Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB)

Tài liệu Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB): ... Ebook Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB)

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU Kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù gắn liền với nhau trong nền kinh tế. Rủi ro là sự bất trắc gây ra mất mát thiệt hại, song lại một là tồn tài đồng hành với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, thanh toán quốc tế ra đời và phát triển không ngừng như một tất yếu khách quan. TTQT là một mắt xích không thể thiếu trong việc buôn bán, giao thương giữa các quốc gia. Trong đó tín dụng chứng từ đang trở thành phương thức thanh toán ưu việt và ngày càng được sử dụng phổ biến trong thanh toán xuất nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động của mình, Thanh toán quốc tế không chỉ đơn thuần mang lại những lợi ích kinh tế mà còn phát sinh những nguy cơ có thể gây rủi ro, tổn thất trực tiếp cho ngân hàng, cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và cả nền kinh tế quốc gia. Qua 15 năm thành lập, hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng TMCP Quân Đội còn mới mẻ nhưng đã đạt được những thành tựu nhất định. Sự phát triển đa dạng các sản phẩm thanh toán quốc tế đã tạo tiền đề căn bản thúc đẩy phương thức tín dụng chứng từ phát huy tính hiệu quả và trở thành công cụ đắc lực đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuy vậy trải qua thực tiễn áp dụng các tập quán quốc tế cho thấy tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, nó tiềm ẩn nhiều rủi ro về tài chính và uy tín không chỉ cho các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu mà cho các ngân hàng thương mại trong đó có Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội. Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu các vấn đề về rủi ro trong thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ để từ đó tìm ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro là việc làm cần thiết mà các Ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp phải chú trọng, quan tâm. Đây cũng là lý do để tôi quyết định lựa chọn đề tài: "Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội" cho chuyên đề thực tập của mình. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ VÀ RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 1.1. PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG TTQT 1.1.1. Định nghĩa Theo điều 2, Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, ấn bản số 600 bản sửa đổi năm 2007 (Uniform Customs and Practice for Documentary Credit, 2007 Revision, ICC publication No. 600- gọi tắt là UCP600), Tín dụng là một sự thỏa thuận thể hiện một cam kết chắc chắn và không hủy ngang của NHPH về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp. Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm chính của tín dụng chứng từ như sau: “Tín dụng” thể hiện tính tin cậy cao hơn so với các phương tiện thanh toán khác trong giao dịch thương mại quốc tế. “Tín dụng” được hiểu là một khoản vay “uy tín” của Ngân hàng, vì Ngân hàng thường có hệ số tín nhiệm cao hơn các nhà nhập khẩu, nên cam kết trả tiền của Ngân hàng cũng có giá trị hơn, do đó tạo được sự tin tưởng giữa các bên trong giao dịch. Một đặc điểm của tín dụng theo UCP 600 là tính “không thể hủy bỏ” trừ khi tín dụng có quy định khác. Điều này giúp nhà xuất khẩu giảm thiểu được rủi ro chỉ khi nào nhà xuất khẩu, ngân hàng mới có quyền sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ tín dụng. Tín dụng là một thỏa thuận được coi là một hợp đồng kinh tế. Mặc dù phương thức tín dụng chứng từ liên quan đến ít nhất ba bên: Người yêu cầu mở tín dụng, Ngân hàng phát hành tín dụng và người hưởng lợi tín dụng, nhưng về bản chất thì thư tín dụng chỉ là một hợp đồng kinh tế giữa hai bên: Ngân hàng và người hưởng lợi, trong đó trách nhiệm của Ngân hàng là thanh toán khi người hưởng lợi xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Điều đó cũng giải thích vì sao thư tín dụng ra đời trên cơ sở hợp đồng thương mại giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu, được lập dựa trên đơn yêu cầu của nhà nhập khẩu, nhưng khi ra đời thư tín dụng hoàn toàn độc lập với các giao dịch cơ sở trên. L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán cũng dựa trên chứng từ mà không phải dựa trên việc mua bán hàng hoá, các chứng từ cần tuân thủ chặt chẽ những điều kiện và điều khoản của tín dụng để tạo thành một bộ chứng từ phù hợp. Thuật ngữ “Tín dụng chứng từ” khi được dùng với ý nghĩa là một phương thức thanh toán quốc tế là một cơ chế. Trong đó ngân hàng mở thư tín dụng theo yêu cầu của khách hàng sẽ đứng ra trả tiền hoặc cam kết trả tiền cho một người khác, khi người này xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C. Như vậy, so với những phương thức TTQT khác thì vai trò của Ngân hàng trong giao dịch L/C không chỉ là thu chi hộ mà chủ động hơn được thể hiện ở việc thay mặt nhà NK thanh toán cho nhà XK và đảm bảo nhà NK nhận được bộ chứng từ đại diện cho hàng hoá phù hợp với yêu cầu đề ra. Nhờ đó, tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán mang lai sự công bằng cho cả hai bên. 1.1.2 Trình tự tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ 1.1.2.1 Các bên tham gia Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm: Người yêu cầu mở thư tín dụng(Applicant for L/C): là người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một L/C, và có trách nhiệm về việc trả tiền của ngân hàng cho người khác theo L/C. Người thụ hưởng L/C (Beneficiary): là người được hưởng tiền thanh toán hay sở hữu hối phiếu chấp nhận thanh toán. Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank) hay ngân hàng mở L/C (Opening Bank): là ngân hàng mà theo yêu cầu của người NK, phát hành một L/C cho người XK hưởng. Ngân hàng phát hành thường được hai bên mua bán thoả thuận và quy định trong hợp đồng mua bán. Ngân hàng xác nhận (Confirming bank): Khi người bán không tín nhiệm NHPH, họ yêu cầu thư tín dụng phải được xác nhận tại một ngân hàng khác được gọi là ngân hàng xác nhận. Đây thường là những ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường quốc tế. Ngân hàng xác nhận có thể là NHTB nhưng cũng có thể là ngân hàng khác tùy theo yêu cầu của người xuất khẩu. Ngân hàng thông báo (Advising Bank): ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành tại nước của người hưởng lợi, thực hiện thông báo tín dụng cho người hưởng lợi. Ngoài ra trong giao dịch tín dụng chứng từ, tùy thuộc vào yêu cầu và loại hình L/C còn có thể có một số bên tham gia như: Ngân hàng chuyển nhượng: trong trường hợp L/C chuyển nhượng thì ngân hàng được chỉ định cụ thể là ngân hàng chuyển nhượng trong L/C sẽ tiến hành chuyển nhượng L/C từ người hưởng lợi thứ nhất cho người hưởng lợi thứ hai và theo yêu cầu của người hưởng lợi thứ nhất. Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được ngân hàng phát hành uỷ nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với những qui định trong L/C thì: Thanh toán cho người thụ hưởng Chấp nhận hối phiếu kỳ hạn Chiết khấu bộ chứng từ Chịu trách nhiệm trả chậm giá trị của L/C. Trách nhiệm của ngân hàng được chỉ định là giống như ngân hàng phát hành khi nhận được bộ chứng từ của nhà XK gửi đến. Ngân hàng hoàn trả: là ngân hàng được NHPH ủy quyền hoặc chỉ thị thanh toán bộ chứng từ. Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank) Người hưởng lợi thư tín dụng (Beneficiary) Người yêu cầu mở thư tín dụng (Applicant) Ngân hàng phát hành thư tín dụng (Issuing bank) 1 2 3 4 5 6 5 7 8 6 Hợp đồng cơ sở Mô hình 1.1: Trình tự nghiệp vụ thanh toán L/C 1.1.2.2 Trình tự nghiệp vụ Người yêu cầu mở L/C lập đơn yêu cầu mở L/C dựa vào nội dung hợp đồng thương mại giữa người nhập khẩu và xuất khẩu, tiến hành ký quỹ nếu cần. Dựa vào đơn xin mở L/C, Ngân hàng phát hành mở L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình (NHTB) ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở L/C và chuyển L/C đến người xuất khẩu. Nếu ngân hàng thông báo không có quan hệ với ngân hàng phát hành thì phải thông báo qua một ngân hàng thông báo khác có quan hệ đại lí với cả hai ngân hàng trên. NHTB kiểm tra tính chân thực của tín dụng và tiến hành thông báo tới người hưởng lợi. Người hưởng lợi kiểm tra nội dung L/C, nếu chấp thuận thì chuẩn bị giao hàng, nếu không chấp thuận sẽ yêu cầu Ngân hàng phát hành sửa đổi và bổ sung L/C. Người xuất khẩu giao hàng và lập bộ chứng từ phù hợp với L/C. Người hưởng lợi xuất trình bộ chứng từ tại NH của mình và yêu cầu NH đòi tiền Ngân hàng phát hành. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ được xuất trình nếu phù hợp sẽ tiến hành thanh toán và nếu không phù hợp sẽ từ chối thanh toán đồng thời gửi trả bộ chứng từ cho người xuất khẩu. Khi đã thanh toán cho người hưởng lợi, NHPH chuyển chứng từ cho người NK, yêu cầu người NK thanh toán số tiền còn lại nếu chưa ký quỹ đủ 100%; nếu người NK đã ký quỹ đủ 100% thì tiến hành quyết toán. Người NK thanh toán cho NH và nhận bộ chứng từ. Nếu phát hiện bộ chứng từ có sai sót thì người NK có quyền từ chối thanh toán. 1.1.3 Các loại thư tín dụng (L/C) 1.1.3.1 Căn cứ theo loại hình L/C không hủy ngang (Irrevocable Letter of Credit): Là loại L/C mà sau khi mở, ngân hàng phát hành không có quyền sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu không có sự đồng thuận của người thụ hưởng và NHXN (nếu có). L/C có thể huỷ ngang (Revocable L/C): Là loại L/C mà người mở có quyền đề nghị NHPH sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự chấp thuận và thông báo trước của người thụ hưởng. Loại L/C này ít khi được sử dụng trong thực tế mà chỉ tồn tại trên lý thuyết. 1.1.3.2 Căn cứ theo phương thức sử dụng L/C chuyển nhượng (transferable L/C): Là L/C trong đó quy định người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng phát hành L/C hoặc là ngân hàng chỉ định chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. L/C dự phòng (Standby L/C): Là L/C do ngân hàng của người xuất khẩu phát hành cam kết hoàn trả tiền đặt cọc, ứng trước và chi phí mở L/C cho người nhập khẩu nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ của mình. Về bản chất L/C dự phòng giống như một bảo lãnh của ngân hàng và chỉ sử dụng khi phía đối tác vi phạm nghĩa vụ hay cam kết gây thiệt hại cho người hưởng lợi. . L/C xác nhận (confirmed L/C): Là L/C được một ngân hàng khác ngoài ngân hàng phát hành xác nhận, đây là cam kết trả tiền của đồng thời hai ngân hàng L/C tuần hoàn (revolving L/C): Là L/C không thể hủy ngang mà sau khi thực hiện hết giá trị hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì L/C lại có giá trị như cũ và tiếp tục được sử dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định cho đến khi thực hiện hết tổng giá trị hợp đồng. L/C tuần hoàn tạo điều kiện tốt cho nhà nhập khẩu mua được hàng hóa trong thời gian dài khi thị trường đang có lợi thế cho mình và bên mua cũng không muốn nhận tất cả hàng hóa ngay lập tức vì phải tính đến chi phí bảo quản, lưu kho và việc quay vòng vốn. Đồng thời nhà nhập khẩu khi mở L/C tuần hoàn thì không phải yêu cầu ngân hàng mở thêm các L/C khác cho cùng đơn đặt hàng, giúp nhà nhập khẩu không bị đọng vốn và không bị tính phí cho nhiều lần mở L/C. Nhà xuất khẩu không phải chờ đợi L/C mới và có thuận lợi là khi giao hàng nhà xuất khẩu nhận được tiền ngay trong cùng một L/C. L/C này được dùng phổ biến trong trường hợp buôn bán với các bạn hàng quen thuộc có uy tín trên thị trường và các bên tin cậy lẫn nhau. L/C giáp lưng Khi người hưởng