Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng ĐT&PT Đông Anh

Tài liệu Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng ĐT&PT Đông Anh: ... Ebook Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng ĐT&PT Đông Anh

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng ĐT&PT Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào, từ các nước đang phát triển đến các nước có nền đại công nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp sản phẩm dịch vụ cho thị trường và tạo phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Chính vì thế mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986), Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế và với sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm thu hồi vốn nhanh; Đồng thời xây dựng một số công trình quy mô thật lớn, thật cần thiết và có hiệu quả”. Như vậy, nền kinh tế của Việt Nam sẽ lấy cơ sở từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi đây là trọng tâm và đường lối phát triển đất nước. Nó hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển và với điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, phải đi lên từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho phù hợp với việc tích luỹ số vốn ít ỏi ban đầu, tận dụng triệt để các nguồn lực để tạo ra sản phẩm có giá trị cao với chi phí thấp trong một thời gian nhanh nhất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thế nhưng để các Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát huy hết vai trò của mình thì cần có một sự quan tâm thoả đáng từ Chính phủ và Ngân hàng thương mại trong việc giải quyết những khó khăn về vốn cho sản xuất. Thiếu vốn để kinh doanh nhưng lại rất khó được tiếp cận với vốn tín dụng Ngân hàng, đây là một thực tế đáng buồn vẫn tồn tại trong những năm qua ở Việt Nam, gây ra những trở ngại không nhỏ cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đông Anh là một huyện ngoại thành với hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Thế nhưng một thực trạng cho thấy trên địa bàn huyện là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thực sự phát huy hết tiềm năng của mình, mà nguyên nhân chính là chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng. Sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Đông Anh, em cũng đã nhận thấy những mặt còn hạn chế trong hoạt động tín dụng của chi nhánh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Dư nợ chưa thật lớn, độ an toàn chưa cao…Do vậy em đã chọn đề tài: “Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng ĐT&PT Đông Anh” làm đề tài nghiên cứu của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Anh Chương 3: Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Anh. Do kiến thức còn hạn chế, thời gian thực tập ngắn, nên các vấn đề đưa ra trong chuyên đề chưa thực sự sâu sắc, đấy đủ, vì vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, Ban lãnh đạo Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Anh và các bạn để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1: Lý luận cơ bản về tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại 1.1 Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Trong bất cứ giai đoạn nào thì NHTM luôn có vai trò quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Giúp cho quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra nhanh chóng, tạo ra được một kênh huy động vốn rất lớn và cung ứng vốn cho nền kinh tế, là nơi thực hiện cất giữ tài sản an toàn và sinh lời... Trong một nền kinh tế hiện đại, thì vai trò của Ngân hàng lại càng to lớn. Thử tưởng tượng nếu không có các ngân hàng thì nền kinh tế sẽ như thế nào?. Và có thể nói rằng, cùng với các tổ chức tài chính khác Ngân hàng chính là các mạch máu của nền kinh tế quốc dân. Vậy Ngân hàng được định nghĩa như thế nào? Hay hiểu như thế nào là Ngân hàng thương mại? Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Vì vậy tuỳ vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn khác nhau, mà các ngân hàng được định nghĩa khác nhau. Nhưng theo cách định nghĩa tổng quan nhất thì: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì: "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán". 1.1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại - Ngân hàng là nơi tập trung tiền nhàn rỗi và cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi có tiền nhàn rỗi hoặc tích luỹ (do người dân không có khả năng đầu tư tiền để sinh lời) thì họ thường gửi vào ngân hàng bởi ngân hàng không chỉ đảm bảo cho các khoản tiền gửi mà cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán tiện lợi mà người gửi tiền còn thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình thông qua khoản lãi tiền gửi. Hay nói cách khác ngân hàng huy động tiền nhàn rỗi và tiền tích luỹ dưới dạng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn, kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Ngược lại, khi thiếu vốn kinh doanh thì nơi mà các doanh nghiệp tìm đến cũng là ngân hàng. Bởi doanh nghiệp sẽ tránh được tình trạng thông tin không cân xứng và có đủ nguồn vồn cần thiết cho quá trình sản xuất của mình. Như vậy, NHTM là nơi cung ứng vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng cho các doanh nghiệp. -Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp và thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị phần kinh doanh… doanh nghiệp