Giải pháp Phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng với các Ngân hàng thương Mại Việt Nam

Phần I mở đầu 3 Phần II Nội Dung 4 I. những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng 4 1.Vai trò của hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại 4 1.1.Những hoạt động chính của các ngân hàng thương mại 4 Khái niệm về ngân hàng thương mại 4 Hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại 5 Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng 6 Rủi ro tín dụng 8 Định nghĩa về rủi ro tín dụng 8 Phân loại rủi ro tín dụng 9 Cho vay các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp Phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng với các Ngân hàng thương Mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại và công nghiệp 9 Cho vay xây dựng nhà ở (cho vay địa ốc) 9 Cho vay tiêu dùng 9 Các khoản cho vay đối với chính phủ và các tổ chức tài chính khác 10 Đo lường rủi ro tín dụng 10 Mô hình chất lượng 11 Các mô hình tính điểm tín dụng 14 2.3.3. Mô hình quyền chọn trong rủi ro tín dụng 18 2.3.4. Mô hình đa dạng hoá danh mục đầu tư 21 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 24 Nguyên nhân khách quan 24 Nguyên nhân chủ quan 25 Thông tin không cân xứng 25 Sự yếu kém từ phía ngân hàng thương mại 26 II. Vấn đề rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam 27 Thực trạng rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 27 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 29 Nguyên nhân khách quan 29 Nguyên nhân chủ quan 30 Quản lý rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam 32 Hạn chế tín dụng 32 Hệ thống thông tin tín dụng Việt Nam 33 Nhiệm vụ của Hệ thống thông tin tín dụng 33 Hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Việt Nam (CIC) 52 Dự phòng rủi ro 38 Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với ngân hàng thương mại Việt Nam 39 Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng thu thập từ phòng tín dụng của các ngân hàng thương mại 40 Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC 41 Giải pháp về mô hình tổ chức 41 Giải pháp về phí thông tin 42 Giải pháp đối với khâu thu thập thông tin 42 Giải pháp đối với khâu xử lý thông tin 43 Giải pháp đối với việc trích lập và sử dụng quý dự phòng rủi ro 44 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng 45 Từng bước hoàn thiện quy chế, thể lệ, luật liên quan đến hoạt động ngân hàng , tạo môi trừng pháp lý thuận lợi cho các ngân hàng hoạt động 46 Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại 46 Đa dạng hoá danh mục đầu tư 47 áp dụng các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn vào quản lý 48 rủi ro tín dụng Các hợp đồng tương lai và rủi ro tín dụng 49 Hợp đồng quyền chọn và rủi ro tín dụng 50 Phần iii kết luận 52 Danh mục tài liệu tham khảo 53 Phần I mở đầu Trong nền kinh tế thị truờng rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng có biểu hiện phức tạp. Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển kinh tế cuả mỗi quốc gia. Sự an toàn trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại luôn là mối quan tâm của xã hội, bởi vì những vụ phá sản ngân hàng có ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hơn bất cứ vụ phá sản ở bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào khác. Sự sụp đổ của ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế-chính trị và xã hội của mỗi nước, trong nền kinh tế thị truờng cạnh tranh càng khốc liệt thì nguy cơ rủi ro của hệ thống ngân hàng càng dễ phát sinh. Trên thế giới người ta đã thống kê được tới 11 loại rủi ro cố hữu trong hoạt động ngân hàng như rủi ro lãi xuất, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro quốc gia... Song được quan tâm nhất là rủi ro tín dụng, bởi vì trong thưc tiễn hiện nay, phần lớn thu nhập