lợi nhận được một L/C gốc không phải L/C chuyển nhượng nhưng không thể tự mình cung cấp hàng hóa, khi đó họ thỏa thuận với ngân hàng của mình phát hành một L/C thứ hai gọi là L/C giáp lưng với nội dung tương tự cho người cung cấp hàng hóa. Như vậy điều khác biệt cơ bản và quan trọng nhất so với nghiệp vụ L/C chuyển nhượng là L/C gốc và L/C giáp lưng hoàn toàn độc lập với nhau, ngân hàng phát hành L/C giáp lưng hoàn toàn chịu trách nhiệm thanh toán bộ chứng từ hợp lệ của L/C giáp lưng hay nói cách khác nghĩa vụ và trách nhiệm của hai ngân hàng phát hành L/C gốc và L/C giáp lưng hoàn toàn độc lập với nhau. Vì vậy người cung cấp hàng hóa có thể yên tâm về mặt thanh toán. L/C đối ứng (reciprocal L/C): là L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C đối ứng với nó đã được mở. L/C điều khoản đỏ (red clause L/C): là L/C có điều khoản (trước đây thường in bằng mực đỏ) cho phép ngân hàng thông báo được ứng trước một phần tiền cho người thụ hưởng để mua nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở. Nhưng tiền ứng trước được lấy từ tài khoản của người mở, nghĩa là tín dụng thương mại, mà không phải là tín dụng của NHTB hay NHPH, NHTB chỉ thực hiện các thủ tục theo điều khoản của L/C mà không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền đó. Việc ứng trước được NHPH ủy quyền cho NHTB thực hiện. Tiếp đó (hoặc trước đó) NHPH (sẽ hoặc đã) trích tài khoản của người mở chuyển (hoặc hoàn trả) cho NHTB. 1.1.3.3 Căn cứ vào thời hạn L/C L/C trả ngay (L/C at sight): Là loại L/C mà NHPH phải t ngay cho người hưởng lợi khi họ xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. L/C trả chậm (Deffered/Usance L/C): Là loại L/C mà NHPH cam kết TT cho người hưởng lợi sau một số ngày nhất định quy định trong L/C. + Có 2 loại L/C trả chậm: Acceptance L/C (Sử dụng hối phiếu để đòi tiền NH) và Deferred L/C (Không sử dụng hối phiếu). 1.1.4 Cơ sở pháp lý của phương thức tín dụng chứng từ Hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C chịu sự điều chỉnh đồng thời bởi các luật, công ước quốc tế liên quan và các luật quốc gia, đồng thời nó chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi các thông lệ và tập quán quốc tế: Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Customs And Practice For Documentary Credit – viết tắt là UCP) Quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo thư tín dụng (Uniform rules for bank – to – bank reimbursements under Documentary Credit – viết tắt là URR) Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế trong kiểm tra chứng từ theo L/C (International standard banking practice for examination of documents under documentary credit – viết tắt là ISBP) Bản phụ trương UCP về xuất trình chứng từ điện tử (Supplement to the Uniform customs and practice for Documentary credits for electronic presentation – viết tắt là eUCP) Trong đó, UCP là văn bản chính, còn các văn bản khác có tính chất giải thích và làm rõ việc áp dụng và thực hiện UCP. Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ (UCP) Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Customs And Practice For Documentary Credit – viết tắt là UCP) là một “Tập hợp các tập quán được chấp nhận rộng rãi trên thế giới liên quan đến thư tín dụng. Đây là một nguồn luật mà kết hợp hài hòa được các tập quán, được coi là thành công nhất trong lịch sử thương mại quốc tế, xóa bỏ hàng loạt những vấn đề nghiệp vụ cản trở dòng chảy thư tín dụng...” . KÓ tõ khi ph¸t hµnh lÇn ®Çu ®Õn nay b¶n quy t¾c nãi trªn ®· qua 6 lÇn söa ®æi. Phiên bản mới nhất của UCP là UCP 600, được ICC thông qua ngày 26/10/2006 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2007. Các định nghĩa trong phương thức tín dụng chứng từ, tập hợp và thống nhất hóa các tập quán, kỹ thuật nghiệp vụ trong giao dịch tín dụng chứng từ, quy định quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan đến tín dụng đểu được thể hiện thông qua bản Quy tắc chung này. Bản quy tắc này có một số đặc điểm chính như sau: Thứ nhất, tất cả các phiên bản UCP đều còn nguyên giá trị và có tính thống nhất.Do đó khi dẫn chiếu UCP phải nói rõ là áp dụng UCP nào. Thứ hai, UCP có hiệu lực pháp lý bắt buộc điều chỉnh các bên tham gia khi trong L/C có dẫn chiếu áp dụng Thứ ba, các bên có thể thỏa thuận để thực hiện các điều khoản của UCP trong L/C. Thứ tư, luật của quốc gia có giá trị cao hơn UCP khi xảy ra mâu thuẫn. Thứ năm, trong giao dịch L/C, các bên trước hết phải tuân thủ các điều khoản của L/C, sau đó là các điều khoản của UCP được áp dụng. 1.1.5. Ưu nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ 1.1.5.1 Đối với nhà nhập khẩu Ưu điểm: Thứ nhất, người nhập khẩu sẽ được đảm bảo rằng nếu mình trả tiền thì sẽ nhận được hàng và việc thanh toán chỉ được thực hiện khi bộ chứng từ phù hợp với những quy định trong L/C mà người nhập khẩu đã mở. Thứ hai, người nhập khẩu có thể không thanh toán nếu như khi kiểm tra bộ chứng từ thấy không hợp lệ. Thứ ba, người nhập khẩu còn có thể được ngân hàng cho vay tín dụng theo cách ký quỹ nhỏ hơn 100% giá trị L/C hoặc trả trước cho nhà xuất khẩu. Thứ tư, vì có sự đảm bảo về thanh toán người nhập khẩu có thể thỏa thuận giá cả với người xuất khẩu. Nhược điểm: Thứ nhất, giao dịch dựa vào chứng từ nên nhà nhập khẩu dễ gặp rủi ro do chưa biết chất lượng hàng hóa khi người xuất khẩu cố tình lừa đảo giao hàng không đúng với chứng từ đã lập và tạo bộ chứng từ hợp với L/C nhưng chưa giao hàng hoặc giao hàng chậm hàng kém chất lượng. Thứ hai, người nhập khẩu phải chịu chi phí khá cao, đó là việc phải ký quỹ mở L/C, phí cam kết vay vốn hoặc chuyển khoản thanh toán và các chi phí khác. 1.1.5.2 Đối với nhà xuất khẩu Ưu điểm: Thứ nhất, do thanh toán dựa trên bộ chứng từ nên người hưởng lợi chỉ cần xuất trình bộ chứng từ phù hợp cho ngân hàng có trách nhiệm thì được thanh toán mà không phụ thuộc vào người nhập khẩu đã nhận hàng ra sao. Thứ hai, người xuất khẩu sẽ được thanh toán dựa trên uy tín của ngân hàng phát hành với hệ số an toàn cao hơn nhà nhập khẩu. Thứ ba, chứng từ không hủy ngang có xác nhận sẽ đặt trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng thì ngân hàng thanh toán,chiết khấu, xác nhận cam kết đảm bảo rằng các điều kiện về thanh toán,chiết khấu,chấp nhận quy định trong L/C được thực hiện theo nguyên tắc không truy đòi người thụ hưởng. Thứ tư, nhà xuất khẩu có thể đồng ý để nhà nhập khẩu trả chậm trên cơ sở NHPH chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn. Nhà xuất khẩu có thể mang hối phiếu đã chấp nhận đến ngân hàng phục vụ mình (hay bất cứ ngân hàng nào khác) để chiết khấu nhận tiền tức thời. Điều này tạo ưu thế trong việc ký kết hợp đồng ngoại thương cho nhà xuất khẩu. Thứ năm, do nắm giữ được bộ chứng từ nên người xuất khẩu có thể vay vốn bằng bộ chứng từ một cách dễ dàng. Nhược điểm: Thứ nhất, người nhập khẩu sẽ tìm mọi sai sót của bộ chứng từ để từ đó không thực hiện trách nhiệm cho người xuất khẩu. Thứ hai, khi dùng bộ chứng từ đi vay vốn thì chi phí vay vốn rất cao và có thể có những sơ suất mà làm cho việc thanh toán diễn ra châm hơn. 1.1.5.3 Đối với các ngân hàng Ưu điểm: Thứ nhất, Ngân hàng chỉ có trách nhiệm kiểm tra tính bề mặt của chứng từ trong thời hạn quy định xem có phù hợp với L/C hay không, ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ, mọi tranh chấp về tính chất “bên trong” của chứng từ do người nhập khẩu và người xuất khẩu giải quyết. Thứ hai, Dịch vụ thanh toán có thể kéo theo các dịch vụ khác của ngân hàng phát triển như tín dụng cho vay, tăng huy động vốn, mở rộng quan hệ với nhà nhập khẩu và tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, làm tăng tiềm năng kinh doanh vốn đối ứng giữa các ngân hàng với nhau. Thứ ba, Ngân hàng thu được các khoản phí dịch vụ như phí phát hành L/C, phí thông báo/xác nhận L/C (trong trường hợp ngân hàng thông báo/NH xác nhận) và các khoản thu nhập liên quan đến việc chuyển đổi ngoại tệ. Nhược điểm: Thứ nhất, ngân hàng chịu trách nhiệm kiểm tra tính xác thực “bề ngoài” của bộ chứng từ nhưng nếu không kiểm tra kỹ không phát hiện sai sót mà vẫn trả tiền cho nhà xuất khẩu. Người nhập khẩu sau khi kiểm tra lại bộ chứng từ thấy không hoàn hảo sẽ có quyền từ chối thanh toán lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ gánh chịu mọi hậu quả phát sinh do lỗi của mình. Thứ hai, rủi ro khi người nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán. 1.2. RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 1.2.1. Khái niệm rủi ro trong thanh toán quốc tế 1.2.1.1. Một số quan điểm về rủi ro Rủi ro là là một biến cố ngẫu nhiên bất ngờ và mang lại tổn thất về kinh tế và con người. Theo từ điển Oxford, “Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị thiệt hại, tổn thất”. Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm khác lại cho rằng rủi ro mang tính trung hòa, không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Như vậy, từ những quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy rủi ro được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau. Song trong thực tiễn kinh doanh quốc tế thì rủi ro mang tính chất tiêu cực, tác động xấu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bởi thế các doanh nghiệp cần phải chú trọng việc nghiên cứu rủi ro theo từng thời kỳ cụ thể để có thể kiểm soát được rủi ro một các hữu hiệu và hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại mà doanh nghiệp phải gánh chịu. 1.2.1.2 Khái niệm rủi ro trong thanh toán quốc tế Thông qua việc xem xét các quan điểm về rủi ro và thực tiễn hoạt động thanh toán quốc tế chúng ta có thể khái quát định nghĩa về rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế như sau: “Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là những biến cố không mong đợi và có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán, gây thiệt hại cho các bên liên quan”. Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của rủi ro trong thanh toán quốc tế như sau: Rủi ro có thể lường trước nhưng không thể xác định một cách chính xác khi nào rủi ro xảy ra và mức độ như thế nào. Rủi ro trong thanh toán quốc tế mang tính khách quan vì nó tồn tại độc lập với ý chí của các bên tham gia vào hoạt động thanh toán. Rủi ro trong hoạt động thanh toán còn mang tính lịch sử. Ứng với từng giai đoạn nhất định mà rủi ro mang đặc điểm riêng biệt 1.2.2. Phân loại rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ Rủi ro trong thanh toán L/C xảy ra khi quyền lợi của các bên tham gia bị vi phạm. 1.2.2.1. Căn cứ vào đối tượng bị thiệt hại Rủi ro đối với người NK Người NK nhận được hàng hoá không đúng số lượng, chất lượng với quy định của hợp đồng. Do NH chỉ phải kiểm tra tính chân thực của bộ chứng từ, mà không chịu trách nhiệm về hàng. Rủi ro này xảy ra khi người XK chủ tâm gian lận có thể xuất trình bộ chứng từ giả mạo (có bề ngoài phù hợp với L/C) cho ngân hàng được chỉ định thanh toán. NHPH, NHXN, NH được chỉ định có thể mắc sai lầm thanh toán cho bộ chứng từ có sai sót. Về nguyên tắc, nhà NK vẫn có quyền truy đòi lại số tiền TT nhưng mất rất nhiều thời gian và chi phí. Người NK chưa nhận được bộ chứng từ để làm thủ tục nhận hàng mặc dù hàng đã cập cảng khiến người NK phải chịu chi phí lưu kho, lưu bãi. Trường hợp muốn nhận hàng hóa ngay, người NK sẽ đề nghị NH phát hành một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng và phải chịu rủi ro chấp nhận thanh toán với mọi sai sót của bộ chứng từ. Người XK không gửi hàng nhưng vẫn lập bộ chứng từ giả xuất trình đòi tiền NHPH. Loại rủi ro này tuy không chiếm tỷ lệ lớn song vẫn tồn tại. Rủi ro đối với người XK Người XK xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C dẫn đến mọi thanh khoản thanh toán có thể bị từ chối. Trong trường hợp này người XK phải tự xử lý hàng như dỡ hàng, lưu kho, bán đấu giá hay chở hàng quay về nước và chịu các loại chi phí như phí lưu tàu quá hạn, phí lưu kho và mua bảo hiểm cho hàng hoá… trong khi không biết người NK có đồng ý nhận hàng hay không. NHPH hay NHXN mất khả năng thanh toán dù bộ chứng từ xuất trình là hoàn hảo thì nhà XK cũng không được thanh toán hoặc nếu NH chấp nhận hối phiếu bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không được thanh toán. Trường hợp nhà NK cấu kết với những cá nhân hay tổ chức phi NH lập nên những bộ chứng từ giả để lừa đảo hòng chiếm đoạt hàng và không phải trả tiền. Mặc dù rủi ro này không dễ dàng thực hiện nhưng trên thực tế không phải là không xảy ra. Nếu trường hợp thư tín dụng là loại có thể hủy ngang thì ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ bất cứ lúc nào trước khi người XK xuất trình bộ chứng từ mà không cần có sự đồng ý của người nhập khẩu. Rủi ro đối với Ngân hàng Rủi ro đối với Ngân hàng phát hành Thứ nhất: Rủi ro có thể xảy ra trong việc kiểm tra bộ chứng từ. Thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán dựa vào chứng từ, chứng từ không chỉ có giá trị quan trọng đối với người XK mà còn với NH và người NK. Bộ chứng từ hoàn hảo là cơ sở ràng buộc trách nhiệm giữa người NK với NH, giữa NHPH với người XK, giữa NH thanh toán với NH hoàn trả, NHPH với NH xác nhận. Do NHPH thay mặt người NK trả tiền cho người XK nên NHPH phải kiểm tra chính xác về chất lượng bộ chứng từ, trong thực tế cho thấy việc kiểm tra bộ chứng từ phù hợp với L/C là việc làm không hoàn toàn dễ vì chỉ cần một sai sót rất nhỏ cũng dẫn đến rủi ro cho NHPH. Bởi khi chấp nhận bộ chứng từ thì NHPH sẽ thực hiện thanh toán cho người XK sau đó mới chuyển bộ chứng từ cho người NK để đòi tiền. Tuy nhiên người NK có thể từ chối thanh toán nếu phát hiện bộ chứng từ không phù hợp với L/C. Các tình huống có thể gặp rủi ro của NHPH trong việc kiểm tra bộ chứng từ, cụ thể như sau: NHPH không phát hiện ra sai sót trên bộ chứng từ và tiến hành thanh toán. Trong khi đó nhà NK phát hiện ra sai sót của bộ chứng từ, họ có quyền từ chối thanh toán cho NHPH. Bắt sai lỗi của bộ chứng từ và tiến hành từ chối thanh toán, dẫn đến bị nhà XK khiếu kiện. Những lỗi này thường liên quan tới việc ký hậu vận đơn ghi chú ngày giao hàng trên vận đơn hoặc các sai biệt khác trên chứng từ xuất trình thừa. Kiểm tra không hết sai sót dẫn tới mất quyền từ chối bởi NH không có quyền từ chối lần hai. Tiến hành kiểm tra chứng từ vượt quá số ngày làm việc NH, dẫn đến mất quyền từ chối bộ chứng có sai sót, trong khi đó người NK có quyền từ chối thanh toán cho NH đối với những lỗi đó. Thứ hai, rủi ro do nhà NK mất khả năng TT hoặc bị phá sản: Đây là loại rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho NHPH, do NH phải TT cho bộ chứng từ hoàn hảo trong khi không thể thu hồi lại vốn từ người mua. Thứ ba, rủi ro do nhà XK có hành vi lừa đảo, giả mạo chứng từ: NHPH mặc dù đã kiểm tra chứng từ với “sự cẩn thận hợp lý” nhưng không phát hiện sai sót và tiến hành TT. Nếu phía XK là một tổ chức “ma” hoặc bị phá sản, trong khi nhà NK không đủ năng lực tài chính để bồi thường thì NHPH cuối cùng sẽ là người phải gánh chịu rủi ro đó. Thứ tư, rủi ro do nhà NK không nhận hàng: Khi tỷ giá biến động theo hướng bất lợi hoặc giá hàng trên thị trường giảm mạnh, nhà NK không muốn nhận hàng vì sợ thua lỗ nên không tiến hành TT. Trong trường hợp này, nếu tỷ lệ ký quỹ L/C không bù đắp được tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì rủi ro này sẽ do NHPH gánh chịu. Rủi ro đối với NHTB: NHTB chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo tính chân thực của L/C mình thông báo mà không chịu trách nhiệm thanh toán, nhưng nếu không làm tốt trách nhiệm và để xảy ra sai sót thì NHTB phải gánh chịu rủi ro và không nhận được phí dịch vụ nếu nghiêm trọng hơn là bị khởi kiện và đòi bồi thường thiệt hại. Rủi ro đối với NH xác nhận: Thứ nhất: NHXN phải thanh toán cho bộ chứng từ hoàn hảo bất luận có truy đòi được từ NHPH hay không. Như vậy, NHXN phải chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH cũng như rủi ro chính trị và rủi ro ngoại hối của nước NHPH. Thứ hai: Rủi ro trong khâu kiểm tra chứng từ đó là trường hợp NHXN không phát hiện sai sót của bộ chứng từ và tiến hành thanh toán thì không thể truy đòi lại từ NHPH. Rủi ro đối với NHCK chứng từ: Do những nguyên nhân bất khả kháng: rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán hay rủi ro trong quá trình vận chuyển hoặc rủi ro do nhà nhập khẩu từ chối thanh toán bộ chứng từ và rủi ro do NH mở bị phá sản thêm nữa là rủi ro do NH chiết khấu không hành động đúng theo quy định của UCP600. Theo UCP600, NHPH được miễn trách nhiệm thanh toán trong trường hợp bộ chứng từ có lỗi nên nếu NHCK chiết khấu miễn truy đòi cho bộ chứng từ sai sót thì sẽ phải gánh chịu rủi ro này… 1.2.2.2. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro Rủi ro tín dụng: Là loại rủi ro về mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia phương thức tín dụng chứng từ. Rủi ro từ phía nhà NK: L/C là cam kết trả tiền chắc chắn của NHPH khi người hưởng lợi xuất trình bộ chứng từ phù hợp, nếu L/C được ký quỹ >= 100% thì sẽ không xảy ra rủi ro cho NHPH nhưng để thu hút khách hàng phần lớn các NH khi mở L/C đều tài trợ cho KH bằng cách cho vay vốn hoặc tài trợ bằng uy tín của KH và chỉ yêu cầu kỹ quỹ một tỷ lệ nhất định. Trường hợp người NK bị vỡ nợ hay phá sản dẫn đến mất khả năng thanh toán hoặc vì một lý do nào đó mà khách hàng cố tình không thanh toán thì sẽ gây rủi ro tín dụng cho NHPH. Rủi ro từ phía nhà XK: Rủi ro này thường xảy ra đối với NHCK. Có hai loại chiết khấu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi. Chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi là khi NHPH từ chối thanh toán hay mất khả năng thanh toán thì NHCK có quyền truy đòi lại nhà XK số tiền họ đã thanh toán và lãi phát sinh nhưng nếu nhà XK không còn khả năng hoàn lại số tiền đó thì NHCK đã gặp rủi ro. Rủi ro tín dụng từ phía NHPH: Nếu NHPH mất khả năng thanh toán hoặc phải đóng cửa hoặc vỡ nợ thì cũng dẫn tới rủi ro cho người XK và NHCK. Điều này phụ thuộc nhiều vào mức độ tín nhiệm của NHPH, mặc dù rất hiếm xảy ra nhưng cũng đã có những NHTM bị sụp đổ. Vì vậy để tránh xảy ra tình huống trên nhà XK nên yêu cầu nhà NK chọn những NHTM lớn, có uy tín để phát hành L/C. Rủi ro hàng hoá: Là những rủi ro về mất mát, hư hỏng hàng hoá trong quá trình vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ. Trong thương mại quốc tế việc vận chuyển hàng hóa thường theo các chặng đường dài, qua nhiều nước, nhiều phương tiện, bảo quản trong kho lâu ngày. Hàng hóa có thể gặp hư hỏng như mất phẩm chất, biến động về giá cả trong quá trình vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ. Thậm chí hàng hóa còn có thể bị mất do đắm tầu, máy bay bị cháy, khủng bố, cướp biển…Điều này sẽ gây thiệt hại cho các bên liên quan là người NK, người XK và NH. Do đó các bên tham gia cần phải tính toán để dự đoán trước những rủi ro và có biện pháp hợp lý như mua bảo hiểm. Ngoài ra về phía NH là người tài trợ cho người NK nên cũng cần quan tâm đúng mức đến mặt an toàn của hàng hóa. Rủi ro ngoại hối: Khi tỷ giá thay đổi vượt dự tính của các bên sẽ gây ra thiệt hại trong việc giao dịch hàng hóa. Sự biến động của tỷ giá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chính sách tỷ giá, tốc độ lạm phát, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, cung cầu ngoại hối,… của từng quốc gia. Khi ngoại tệ lên giá thì bất lợi cho nhà NK và có lợi cho nhà XK và ngược lại. Đối với NH Nếu khi NH đã ứng trước để bán cho khách hàng - vay từ nguồn khác để bán hay bán khống thì NH phải đối mặt với rủi ro đồng tiền thanh toán lên giá. Hoặc NH phải đối mặt với rủi ro đồng tiền thanh toán giảm giá so với đồng bản tệ. Rủi ro quốc gia: Rủi ro quốc gia là những rủi ro về kinh tế, chính trị, chính sách của một quốc gia làm cho các bên tham gia quá trình mua bán không thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Vì thế, trong thương mại quốc tế việc phân tích rủi ro quốc gia trở thành một bộ phận không thể thiếu. Nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro quốc gia bao gồm: Chính sách thương mại và các quy định khác về hoạt động xuất nhập khẩu cá._.c mặt hàng sẽ rất dễ gây thiệt hại cho các bên tham gia. Chính sách quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu như việc quản lý ngoại hối, cấp giấy phép sử dụng và chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Khi chính phủ của nước NK áp dụng các biện pháp thắt chặt ngoại hối hoặc cấm vận trong thanh toán thì gây rủi ro cho nhà XK và ngân hàng. Nền kinh tế trong tình trạng suy thoái nghĩa là sức mua của người tiêu dùng giảm, điều này ảnh hưởng đến việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp . Hệ số an toàn của quốc gia tứ tỷ lệ nợ nước ngoài quá lớn so với GDP, mất khả năng thanh toán dài hạn thì chính phủ có thể tuyên bố vỡ nợ hoặc hoãn thanh toán các khoản nợ nước ngoài thì sẽ đẩy các NH vào tình trạng không thanh toán được các khoản ngoại tệ cho nước ngoài. Khi một quốc gia bị cấm vận thì mọi hoạt động thương mại và các giao dịch với các đối tác nước ngoài đều bị kiểm tra kiểm soát gắt gao điều này gây ảnh hưởng cho các giao dịch chưa được thanh toán. Rủi ro pháp lý: Rủi ro pháp lý là rủi ro không tuân thủ các yêu cầu pháp lý và vận dụng không đồng nhất các nguồn luật điều chỉnh L/C như UCP600, các yêu cầu về quản lý của nhà nước. TTQT bằng phương thức L/C được các NH trên thế giới thực hiện trên cơ sở nội dung của UCP, nhưng ở từng giao dịch còn bị chi phối bởi hệ thống luật quốc gia, nhưng luật quốc gia thông thường ít có đối đầu với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên trong trường hợp có khác biệt hoặc đối nghịch với UCP thì luật quốc gia sẽ chi phối trên tất cả và được chấp thuận. Ngoài ra rủi ro pháp lý còn do hệ thống luật pháp không đồng bộ, thậm chí nhiều khi trong hệ thống luật pháp của một nước còn mâu thuẫn lẫn nhau. Như vậy để giảm thiểu xảy ra rủi ro quốc gia thì trước khi ký kết hợp đồng ngoại thương, các bên cần xem xét luật của quốc gia của đối tác và quy định rõ trong hợp đồng ngoại thương khi tranh chấp xảy ra thì áp dụng theo luật nào và thứ tự ưu tiên như thế nào. Rủi ro đạo đức Rủi ro đạo đức là rủi ro xảy ra khi một bên tham gia tín dụng chứng từ cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại tới quyền lợi của các bên còn lại. Đây là loại rủi ro mà các bên tham gia tín dụng chứng từ khó có thể lường trước và kiểm soát được. Rủi ro từ phía người NK: Nếu không phải bạn hàng lâu năm và không có uy tín trong kinh doanh, nhà NK thường lợi dụng những sai sót nhỏ của chứng từ, lỗi không ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà NK theo hợp đồng mua bán để trì hoãn thanh toán, ép người bán giảm giá, đặc biệt khi giá cả hàng hóa biến động theo hướng bất lợi cho nhà NK hoặc không thanh toán. Rủi ro từ phía người XK: Khi nhà XK giao hàng không đúng hợp đồng hoặc không giao hàng nhưng lại giả mạo chứng từ để xuất trình đòi tiền thanh toán. Trong trường hợp giá cả trên thị trường quốc tế tăng, người bán không muốn giao hàng nên mặc dù L/C đã được mở nhưng không có giá trị thanh toán, dẫn tới thiệt hại cho người mua vì đã phá vỡ kế hoạch kinh doanh của họ và họ vẫn phải chịu những chi phí NH liên quan. Rủi ro từ phía người chuyên chở: Đã có trường hợp, người chuyên chở nhận