút được tiền từ phía nhà nhập khẩu. Loại rủi ro này tuy không chiếm tỷ lệ lớn song vẫn tồn tại do ngân hàng không thể và không có trách nhiệm kiểm tra tính chất chân thực của các loại chứng từ hàng hoá và do vậy, không thể phát hiện ra đó là chứng từ giả và sau khi kiểm tra thấy nội dung phù hợp L/C ngân hàng phát hành trả tiền cho nước ngoài. Trường hợp này gây ra hậu quả xấu không chỉ là với người nhập khẩu mà cả với ngân hàng phát hành L/C. * Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu còn có thể do nguyên nhân khi ngân hàng phát hành đứng trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, mức độ thiệt hại của người mua phụ thuộc vào số tiền ký quỹ. c. Rủi ro đối với ngân hàng thương mại: * Rủi ro đối với ngân hàng mở L/C (Issuing bank) Ngân hàng mở L/C là ngân hàng phát hành thư tín dụng cam kết thanh toán đối với phương thức trả ngay, hoặc chấp nhận và thanh toán các hối phiếu trả có kỳ hạn cho người hưởng lợi nếu các chứng từ do người bán lập thoả mãn được tất cả các điều khoản và điều kiện của L/C. Các loại rủi ro thường xảy ra đối với ngân hàng mở L/C bao gồm: Rủi ro về tỷ giá hối đoái biến động Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản Rủi ro do nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo như giả mạo chứng từ. Rủi ro do chính bản thân ngân hàng phát hành gây ra do không tuân thủ UCP. Rủi ro về tỷ giá: Khi nhập hàng, nhà nhập khẩu không thể lường trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ mạnh (USD) nên khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng được nhà nhập khẩu không muốn nhận hàng vì sợ bị lỗ. Trong trường hợp đó, nếu tỷ lệ ký quỹ không bù đắp được tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng mở. Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản: Đây là loại rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở thư tín dụng, bởi vì ngân hàng buộc phải thanh toán cho người bán trong khi không thể thu hồi được vốn lại từ phía người mua. Nguyên nhân có thể do ngân hàng mở không tiến hành thẩm định khi doanh nghiệp lần đầu tiên đến quan hệ mở thư tín dụng hoặc do trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà nhập khẩu bị thua lỗ liên tục mà ngân hàng mở không hay biết, hàng nhập về bán không thu được tiền, nợ đọng thuế nhập khẩu kéo dài bị hải quan cưỡng chế không cho nhận… Rủi ro do nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo: Trong trường hợp nhà xuất khẩu giả mạo chứng từ một cách hết sức tinh vi cùng với sự đồng loã của các cơ quan kiểm nghiệm trong việc lập các chứng từ gốc, ngân hàng được chỉ định thanh toán mặc dù đã kiểm tra chứng từ với “sự cẩn thận hợp lý” nhưng không thể phát hiện ra được, còn ngân hàng mở thì cho phép ngân hàng chiết khấu trích tài khoản tiền gửi của mình để thanh toán cho người bán hoặc đòi tiền từ ngân hàng thứ ba. Nếu phía xuất khẩu là một tổ chức “ma” hoặc bị phá sản trong khi nhà nhập khẩu không đủ năng lực tài chính để bồi thường cho ngân hàng mở thi ngân hàng mở cuối cùng là người gánh chịu rủi ro đó. Rủi ro do ngân hàng mở không hành động đúng theo UCP mà thư tín dụng đã dẫn chiếu: Theo UCP 500, ngân hàng mở được miễn trách nhiệm thanh toán nếu bộ chứng từ có lỗi. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mở không hành động đúng theo những quy định tại điều 13 UCP 500 thì ngân hàng mở gặp rủi ro trên chính những bộ chứng từ có lỗi đó. Đó là các trường hợp: Thông báo từ chối thanh toán nhưng không nói rõ sự bất hợp lệ của chứng từ, hoặc những bất hợp lệ này bị ngân hàng chiết khấu phủ nhận và trở nên không có giá trị. Thông báo những bất hợp lệ và từ chối chứng từ vượt quá 7 ngày làm việc của ngân hàng. Đã chuyển giao chứng từ cho người mở, hoặc làm mất không trả lại chứng từ cho phía xuất trình nguyên vẹn như khi nó được nhận, hoặc không giao chứng từ đó cho phía thứ ba do phía xuất trình chỉ định. * Rủi ro đối với ngân hàng thông báo (Advising bank) Ngân hàng thông báo là ngân hàng được ngân hàng mở yêu cầu thông báo một thư tín dụng do ngân hàng mở phát hành cho người bán. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng có quan hệ mã khoá (Test key) với ngân hàng mở hoặc không, có thể là ngân hàng có trụ sở đóng tại nước xuất khẩu hoặc một nước thứ ba. Nếu ngân hàng thông báo không có quan hệ mã khoá với ngân hàng mở, ngân hàng thông báo sẽ yêu cầu ngân hàng có quan hệ mã khoá với ngân hàng mở đã nêu trong thư tín dụng “giải mã” và xác nhận tình trạng mã khoá đúng hay sai. * Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận (Confirming bank) Ngân hàng xác nhận thường là ngân hàng lớn, có uy tín hoặc ngân hàng có quan hệ tiền gửi, tiền vay với ngân hàng mở, được ngân hàng mở yêu cầu xác nhận và cam kết trả tiền cho người bán nếu như ngân hàng mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Trường hợp này xảy ra đối với những thư tín dụng có giá trị lớn mà ngân hàng là ngân hàng ít có uy tín, hoặc do nhà xuất khẩu mới làm ăn với một nhà nhập khẩu ở một nước mà nhà xuất khẩu không hiểu rõ luật lệ, tập quán của nước đó. Do vậy việc xác nhận là nhằm ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng xác nhận vào nghĩa vụ thanh toán thư tín dụng. Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng xác nhận là khi không nắm được năng lực tài chính của ngân hàng mở mà vội vã xác nhận L/C theo yêu cầu của họ để rồi cuối cùng ngân hàng xác nhận phải lãnh trách nhiệm thanh toán L/C thay cho ngân hàng mở do ngân hàng mở thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh toán, trong một số trường hợp thậm chí phá sản. * Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu chứng từ (Negotiating bank) Ngân hàng chiết khấu có thể là ngân hàng xác nhận nếu là thư tín dụng xác nhận, hoặc là ngân hàng mở nếu người hưởng không muốn xuất trình chứng từ qua ngân hàng thứ ba. Nhưng thông thường ngân hàng chiết khấu là ngân hàng được chỉ định cụ thể hay bất cứ một ngân hàng nào nếu thư tín dụng cho phép tự do chiết khấu (Free Negotiable). Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng chiết khấu phần nhiều tuỳ thuộc vào thiện chí của ngân hàng mở và nhà.nhập khẩu. Theo UCP.500, ngân hàng mở được miễn trách nhiệm thanh toán trong trường hợp bộ chứng từ có lỗi, mà hầu như trong nhiều trường hợp bộ chứng từ có lỗi, khi đó ngân hàng mở sẽ từ chối thanh toán và ngân hàng chiết khấu được phép truy đòi nhà nhập khẩu. Tuy nhiên nếu nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán thì ngân hàng chiết khấu gặp rủi ro. Các rủi ro mà ngân hàng chiết khấu có thể gặp là: (1)Rủi ro do những nguyên nhân bất khả kháng như: các sự kiện về thiên tai, địch hoạ, nổi loạn, bạo động, đóng cửa do bị khủng hoảng kinh tế…Nếu ngày xuất trình chứng từ hoặc ngày hết hiệu lực của thư tín dụng rơi đúng vào ngày mà các sự kiện này xảy ra, UCP.500 cho phép ngân hàng mở được miễn trách nhiệm thanh toán trong khi nhà xuất khẩu đã giao hàng và nhận hàng đã chiết khấu bộ chứng từ. (2)Rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán: Rủi ro xảy ra do bên mua bị hạn chế trong khả năng thanh toán vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Mặt khác cũng có thể do bên mua không tin tưởng vào bên bán vì giao hàng chậm trễ, giao hàng kém chất lượng. Để trì hoãn thanh toán, họ sẽ yêu cầu ngân hàng mở thông báo lỗi chứng từ trong vòng 7 ngày làm việc để giành quyền được từ chối thanh toán sau này. Đối với ngân hàng chiết khấu, thời gian trì hoãn thanh toán càng dài, ngân hàng sẽ bị động về vốn vì đã mua bộ chứng từ và đã trả tiền trước cho người bán. (3)Rủi ro trong quá trình vận chuyển: Nếu trong quá trình vận chuyển hàng từ nước người xuất khẩu sang nước người nhập khẩu có xảy ra rủi ro thì trách nhiệm không thuộc về nhà nhập khẩu do người xuất khẩu không mua bảo hiểm. Nếu tình hình tài chính của nhà xuất khẩu xem như vô vọng, nhà xuất khẩu bị rủi ro thì ngân hàng chiết khấu có thể gặp rủi ro do bị gia tăng các khoản nợ phải thu và nợ đọng khó đòi. (4)Rủi ro do tư cách nhà nhập khẩu không đảm bảo: Đó là những trường hợp nhà nhập khẩu lợi dụng sự không phù hợp của bộ chứng từ bắt người bán giảm giá hàng khi nhập khẩu trên thị trường. Vì nhiều lý do khác nhau, có thể nhà xuất khẩu buộc phải giảm giá, có nghĩa là giá trị thực của bộ chứng từ không còn như khi nó được đem chiết khấu tại ngân hàng chiết khấu. (5)Rủi ro do ngân hàng mở bị phá sản: Rủi ro này nhìn chung ít xảy ra nhưng không phải là không có, sự kiện sụp đổ của ngân hàng Bearing của Anh tháng 2 năm 1995 là minh chứng cho sự rủi ro loại này. (6)Rủi ro do ngân hàng chiết khấu không hành động đúng theo quy định của UCP.500 Cũng như ngân hàng mở, ngân hàng chiết khấu cũng có 7 ngày làm việc để kiểm tra bộ chứng từ và gửi đến ngân hàng mở đòi tiền. Rủi ro này xảy ra đối với ngân hàng chiết khấu do không tuân thủ đúng quy định này, làm mất quyền đòi tiền trong thời hạn quy định, ngân hàng mở căn cứ lỗi này để từ chối thanh toán trong khi bộ chứng từ đã được ngân hàng chiết khấu mua trước đó vì nó được lập hoàn hảo. Trong TTQT ngày nay, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ rất được ưa chuộng, với vai trò là trung gian thanh toán, các ngân hàng thương mại phải luôn luôn tìm cách khai thác những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của phương thức này từ đó tìm kiếm thu nhập cho ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng thương mại cũng cần hết sức cảnh giác để đề phòng rủi ro xảy ra trong thanh toán bằng phương thức này. Những rủi ro xảy ra có thể chỉ vì một nguyên nhân nhỏ bé nào đó nhưng trong đó cũng có những nguyên nhân mang tính chất nghiêm trọng mà với trình độ kỹ thuật, cán bộ của các ngân hàng thương mại rất khó phát hiện. Như vậy, từ những phân tích ở trên có thể thâu tóm được một cách tổng quát các loại rủi ro có thể xảy ra trong TTQT theo phương thức TDCT trong phần dưới đây. 4.1.2. Các loại rủi ro trong thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức TDCT Trong thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức TDCT, thường gặp 4 loại rủi ro chính: Rủi ro kỹ thuật, rủi ro chính trị, rủi ro hối đoái và rủi ro đạo đức. a. Rủi ro kỹ thuật Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy trình thanh toán XNK, như sự sai khác giữa bộ chứng từ thanh toán với hợp đồng hoặc L/C hay việc thực hiện sai một khâu trong quy trình nghiệp vụ thanh toán. * Rủi ro đối với người bán Trong thanh toán xuất nhập khẩu người bán có trách nhiệm chuẩn bị hàng, giao hàng và lập bộ chứng từ nhận hàng cho người mua. Khi ngân hàng là trung gian thanh toán giữa người bán và người mua thì ngân hàng chỉ làm việc với bộ chứng từ mà người bán lập ra. ă Một rủi ro kỹ thuật mà người bán rất dễ gặp phải là rủi ro trong việc lập chứng từ gửi hàng: Tại các ngân hàng, hầu hết các bộ chứng từ gửi tới thanh toán hàng xuất khẩu đều mắc phải những sai sót đơn giản như sai chính tả, tên, địa chỉ, số lượng, đến những sai sót lớn hơn như thiếu loại chứng từ, không thống nhất với nhau, hối phiếu ghi sai người ký phát… Bên cạnh đó, người bán còn phải lập một bộ chứng từ hoàn hảo để có thể nhận tiền từ ngân hàng hay từ người mua khi có yêu cầu. Nhưng trong thực tế để có thể lập được một bộ chứng từ hoàn hảo là một điều rất khó khăn. Nếu như không nhận được thiện chí từ phía người