của các ngân hàng thương mại là từ hoạt động kinh doanh tín dụng, mặt khác đây lại là mặt trận kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng . Trước thực trạng nợ quá hạn hiện nay thì vấn đề rủi ro tín dụng lại cần phải được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa, để từ đó chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm, và đưa ra một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro, góp phần làm giảm rủi ro tín dụng xuống mức có thể chấp nhận được. Chính vì lẽ đó mà em đã chọn dề tài: "Giải pháp Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam '' cho đề án của mình. Nội dung của đề án gồm 3 phần cơ bản như sau: I. những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng II.Vấn đề rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam III. Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam Đề án này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để em có được nhận thức xâu sắc hơn, toàn diện hơn về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn Th.s Lê Thanh Tâm đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. phần II Nội DUng I những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng Vai trò của hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại Những hoạt động chính của các ngân hàng thương mại khái niệm về NHTM Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính và các trung gian tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người để giành là những người nhiều vốn tới những người chi tiêu là những người thiếu vốn. Trên các thị trường tài chính những người đi vay, vay vốn trực tiếp từ người cho vay bằng cách bán cho họ những chứng khoán, những chứng khoán này là những trái quyền (quyền được hưởng) đối với thu nhập hoặc tài sản tương lai của người vay. Còn những trung gian tài chính là những là những tổ chức tài chính đứng giữa người cho vay (người tiết kiệm) và người đi vay( người chi tiêu) và giúp chuyển vốn từ người này sang người sang người kia. Một trung gian tài chính thực hiện điều này bằng cách vay vốn của người tiết kiệm và sau đó, ngược lại, cho người đi vay (người chi tiêu) vay vốn. Nhờ có quy mô hoạt động lớn nên các trung gian tài chính có thể phân tán được rủi ro, giảm chúng tới mức tối thiểu để thu được lợi nhuận cho mình và đảm bảo thuận lợi đối với khách hàng. Trong thực tế, các trung gian tài chính được hình thành ở rất nhiều dạng, nhưng nội dung và hoạt động của chúng lại đan xen lẫn nhau, rất khó phân biệt rõ ràng. Trong số các trung gian tài chính thì hệ thống các NHTM chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản lẫn thành phần các nghiệp vụ. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào về NHTM, theo Frederic S.Mishkin( tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính) thì: " NHTM là một trung gian tài chính, các trung gian tài chính này thu hút vốn bằng cách phát hành: Tiền gưởi có thể phát sec (tiền gưởi không kỳ hạn),các tiền gưởi tiết kiệm (là các món tiền gưởi có kì hạn thanh toán định trước). sau đó họ dùng các vốn này để thực hiện cho vay: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp và để mua các chứng khoán của chính phủ,các chứng khoán của chính quyền địa phương''. Tại Việt Nam NHTM được hiểu như là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt: " là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gưởi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán'' ( ĐiềuI khoản1,pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Theo luật các TCTD thì: “NHTM là một loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và những hoạt động khác có liên quan như nhận tiền gưởi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tài chính khác là NHTM được thực hiện mọi hoạt động ngân hàng, các trung gian tài chính khác chẳng hạn