hàng từ người bán, lấy tiền cước rồi biến mất. Khi đó, NH vẫn phải có trách nhiệm thanh toán cho nhà XK, việc đòi bồi thường từ hãng tàu thì không nằm trong nội dung của L/C. Rủi ro đạo đức từ phía ngân hàng: Nhiều NH lợi dụng những sai sót nhỏ của bộ chứng từ để trì hoãn hay từ chối thanh toán hoặc NH mở L/C trả chậm, khi không nhận được tiền từ người NK thì họ cũng không tiến hành thanh toán cho người XK theo như cam kết. Rủi ro tác nghiệp: Đây là những sai sót về nghiệp vụ do chính bản thân các bên tham gia gây nên. Đối với nhà XK thì đó là rủi ro không lập được bộ chứng từ hoàn hảo theo quy định của L/C vì phương thức tín dụng chứng từ đòi hỏi một cách khắt khe về sự phù hợp tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Một sự sai sota dù nhỏ cũng có thể bị người mua và NHPH bắt lỗi và từ chối TT. Đối với nhà NK do không nắm vững về nghiệp vụ tín dụng chứng từ nên quy định các điều khoản về chứng từ xuất trình theo L/C không chặt chẽ, khiến nhà XK dễ dàng lập được bộ chứng từ hoàn hảo mặc dù giao hàng không theo đúng quy định của hợp đồng. NH đóng vai trò quan trọng trong phương thức L/C và là người thay mặt nhà NK kiểm tra bộ chứng từ và cam kết thanh toán cho nhà XK trên cơ sở bộ chứng từ phù hợp. Nếu cán bộ NH không thành thạo nghiệp vụ sẽ gây khó khăn và rủi ro cho cả NH và khách hàng. Rủi ro công nghệ: Rủi ro công nghệ là do công nghệ thấp kém, không đáp ứng hoặc đáp ứng không tốt yêu cầu đặt ra. Công nghệ không phù hợp sẽ gây sai sót trong quá trình lập chứng từ, tìm kiếm thông tin và tốn kém chi phí cho nhà XNK. Đối với NH, việc đầu tư cho công nghệ NH đòi hỏi chi phí rất cao. các NH nhỏ vốn ít không có điều kiện để trang bị công nghệ hiện đại thường gặp rủi ro. Rủi ro uy tín: Rủi ro uy tín là những sai sót xảy ra làm giảm uy tín của các bên. Đối với nhà XNK, khi uy tín giảm sút thì các NH đánh giá hệ số tín nhiệm của các nhà XNK thấp và NH sẽ không tiến hành cho vay, mở L/C cho nhà NK hay ngừng chiết khấu chứng từ cho các nhà XK. Đối với NH, Nếu một NH vì lý do nào đó bị giảm uy tín thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc mở L/C. L/C họ mở ra sẽ bị từ chối, bị yêu cầu xác nhận và chi phí sẽ rất tốn kém. NH dùng uy tín của mình để tài trợ cho KH, đứng ra cam kết thanh toán cho nhà XK khi xuất trình phù hợp. Uy tín của NH phụ thuộc vào trình độ nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp, việc thực hiện các cam kết, tình hình tài chính cũng như lịch sử phát triển… 1.2.3. Chỉ tiêu phản ánh rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ của NHTM Với các chiến lược kinh doanh khác nhau trong từng thời kỳ kinh tế thì căn cứ vào số % nhất định của các chỉ tiêu mà NH có thể nắm được mức độ rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ. Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay mở L/C:(=NQH/9DNCV)% Phản ánh rủi ro tín dụng trong phương thức tín dụng chứng từ. NH tiến hành cho KH mở L/C trả ngay vay để nhập hàng hoá. Tuy nhiên đến hạn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động như sự thay đổi về tỷ giá, thay đổi cung cầu trên thị trường mà KH không có khả năng để trả nợ. Tỷ lệ L/C quá hạn so với tổng số L/C: (= LCq / TLC)% Là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh rủi ro tín dụng, đạo đức và rủi ro hàng hoá trong TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ trả chậm. Người NK mở L/C trả chậm vay vốn từ nước ngoài để NK hàng hoá. Tuy nhiên đến hạn, khách hàng không có khả năng TT, dẫn đến quá hạn và NH buộc phải trả nợ thay. Tỷ lệ L/C bị từ chối xác nhận so với tổng số L/C: (= LCt / TLC)% Phản ánh rủi ro về uy tín của NHPH của nước NK trên trường quốc tế. Khi người XK không tin tưởng vào khả năng thực hiện cam kết theo L/C của NHPH, hay lo sợ những rủi ro quốc gia của nước người NK thì họ không chấp nhận L/C được phát hành hoặc yêu cầu L/C phải được xác nhận bởi một NH có uy tín khác hoặc tại một quốc gia khác. 1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG 1.3.1 Nhân tố chủ quan - Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương mại phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt chịu sự chi phối lớn của các quy luật cung cầu, qui luật cạnh tranh nên phải thường xuyên đối mặt với rủi ro từ mọi phía, co khi do giá cả thay đổi do công nghệ yếu kém, khung hoảng tài chinh gây nên phản ứng dây chuyền khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn thua lỗ trong kinh doanh điều này dễ làm cho uy tín của các bên về mặt tài chính sụt giảm. - Do thiếu thông tin hay còn gọi là thông tin không cân xứng: về tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh cũng như uy tín và tính trung thực của đối tác nên đã có những quyết định sai lầm gây ra rủi ro cho các bên tham gia giao dịch, đặc biệt trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ theo UCP thì việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào bộ chứng từ chứ không phụ thuộc vào hàng hóa trao đổi. 1.3.2 Nhân tố khách quan - Do các vấn đề liên quan tới mâu thuẫn sắc tộc, đảng phái, tôn giáo, biểu tình, đình công, chiến tranh đe dọa tới tình hình an ninh của một quốc gia. Do chính sách tiền tệ và tài khóa của mỗi quốc gia, tỷ lệ vay trả nợ trong và ngoài nước việc cân bằng cán cân thanh toán của từng nước, sự mở cửa của nền kinh tế cộng thêm chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia đó cũng làm ảnh hưởng tới việc phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng trong phương thức thanh toán L/C. - Do hệ thống luật pháp mỗi quốc gia có sự khác nhau nên đôi khi có sự mâu thuẫn giữa UCP với luật quốc gia và khi đó theo quan điểm của ICC là không thể thay đổi luật quốc gia , những tranh chấp nếu có tốt nhất là để cho toàn án xem xét và phán quyết vì vậy dẫn tới rủi ro pháp lý. - Sự biến động trên thị trường ngoại hối cũng làm cho việc phòng ngừa rủi ro trong thanh toán gặp nhiều khó khăn vì do tỷ giá thường xuyên biến động theo quy luật của thị trường nó không chỉ ảnh hưởng tới cán cân thanh toán và trực tiếp là nền kinh tế của từng nước mà nó còn làm ảnh hưởng tới các giao dịch bằng ngoại tệ của các bên tham gia giao dịch. 1.3.3 Nhân tố nghiệp vụ 1.3.3.1.Các biện pháp né tránh rủi ro Chủ động né tránh từ trước khi rủi ro xảy ra có nghĩa là ngân hàng phải nắm được chắc chắn các đối tác giao dịch khi thấy có vấn đề không thuận lợi khi tham giao mở L/C thì có thể dừng ngay việc đó lại. Né tránh bằng cách loại bỏ những nguyên nhân gây ra rủi ro VD: Hợp đồng quy định nhà NK mở 1 L/C cho nhà XK trong đó bộ chứng từ yêu cầu xuất trình có vận tải đơn theo lệnh nhà NK. Đây chính là nguyên nhân gây rủi ro cho NHPH do nhà NK không cần hoàn thành nghĩa vụ thanh toán với NH vẫn có thể nhận hàng. Để ngăn ngừa rủi ro này, NHPH phải yêu cầu vận tải đơn theo lệnh của NHPH. Có các chiến lược kinh doanh như việc dự trữ và nắm giữ số lượng, chủng loại ngoại tệ trong thanh toán cho các đối tác hợp lý. 1.3.3.2.Các biện pháp ngăn ngừa rủi ro Ngăn ngừa rủi ro là sử dụng các biện pháp để giảm thiểu số lần rủi ro hoặc giảm mức độ thiệt hại do rủi ro mang lại. Nhóm biện pháp ngăn ngừa tổn thất bao gồm: Chẳng hạn trước khi ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, để hạn chế thiệt hại, DN có thể chủ động thuê tư vấn luật, nhờ các chuyên gia giỏi nghiệp vụ ngoại thương thương thảo hợp đồng. Rủi ro sẽ xảy ra nếu nhân viên của DN không có những hiểu biết cần thiết về môi trường văn hoá, chính trị của nước đối tác, dẫn đến hành xử không đúng và gặp rủi ro. Biện pháp phòng ngừa: Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ cho cán bộ, đặc biệt là kiến thức về văn hoá, luật pháp và cách ứng xử. Khi NH ban hành các quy trình, quy chế mới điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhưng không phải công nhân, cán bộ nào cũng có thể thích ứng ngay nên cách phòng ngừa là phải thường xuyên theo dõi, cập nhật đầy đủ, kịp thời các thông tin, chính sách, quy trình, quy chế của NH. 1.3.3.3.Các biện pháp giảm thiểu rủi ro Đây là các biện pháp để giảm thiểu những tổn thất, thiệt hại, mất mát do rủi ro mang lại, bao gồm: Định giá lại những tài sản còn sử dụng được. Ngân hàng sau khi xảy ra rủi ro thì tiếp tục truy đòi người mở L/C. Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phòng ngừa rủi ro cho chặt chẽ. Mua bảo hiểm. Đa dạng hóa các đồng tiền. 1.3.3.4.Các biện pháp dự phòng Trong hoạt động kinh doanh, NH và DN có thể đưa ra rất nhiều biện pháp dự phòng, hạn chế rủi ro. VD: Khi NK hàng hoá trị giá lớn, hàng nhạy cảm như phân bón, xăng dầu, sắt thép người bán thường yêu cầu người mua mở L/C tuần hoàn. Khi đó, độ rủi ro trong thanh toán là rất cao. Vì vậy, nhà NK sẽ yêu cầu người bán cung cấp một bảo lãnh thực hiện hợp đồng hay thư tín dụng dự phòng hoặc không chấp nhận mở L/C tuần hoàn hay đòi tiền bằng điện. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG QUÂN ĐỘI 2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG QUÂN ĐỘI Sự ra đời và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội là ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập tại nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng được thành lập theo giấy phép hoạt động số 0054/NH – CP do Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 14 tháng 9 năm 1994 và Quyết định số 00374/GP – UB của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Thời gian hoạt động theo giấy phép là 50 năm và ngân hàng chính thức đi vào hoạt động vào ngày 4 tháng 11 năm 1994. Ngân hàng được thành lập nhằm thực hiện các giao dịch bao gồm huy động và nhận tiền gửi ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân, cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức và cá nhân trên cơ sở tính chất và khả năng nguồn vốn của ngân hàng thực hiện các giao dịch ngoại tệ, các dịch vụ tài trợ quốc tế, chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác và các dịch vụ ngân hàng khác được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng với định hướng chủ yếu trong giai đoạn đầu là phục vụ các doanh nghiệp quân đội tham gia phát triển kinh tế và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Cổ đông sáng lập chủ yếu là các Tổng công ty, Công ty và các Nhà máy thuộc Bộ Quốc phòng.Ngân hàng TMCP Quân đội ra đời là sự hội tụ của nhiều yếu tố mà trong đó quan trọng nhất phải kể đến đó là thời điểm và ý tưởng thành lập Ngân hàng. Ngay từ trước khi ra đời, mục tiêu hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân đội đã được xác định rõ là thực hiện hoạt động như một ngân hàng đa năng phục vụ cho các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế, làm dịch vụ ngân hàng đối với mọi thành phần kinh tế. Trải qua gần 15 năm hoạt động và phát triển, Ngân hàng TMCP Quân đội bắt đầu từ con số hết sức khiêm tốn, vốn điều lệ chỉ có 20 tỷ đồng. Ngân hàng có trụ sở chính đặt tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội vào ngày 31 tháng 12 năm 2008, Ngân hàng có 1 Hội sở chính, 1 Sở giao dịch, 4 Công ty con tại Việt Nam, 2 Công ty liên kết và 34 chi nhánh cùng với 54 phòng giao dịch tại các tỉnh và thành phố trên cả nước nhưng đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc: Vốn điều lệ liên tục tăng và đã đạt 3.400 tỷ đồng vào cuối năm 2008, có gần 100 chi nhánh, phòng giao dịch tại những trung tâm kinh tế lớn của đất nước, với gần 2.000 cán bộ công nhân viên có trình độ trên toàn hệ thống, đã cung cấp một danh mục các loại hình sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Đồng thời MB còn mở rộng hợp tác với các ngân hàng trong và ngoài nước nhằm hợp tác để cùng phát triển. Hiện nay con số ngân hàng đại lý của MB đã lên tới 700 ngân hàng tại 75 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. MB từ một ngân hàng nhỏ, còn mới mẻ song đã trở thành một Ngân hàng có một vị thế nhất định trong hệ thống các các Ngân hàng thương mại, được NHNN đánh giá là một trong số ít Ngân hàng TM hoạt động hiệu quả, MB vẫn là một trong những ngân hàng TMCP có kết quả kinh doanh ấn tượng, phát triển hàng đầu Việt Nam: 4 lần liên tiếp vinh dự được trao tặng giải thưởng “Thương hiệu mạnh Việt Nam” do người tiêu dùng bình chọn dựa trên các tiêu chí: năng lực lãnh đạo, bảo vệ thương hiệu, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm, kết quả kinh doanh và tính ổn định. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Quân Đội Cơ cấu tổ chức của MB được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy của Ngân hàng TMCP Quân Đội Cơ quan kiểm toán nội bộ Ban kiểm soát Cơ quan nghiên cứu phát triển Hội đồng Quản trị Hội đồng tín dụng Ban lãnh đạo Các ủy ban cao cấp Khối quản trị rủi ro Khối kiểm soát nội bộ Quản lý hệ thống Hỗ trợ kinh doanh Kinh doanh 1. Phòng kế hoạch tổng hợp 2. Phòng pháp chế 3. Phòng truyền thông 4. Khối tài chính kế toán 5. Trung tâm công nghệ thông tin 6. Khối tổ chức nhân sự 7. Phòng chính trị 8. Văn phòng đại diện phía Nam 1. Khối hỗ trợ kinh doanh 2. Khối hành chính và quản lý chất lượng 3. Khối quản lý mạng lưới và kênh phân phối 1. Khối Treasury 2. Khối doanh nghiệp lớn và các định chế tài chính 3. Khối doanh nghiệp nhỏ và vừa 4. Khối khách hàng cá nhân 5. Khối đầu tư Đại hội đồng cổ đông Nguồn: Báo cáo thường niên 2009 Các kết quả đạt được Phát triển tổ chức và hệ thống Ngày đầu thành lập, MB chỉ một địa điểm giao dịch duy nhất tại 28A Điện Biên Phủ nhưng qua 14 năm hoạt động và phát triển, số lượng chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước đã gần 100, nắm giữ trên 50% vốn góp của 3 công ty là Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Hà Nội, Công ty quản lý quỹ và khai thác tài sản MB. Cùng với sự phát triển của hệ thống, cho đến 31/12/2008, tổng số lượng cán bộ công nhân viên của MB là 1.984 người, đội ngũ nhân lực có kiến thức, nhiệt huyết, có tâm gắn với sự phát triển vững mạnh của MB, trong đó trình độ đại học và trên đại học chiếm đến 78%, cán bộ trẻ chiếm tới 85%. Trong năm 2008, MB đã thực hiện tái cấu trúc lại bộ máy nhân sự, thành lập trung tâm đào tạo và triển khai hàng loạt khóa đào tạo quan trọng trong năm. Đội ngũ cán bộ của ngân hàng luôn được chú trọng đào tạo và đào tạo lại để đáp ứng đòi hỏi công tác của giai đoạn mới. Phát triển quy mô hoạt động Sự lớn mạnh về quy mô hoạt động không chỉ được phản ánh ở các chỉ tiêu tổng tài sản, tổng dư nợ tín dụng, vốn huy động mà còn thể hiện ở sự gia tăng, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Qua gần 15 năm hoạt động và phát triển, tính đến 31/12/2008, vốn điều lệ của MB tăng 170 lần so với ngày đầu thành lập, đạt 3.400 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 41.809,74 tỷ đồng. Hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn được đẩy mạnh MB đã không ngừng gia tăng nguồn vốn huy động bằng việc mở rộng nhiều kênh huy động vốn: từ dân cư, từ doanh nghiệp, tham gia thị trường chứng khoán và phát hành trái phiếu. Ngoài ra MB còn thường tổ chức các chương trình tiết kiệm dự thưởng đồng thời quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho ngân hàng, nâng cao uy tín và hình ảnh tốt cho khách hàng. Trên cơ sở chủ động về nguồn vốn, MB đã đa dạng hóa hình thức cho vay, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, cơ cấu lại nợ vay, đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các hoạt động phi tín dụng như hoạt động bảo lãnh, hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ, hoạt động thanh toán quốc tế, hoạt động kinh doanh thẻ cũng góp phần mang lại lợi nhuận và nâng cao uy tín cho MB. Phát triển sản phẩm, dịch vụ Trong giai đoạn hiện nay MB đã tăng thêm nhiều tiện ích, sản phẩm dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu tốt nhất cho khách hàng như: dịch vụ chuyển tiền, thanh toán trong nước và quốc tế, thanh toán séc, mua bán và chuyển đổi ngoại tệ. Các tiện ích không dùng tiền mặt trong thanh toán được đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng. Ngoài ra MB còn hoàn thiện các sản phẩm khác như cho vay du học, phát triển các sản phẩm liên kết với Viettel, sản phẩm chiết khấu,… Phát triển công nghệ Trong điều kiện phát triển ngân hàng hiện đại thì MB luôn thấy rõ tầm quan trọng của công nghệ, vì vậy MB đã đầu tư nguồn lực để phát triển lĩnh vực này. Các hệ thống máy chủ, máy trạm, các chương trình thanh toán, hạch toán kế toán, thông tin được đầu tư đúng mức. Ngoài ra, MB còn cung cấp nhiều sản phẩm ứng dụng từ công nghệ thông tin như dịch vụ ATM, Internet banking, Mobile banking, Home banking… Hợp tác cùng phát triển Trong suốt gần 15 năm qua, MB không ngừng nhận được sự hỗ trợ, hợp tác của các ngân hàng bạn bè trong nước và quốc tế. Sự hợp tác trước hết trong lĩnh vực đào tạo cán bộ, hợp tác phát triển công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật, cũng như chia sẻ khó khăn. Đồng thời mở rộng quan hệ trên nhiều lĩnh vực khác nhau như vay vốn, tài trợ xuất nhập khẩu, ủy thác, thanh toán, ngân hàng đại lý… Cho đến nay mạng lưới các Ngân Hàng đại lý của MB đã mở rộng tới hơn 700 Ngân Hàng trên 75 quốc gia, đảm bảo thanh toán và giao dịch với tất cả các châu lục trên thế giới. 2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI MB 2.2.1. Thực trạng hoạt động TTQT Vào năm 1996 MB bắt đầu triển khai hoạt động TTQT theo quyết định số 37/NH-QĐ ngày 15/01/1996 của Ngân hàng Nhà nước và thành lập phòng TTQT và Quan hệ Ngân hàng đại lý. Hoạt động TTQT được coi là một trong những hoạt động hiệu quả nhất của MB và doanh thu phí từ hoạt động TTQT đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập của NH. Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn: Báo cáo thường niên MB 2008 Doanh thu phí từ hoạt động TTQT tăng trưởng đều qua các năm, chiếm tỷ lệ tương đối trong tổng thu nhập của NH. Tính đến hết 31/12/2008 với số lượng thanh toán viên trên toàn hệ thống chưa đến 60 người trong tổng số 2000 cán bộ nhân viên của MB mà đạt được tỷ lệ doanh thu trong tổng thu nhập như trên, có thể thấy hoạt động TT tại MB tương đối hiệu quả. Giai đoạn 2003-2004, phí thu được từ hoạt động TTQT không có biến động nhiều năm 2003 đạt 6.4 tỷ đồng, năm 2004 đạt tăng 6.31 tỷ đồng. Tuy nhiên sang năm 2005 thì doanh thu từ phí TTQT đã có bước tăng vượt bậc, gấp 2,2 lần so với năm 2004 con số năm 2005 là 13.76 tỷ đồng. Có được kết quả như vậy là nhờ vào chính sách khách hàng của MB có thay đổi từ chỗ tập trung chủ yếu vào các DN, bạn hàng truyền thống là các DN quân đội sang các DN vừa và nhỏ. Và từ 2005 đến nay doanh thu từ phí TTQT tăng khá mạnh qua các năm. Năm 2008 đạt 45.821 tỷ đồng, tăng 1,86 lần so với năm 2007, chiếm chiếm 5.3% tổng thu nhập NH. Tính đến tháng 6 đầu năm 2009, doanh thu từ phí TTQT đạt 46,777 tỷ đồng, hơn doanh thu của cả năm 2008. Rõ rang doanh thu từ phí TTQT ngày càng gia tăng với tốc độ lớn. Cũng như các NHTM khác, MB có 3 phương thức TTQT được áp dụng phổ biến đó là: Phương thức tín dụng chứng từ, nhờ thu và chuyển tiền. Bảng 2.1: Tỷ trọng các phương thức TTQT tại MB (2005-2008) Đơn vị: triệu USD Năm Tổng GT L/C Tỷ lệ% Tổng GT Nhờ thu Tỷ lệ % Tổng GT TTR Tỷ lệ% 2005 418 60.5 28.9 4.2 244 35.3 2006 325 52.8 26.7 8.8 263 38.4 2007 1050 60 36.5 2.2 661 37.8 2008 1152 56.8 40.6 2 837 41.2 Nguồn: Phòng TTQT MB Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy tỷ lệ giao dịch thanh toán bằng L/C các năm đều lớn hơn 50% tổng giá trị các phương thức thanh toán. Đặc biệt năm 2007 chiếm tới 60% giá trị trong khi đó thì phương thức nhờ thu không được khả quan cũng là do phương thức thanh toán tín dụng chứng từ mang lại sự an toàn hơn cho những đối tác không quen biết. Phương thức nhờ thu và TTR thì cần có sự quen biết giữa người mua và người bán nhưng trong kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì đối tác là tất cả các thành phần trong nền kinh tế nên việc tiếp xúc với các bạn hàng mới là phổ biến. 2.2.2. Thực trạng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ Như đã phân tích ở trên phương thức tín dụng chứng từ có ưu điểm là đảm bảo tính an toàn và tương đối bình đẳng cho người nhập khẩu và xuất khẩu nên được áp dụng rất phổ biến, đặc biệt là ở các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam. Điều này cũng phản ánh rõ nét trong cơ cấu sản phẩm thanh toán quốc tế của MB với trung bình tỷ trọng giá trị thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ qua các năm chiếm tới hơn 50% trong tổng giá trị thanh toán xuất nhập khẩu. 2.2.2.1. Thanh toán hàng hóa nhập khẩu theo L/C Việt Nam là nước nhập siêu trong nhiều năm liền nên số lượng các giao dịch thanh toán quốc tế cho việc nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao.Và các giao dịch thanh toán quốc tế tại MB cũng không nằm ngoài xu hướng này, đặc biệt là thanh toán qua L/C. Từ khi hoạt động thanh toán quốc tế của MB đi vào hoạt động năm 1996 thì lượng L/C NK luôn chiếm tỷ trọng lớn, luôn luôn chiếm trên 85% doanh số thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ và doanh thu từ hoạt động thư tín dụng nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng doanh thu phí từ hoạt động thanh toán quốc tế. Bảng 2.2: Tỷ trọng L/C XK và NK tại MB (2005-2008) Năm Tổng khối lượng L/C L/C Nhập khẩu Tỷ lệ % L/C Xuất khẩu Tỷ lệ % 2005 1508 1267 84.02 241 15.98 2006 1400 1214 86.71 186 13.29 2007 2618 2325 88.81 293 11.19 2008 2413 2152 89.18 261 10.82 Nguồn: Phòng TTQT MB Theo báo cáo 6 tháng đầu năm 2009, doanh số L/C nhập khẩu tại MB đạt 347.86 triệu USD, chiếm 92% tổng doanh số L/C XNK. Nguồn: Báo cáo 6 tháng đầu năm 2009, MB Xét về giá trị kim ngạch NK thanh toán bằng L/C qua MB trong 6 năm (từ 2005 đến 2008) theo số liệu thống kê trong bảng 2.2 ta thấy doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu bằng L/C liên tục tăng, cụ thể như sau: Năm 2005 số lượng L/C thanh toán tại MB đạt 1508 lượt đến năm 2008 là 2413 lượt. Có được kết quả như vậy là do nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng gia tăng. Do đó doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu qua L/C tại MB tăng đột biến bởi các doanh nghiệp thuộc Bộ quốc phòng là khách hàng truyền thống của MB. Bên cạnh đó, việc gia tăng đó cũng phần nào do bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới. Sự phục hồi của kinh tế thế giới đã có những tác động tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, giá cả thế giới tăng đặc biệt là giá xăng dầu đã khiến giá nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam tăng lên đáng kể. Vì những lý do trên mà doanh số thanh toán hàng hóa NK tăng lên đáng kể ở tất cả các NHTM trong đó có MB. Năm 2006 doanh số thanh toán hàng nhập khẩu theo L/C tại MB tiếp tục tăng, tuy nhiên không có biến động lớn. Năm 2007 lại đánh dấu một mốc tăng trưởng ngoạn mục của doanh số thanh toán L/C nhập khẩu đạt 2325 lượt năm 2007, tăng gấp đôi so với năm 2006 và chiếm 88.81% tổng số L/C. Lý do chính vẫn là do nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng phục vụ quốc phòng gia tăng, giá trị các L/C NK thường lớn nên doanh số thanh toán L/C NK tăng mạnh. Ngoài ra, do mở rộng danh mục khách hàng, MB không chỉ tập trung vào các doanh nghiệp Quân đội mà còn hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên khắp cả nước nên góp phần mở rộng bạn hàng và gia tăng doanh số. Đây cũng là lý do tạo