mua. Như ta đã biết, nếu như bộ chứng từ không phù hợp thì việc thanh toán không thể thực hiện được. Bộ chứng từ là cơ sở để người mua giảm giá, từ chối nhận hàng, kéo dài thời gian thanh toán hay không thanh toán tiền hàng và đặc biệt khi bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì Ngân hàng sẽ từ chối thanh toán. Do vậy, thời gian thanh toán luôn bị kéo dài do chứng từ phải sửa đi sửa lại. Thậm chí những lỗi không sửa được phải đợi sự đồng ý của bên mua. Thường thì các đơn vị xuất khẩu của ta rất eo hẹp về vốn và vì vậy họ thường chọn thanh toán L/C trả ngay. Nhưng nhiều khi phải mất một vài tháng sau từ khi ngân hàng điện đòi tiền, đơn vị mới nhận được tiền mà nguyên nhân thường do bộ chứng từ có sai sót và phải chờ nhà nhập khẩu chấp nhận. Bên nước ngoài quy định họ chỉ thanh toán cho các nhà xuất khẩu nước ta khi nhận được bộ chứng từ, do vậy thời gian thanh toán bị kéo dài ra. Và như vậy, nhà xuất khẩu sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu tăng vòng quay của vốn. Hơn nữa họ còn bị phạt vì sai sót chứng từ. Đây là một trở ngại lớn đối với người bán. Trong trường hợp này, người bán chịu rủi ro lớn nhất nhưng thực tế nó lại ảnh hưởng rất nhiều tới uy tín của ngân hàng với tư cách là người cố vấn và bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Khi quyền lợi của khách hàng không được bảo vệ, quá trình thanh toán qua ngân hàng không suôn sẻ làm uy tín của ngân hàng bị suy giảm. ă Một rủi ro kỹ thuật khác mà người bán dễ phạm phải là các sai lầm khi tiến hành giao hàng: việc thực hiện không đúng, sai sót khi giao hàng, hàng hoá giao không đúng quy định về chất lượng, chủng loại, thời hạn… giao hàng, xuất trình chứng từ muộn, chọn sai cảng bốc dỡ, sai hãng vận tải… Trong khi ký hợp đồng, người bán hàng nếu không có trình độ nghiệp vụ ngoại thương thì dễ chấp nhận các điều kiện hợp đồng thương mại bất lợi để rồi sau đó không thực hiện được làm cho đối tác có cơ sở để kéo dài thời gian thanh toán, giảm giá hoặc từ chối thanh toán, khiến cho quá trình thanh toán gặp nhiều khó khăn. Đây là rủi ro thường gặp nhất là ở các đơn vị mới tham gia vào hoạt động xuất khẩu. ăRủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình thanh toán có khúc mắc xảy ra thì người bán không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ mà chỉ biết khiếu nại ngân hàng dẫn đến người bán bị kéo dài thời hạn thanh toán. Ví dụ như khiếu nại về việc chậm thanh toán của người mua khi đã nhận chứng từ và nhận đủ hàng. * Rủi ro đối với người mua ăThứ nhất là rủi ro trong việc xuất trình và chấp nhận chứng từ do người bán lập ra để thanh toán: khi chứng từ xuất trình hoàn toàn không đúng với tình trạng của hàng hoá thì sau khi thanh toán người mua sẽ nhận được số hàng không đúng yêu cầu có thể là cả về chất lượng cũng như số lượng và làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là làm mất uy tín trong kinh doanh của người mua. Mặt khác chứng từ còn là cơ sở pháp lý đầu tiên của hàng hoá, nếu người mua hàng không xem xét kỹ lưỡng từ lỗi câu chữ đến số lượng các loại chứng từ cũng như người cấp giấy chứng nhận…thì sẽ khó khăn trong việc khiếu kiện khi có rủi ro về hàng hoá. ă Thứ hai là rủi ro về kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong đơn vị mua hàng: theo một số báo cáo thống kê, có hơn 60% cán bộ thuộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nhưng chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương. Do sự yếu kém trong nghiệp vụ ngoại thương của các đơn vị XNK, vì vậy họ đã sai sót trong việc lựa chọn đối tác; không tìm hiểu kỹ, không nắm vững khả năng của bên bán dẫn đến khi không nhận được hàng thì kế hoạch kinh doanh bị phá vỡ. ăThứ ba là rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình giao hàng có khúc mắc xảy ra thì người mua không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ dẫn đến người mua bị lỡ cơ hội kinh doanh hay bị đọng vốn. Ví dụ như người bán giao hàng không đúng quy định, khiếu nại về việc giao hàng không đúng quy định của khách hàng nước ngoài, khiếu nại việc mất mát tổn thất lớn với hãng vận tải và bảo hiểm… * Rủi ro đối với Ngân hàng Rủi ro kỹ thuật xuất hiện ở các khâu trong quy trình thanh toán, xảy ra khi ngân hàng tuân thủ không đúng theo quy định của luật pháp và các quy tắc được áp dụng. Trong trường hợp khi ngân hàng thực hiện theo đúng chức trách của mình không chịu rủi ro nào về tài chính hay những rủi ro kỹ thuật nào thì những rủi ro sai sót của người bán, người mua cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngân hàng trong thanh toán quốc tế và khả năng cố vấn khách hàng. Tuy vậy xét về mặt kỹ thuật ngân hàng có thể gặp phải một số rủi ro sau: Do công tác quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng: Do nghiệp vụ TTQT mới phát triển ở Việt Nam trong thời gian gần đây nên còn nhiều non trẻ, bỡ ngỡ. Hơn nữa, sự xuất hiện của nhiều thủ đoạn lừa đảo mới rất tinh vi trong TTQT đã làm cho nghiệp vụ này càng trở nên phức tạp, nhiều rủi ro. Chính vì vậy, các cán bộ nghiệp vụ của ta ở một số chi nhánh do chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo sâu, chưa nắm bắt kịp thời kỹ thuật nghiệp vụ nên đã dẫn đến không ít trường hợp sơ suất trong quá trình thực hiện thanh toán, gây ra thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng. Trong một vài năm gần đây, ngân hàng chịu nhiều thiệt hại trong việc mở L/C nhập hàng bảo lãnh cho một số doanh nghiệp mà sau đó các doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán hoặc đang trong vòng tố tụng. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng đứng ra trả tiền thay cho các doanh nghiệp đó thì rủi ro rất cao bởi vì khả năng thu hồi tiền là rất mong manh. Nhưng theo quy định của L/C thì ngân hàng mở phải có trách nhiệm trả tiền cho người bán khi người mua mất khả năng thanh toán. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của mình và tuân thủ luật lệ quốc tế, các ngân hàng đã phải đứng ra trả tiền cho một số L/C quá hạn và chịu rủi ro khá lớn. Do sai sót trong quan hệ với khách hàng trong nước Việc thu nhập, phân tích thông tin, đánh giá._. thể phù hợp với từng ngân hàng, vừa đảm bảo an toàn trong thanh toán, vừa đảm bảo được chính sách khách hàng. Tuy nhiên để có thể tiến hành công tác thẩm định, đánh giá khách hàng một cách có hiệu quả thì cần phối hợp đồng bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Vì cán bộ ngân hàng mới chính là những người trực tiếp thẩm định đánh giá khách hàng và cũng là người có quyền quyết định cuối cùng trong việc đồng ý hay không đồng ý mở L/C cho khách hàng. 3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong quá trình đổi mới đầy khó khăn của ngân hàng. Yêu cầu của giao dịch thương mại quốc tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thanh toán L/C không chỉ có trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao, có kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế, họ phải có kỹ năng phân tích, am hiểu tường tận 49 điều khoản của Bản điều lệ thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ được sửa đổi (UCP.500). Đồng thời họ phải am hiểu luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động ngân hàng của từng nước, từng vùng, từng khu vực để vừa có khả năng tư vấn cho khách hàng, đồng thời tránh được rủi ro cho ngân hàng. Để đạt được điều này, các ngân hàng thương mại cần xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, am hiểu nghề nghiệp và có tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Trước hết là việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn ngành từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến các nhân viên, từ trung ương đến các chi nhánh và công ty trực thuộc. Đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với các cán bộ làm công tác thanh toán mà cho bất kỳ một bộ phận nào trong ngân hàng. Những cán bộ còn hạn chế về mặt này hay mặt khác sẽ nhận được sự giúp đỡ từ đồng nghiệp của mình để tiến bộ hơn, và điều quan trọng là cùng nhau tiến bộ. Những chi nhánh hoạt động hiệu quả chưa cao sẽ nhận được sự hỗ trợ của các chi nhánh khác. Mọi người cùng làm việc và cùng tin tưởng lẫn nhau, khách hàng tin tưởng vào họ, niềm tin ấy tạo nên một sức mạnh lớn lao, góp phần hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra. Thứ hai là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, áp dụng công nghệ thông tin của thanh toán viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Để có được một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, các ngân hàng thương mại cần có một chiến lược đào tạo phù hợp. Nội dung đào tạo cần được chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lý giáo dục lý tưởng đạo đức nghề nghiệp cho thanh toán viên. Ví dụ như trong công tác đào tạo nghiệp vụ, Ngân hàng Ngoại thương đã thực hiện nhiều biện pháp như: tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn, cử cán bộ đi học ở nước ngoài, mời chuyên gia giỏi về đào tạo nghiệp vụ mới cho thanh toán viên... Trong thời gian tới, các công tác này nên tiếp tục được tăng cường hơn nữa nhằm theo kịp và đáp ứng được các diễn biến phức tạp của nền kinh tế nói chung, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Trong công tác đào tạo cán bộ, một vấn đề cần được đưa lên hàng đầu là đạo đức, phẩm chất của thanh toán viên, hình thành nên trong mỗi cán bộ ngân hàng một lý tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp để họ gắn chặt tương lai và sự nghiệp của mình vào tương lai và sự nghiệp chung của ngân hàng, coi mỗi thành tựu, tồn tại của ngân hàng là của chính mình, có sự đóng góp và trách nhiệm của mình trong đó. Từ đó mỗi cán bộ phải cố gắng hết mình nhằm hoàn thiện hơn nữa công việc hoặc lĩnh vực mà mình phụ trách, luôn suy nghĩ và hành động vì sự phát triển không ngừng của hệ thống. 3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro Ngân hàng nên thành lập một bộ phận quản lý rủi ro thanh toán chuyên trách lưu giữ, khai thác, cung cấp thông tin về những vụ lừa đảo tranh chấp trên thế giới cũng như ở Việt Nam liên quan đến lĩnh vực thanh toán quốc tế nhằm trước hết là phục vụ cho hoạt động nội bộ ngân hàng, sau đó là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu muốn sử dụng dịch vụ này. Khi cung cấp dịch vụ này cho các doanh nghiệp, ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay những đối tượng lừa đảo... Để có được lượng thông tin đầy đủ, chính xác, bộ phận này cần có sự phối hợp chặt chẽ với: mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại Việt Nam, Bộ thương mại và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu... bằng con đường giao dịch xin hoặc mua thông tin trực tiếp, hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng Nhà nước (CIC)... Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Việc cung cấp thông tin, tư vấn trong nội bộ cũng như cho doanh nghiệp, cho các ngân hàng với nhau ngoài việc giúp hạn chế rủi ro trong thanh toán còn đem lại cho các ngân hàng thương mại một nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, thu hút khách hàng cũng như khẳng định thêm vị thế của ngân hàng trên thương trường. 