như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính không được nhận tiền gưởi không kỳ hạn, không được cung ứng các dịch vụ thanh toán. 1.1.2. Hoạt động cơ bản của một NHTM Các NHTM hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nghĩa là thực hiện 3 nghiệp vụ cơ bản: Nghiệp vụ quản lý tài sản nợ: nghiệp vụ này bao gồm việc huy động các nguồn vốn: Huy động tiết kiệm có thời hạn và không thời hạn, phát hành trái phiếu và thương phiếu, vay các tổ chức tín dụng(TCTD), các NHTM khác, vốn tiếp nhận tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư... quản lý vốn khả dụng, quản lý sự khớp đúng giữa tài sản nợ và tài sản có. Các nghiệp vụ tài trợ cho nền kinh tế : Đây là những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM, nó vừa giúp các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh tín dụng, tăng thêm lợi nhuân, vừa giúp cho các đơn vị vay có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm việc cho vay để thu lãi suất và đầu tư mua các loại chứng khoán trái khoán chủ yếu là trái phiếu chính phủ, bán lại chứng khoán nhằm thu chênh lệch giá chứng khoán. các hoạt động ngoại bảng: Dịch vụ thanh toán: Dịch vụ thanh toán là đặc thù của các NHTM, tính hiệu quả của những dịch vụ này đã đem lại lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế . Chúng ta thấy rằng, bất kỳ một trục trặc nào trong hệ thống thanh toán của NHTM cũng đủ để gây sự bế tắc và thiệt hại cho nền kinh tế. Nghiệp vụ tài trợ hoạt động ngoại thương: nghiệp vụ này bao gồm việc cho vay tín dụng bằng ngoại tệ cho khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu, mở L/C ngoại tệ cho khách hàng, làm dịch vụ chuyển tiền ngoại tệ cho khách hàng. Dịch vụ tư vấn: bao gồm tư vấn về tài chính của công ty, quản lý tiền mặt cho khách hàng, chủ yếu là cho các công ty, tư vấn môi giới chứng khoán cho khách hàng, dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, kể cả các dịch vụ pháp lý để công ty có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Nó còn bao gồm việc thiết kế cho các khoản vay hợp vốn cho khách hàng đầu tư vào các dự án lớn, mua lại các công ty khác. Nghiệp vụ bảo lãnh: bao gồm bảo lãnh các khoản vay trong nước và bảo lãnh các khoản vay ngoại tệ, phát hành hối phiếu cho khách hàng trong hoạt động thương mại. Ngoài ra còn phải kể đến một số các hoạt động khác như: Dịch vụ phát hành chứng khoán, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc đá quý, dịch vụ thuê mua (cho thuê văn phòng, máy móc thiết bị) ,dịch vụ chuyển tiền... Trong các hoạt động của NHTM thì nghiệp vụ tín dụng được xem là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM, bởi nghiệp vụ này tài trợ nguồn vốn cho nền kinh tế, và đây là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các NHTM. Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng Khái niệm về hoạt động tín dụng Theo điều 2.8 luật các TCTD thì:" hoạt động tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng ". Trong đó "cấp tín dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác". Như vậy đối với các NHTM hoạt động tín dụng bao gồm 2 nghiêp vụ cơ bản đó là huy động các nguồn vốn trong dân chúng và dùng nguồn vốn đó để tài trợ cho nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành viên của nền kinh tế. Vai trò của tín dụng ngân hàng Hoạt động tín dụng của các NHTM là 1 hoạt động quan trọng trong nền kinh tế của chúng ta vì rằng: Thứ nhất, Tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng, nó khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lí do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Tức là dẫn vốn từ những người để giành là những có người dư vốn tới những người chi tiêu là những người có cơ hội đầu tư để sinh lợi nhưng thiếu vốn. Thông qua hoạt động tín dụng của các NHTM, các doanh nghiệp nhận khối