đà tiếp tục tăng cho năm 2008. Năm 2008, thanh toán L/C NK đạt 2413 lượt đạt 89.18%. Theo số liệu 6 tháng đầu năm 2009, doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu qua L/C tại MB đạt 347.86 triệu USD. Con số này còn khiêm tốn so với kết quả đạt được của năm 2007. Tuy nhiên, việc thanh toán L/C thường diễn ra vào cuối năm nên hy vọng 6 tháng cuối năm có chuyển biến tốt hơn. Nhìn chung sự gia tăng liên tục của doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu theo tín dụng chứng từ của một ngân hàng TMCP như MB cũng là một thành tích đáng chú ý. Đóng góp vào thành công này chính là sự tin tưởng, đồng thuận của khách hàng vào dịch vụ TTQT của MB. Các khách hàng lớn phải kể đến như : Các công ty thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Thương mại, Bộ Xây dựng, Bưu chính viễn thông... và các KH truyền thống, gắn bó khăng khít với NH như Công ty XNK tổng hợp Vạn Xuân, Công ty điện tử viễn thông quân đội, Công ty xăng dầu quân đội, Công ty Intimex… 2.2.2.2 Thanh toán hàng hóa xuất khẩu theo L/C Theo số liệu bảng 2.2 tỷ trọng của L/C XK tuy vẫn thấp nhưng đã tăng lên một mức đáng kể. Đặc biệt, năm 2005, trị giá L/C NK chỉ đạt 1267 lượt, thì con số này đã tăng thành 2413 lượt, chiếm hơn 89% tổng giá trị thanh toán XNK theo L/C vào cuối năm 2008. Cơ cấu xuất khẩu qua các năm chủ yếu là các mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, hạt điều… và các sản phẩm gia công may mặc… Các KH xuất trình bộ chứng từ XK qua MB chủ yếu là KH tại các Chi nhánh khu mục miền Nam CN Sài Gòn, CN Gò Vấp… và khu vực miền Trung CN Đà Nẵng, CN Khánh Hòa…. Nguồn: Báo cáo của Phòng TTQT, MB 2003-2008 Qua đồ thị 2.4 ở trên thấy rằng lượng L/C XK tại MB luôn chiếm tỷ trọng nhỏ, luôn luôn dưới 15% doanh số thanh toán XNK theo phương thức tín dụng chứng từ, gây mất cân đối lớn về cơ cấu L/C XK và L/C NK. Tình trạng mất cân đối này một mặt do nguyên nhân khách quan là tình trạng nhập siêu quá lớn của các doanh nghiệp Việt Nam, mặt khác cũng do nguyên nhân chủ quan từ phía MB chưa chủ động tìm nguồn khách hàng trong khi tại nhiều nơi MB có chi nhánh, tiềm năng xuất khẩu của các doanh nghiệp tại đây rất lớn. Sự mất cân đối này có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối ngoại tệ nghiêm trọng và ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế. Mặc dù trong những năm qua, MB đã có những cố gắng lớn trong việc làm giảm tỷ lệ mất cân đối này song vẫn cần phải nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy L/C XK phát triển. 2.2.3. Thực trạng rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại MB Như chúng ta đã biết tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm, an toàn hơn so với các phương thức thanh toán khác, song không có nghĩa là phương pháp này không có rủi ro. Trong phương thức chuyển tiền hay nhờ thu, vai trò của ngân hàng chỉ là trung gian thanh toán hộ còn rủi ro do người mua và người bán gánh chịu. Còn theo phương thức tín dụng chứng từ thì NH, kể cả NHPH và NHTB, được coi là chủ thể của hợp đồng, nên nếu rủi ro xảy ra thì NH cũng sẽ là người chịu thiệt hại. Rủi ro trong trong thanh toán tín dụng chứng từ có thể xảy ra với tất cả các NH tham gia nhất là đối với NHPH L/C. 2.2.3.1. Các loại rủi ro Rủi ro tác nghiệp Tại Việt Nam rủi ro tác nghiệp là loại rủi ro thường xuyên xảy ra với các ngân hàng tham gia thanh toán quốc tế bởi phương thức này đòi hỏi rất nghiêm ngặt về tính phù hợp của chứng từ, phù hợp với tiêu chuẩn, tập quán quốc tế nên một sai sót nhỏ cũng có thể gây ra rủi ro. Thực tế cho thấy, có đến hơn 50% bộ chứng từ do các doanh nghiệp lập ra, khi xuất trình cho NH thì không hoàn hảo. Bên cạnh đó cán bộ Ngân hàng thực hiện giao dịch L/C không chấp hành đúng quy trình nghiệp vụ, theo UCP 600 và các thông lệ quốc tế khác. Và MB cũng không thể tránh khỏi rủi ro tác nghiệp này. Đối với L/C nhập khẩu: Các khâu trong giao dịch L/C NK xuất hiện rủi ro tác nghiệp đó là: Thứ nhất, rủi ro trong khâu soạn điện mở, sửa đổi, thanh toán L/C: Đây là khâu rất quan trọng bởi L/C một khi phát hành ra là cam kết của NHPH về việc thanh toán cho một bộ chứng từ xuất trình phù hợp. Do đó chỉ cần 1 sai sót nhỏ cũng dẫn tới rủi ro cho NH. Các lỗi cụ thể như: TTV đánh sai lỗi chính tả phần mô tả hàng hóa trong L/C hay liệt kê thiếu chứng từ yêu cầu xuất trình, gây tốn kém chi phí sửa đổi và làm giảm uy tín của NH. TTV khi làm điện thanh toán do nhầm lẫn đánh sai số tiền và phải làm điện chuyển bổ sung số tiền sai sót. Hay có trường hợp điện thanh toán ghi sai ngày giá trị hiệu lực và đã phải điện sửa đổi và bị phạt. Thứ hai, rủi ro trong khâu kiểm tra chứng từ, thông báo sai sót: Chậm trễ trong việc kiểm tr._.hàng… 3.2.4 Giải pháp về nguồn ngoại tệ Thực tế những năm qua cho thấy, tại thời điểm căng thẳng về nguồn ngoại tệ do tỷ giá tăng đột ngột, MB cũng giống như một số ngân hàng TM khác đã không mua được ngoại tệ cho khách hàng để thanh toán L/C. Nhiều trường hợp MB phải tạm ứng bán sau đó mua lại khi giá đã tăng và chịu rủi ro hối đoái. Vì vậy để chủ động nguồn ngại tệ thanh toán, giảm rủi ro tỷ giá, NHQĐ cần phải nhanh chóng thu hút các khách hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn từ XK, đồng thời tăng cường thu hút nguồn kiều hối, thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch… Qua đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHQĐ thì nguồn ngoại tệ mua được từ khách hàng chiếm tỷ lệ rất nhỏ do đó nguồn ngoại tệ không đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ thanh toán L/C và nhu cầu trả nợ vay. Vì vậy giải pháp thu hút khách hàng XK là một giải pháp mang tính chiến lược. Để thực hiện giải pháp này, NHQĐ cần có những chính sách ưu đãi đối với hàng XK như ưu đãi về lãi suất, cho vay ngoại tệ thu mua hàng XK, áp dụng biểu phí ưu đãi, có thể miễn phí thông báo của NHQĐ nếu L/C đã được thông báo qua một ngân hàng Việt Nam, cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí, lập chứng từ hộ khách hàng… Kết hợp với khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng cho đến khi hàng hóa được XK để đảm bảo bộ chứng từ hoàn hảo có thể nhanh chóng đòi tiền nước ngoài, tăng uy tín của NHQĐ. Cần có bộ phận chuyên đi tiếp thị, để mở rộng thị trường, tìm kiếm các khách hàng XK. Phát triển các nghiệp vụ phái sinh như giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn, quyền chọn. Hiện nay các nghiệp vụ phái sinh còn tương đối mới mẻ với các DN Việt Nam. Do vậy để phát triển nghiệp vụ này, NHQĐ phải tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn về nghiệp vụ, phải đưa ra được các dự báo chính xác về sự biến động và xu hướng biến động của các loại ngoại tệ. Thường xuyên cung cấp thông tin này cho bộ phận tiếp thị và bộ phận giao dịch khách hàng để các bộ phận này cung cấp cho khách hàng các phương tiện rào chắn rủi ro. Trong thời điểm này chênh lệch về tỷ giá giữa VND và USD, EUR là khá lớn do vậy giao dịch có kỳ hạn giữa VND và các loại ngoại tệ này rất khó được khách hàng chấp nhận. Tuy nhiên, đối với những khách hàng vay USD, thanh toán L/C bằng EUR thì khả năng thực hiện nghiệp vụ phái sinh là rất lớn. NHQĐ cần phát triển nghiệp vụ phái sinh giữa các đồng tiền. Bên cạnh đó cần làm tốt công tác dự báo về sự biến động của các loại ngoại tệ. Có như vậy mới hạn chế rủi ro ngoại hối cho khách hàng và ngân hàng. 3.2.5. Hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng Trong thời kỳ thông tin cập nhật ngày nay, hiện đại hoá công nghệ thông tin của hệ thống NHQĐ có một ý nghĩa rất quan trọng, giúp NH có thể cạnh tranh được với các NH khác và hạn chế được rủi ro trong TTQT. Nếu NHQĐ không quan tâm đúng mực đến vấn đề đổi mới công nghệ thì sẽ dễ dàng bị đào thải hoặc bị nhấn chìm bởi những các Ngân Hàng có thế mạnh về công nghệ. Phát huy hơn nữa thế mạnh của phần mềm mới T24, tìm tòi, đào tạo để mọi cán bộ nhân viên trong NH đều có thể làm chủ công nghệ này, phục vụ hiệu quả cho công việc, giao dịch thường ngày. Cần thực hiện phần mềm lưu trữ, tra cứu thông tin nội bộ về KH, NH… Phần mềm này sẽ giúp TTV nhanh chóng nắm bắt tình hình tài chính của DN, uy tín của NHPH, phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn và hạn chế được rủi ro do thiếu thông tin. Hoàn thiện chương trình mạng nội bộ đáp ứng việc truyền điện thông suốt từ CN đến HS và ngược lại. Bổ sung chức năng phát hiện lỗi tự động cho phần mềm soạn thảo điện MT707, MT202… Trang bị thêm máy tính và các thiết bị khác cho Phòng TTQT, thuê đường truyền riêng cho việc truyền tin TTQT. Có như vậy mới đẩy nhanh giao dịch, tăng tính bảo mật, loại trừ rủi ro, sai sót của đường truyền mà NHQĐ phải gánh chịu. Bổ sung máy chủ dự phòng tránh tình ách tăc rất dễ dẫn đến rủi ro mất dữ liệu hay không phát được điện đi nước ngoài do máy chủ hỏng. Hiện nay, NHQĐ đã nối mạng với phần mềm của Trung tâm phòng ngừa rủi ro CIC, tuy nhiên Phòng TTQT vẫn chưa được truy cập vào mạng này. NHQĐ cần cho phép Phòng TTQT truy cập để lấy thông tin từ phần mềm này phục vụ cho công tác thẩm định. Cần liên tục cập nhật Website NH để tạo ra một kênh phân phối mới, tiếp cận KH trong và ngoài nước, cung cấp dịch vụ hỗ trợ KH, từng bước giúp họ làm quen với dịch vụ NH trực tuyến. Về lâu dài Website sẽ là công cụ đắc lực thực hiện hoạt động thanh toán phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử. 3.2.6. Tăng cường công tác thu thập, lưu trữ thông tin Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. MB cần xây dựng các quy định về lưu trữ thông tin, thành lập bộ phận quản lý rủi ro thanh toán chuyên trách lưu giữ, khai thác, cung cấp, cập nhật thông tin về những vụ lừa đảo, tranh chấp xảy ra ở Việt Nam cũng như trên thế giới liên quan đến lĩnh vực TTQT. Việc này trước hết là phục vụ cho hoạt động nội bộ NH, sau đó là các DN kinh doanh XNK. Khi cung cấp dịch vụ này cho các DN, NHQĐ đã giúp DN trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay những đối tượng lừa đảo… Để có được lượng thông tin đầy đủ, chuẩn xác, bộ phận này cần có sự phối hợp chặt chẽ với mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các NHTM Việt Nam, Bộ Thương mại và các DN kinh doanh XNK… Bằng con đường xin hoặc mua thông tin trực tiếp, hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước. Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán. Việc cung cấp thông tin, tư vấn trong nội bộ cũng như cho DN, cho các ngân hàng với nhau, ngoài việc giúp hạn chế rủi ro trong thanh toán mà còn đem lại cho NHQĐ một nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thu hút khách hàng cũng như khẳng định thêm vị thế của mình trên thương trường. 