3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng Trước thực trạng kinh tế như hiện nay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng với vai trò là trung gian giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu và là một chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng một cách có hiệu quả nhất, cụ thể: * Ngân hàng thông qua việc hướng dẫn các quy định, quy chế, thủ tục, hồ sơ cho khách hàng sẽ giúp khách hàng nắm bắt nhanh và cụ thể hơn những yêu cầu về mặt thủ tục và pháp lý trong thanh toán L/C, tiết kiệm được cả thời gian, công sức và chi phí. * Ngân hàng với nguồn thông tin đa dạng và chuyên môn nghiệp vụ của mình có thể tư vấn cho khách hàng trong việc xem xét tính hiệu quả của dự án so sánh với các chỉ tiêu kinh tế của các dự án cùng loại (đặc biệt đối với các dự án có giá trị lớn), có tính đến các yếu tố thị trường trong và ngoài nước. Lợi ích của ngân hàng gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho người bán khi đến hạn. Có thể kể ra đây một số vấn đề mà ngân hàng có thể tiến hành tư vấn cho khách hàng của mình: ă Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu: Tư vấn cho doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Tư vấn cho doanh nghiệp cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là loại có lợi hơn cả vì tiền thu được nhanh hơn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn Tư vấn cho doanh nghiệp cân nhắc các điều kiện bất lợi của L/C Ngân hàng cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót ă Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu: Tư vấn cho nhà nhập khẩu nên mở loại L/C nào Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc đưa các điều khoản vào L/C Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình... Để góp phần phòng ngừa rủi ro, ngay từ ban đầu ngân hàng không chỉ làm tốt công tác thẩm định mà còn phải tư vấn cho khách hàng những nội dung nằm trong khả năng của ngân hàng ngay từ khi khách hàng ký kết các hợp đồng ngoại thương. Có nghĩa là ngân hàng không chỉ thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình mà phải chủ động giữ mối quan hệ thường xuyên với khách hàng, hỗ trợ ngay khi khách hàng có yêu cầu. Với vốn kiến thức và kinh nghiệm về các lĩnh vực có liên quan như phương thức thanh toán, điều kiện ràng buộc, thời hạn trả nợ, lãi suất,...ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng, thậm chí nếu cần có thể tham gia đàm phán để có những điều khoản hợp đồng chặt chẽ hơn giảm thiểu sự bất lợi cho khách hàng Việt Nam. Đây có thể coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro, vừa giải quyết được nhu cầu xuất - nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp, vừa phát triển được nghiệp vụ cho bản thân ngân hàng. Chúng ta cũng đã thấy một thực tế là hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay còn có nhiều hạn chế về nghiệp vụ ngoại thương, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán. Do đó, đồng thời với việc tư vấn cho khách hàng thì ngân hàng cũng có thể mở các lớp tập huấn nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ ngoại thương cho khách hàng. Thông qua hoạt động này, trình độ nghiệp vụ ngoại thương của khách hàng được nâng cao và ngân hàng cũng tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng. Có thể nói đây là một biện pháp phòng ngừa rủi ro khá hữu hiệu, đồng thời uy tín của ngân hàng trong con mắt của khách hàng cũng được nâng lên. 3.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng Trong những năm qua, không chỉ các ngân hàng thương mại mà toàn bộ hệ thống Ngân hàng đã và đang vươn lên về mọi mặt trong đó nổi bật nhất là áp dụng công nghệ kỹ thuật cao trong kinh doanh đưa mối quan hệ giao dịch của toàn hệ thống đi trước một bước, phục vụ đắc lực mục tiêu sớm hoà nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới. Các ngân hàng đã áp dụng phần mềm SWIFT tiên tiến phù hợp với công nghệ của các Ngân hàng đại lý ở nước ngoài. Với phương châm đổi mới và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng để nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý qua đó tăng sức cạnh tranh, từ nhiều năm nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đầu tư một số vốn rất đáng kể cho việc nâng cấp trang thiết bị máy móc, cải tiến và nâng cấp chương trình tin học chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại. Những kỹ thuật tiên tiến này đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc đầu tư cho công nghệ như vậy vẫn mới ở mức ban đầu so với quốc tế. Do vậy, trong những năm tới, các NHTM cần tiếp tục đầu tư vào việc đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển không ngừng của hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. 4. Một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ và đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế tại các NHTM Việt Nam 4.1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với khả năng tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó, thanh toán xuất nhập khẩu nói chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách thích hợp, phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời phòng tránh được những rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng. Thứ nhất, cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của toàn Hệ thống NHTM Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán. ở Việt Nam hiện nay, ngoài UCP.500 và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của ngân hàng. Khi có tranh chấp thương mại quốc tế xảy ra, Trọng tài quốc tế có thể ra phán quyết đối với quan hệ hai bên mua bán mà không đề cập đến quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng. Như vậy chỉ áp dụng UCP500 vào giao dịch tín dụng chứng từ là chưa đủ với các ngân hàng Việt Nam khi có phát sinh tranh chấp. Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng trung gian. Trước hết nên đề cập đến một số vấn đề sau: v Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận bị trọng tài tuyên án huỷ bỏ. v Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng bị mất khả năng thanh toán. v Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua bán đứt đoạn. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoá luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng chiết khấu và doanh nghiệp xuất khẩu. v Cần tạo hành lang pháp lý cho giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng chứng từ. Cho đến nay, hầu hết các khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở L/C đều không có văn bản pháp lý có tính chất hợp đồng được thoả thuận bằng văn bản. Ngay như ở Ngân hàng Ngoại thương chỉ có các loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ... Các chứng từ này chỉ đơn giản là các giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính pháp lý và ràng buộc giữa hai bên nên gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp. Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Cần có quy chế bắt buộc đối với các doanh nghiệp phải có đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, phương hướng phát triển kinh doanh... thì mới cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp (trở thành các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ). Thực tế cho thấy, thực lực tài chính của các doanh nghiệp nước ta hiện nay vẫn còn yếu, hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Nếu kinh doanh thua lỗ sẽ trực tiếp có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, uy tín thanh toán đối với ngân hàng. Theo thống kê gần đây, cả nước hiện có khoảng 34.000 doanh nghiệp với mức vốn bình quân của mỗi doanh nghiệp khoảng 2,7 tỷ đồng. Riêng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn bình quân càng thấp, khoảng 165 triệu đồng. Do vậy, trước mắt Chính phủ cần rà soát lại các đơn vị, tổ chức kinh tế không đủ điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp thì chuyển sang uỷ thác xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát xuất nhập khẩu. Hiện nay một số chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này nhưng lại bất lợi đối với doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây nên tồn đọng một số loại vật tư gây lãng phí và kém hiệu quả. Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ được. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Thứ ba, cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm. Đồng thời cũng nên có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng... 4.2. Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu: Rủi ro trong thanh toán quốc tế một phần là do những nguyên nhân chủ quan từ phía các đơn vị kinh doanh XNK. Chính những yếu kém về nghiệp vụ đã khiến họ là người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất. Vì vậy, những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa rủi ro và đẩy mạnh hoạt động thanh toán XNK không thể không xuất phát từ phía các khách hàng. Hiện nay có rất nhiều các đơn vị tham gia hoạt động XNK nhưng có không ít các giám đốc của các đơn vị này lại chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ do vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng phải qua phiên dịch. Bên cạnh đó trình độ của cán bộ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế. Như vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong các đơn vị kinh doanh XNK hiện nay mang tính cấp thiết. Cụ thể phải chú trọng những vấn đề sau: Các đơn vị khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ này phải qua đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật pháp trong thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác và đặc biệt phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Kiên quyết bài trừ tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh, trung thực là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng và do đó nó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong quan hệ thanh toán với Ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ vững chữ tín, thực hiện cam kết với Ngân hàng. Phải luôn giữ quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng, thực hiện đúng các chỉ dẫn của về các điều khoản của L/C. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp cần thông báo ngay cho Ngân hàng và phối hợp với Ngân hàng để tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục chứ không nên quy trách nhiệm cho ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần phải chú ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, khi chấp nhận bộ chứng từ để thanh toán tiền hàng cần kiểm tra hàng và/hoặc bộ chứng từ cẩn thận để tránh xảy ra tranh chấp về hàng hoá sau này đặc biệt là trong trường hợp do nhu cầu cấp thiết về hàng hoấ nên đã chấp nhận mọi điều kiện của chứng từ để ngân hàng bảo lãnh cho nhận hàng trước khi chứng từ tới. Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế phải lường trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài. Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy, khi được quyền chọn toà xử án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong nước (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam) để tránh những rủi ro trên. Như vậy, chỉ khi các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế thực hiện đúng các điều kiện trên thì công tác thanh toán qua Ngân hàng mới nhanh chóng thuận tiện và hoạt động XNK của đơn vị mới có hiệu quả. 4.3. Một số kiến nghị cụ thể về nghiệp vụ: Quy trình thanh toán là nhân tố trực tiếp tác động đến thanh toán tín dụng chứng từ. Bất kỳ một sai sót dù nhỏ trong quá trình thực hiện quy trình cũng có khả năng dẫn đến rủi ro trong thanh toán. Đối với các NHTM, rủi ro không chỉ là những gì đã xảy ra mà còn là những gì đang tiềm ẩn cần tiếp tục được phân tích, nghiên cứu để tìm ra biện pháp ngăn ngừa thích hợp. Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ là biện pháp ngăn ngừa mang tính chất trực tiếp và sát thực nhất so với các biện pháp đã được đề ra. ă Hoàn thiện quy trình thanh toán L/C hàng nhập: Định mức ký quỹ một cách hợp lý Định mức ký quỹ một cách hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng mở tránh được rủi ro về tỷ giá. Định mức ký quỹ là một việc làm không đơn giản bởi lẽ mức ký quỹ quá cao sẽ gây khó khăn cho nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng từ bỏ ngân hàng chuyển sang quan hệ với các ngân hàng khác chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn. Trong trường hợp ngược lại, nếu mức ký quỹ quá thấp sẽ không đảm bảo thực hiện cam kết của khách hàng. Vì vậy, theo em khi xác nhận định mức ký quỹ Ngân hàng cần dựa vào những yếu tố sau đây: * Uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Nếu đơn vị nhập khẩu là khách hàng quan hệ lâu năm, có uy tín thanh toán đối với ngân hàng thì có thể định mức ký quỹ thấp. Ngược lại nếu khách hàng lần đầu tiên đến quan hệ mở L/C thì phải yêu cầu ký quỹ cao, có thể lên đến 100% trị giá thanh toán hoặc phải có tài sản bảo đảm hay tìm người bảo lãnh. * Hiệu quả kinh tế của lô hàng nhập về: định mức ký quỹ phải cao hơn tỷ suất lợi nhuận mà lô hàng mang lại bởi vì trong trường hợp nhà nhập khẩu thế chấp bằng cả lô hàng không có khả năng thanh toán cho ngân hàng mở thì ngân hàng sẽ được quyền định đoạt đối với hàng hoá. Giá chuyển nhượng phải bảo đảm cho ngân hàng thanh toán với nước ngoài. * Tỷ lệ trượt giá của đồng tiền: trong thời kỳ tỷ giá biến động mạnh, ngân hàng phải điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ để tránh rủi ro về tỷ giá. Tỷ lệ điều chỉnh phải tương ứng với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong thời gian tới. Cân nhắc các điều kiện đảm bảo thanh toán Trường hợp thường xuyên xảy ra ở các Ngân hàng trong thương mại quốc tế là khi hàng hoá đến trước bộ chứng từ. Nếu để quá thời gian ân hạn nhà nhập khẩu sẽ phải chịu thêm phí lưu kho nên họ thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho phép 1/3 bộ chứng từ được gửi trực tiếp đến người mở và 2/3 bộ chứng từ còn lại gửi qua ngân hàng mở. Trong trường hợp này, nếu chấp nhận điều kiện đó thì nhất thiết vận đơn phải theo lệnh của ngân hàng mở thông qua hình thức ký hậu. Nếu nhà nhập khẩu yêu cầu vận đơn theo lệnh của nhà nhập khẩu thì phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay của khách hàng. Xem xét các điều kiện đòi tiền: Đòi tiền bằng điện là hình thức trong đó bảo lưu quyền đòi lại. Nghĩa là sau khi đã chuyển tiền bằng điện thanh toán cho người bán, nếu bộ chứng từ có lỗi và nhà nhập khẩu từ chối thanh toán thì ngân hàng mở có quyền đòi nhà xuất khẩu hoàn tiền lại. Nhưng trong thực tế khả năng hoàn tiền lại của nhà xuất khẩu là rất khó, còn tuỳ thuộc vào thiện chí của họ và khó tránh khỏi những tranh chấp xảy ra. Vì vậy trước khi quyết định mở một L/C cho phép đòi tiền bằng điện, Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. ăHoàn thiện quy trình L/C hàng xuất: Ngân hàng thông báo sau khi nhận được L/C bằng điện (Telex, Swift) không đầy đủ và không rõ ràng có thể tính sai mã test hoặc không xác định được mẫu điện. Trong trường hợp này ngân hàng thông báo phải yêu cầu ngân hàng mở mở lại thư tín dụng đó hoặc cung cấp mã test chính xác nhằm phòng ngừa gặp phải thư tín dụng giả. Ngoài tư cách là ngân hàng cung ứng dịch vụ thu phí, ngân hàng thông báo còn có thể được yêu cầu xác nhận thư tín dụng. Trong trường hợp này ngân hàng xác nhận sẽ phải gánh chịu rủi ro cùng ngân hàng mở. Nghiệp vụ này thường chỉ được thực hiện với những ngân hàng mở được cấp tín dụng hoặc có uy tín. Tuy nhiên vẫn có thể xác nhận đối với các ngân hàng mở không phải là khách hàng quen thuộc nhưng phải nghiên cứu kỹ khách hàng và yêu cầu được chiết khấu bộ chứng từ nhằm phòng tránh khả năng bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Khi quyết định chiết khấu bộ chứng từ, ngân hàng thương mại cần: Nghiên cứu tình hình kinh tế-chính trị của nước nhà nhập khẩu. Xem xét khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu, ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Ví dụ như đối với những quốc gia tình hình tài chính không ổn định, khủng hoảng kinh tế có thể dẫn đến hàng loạt các tổ chức tài chính, tín dụng bị đóng cửa. Với những thư tín dụng được mở ở ngân hàng những nước này ngân hàng không nên chiết khấu bộ chứng từ vì rủi ro cao. Trong quy chế thanh toán của các Ngân hàng đều quy định việc chiết khấu truy đòi và miễn truy đòi với các bộ chứng từ hoàn hảo. Nhưng cho tới nay, chính Ngân hàng ngoại thương là một Ngân hàng đứng đầu trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế mà vẫn chưa thực hiện nghiệp vụ chiết khấu chứng từ theo kiểu “mua đứt bán đoạn” như nhiều Ngân hàng lớn trên thế giới. Quy định này đảm bảo cho sự an toàn của Ngân hàng nhưng lại không có tín cạnh tranh cao. Chính vì vậy theo em đây là sẽ là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận nếu Ngân hàng có thể thẩm định tốt các vấn đề liên quan đến việc chiết khấu bộ chứng từ này. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, các Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trước hết phải khắc phục được những hạn chế trên, cung cấp dịch vụ thanh toán hoàn hảo cho khách hàng trong đó đặc biệt cần chú trọng đến thực hiện đầy đủ nghiệp vụ của phương thức tín dụng chứng từ. Để trống một mảng dịch vụ nào cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng tạo điều kiện cho các đối thủ của mình giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này. Kết luận Trong những năm qua, với việc mở rộng giao lưu hợp tác khu vực và trên thế giới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong đó phải kể đến là lĩnh vực thanh toán quốc tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh qua các năm, nền kinh tế dần được cải thiện và phát triển. Đạt được kết quả đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của các ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian thanh toán quốc tế, với phương thức thanh toán chủ yếu là tín dụng chứng từ, các ngân hàng đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, các Ngân hàng thương mại Việt Nam với hai đại diện là Ngân hàng Ngoại Thương và Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội đã không ngừng đổi mới các nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho phù hợp với những yêu cầu của khách hàng. Bằng uy tín, nguồn vốn và kinh nghiệm dày dạn của mình trong hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt trong công tác thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đã thực sự trở thành người hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu của cả nước theo định hướng của Nhà nước. Song trước ngưỡng cửa của sự đổi mới, trước những biến đổi liên tục và mạnh mẽ của môi trường kinh tế, pháp luật, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. Mặc dù các ngân hàng đã có những nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng công tác thanh toán tín dụng chứng từ, nhưng những rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ vẫn là mối đe doạ thường xuyên đối với hoạt động của ngân hàng và của khách hàng. Trước thực tế đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần tiếp tục cố gắng hơn nữa trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ, giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng nhằm phát huy thế mạnh trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, nâng cao vị thế của ngành ngân hàng trên trường quốc tế. Hy vọng rằng những ý kiến trong bản luận văn sẽ được góp một phần nhỏ vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để đưa phương thức này thực sự trở thành phương thức thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và đạt hiệu quả cao. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo PGS-TS Nguyễn Đức Dỵ - người đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em hoàn thành luận văn này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng biết ơn của mình tới các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại Thương – trường Đại học Ngoại Thương đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm học tập vừa qua. Hà Nội, tháng 12 năm 2002 Sinh viên Trần Thị Minh Hương. Tài liệu tham khảo Giáo trình thanh toán quốc tế trong Ngoại thương PGS Đinh Xuân Trình, NXB Giáo dục, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội - 1998 Ngân hàng thương mại GS. TS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân - Lê Nam Hải, NXB Thống kê - 2000 Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ GS. TS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân, NXB Thống kê - 2000 Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính Frederic S.Mishkin, NXB khoa học và kỹ thuật - 1999 The Uniform customs and practice for documentary credit (1993 revision ICC publication No-500) Luật các tổ chức tín dụng NXB Hành chính quốc gia -1998 7. Quy định chung về quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất, nhập khẩu và chuyển tiền của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 8. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Ngoại thương năm 1997 - 2001 9. Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu năm 1997 - 2001 của Phòng thanh toán Xuất khẩu - Nhập khẩu Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 10. Báo cáo phòng thanh toán xuất nhập khẩu Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội năm 1999,2000,2001. 11. Một số báo, tạp chí: - Tạp chí Ngân hàng - Tạp chí Thị trường tài chính - Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương - Thời báo Kinh tế Việt Nam - Tạp chí Thương mại, Kinh tế phát triển 12. Những tình huống đặc biệt trong thanh toán quốc tế – Phòng thương mại quốc tế – 1995 13. Phân tích các tình huống trong giao dịch tín dụng chứng từ Nhà xuất bản thống kê - 1998 14. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại David Cox – NXB Chính trị quốc gia - 1997 Bảng 10: Tốc độ phát triển thanh toán quốc tế của NHTMCP Quân đội Đơn vị: 1000 USD Phương thức Thanh toán Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số tiền Số tiền % Tăng/giảm 2000/1999 Số tiền %Tăng/giảm 2000/1999 Chuyển tiền 41.370 41.925 1,34 42.510 1,40 Nhờ thu 3.980 22.575 467,21 22.890 1,40 L/C xuất 48.334 81.500 68,62 84.401 3,56 Tổng thu 93.684 146.000 55,84 149.801 2,60 Nguồn: Báo cáo ngân hàng năm 1999,2000,2001 của phòng thanh toán quốc tế Tỷ trọng các phương thức thanh toán XNK qua VCB Nguồn: Báo cáo thường niên ngân hàng 1999-2001 Tỷ trọng thanh toán quốc tế tại NHTMCP Quân đội Nguồn: Báo cáo ngân hàng năm 1999,2000,2001 của phòng thanh toán quốc tế Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc190.doc
  • docBia Huong (NT).doc
Tài liệu liên quan