lượng vốn bổ sung rất lớn, từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất, tín dụng ngân hàng tập trung những khoản tín dụng nhỏ lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Thông qua quá trình tích tụ và tập trung, vốn tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Sau nữa tín dụng là công cụ bình quân bình quân hoá tỷ xuất lợi nhuận. Tín dụng giúp cho các nhà doanh nghiệp đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Tín dụng trở thành công cụ làm cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động hơn, mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và đạt được hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tín dụng làm tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông. Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động với nguồn vốn chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng, theo báo cáo của NHNN Việt Nam, có đến 80%-90% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được hình thành từ vốn vay ngân hàng và các TCTD (Trương Quốc Thụ, tạp chí ngân hàng số 7/1998). Nhờ nguồn vốn tín dụng của các NHTM, các doanh nghiệp không những đảm bảo được quá trình sản xuất bình thường mà còn mở rộng được sản xuất, cải tiến kĩ thuật, áp dụng kĩ thuật mới, hoạt động tín dụng đã làm cho lưu thông hàng hoá được phát triển ở trong nước lẫn ngoài nước. Tín dụng có vai trò quan trọng, nó là đòn bẩy kinh tế trong hệ thống các đòn bẩy kinh tế được sử dụng thường xuyên và linh hoạt nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Hiệu quả kinh doanh tín dụng của các NHTM trực tiếp tạo ra một phần giá trị mới, giá trị thặng dư, làm tăng giá trị tổng sản phẩm quốc nội và tăng nguồn thu ngân sách quốc gia. Hiệu quả kinh doanh tín dụng góp phần quan trọng thúc đẩy điều kiện kinh tế xã hội tiến bộ, tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập của người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy dân giàu nước mạnh. Hai là, Thông qua hoạt động tín dụng của mình NHTM có thể tăng cường giám sát và kiểm tra hoạt động của các công ty. Một khi kỳ hạn tín dụng ngắn, thì thông qua việc lặp đi lặp lại xét duyệt tín dụng trong một năm, NHTM đã trở thành người nắm bắt được thông tin tề tình hình tài chính của cũng như điều kiện kinh doanh của công ty. Thông qua quan hệ với NHTM mà các thông tin trung thực về tình hình tài chính của các công ty được công khai. Trong trường hợp thông tin tốt thì công ty có thể phát hành được chứng khoán ra công chúng với chi phí thấp hơn. Hơn nữa thông qua quan hệ tín dụng với NHTM mà các thông tin về công ty được công khai hoá, do đó những thông tin sai lệch về công ty sẽ được các nhà đầu tư điều chỉnh. Điều này khuyến khích được các luồng vốn luôn chuyển đúng địa chỉ, làm tăng hiệu quả đối với nền kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các NHTM, theo số liệu điều tra từ một số ngân hàng nước ta cho thấy nguồn thu lợi nhuận của NHTM có đến 80% trở lên có nơi tới 90% là thu lợi nhuận từ kinh doanh tín dụng (Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số7/1999). Hơn nữa thông qua hoạt động tín dụng các NHTM có được thông tin tài chính của các doanh nghiệp, là cơ sở để làm tốt dịch vụ tư vấn và một số nghiệp vụ khác. Rủi ro tín dụng 2.1 Định nghĩa về rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Các ngân hàng sẽ không bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận được cả gốc và lãi của các khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó khăn tài chính, thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi các khoản cho vay của ngân hàng đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất cố định. Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với mức xác suất thấp, mức vốn có thể mất lại không giới hạn. Có thể lấy các trái phiếu có phiếu lĩnh lãi cố định do các doanh nghiệp phát hành và các khoản cho vay của ngân hàng để chứng minh cho mâu thuẫn dữa thu nhập và rủi ro tín dụng. Trong cả hai trường hợp nếu không có rủi ro, nguồn thu nhập của các ngân hàng là có giới hạn dưới dạng lãi suất các khoản cho vay hoặc lãi suất trái phiếu, ngược lại ngân hàng thường mất toàn bộ phần lãi suất có thể và có thể một phần hay toàn bộ vốn gốc, điều này còn phụ thuộc vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản trong trường hợp người đi vay phá sản. Phân loại rủi ro tín dụng Đo lường rủi ro tín dụng Để đánh giá mức rủi ro tín dụng trong các quyết định cho vay và đầu tư, các ngân hàng cần có các phương pháp nhằm xác định khả năng trả nợ của khách hàng. Điều này phụ thuộc vào khối lượng thông tin về khách hàng mà các ngân hàng có thể thu thập được. Phần lớn nguồn thông tin thu thập được là do điều tra của ngân hàng, mua của các tổ chức phân loại và đánh giá tín dụng bên ngoài, thông qua các báo cáo kế toán tài chính, giá cổ phiếu và trái phiếu hoặc qua báo cáo tổng hợp của các nhà phân tích, trong đó thì báo cáo kế toán tài chính do khách hàng cung cấp là quan trọng nhất. Lợi thế của công nghệ thông tin đang làm cho sự đánh giá rủi ro tín dụng về mặt lượng thậm chí của một khách hàng nhỏ cũng trở nên có tính khả thi và chi phí thấp. Các nhà kinh tế, các ngân hàng và các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng cho các khoản tín dụng. Các mô hình đánh giá này rất đa dạng, bao gồm các mô hình phản ánh về mặt số lượng và cả những mô hình phản ánh về mặt chất lượng của rủi ro tín dụng. Hơn nữa các mô hình này không loại trừ lẫn nhau, nên một NHTM có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để phản ánh rủi ro tín dụng từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta sẽ bắt đầu từ mô hình đơn giản nhất. Mô hình chất lượng Trong trường hợp các thông tin có liên quan đến chất lượng của khách hàng không được công bố rộng rãi, các TCTD phải thu thập thông tin từ các nguồn đơn lẻ như các hồ sơ về tín dụng và tiền gưởi, hoặc mua thông tin từ bên ngoài như các tổ chức phân loại và đánh giá khách hàng. Những thông tin này giúp các TCTD đánh giá xác suất rủi ro của người vay và trên cơ sở đó định giá các khoản vay hoặc các khoản nợ một cách chính xác. Nói chung số lượng thông tin cần thu thập cho mỗi khoản tín dụng phụ thuộc vào quy mô của khoản đầu tư đó và chi phí thu thập thông tin. Tuy nhiên, các yếu tố chủ yếu liên quan đến quyết định đầu tư được chia thành 2 nhóm: nhóm yếu tố liên quan đến người cá nhân người vay vốn, và nhóm yếu tố liên quan đến thị trường ảnh hưởng đến tất cả những người vay vốn vào thời điểm quyết định cho vay (Anthony Saunders và Helen lange Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-NXB thống kê Hà Nội-1999) CáC YếU Tố LIÊN QUAN DếN NGười vay vốn Danh tiếng: Danh tiếng của người vay vốn được thể hiện thông qua lịch sử đi vay và trả nợ của họ. Nếu trong suốt thời gian quan hệ với các NHTM, khách hàng thường xuyên trả nợ đầy đủ và đúng hạn, họ sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với các tổ chức này. Mối quan hệ lâu dài và tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay có thể tạo nên các hợp đồng ngầm về vay vốn và trả nợ mà các điều khoản của nó có thể vượt ra khỏi các hợp đồng chuẩn. Tuy nhiên, mức độ quan trọng của yếu tố danh tiếng lại gây nên bất lợi cho các khách hàng nhỏ và mối quan hệ của nó với các NHTM . Cơ cấu vốn: Cơ cấu vốn thể hiện thông qua tỷ lệ giữa vốn nợ và vốn tự có của các tổ chức vay vốn. Tỷ lệ này phản ánh xác suất của rủi ro không thu được nợ bởi lẽ tỷ trọng vốn huy động - thể hiện dưới hình thức trái phiếu hay các khoản tín dụng - càng cao, mức lãi suất các tổ chức đi vay phải trả càng lớn, khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ từ các luồng thu ngân càng giảm. Một tỷ lệ thấp giữa vốn huy động và vốn tự có sẽ không gây ảnh hưởng đáng kể nào đến xác suất của việc trả nợ. Nhưng khi tỷ lệ này vượt quá một mức nhất định nào đó, thì xác suất phá sản tăng lên kéo theo xác suất của rủi ro không thu được nợ tăng lên. Vì thế công ty có tỷ trọng vốn nợ lớn thường được yêu cầu trả mức phần thưởng rủi ro cao hơn cho các khoản vay của nó nhằm bù đắp rủi ro tiềm năng mang lại từ cơ cấu vốn . Chỉ số về khả năng thanh toán : Khả năng thanh toán chung = Tổng tài sản lưu / động tổng nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp, nó chỉ ra quy mô phạm vi của tài sản lưu động có thể chuyển đổi thành tiền để trang trải nợ trong kỳ phù hợp với kỳ hạn nợ: Nếu tỉ số này 1 chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; tình hình tài chính của doanh nghiệp là binh thường. Nếu tỉ số này<1 có nghĩa là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán công nợ trong điều kiện bình thường. Khả năng thanh toán nhanh: Chỉ tiêu này chỉ có ở những doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào, doanh nghiệp có thể chủ động thanh toán được bất cứ khoản nợ nào khi đến hạn thanh toán. Khả năng thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền / Các khoản nợ đến hạn Nếu tỉ số này 1, doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh. Đối với loại doanh nghiệp này ngân hàng cho vay sẽ có sự đảm bảo chắc chắn về khả năng trả nợ. Qua thực tế cho thấy các doanh nghiệp có tỉ số này lớn hơn 0,5 đều có khả năng thanh toán nhanh. Khả năng thanh toán cuối cùng: Khả năng thanh toán nhanh chưa đủ tiêu chuẩn để xét cho vay. Tài sản có lưu động - tài sản thiếu chờ xử lý - Khả năng -chênh lệch tỷ giá và chỉ số giá chưa xử lý Thanh toán = ắắắắắắắắắắắắắắắắắắắắắắ cuối cùng Nợ ngắn hạn ngân hàng và các TCTD khác + các khoản phải trả Nếu tỉ số này <1 , tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu, trường hợp này không nên cấp tín dụng . Mức độ biến động của thu nhập: Với bất kỳ cơ cấu vốn nào, sự biến động của thu nhập cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của của người đi vay bao gồm gốc và các khoản lãi cố định. Chính vì thế đối với các tổ chức cho vay, các khách hàng là các công ty mới được tổ chức lại hoặc các công ty kinh doanh trong các lĩnh vưc công nghệ hiện đại sẽ ít hấp dẫn hơn các công ty có lịch sử thu nhập ổn định thường xuyên và lâu dài. Các tỉ số về doanh lợi: Trước khi quyết định cho vay vốn đối với doanh nghiệp cần phải nắm được các chỉ tiêu doanh lợi của doanh nghiệp: -Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuân ròngDoanh thu tiêu thụ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn được đầu tư, nghĩa là một đồng vốn đầu tư sẽ sinh ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. -Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuân ròng Vốn tự có Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn chủ sở hữu hay nói cách khác một đồng vốn tự có sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lời kinh tế : khả năng sinh lời kinh tế phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản có của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này có thể tính riêng hoặc tính chung cho từng loại tài sản có. Khả năng sinh lời kinh tế = Kết quả thu nhập Tổng tài sản có Trường hợp không lấy được kết qủa thu nhập, ta có thể tính khả năng sinh lời kinh tế theo công thức sau: Khả năng sinh lời kinh tế = Lợi nhuận của doanh nghiệp Tổng tài sản có Điểm hoà vốn: Đối với khoản vay trung và dài hạn, ngân hàng phải tiến hành phân tích điểm hoà vốn. Điểm hoà vốn là căn cứ quan trọng trong quá trình lựa chọn quyết định các phương án đầu tư, trang bị thêm. Cũng như đối với doanh nghiệp xây dựng mới, trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng: Điểm