3.3. KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị đối với các DN XNK Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế một phần do nguyên nhân chủ quan từ phía các DN XNK của Việt Nam. Chính sự yếu kém về nghiệp vụ, đạo đức trong kinh doanh hay những nguyên nhân khách quan như thiếu thông tin về đối tác nước ngoài, thị trường nước ngoài… mà các DN phải chịu rủi ro trong hoạt động thanh toán hoặc trực tiếp gây nên rủi ro cho chính các NH. Bởi vậy để góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế thì nhất thiết phải đề ra các biện pháp đối với các DN XNK của Việt Nam. Thứ nhất: Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác XNK. Các DN khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ này phải qua đào tạo nghiệp vụ, am hiểu luật pháp trong thương mại quốc tế, có năng lực trong công tác và phẩm chất đạo đức trung thực trong kinh doanh. Đặc biệt khi hoạt động kinh doanh của các DN không còn bó hẹp tại một số thị trường truyền thống mà đang mở rộng tới nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, liên minh Châu Âu… Đây là các quốc gia có hệ thống luật pháp trong kinh doanh phức tạp, tinh vi nên trình độ am hiểu về thông lệ, pháp luật quốc tế là yêu cầu tất yếu đối với các cán bộ XNK. Khi soạn thảo hợp đồng cần phải tìm hiểu kỹ càng về thủ tục, cân nhắc các điều khoản trước khi ký kết. Hợp đồng phải sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác. Các DN phải đọc kỹ hợp đồng để phát hiện những điểm bất lợi. Khâu soạn thảo hợp đồng đóng vai trò hết sức quan trọng cho quá trình thực hiện sau này. Hợp đồng càng chặt chẽ thì việc thanh toán theo L/C càng thuận lợi. Nếu có tranh chấp giữa các bên tham gia thì hợp đồng là cơ sở để giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, hợp đồng càng chặt chẽ thì càng tạo điều kiện cho DN khả năng chiến thắng trong các vụ tranh chấp. Đối với các DN tham gia XK, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần phải chú ý đến đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với DN NK, cần yêu cầu về nội dung và hình thức chứng từ phải rất chặt chẽ, không yêu cầu chung chung. Chứng từ phải do những cơ quan đáng tin cậy cấp, vận đơn do hãng tàu đích danh cấp. Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại diện phía nhà NK để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình tàu. Giấy chứng nhận chất lượng phải do cơ quan có uy tín ở nước XK hoặc quốc tế cấp hoặc có sự giám sát kiểm tra và ký xác nhận vào giấy chứng nhận của đại diện phía nhà NK… DN cần phải hiểu bản chất của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là ngân hàng chỉ căn cứ trên chứng từ để quyết định có thanh toán hay không. Hợp đồng là căn cứ để mở L/C nhưng sau khi mở, L/C lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Khách hàng không thể trông đợi vào L/C và ngân hàng để bảo vệ quyền lợi của mình, mà cần cung cấp cho ngân hàng những thông tin về rủi ro có thể xảy ra và phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để phòng ngừa, giải quyết những rủi ro đó đúng theo UCP600 và thông lệ quốc tế, chứ không nên tự ý hành động theo ý kiến chủ quan của mình. Các DN cần chú ý tuyển dụng và đào tạo cán bộ nghiệp vụ kinh doanh XNK vững vàng, nắm vững quy chế, pháp luật và thông lệ kinh tế, có khả năng nắm bắt thị trường nhanh nhạy để tận dụng các cơ hội trong kinh doanh. Cán bộ nghiệp vụ XNK tại các DN phải thường xuyên học hỏi, trao đổi thông tin thanh toán để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ để có thể giải quyết các vấn đề một cách hợp lý, hợp pháp, không bị đối tác nước ngoài lừa đảo. Thứ hai: Tìm hiểu kỹ và lựa chọn đúng đối tác nước ngoài Nếu DN Việt Nam chỉ thận trọng khi ký kết hợp đồng mà không tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài thì dù hợp đồng có chặt chẽ đến đâu vẫn có thể gặp rủi ro nếu phía nước ngoài cố tình lừa đảo. Đa số các vụ tranh chấp xảy ra là do DN chưa chọn đúng đối tác trong kinh doanh, việc tìm hiểu thực lực và uy tín của công ty nước ngoài là hết sức cần thiết. đã có nhiều trường hợp, do chỉ tin vào lời giới thiệu hay quảng cáo, các DN đã bắt tay vào làm ăn, đến khi bị lừa, phát hiện ra đó là công ty ma thì đã muộn. Để tránh rủi ro, các DN nên mua hàng của những nhà cung cấp lớn, có tên tuổi. Trong trường hợp có quan hệ thương mại lần đầu, cần có sự điều tra rõ ràng. Các DN có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình tìm hiểu đối tác kinh doanh thông qua hệ thống ngân hàng đại lý của họ tại nước ngoài hoặc có thể thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC)… NHQĐ có hệ thống các ngân hàng đại lý rộng khắp trên thế giới nên các DN có thể tranh thủ sự giúp đỡ, tư vấn của NH. Các DN cần hết sức cảnh giác với các thỏa thuận có những điều kiện khác thường, nhất là những chào hàng với mức giá cực rẻ, trị giá lớn, tưởng chừng rất có lợi cho nhà NK như hứa chuyển tiền đặt trước… Vì chất lượng hàng hoá của những chào hàng đó có thể không được đảm bảo, hay có thể là chào hàng của các công ty ma, chuyên lừa đảo. Không chỉ có đối tác trong hợp đồng mua bán ngoại thương có khả năng lừa đảo mà các DN Việt Nam còn có nguy cơ bị người chuyên chở lừa đảo. DN cần yêu cầu người chuyên chở xác định rõ tầu đó là của họ hay đi thuê lại, đồng thời phải xác định được địa chỉ cụ thể của người chuyên chở và xem tình trạng tài chính và nợ nần của họ ra sao. DN cần yêu cầu người chuyên chở cho địa chỉ Hội bảo trợ chủ tầu của họ để có thể tìm hiểu khả năng tài chính của người chuyên chở. Trong trường hợp quyền thuê tàu thuộc phía đối tác, DN cần quy định chặt chẽ các điều khoản về thuê tàu trong hợp đồng ngoại thương, đặc biệt về tuổi tàu, số đăng ký quốc tế và các giấy tờ đăng ký tàu. Thứ b: Giữ chữ tín trong hoạt động kinh doanh Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các DN phải cố gắng hoàn thành các nghĩa vụ của mình, không nên có tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh, uy tín là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng và đó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của DN trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của xu hướng toàn cầu hoá ngày nay. Nếu là người mở L/C, DN mở đúng hạn, đúng nội dung theo yêu cầu của hợp đồng và quy định về chứng từ cho việc thanh toán một cách đầy đủ, hợp lý, rõ ràng. Người hưởng lợi một khi đã chấp nhận L/C thì phải thực hiện các yêu cầu của L/C đó, lập đúng, đủ bộ chứng từ và gửi tới ngân hàng đúng thời hạn, tạo điều kiện cho việc thanh toán diễn ra thuận lợi. Các DN cần luôn nhớ rằng, phương thức tín dụng chứng từ mà cụ thể là việc mở L/C được áp dụng là nhằm thực hiện việc thanh toán chứ không phải nhằm mục đích từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng. Trong quan hệ thanh toán với NH, các DN cần giữ vững chữ tín, thực hiện đúng cam kết và luôn giữ quan hệ chặt chẽ với NH. Khi có thiệt hại xảy ra, các DN không được trốn tránh, đổ trách nhiệm cho phía ngân hàng mà phải tìm cách phối hợp để giải quyết khó khăn. Thứ tư: Chú trọng công tác theo dõi và cập nhật thông tin Để có thể nắm rõ thông tin về thị trường, về đối tác, các DN cần tổ chức riêng một bộ phận làm nhiệm vụ thu thập và phân tích thông tin, bộ phận này phải thiết lập mối quan hệ với các tổ chức như NH, Công an kinh tế, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, của nước ngoài tại Việt Nam... Để tìm hiểu biến động môi trường kinh doanh ở các nước đối tác, nhờ họ giúp đỡ trong việc kiểm tra uy tín, năng lực tài chính của đối tác, cũng như trong việc xác định tính chân thực của chứng từ. Đó là biện pháp tốt nhất để lựa chọn đối tác và đối phó với vấn đề lừa đảo trong thương mại quốc tế. Thứ năm: Việc cần làm khi tranh chấp phát sinh Khi tranh chấp phát sinh, biện pháp đầu tiên nên sử dụng là thương lượng bằng khiếu nại hoặc đàm phán trực tiếp và nên chú ý đến mục tiêu hàng đầu của việc giải quyết tranh chấp là lợi ích kinh tế chứ không phải việc thắng hay thua. DN cần đặt hiệu quả giải quyết tranh chấp lên trên hết, không có nghĩa là sử dụng mọi thủ đoạn mà là luôn sử dụng các biện pháp mang tính thiện chí, gìn giữ và xây dựng quan hệ với các đối tác. Thêm nữa, các DN cần lường trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài. Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy, khi được quyền chọn toà án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong nước Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam để tránh những rủi ro trên. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Thứ nhấ: Cần có cơ chế điều hành tỷ giá cần linh hoạt, phù hợp với thực tế. Tỷ giá hối đoái là yếu tố rất nhạy cảm, không những ảnh hưởng đến hoạt động XNK mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Trước mắt, trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng chưa ổn định, thị trường hối đoái chưa hoàn thiện thì việc Ngân hàng Nhà nước duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước là một chính sách hợp lý. Nâng cao dự trữ ngoại tệ tương xứng với kim ngạch XNK. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á, Việt Nam đã không điều tiết được tỷ giá phù hợp với nền kinh tế có nguyên nhân của việc dự trữ ngoại tệ quá ít, quá mỏng manh so với sức ép tăng giá của nền thị trường. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục đưa thêm tiền ra lưu thông để thu gom ngoại tệ làm dồi dào quỹ dự trữ ngoại hối bên cạnh đó thì NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trong việc quản lý dự trữ ngoại hối và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ quốc gia, tăng cường các biện pháp kinh tế khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho các NHTM. Xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh, không nên quá tập trung vào một đồng tiền. Cần có chính sách khuyến khích các DN XNK đa dạng hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch. Có các tiêu chuẩn đánh giá chính xác các chỉ số như lạm phát, lãi suất cơ bản, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài để giúp Nhà nước lựa chọn phương án điều chỉnh tỷ giá có hiệu quả. Thứ hai: Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH, thị trường hối đoái Việt Nam. Hiện nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ giữa các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng, thực hiện can thiệp cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng trên thực tế, hiện nay hoạt động của thị trường ngoại tệ liên NH chưa được sôi động do mất cân đối cung cầu, chỉ có người mua mà không có người bán. Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự nắm được trạng thái ngoại hối của các NHTM nên không điều tiết kịp thời hoạt động của thị trường, hoặc có thời gian dài các NHTM ở trạng thái thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng thì Ngân hàng Nhà nước cũng chưa kịp thời hỗ trợ họ cải thiện tình trạng đó. Vì vậy, việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH là vô cùng cần thiết. Để phát triển và hoàn thiện thị trường này, Ngân hàng Nhà nước cần: Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên NH. Hiện nay chỉ có HS chính của các NHTM mới là thành viên của thị trường. Nhưng trên thực tế, các CN có doanh số hoạt động TTQT lớn cũng có nhu cầu kinh doanh ngoại tệ nhằm mục đích phục vụ cho khách hàng của chính mình. Các DN XNK có khối lượng giao dịch lớn cũng mong muốn tham gia thị trường để tăng hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, cần mở rộng thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên NH. Giám sát trạng thái ngoại hối cuối ngày của các NH, buộc các NHTM xử lý trạng thái ngoại hối của mình bằng việc mua hay bán ngoại tệ trên thị trường liên NH. Qua đó, thị trường này sẽ hoạt động sôi nổi hơn. Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ, nghiệp vụ tiền gửi và các hình thức mua bán ngoại tệ như: Mua bán kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi ngoại tệ, quyền chọn. Cần phải tăng cường hơn nữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường liên NH. Trong trường hợp thị trường không có đủ khả năng thì Ngân hàng Nhà nước với vai trò là người mua, bán cuối cùng phải tham gia và tác động kịp thời để giúp các NHTM duy trì được trạng thái ngoại hối an toàn. Thứ ba: Cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Thông tin là trung tâm của nền kinh tế tri thức, đóng vai trò to lớn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng, NH. Bởi vậy, hệ thống thông tin tín dụng Việt Nam phải phát triển hơn nữa, định ra đường hướng trung dài hạn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, sớm hội nhập thông tin khu vực. Hiện nay, hoạt động của trung tâm CIC tuy đã đạt được những kết quả nhất định như: Cung cấp cho các ngân hàng tình hình dư nợ của các DN… nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế như chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế vì lượng thông tin còn quá ít, chưa kịp thời, thiếu chính xác… Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động và hiện đại hóa Trung tâm CIC, đây không những là nơi cung cấp thông tin tín dụng mà còn là một trong những công cụ của hệ thống giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước. Việc hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng sẽ là một bước tiến quan trọng trong việc giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động của các NHTM, trong đó có hoạt động TTQT. Những việc NHNN cần thực hiện trong thời gian tới bao gồm: Hiện đại hóa các quy trình nghiệp vụ, tăng cường trang thiết bị thông tin hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và Internet để CIC có điều kiện thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Hiện đại hóa quy trình quản lý rủi ro, phân tích dự báo, xếp loại tín dụng tại các CIC và các tổ chức tín dụng là điều kiện phát triển lâu dài để đáp ứng yêu cầu thông tin quản lý, kinh doanh của mỗi NH. Hệ thống máy, thiết bị tin học sẵng sàng đảm bảo khả năng hoạt động liên tục, dự phòng sự cố tự khôi phục. Ngoài hệ thống hoạt động chính còn có một hệ thống dự phòng sự cố, thảm họa luôn sẵn sàng. Bên cạnh đó, hệ thống bảo mật phần cứng, mạng, phần mềm phải chặt chẽ, nghiêm ngặt. Mạng thông tin qua Internet kết nối qua các đường truyền thông có tốc độ đảm bảo, thông suốt và an toàn. Cần có những quy định khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên thông tin về tình hình dư nợ của các DN tại tổ chức tín dụng đó. Cần có những biện pháp xử phạt đối với các ngân hàng cung cấp thông tin không đầy đủ, chính xác về tình hình dư nợ. Thường xuyên bổ sung nguồn thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng hiện nay của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở thông tin của các DN và chỉ tổng hợp thông tin trong phạm vi ngành NH. Do vậy trong thời gian tới, phạm vi hoạt động của thông tin tín dụng phải được mở rộng khi đó mới khắc phục được tình trạng thiếu thông tin chính xác như hiện nay. Hệ thống thông tin thị trường: Bao gồm các thông tin hoạt động của các ngành kinh tế quốc dân, hệ thống giá cả hàng hóa thị trường trong và ngoài nước, các hoạt động chung của ngành kinh tế, những dự báo kinh tế… Ngoài ra thông tin tín dụng còn rất cần các nhóm thông tin khác có tác dụng giúp các ngân hàng tìm hiểu về khách hàng trong và ngoài nước. Hệ thống các đạo luật kinh tế và cơ chế nghiệp vụ như Luật ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật DN, luật đất đai và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… Ngoài hệ thống luật kinh tế còn có một số các đạo luật khác như Bộ luật dân sự, Luật hành chính, Luật quốc tịch, các hiệp định thương mại quốc tế… là những luật trong hoạt động ngân hàng thường áp dụng. Ngoài ra, hệ thống thông tin rất quan trọng khác bao gồm các văn bản dưới luật có tính chất hướng dẫn luật và các nghiệp vụ như Nghị định của chính phủ, các thông tin liên ngành và hệ thống cơ chế nghiệp vụ chuyên ngành… Hệ thống thông tin về khoa học công nghệ chuyên ngành: Là hệ thống thông tin về các căn cứ khoa học, kỹ thuật chuyên ngành như tập hợp các định mức kinh tế, kỹ thuật, các tiêu chí quy định mặt bằng giá cả, công nghệ của các chuyên ngành do Nhà nước hoặc các trung tâm tư vấn cung cấp. 3.3.3. Kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực XNK, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động TTQT của các NH. Do đó XNK nói chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời phòng tránh được rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh XNK và NH. Thứ nhất: Cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh tín dụng chứng từ trong hệ thống các NHTM. Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài UCP và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương với giao dịch tín dụng chứng từ. Nhiều vụ tranh chấp xảy ra không thể giải quyết nếu chỉ căn cứ vào UCP do UCP không phải là luật và không thể thay thế luật pháp quốc gia. Hơn nữa UCP600 vẫn có những tồn tại nhất định do không bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú trong thực tiễn. Bởi vậy Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ. Chính phủ cần ban hành văn bản liên ngành nhằm phối hợp chặt chẽ hoạt động của ngân hàng với hoạt động của các bộ ngành liên quan. Trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các NH Việt Nam đã phải vận dụng các thông lệ quốc tế cả trong lĩnh vực bảo hiểm, vận tải… nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên, các biện pháp tự bảo vệ này có hiệu quả hay không phụ thuộc vào quy định của luật pháp Việt Nam. Ví dụ như, theo thông lệ quốc tế, khi vận đơn lập theo lệnh của NH, nếu khách hàng không có khả năng thanh toán L/C thì NH có quyền nhận hàng theo vận đơn. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam, việc NH nhận hàng hoá theo vận đơn rất khó khăn vì theo quy định của hải quan, NH không có giấy phép nhập khẩu, không phải người mua nên không được nhận hàng. Ngoài ra, giao dịch giữa NH và KH trong quan hệ tín dụng chứng từ cũng cần có các quy định cụ thể để tạo sự thống nhất về pháp lý, góp phần giảm thiểu rủi ro trong quan hệ thanh toán giữa KH và NH. Thực tế cho đến nay, hầu hết các KH đến NH yêu cầu mở L/C chỉ thông qua các loại giấy tờ như: Đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết TT, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo L/C, đơn xin chiết khấu chứng từ ... Nhà nước cần quy định cụ thể tính chất pháp lý của các chứng từ này và ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên, tránh gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp. Ngoài ra Chính phủ cần ban hành những văn bản quy định trách nhiệm kiểm tra các chứng từ khi DN xin mở L/C. Hiện nay, trong phương thức tín dụng chứng từ các NHTM không được hướng dẫn cụ thể về việc kiểm tra giấy phép NK hợp lệ của KH khi phát hành L/C, dẫn đến việc chấp hành quy định này ở mỗi ngân hàng một khác. KH có thể lợi dụng một giấy phép hay một hạn ngạch NK để mở L/C ở nhiều NH khác nhau, nhằm mục đích thiếu trung thực trong kinh doanh. Hay trong trường hợp KH sử dụng một hợp đồng để mở nhiều L/C thanh toán ra nước ngoài nhằm mục đích rửa tiền hoặc thanh toán tiền hàng nhập lậu thì các cơ quan pháp luật có yêu cầu NH chịu trách nhiệm không là cả một vấn đề. Vì vậy, cần nhất thiết phải có quy chế, thông tư, văn bản hướng dẫn các NHTM trong việc kiểm tra các giấy phép, hợp đồng ngoại thương của DN khi mở L/C và quy định rõ trách nhiệm của NH, của DN trong việc mở L/C. Thứ hai: Hoàn thiện chính sách thương mại nhằm tạo thuận lợi cho công tác XNK. Phải có những quy chế bắt buộc đối với các điều kiện về tài chính, về trình độ cán bộ, phương hướng phát triển kinh doanh... thì mới cấp giấy phép XNK trực tiếp, không nên cấp ồ ạt, tránh những rủi ro không đáng có do trình độ thiếu hiểu biết của người làm công tác XNK. Chủ trương cấp quota XNK có thể tạo lợi thế cho DN này mà gây ra bất lợi cho DN khác làm mất cân đối giữa cung và cầu khiến nhiều loại vật tư, nguyên liệu như thép, xi măng, đường... tồn đọng gây tổn hại cho nền kinh tế và khó khăn cho các NH. Tình trạng NK tràn lan các mặt hàng tiêu dùng đã làm cho sản xuất và tiêu dùng trong nước bị đình trệ, nhiều DN thua lỗ. Về thuế XNK: Nhà nước cần ban hành luật thuế XNK phù hợp. Biểu thuế của Nhà nước luôn thay đổi làm cho các đơn vị XNK không chủ động trước các diễn biến trong tương lai, gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Mỗi khi sửa đổi luật thuế XNK, Nhà nước ta mới chỉ quy định ngày hiệu lực của luật mà không quy định biểu thuế ưu đãi đối với các hợp đồng đã ký trước ngày thực hiện luật thuế đó. Điều này sẽ gây khó khăn cho các DN kinh doanh XNK. Về thông tin giá cả: Nhà nước cần có những thông tin về giá cả trên thị trường thế giới kịp thời để thông tin cho các DN kinh doanh XNK. Đây là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, nếu thiếu hiểu biết thông tin sẽ làm cho các DN bị thua lỗ khi giá cả thay đổi hay việc kiểm soát giá cả không chặt chẽ của hàng hoá trong nước dễ dẫn đến những khó khăn cho công tác XNK và gián tiếp ảnh hưởng đến quy trình thanh toán. KẾT LUẬN Trong hoạt động TTQT của NHTM nói chung và MB nói riêng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường và do nhiều nguyên nhân gây nên, có thể là do nguyên nhân khách quan từ những chính xác vĩ mô của nhà nước, sự thiếu hiểu biết về thương mại quốc tế hay hành vi cố tình lừa đảo của khách hàng hoặc có thể do nguyên nhân chủ quan từ phía các Ngân hàng như sự thiếu hụt và không đồng bộ của cơ chế, chính sách, các quy trình nghiệp vụ cho hoạt động TTQT, những rủi ro về đạo đức của cán bộ Ngân hàng hoặc các bên tham gia giao dịch hay sự thiếu hiểu biết của cán bộ làm TTQT…Hậu quả của nó sẽ làm xấu đi tình hình tài chính của NH và ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu NH. Do vậy quản lý rủi ro tốt sẽ đảm bảo hoạt động TTQT của MB được an toàn, hiệu quả hơn và việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NH là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với Ngân hàng. Kiểm soát, phòng ngừa và hạn chế rủi ro nói chung, rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ nói riêng luôn là vấn đề thu hút được sự quan tâm của Ban lãnh đạo Ngân hàng Quân đội. Tuy là ngân hàng thương mại chưa có bề dày lịch sử, chỉ với 15 năm hoạt động, nắm chắc được điều đó Ngân hàng Quân đội đã không ngừng phấn đấu đi lên để trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, luôn sẵn sàng nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức để phát triển vững mạnh và làm tròn sứ mạng “MB dành mọi nỗ lực gây dựng một đội ngũ nhân lực tinh thông về nghiệp vụ, tận tâm trong phục vụ nhằm mang lại cho các doanh nghiệp, các cá nhân những giải pháp Tài chính - Ngân hàng khôn ngoan với chi phí tối ưu và sự hài lòng mỹ mãn”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Thu Thảo, Giáo trình thanh toán quốc tế - ĐH KTQD Ng©n hµng Nhµ n­íc ViÖt Nam (2003), Mét sè kinh nghiÖm vÒ phßng chèng c¸c thñ ®o¹n lõa ®¶o, vay vèn ng©n hµng vµ c¸c biÖn ph¸p phßng chèng tiÒn gi¶, phßng chèng téi ph¹m trong ho¹t ®éng NH. Ng©n hµng Qu©n ®éi(2003-2008), B¸o c¸o tæng hîp ho¹t ®éng TTQT. Ng©n hµng Qu©n ®éi (2003-2008), B¸o c¸o th­êng niªn Ng©n hµng Qu©n ®éi (2007-2008), Qu¶n lý rñi ro trong ng©n hµng Ng©n hµng Qu©n ®éi (2007), Quy chÕ ho¹t ®éng Thanh to¸n quèc tÕ. NguyÔn V¨n TiÕn (2008), Gi¸o tr×nh Thanh to¸n quèc tÕ- CËp nhËt UCP 600, NXB Thèng kª. NguyÔn V¨n TiÕn (2005), Thanh to¸n quèc tÕ tµi trî ngo¹i th­¬ng, NXB Thèng kª NguyÔn V¨n TiÕn (2003), §¸nh gi¸ vµ phßng ngõa rñi ro trong kinh doanh ng©n hµng, NXB Thèng kª NguyÔn V¨n TiÕn (2007), Qu¶n trÞ rñi ro trong kinh doanh ng©n hµng, NXB Thèng kª. DANH MỤC VIẾT TẮT MB: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội L/C: Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ XNK: Xuất nhập khẩu XK: Xuất khẩu NK: Nhập khẩu DN: Doanh nghiệp NH: Ngân hàng NHNN: Ngân hàng nhà nước NHTB: Ngân hàng thông báo NHPH: Ngân hàng phát hành NHXN: Ngân hàng xác nhận TTQT: Thanh toán quốc tế KH: Khách hàng CN: Chi nhánh UCP – Quy tắc thực hành và thống nhất về tín dụng chứng từ. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25576.doc
Tài liệu liên quan