hoà vốn càng thấp, sự hoàn trả vốn càng nhanh, điều này thể hiện sự linh hoạt nhạy bén với thị trường, Do đó đối với các doanh nghiệp này ngân hàng có thể xem xét và cấp tín dụng. Ngược lại đối với những doanh nghiệp có điểm hoà vốn cao, thời gian thu hồi chậm chứng tỏ khả năng nhạy bén kém, nên khó có thể thích ứng trong các điều kiện kinh tế thị trường, vì vậy các ngân hàng nên thận trọng khi cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp này. Tài sản thế chấp : Một điều kiện chủ yếu trong bất kỳ một quyết định cho vay nào là mức độ của tài sản thế chấp hoặc tài sản làm đảm bảo cho các khoản vay. Có những khoản vay (hoặc trái phiếu) có đảm bảo bằng tài sản cụ thể như nhà xưởng, thiết bị nhưng cũng có những khoản vay (hoặc trái phiếu) không có đảm bảo. Hiển nhiên khả năng thu hồi nợ của các khoản vay có đảm bảo chắc chắn hơn các khoản vay không có đảm bảo. Điều đó không có nghĩa là các khoản vay có thế chấp không chứa đựng rủi ro tín dụng tiềm năng, trừ khi giá trị thị trường của tài sản thế chấp luôn vượt một cách đáng kể gía trị khoản vay. Ngay cả trong trường hợp này thì việc siết nợ các tài sản thế chấp cũng mất nhiều thời gian, tốn kém và đôi khi gặp những điều phiền toái không lường trước được. Vì thế trong mọi trường hợp tài sản thế chấp chỉ được coi là nguồn trả nợ dự phòng. Các yếu tố liên quan đến thị trường Về chu kì kinh tế : Vị trí của nền kinh tế trong chu kì kinh tế có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự đánh giá của NHTM về xác suất rủi ro tín dụng. Chẳng hạn, trong thời kì suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp trong sản xuất hàng hoá tiêu dùng cao cấp với độ bền cao như ô tô, tủ lạnh, nhà ở thường rơi vào tình trạng bất lợi hơn so với các doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hoá cho nhu cầu thiết yếu như lương thực, thực phẩm, thuốc lá...Trong thời kì này người tiêu dùng thường cắt giảm các khoản chi tiêu cho những nhu cầu cao cấp và duy trì các nhu cầu chi tiêu thiết yếu. Vì thế các doanh nghiệp trong khu vực sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp thường bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng tiềm năng trong thời kì kinh tế giảm sút. Và để chống đỡ lại ảnh hưởng tiêu cực của chu kì kinh tế các NHTM đưa ra các điều kiện khắt khe trong các hợp đồng tín dụng nhằm giảm bớt rủi ro tín dụng. Điều này tới lượt nó lại gây hậu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người không có khả năng (hoặc hạn chế) tiếp cận với các thị trường tín dụng khác như thị trường thương phiếu. Mức lãi suất : Mức lãi suất cao là kết quả tất yếu của chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Điều này này không chỉ dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn vốn đầu tư, mà nói chung mức lãi suất cao thường gắn liền với mức rủi ro tín dụng cao hơn. Trong điều kiện, giá vốn đắt, người đi vay có thể bị hấp dẫn bởi những dự án đầu tư mạo hiểm nhưng hứa hẹn mang lại mức lợi nhuận cao, hoặc chỉ có những khách hàng có mức độ rủi ro cao mới sẵn sàng vay với mức lãi suất cao. các mô hình tính điểm tín dụng Các mô hình tính điểm tín dụng thường sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay để tính toán xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để phân tích khách hàng căn cứ vào mức độ rủi ro tín dụng được xác định. Bằng việc lựa chọn và kết hợp các đặc điểm tài chính và kinh doanh của người vay, các NHTM có thể: Xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến rủi ro tín dụng, so sánh mức độ quan trọng dữa các nhân tố, cải thiện việc đánh giá rủi ro tín dụng, có căn cứ chính xác hơn trong việc sàng lọc các đơn xin vay, tính toán chính xác hơn mức dự trữ cần thiết cho các rủi ro tín dụng dự tính. Mô hình xác suất tuyến tính Mô hình xác suất tuyến tính sử dụng số liệu quá khứ, chẳng hạn các số liệu kế toán, làm dữ liệu đầu vào để giải thích quá trình chi trả trong quá khứ sẽ sử dụng. Mức độ quan trọng tương đối của các yếu tố được sử dụng để gải thích quá trình chi trả trong quá khứ sẽ được sử dụng như để đoán xác suất chi trả cho các khoản vay mới. Giả sử các khoản vay cũ (i) được chia thành 2 nhóm: nhóm có rủi ro mất vốnvà nhóm không có rủi ro. Chúng ta thiết lập mối quan hệ giữa các nhóm này với các nhân tố ảnh hưởng tương ứng phản ánh đặc điểm của người vay thứ i (như cơ cấu vốn hay thu nhập) theo mô hình đường thẳng tuyến tính với công thức sau: sai số Trong đóphản ánh mức độ quan trọng của chỉ tiêu thứ j (thí dụ cơ cấu vốn) trong việc giải thích quá khứ chi trả của người vay. Lấy các giá trịnhânvớicác nhân tố của một người vay mới chúng ta sẽ dự tính được giá trị của. Giá trị này phản ánh xác suất bình quân rủi ro mất vốn của người vay. , là xác suất trả nợ khoản vay. Kĩ thuật này được thực hiện một cách đơn giản khi các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay được cung cấp. Tuy nhiên điểm yếu nhất của nó là ở chỗ xác suất rủi ro mất vốn rất dễ nằm ngoài khoảng từ 0 đến 1. Các mô hình logit và probit sau đây sẽ khắc phục được nhược điểm này bằng cách giới hạm phạm vi dự tính trong khoảng từ 0 đến 1. Mô hình logit Mô hình logit giới hạn xác suất luỹ kế của rủi ro mất vốn đối với một khoản tín dụng nằm trong khoảng từ 0 đến 1 và giả sử xác suất này được phân bổ theo dạng hàm số: Trong đó e là cơ số tự nhiên, F(Zi) là xác suất lũy kế của mức rủi ro đối với một khoản vay, và Zi được tính toán theo mô hình đường thẳng tuyến tính tương tự như mô hình trên. Như vậy chúng ta có thể xác định giá trị dự tính của Zi theo hàm số tuyến tính cho một người vay mới, sau đó thay Zi vào giá trị bên phải của hàm số logit để xác định giá trị của F(Zi) - xác suất luỹ kế của rủi ro tín dụng. Hạn chế chủ yếu của phương pháp này là giả thiết rằng xác suất luỹ kế của rủi ro mất vốn được phân bổ theo một dạng hàm số logit cụ thể. Đồ thị 1.1: Mô hình logit Xác suất rủi ro tích luỹ hàm số logistic E(Zi) 0 Zi Mô hình probit Mô hình probit cũng hạn chế xác suất rủi ro tín dụng dự tính trong khoảng từ 0 đến 1, nhưng nó khác với mô hình trên khi giả thiết răng xác suất của rủi ro có dạng phân bổ chuẩn chứ không phân bổ theo hàm số logit như đồ thị 4.3. tuy nhiên, khi được nhân với một yếu tố cố định thì giá trị logit có thể trở thành giá trị probit gần đúng. Mô hình phân biệt tuyến tính Trong khi các mô hình xác suất tuyến tính, logit và probit đều dự tính mức xác suất của rủi ro tín dụng đối với một khoản tín dụng được cấp thì mô hình này có tác dụng phân loại những người vay căn cứ vào mức độ rủi ro các mức độ liên quan đến chỉ tiêu (Xj) phản ánh đặc điểm tài chính và kinh doanh của họ. Thí dụ sau đây xem xét mô hình phân biệt được xây dựng bởi E.I.Altman (Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-NXB thống kê Hà Nội-1999) giành cho các công ty sản xuất của Mỹ. Chỉ số biến động Z đo lường toàn bộ mức độ rủi ro của người vay. Chỉ số này phụ thuộc vào giá trị của các chỉ số tài chính phản ánh tình trạng tài chính của người vayvà mức độ quan trọng của các chỉ số này trong việc quyết định mức độ rủi ro của người vay. Các giá trị này, đến lượt nó được xác định thông qua kinh nghiệm phân tích và so sánh giữu hai nhóm người vay có rủi ro và không có rủi ro được rút ra từ mô hình phân biệt. Hàm số phân biệt của Altman có dạng sau: Trong đó: = Tỷ lệ giữa vốn lưu động và tổng tài sản có. = Tỷ lệ giữa lợi nhuận tích luỹ và tổng tài sản có. = Tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế và lãi suất trên tổng tài sản có. = Tỷ lệ giữa giá thị trường của cổ phiếu và giá kế toán của các khoả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0003.doc
Tài liệu liên quan