cần phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, mở rộng nhà xưởng, đào tạo công nhân… Mà những hoạt động này đòi hỏi phải có khối lượng vốn đầu tư. Nếu doanh nghiệp tự đi vay thì phải đi vay nhiều chỗ mới có đủ số vốn cần thiết. Hơn nữa, chi phí cho mỗi lần đi vay lại cao. Do đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Nguồn vốn mà ngân hàng cung ứng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, tạo thế đứng cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường. -Ngân hàng nhà nước là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước điều tiết hoạt động của các NHTM thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ như công cụ lãi suất, công cụ dự trữ bắt buộc… mà làm tăng hay giảm việc tăng trưởng tín dụng, tăng lượng tiền cung ứng vào lưu thông khi cần điều tiết nền kinh tế vĩ mô. -Ngân hàng góp phần thu hút vốn, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của dân chúng và là vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới. Vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Khi NHTM làm trung gian tài chính, ngân hàng gom vốn của những người tiết kiệm để cho các nhà đầu tư vay vì các khoản tiết kiệm thường nhỏ lẻ mà nhu cầu vốn để thực hiện đầu tư lại cao. Như vậy, các nhà đầu tư hoàn toàn có đủ vốn để tiến hành đầu tư tại thị trường tiềm năng đối với họ. Đối với các dự án lớn của chính phủ, ngân hàng được sự uỷ quyền của chính phủ có thể vay tiền của chính phủ các nước về tài trợ cho các dự án đầu tư. Ngân hàng được chính phủ uỷ quyền cho sử dụng nguồn vốn ODA để cho vay đối với các dự án nằm trong kế hoạch. Hoặc ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty khi phát hành chứng khoán ra nước ngoài. 1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. -Nhận tiền gửi: Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo đảm hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được khoản tiền gửi các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. -Cho vay: Cho vay thương mại: ngay ở đầu thời kì ngân hàng đã tiến hành chiết khấu thương phiếu mà thực chất là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay tiêu dùng: là việc ngân hàng cho cá nhân, hộ gia đình vay vốn để chi tiêu, mua sắm các đồ dùng phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Tài trợ dự án: bên cạnh việc cho vay ngắn hạn, trung hạn phục vụ cho sản xuất, các ngân hàng còn năng động hơn trong việc tài trợ dài hạn. Ví dụ như tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển công nghệ cao, đầu tư vào đất… -Mua bán ngoại tệ: Một trong những hoạt động đầu tiên của NHTM là hoạt động mua bán ngoại tệ: mua bán một loại tiền này lấy loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. -Hoạt động khác: Ngoài các hoạt động chủ yếu kể trên các NHTM hiện đại đa năng còn thực hiện các hoạt động khác như: bảo quản hộ tài sản, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lí ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý… Trong các hoạt động của NHTM, hoạt động chủ yếu là tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm (hoạt động tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn có bảo đảm bằng tài sản giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu; sau đó mở rộng tín dụng bằng nhiều biện pháp cho vay khác như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng chứng khoán, giấy tờ lưu kho hoặc cho vay không cần thế chấp. Các ngân hàng hiện nay thực hiện đa dạng hoá các hình thức tín dụng cho vay như: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng, mua các tài sản để cho thuê…Các hình thức tín dụng này một mặt mang lại thu nhập cho ngân hàng mặt khác cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Vậy rủi ro là một tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả lãi hoặc gốc hoặc cả lãi và gốc một cách đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng. Như vậy, đã làm phát sinh các khoản nợ quá hạn một phần lớn là tồn đọng trong các ngân hàng thương mại. 1.2. Tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp. Theo Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được tổ chức ra để thực hiện hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định với mục đích công ích hoặc thu lợi nhuận. Thông thường một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân cần có đủ các điều kiện sau: - Được nhà nước thành lập hay cho phép hoạt động (có quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc giấy phép kinh doanh). - Có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản riêng đủ lớn và độc lập với tài sản của tổ chức hay cá nhân khác. - Có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng, chịu trách nhiệm độc lập về mọi hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, riêng trong lĩnh vực ngân hàng để đảm bảo an toàn tín dụng, doanh nghiệp cần phải có trụ sở giao dịch được đăng kí với chính quyền địa phương. Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú, theo mỗi một tiêu chí khác nhau thì ta lại có cách thức phân loại phù hợp. - Theo hình thức sở hữu có: + Doanh nghiệp nhà nước. + Doanh nghiệp tư nhân. + Doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp, gồm: công ty cổ phần và công ty liên doanh. - Theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh : + Doanh nghiệp tài chính, gồm: ngân hàng, kho bạc, công ty tài chính, công ty bảo hiểm… + Doanh nghiệp phi tài chính, gồm: doanh nghiệp xây dựng cơ bản, doanh nghiệp công ngiệp, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp thương mại dịch vụ… - Theo quy mô hoạt động: + Doanh nghiệp lớn. + Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ . Hầu hết các nước trên thế giới đều xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên hai tiêu thức là: Số lượng lao động bình quân và Tổng số vốn sản xuất kinh doanh hoặc doanh thu bình quân hàng năm. Ở từng nước, sự phân chia độ lớn các chỉ tiêu đó cũng không hoàn toàn giống nhau và đối với từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam cũng vậy phân loại doanh nghiệp cũng thay đổi theo từng thời kỳ và theo điều kiện cụ thể của đất nước. Theo công văn số 681/CP- KTN ngày 20/6/1998 của Thủ tướng chính phủ, quy định: doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Doanh nghiệp lớn là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ hoặc doanh thu trên 5 tỷ đồng và có số lao động làm việc thường xuyên trên 200 người. Để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ra Nghị định 90/2001/NĐ-CP, theo đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân loại theo tiêu chí: vốn diều lệ dưới 10 tỷ và số lao động bình quân năm nhỏ hơn 300 người. Do vậy, trong khối doanh nghiệp nhà nước thì tỷ trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 80%. Còn trong khu vực kinh tế tư nhân, hiện có khoảng hơn 50.000 doanh nghiệp gồm các Công ty TNHH, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và hơn 2 triệu hộ kinh doanh cá thể (không kể hộ sản xuất nông nghiệp). Những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng bao gồm cả các HTX chuyển đổi. Theo tiêu chí vốn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,56% trong tổng số doanh nghiệp tư nhân, 97,38% trong tổng số các hợp tác xã, 96,12% trong các công ty trách nhiệm hữu hạn và 43,27% trong số các công ty cổ phần. Như vậy có thể thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước ta. 1.2.2. Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hóa, là hình thức vận động của vốn vay, nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc và lợi tức. Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên khi gắn với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác) thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng (hoặc các trung gian khác) cho vay. Trong lịch sử phát triển, quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển dưới các hình thức: tín dụng thương mại, tín dụng nặng lãi, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước. Trong đó tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế một cánh linh hoạt, kịp thời. Tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân hàng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và khách hàng có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất cho ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất, tuy nhiên rủi ro từ hoạt động tín dụng cũng là cao nhất. Hoạt động tín dụng vì vậy có vai trò rất quan trọng đối với các NHTM. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: - Vai trò trung gian thu hút và tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp nhà nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là: Ngân sách nhà nước cấp, nguồn vốn tự có và vốn vay. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ có nguồn vốn ngân sách cấp ít ỏi, vốn tự có hạn chế nên vẫn thường chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng để hoạt động. Ngân hàng là người cung cấp các khoản vốn tín dụng ngắn hạn cũng như dài hạn cho doanh nghiệp. Những khoản vốn vay này được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ nhu cầu vốn lưu động và đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh do không được ngân sách nhà nước cấp, nên các doanh nghiệp này phải dựa vào hai nguồn vốn: nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động. Song nguồn vốn tự có của họ rất nhỏ bé, bởi vậy tín dụng ngân hàng vẫn được coi là cứu cánh quan trọng để tồn tại và phát triển. Từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hệ thống ngân hàng cũng được đổi mới chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp tách biệt chức năng quản lý và kinh doanh. Theo đó, việc nhà nước cung cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước cũng hạn chế nhằm tạo cho doanh nghiệp sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Khi bước vào cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp gặp không ít khó khăn, ngoài một số nhanh chóng thích ứng và phát triển, số còn lại hoặc phải sáp nhập, giải thể hoặc phải tổ chức sắp xếp lại quy mô và phương án sản xuất kinh doanh. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì thiếu vốn trầm trọng để duy trì hoạt động cũng như mở rộng phát triển. Giải bài toán vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang nằm trên bàn cân của sự lựa chọn: Hoặc nâng cao tự đầu tư tích luỹ và huy động vốn của công nhân viên của doanh nghiệp. Hoặc tiến hành cổ phần hoá để tăng nguồn vốn đầu tư phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên cũng chỉ có một số doanh nghiệp là đủ khả năng cổ phần hoá. Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy rõ mấy vấn đề: Cần có sự hỗ trợ về vốn của các ngân hàng thương mại đối với sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vai trò của các ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp này hiện nay và tương lai là hết sức quan trọng. Các ngân hàng thương mại có đầy đủ khả năng thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình bởi những lý do sau: Một là, các ngân hàng có khả năng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế và trong mọi tầng lớp dân cư để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế cũng như cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thích hợp, khuyến khích người dân gửi tiền làm cho nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại tăng trưởng nhanh qua các năm. Song khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn hạn chế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận đồng vốn ngân hàng. Do bị ràng buộc bởi những thể chế tín dụng cộng với môi trường pháp lý chưa đồng bộ nên dẫn đến tình trạng ngân hàng thì ứ đọng vốn không cho vay được trong khi các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Hai là, các ngân hàng thương mại Việt Nam với một hệ thống chi nhánh rộng khắp đã tạo ra nhiều kênh cung cấp vốn tín dụng lan toả trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cả nước. Ba là, với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức cho vay, sử dụng vốn linh hoạt các ngân hàng thương mại đủ khả năng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy, ngân hàng với vai trò trung gian của mình sẽ thực sự là người bạn của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng quy mô, cải tiến kỹ thuật, huy động các nguồn nhân lực, vật lực vào quá trình sản xuất kinh doanh với năng suất và chất lượng hơn trước. - Hoạt động cho vay của ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả hơn. Đứng về phía các doanh nghiệp, khi nhận được đồng vốn tài trợ với nghĩa vụ phải hoàn trả gốc và lãi lại cho ngân hàng, thì họ phải có trách nhiệm sử dụng đồng vốn này một cách có hiệu quả để có tích lũy cũng như có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi quyết định vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh thì họ đều phải tuân thủ nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi theo đúng hợp đồng thoả thuận. Do vậy họ phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng việc bỏ những đồng vốn của mình làm sao có hiệu quả nhất. Chính điều này đã yêu cầu các doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư vào nâng cao công nghệ, dây truyền sản xuất, cải tiến và nâng cao chất lượng cũng như thường xuyên phải đa dạng hoá các mẫu mã, nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành… bằng cách phải nỗ lực học hỏi, phải tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ. Nhưng để đạt được điều này thì các doanh nghiệp phải có vốn và ngân hàng lại là tổ chức cung cấp tín dụng tốt nhất, nó sẽ góp phần cung cấp một phần vốn trung dài hạn cho doanh nghiệp để có thể kinh doanh và đứng vững trên thị trường. - Tín dụng ngân hàng có vai trò hỗ trợ ban đầu để hình thành lên các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng không những hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hoạt động và phát triển mà còn hỗ trợ họ ngay từ khi mới hình thành và đi vào hoạt động ban đầu. Nếu như không có sự hỗ trợ của ngân hàng thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sẽ gặp nhiều khó khăn thậm chí không thành lập được vì thiếu vốn pháp định. - Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch lĩnh vực kinh doanh và cơ cấu kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và mũi nhọn. Năng động luôn là đặc trưng vốn có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh gặp phải những khó khăn, họ sãn sàng chuyển hướng. Nhưng thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ tiềm lực để có thể dễ dàng thay đổi phương thức kinh doanh của mình. Do đó tín dụng ngân hàng luôn là cứu cánh cho doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư đổi mới công nghệ cũng như lĩnh vực kinh doanh. - Tín dụng ngân hàng giúp khôi phục và phát huy các ngành nghề truyền thống trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tín dụng ngân hàng sẽ là một hình thức hỗ trợ về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất, góp phần khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng, mẫu mã của những sản phẩm đặc biệt là những sản phẩm truyền thống của các làng nghề như: đồ kỹ nghệ, làm giấy, làm đồ gỗ… đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đem lại thu nhập, tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Những phân tích trên cho thấy tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp phát triển và ngược lại, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp ngân hàng hoàn thiện các hoạt động kinh doanh của mình. 1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, các NHTM cũng không ngừng đổi mới hoạt động của mình cho phù hợp với những điều kiện khác nhau của nền kinh tế. Cùng với sự đi lên của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, các hình thức tín dụng ngân hàng cũng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, đáp ứng những nhu cầu khác nhau về vay vốn. Tín dụng ngân hàng đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết, là động lực thúc đẩy quan trọng của từng doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngân hàng thương mại tùy theo các tiêu thức khác nhau mà có các hình thức cấp tín dụng khác nhau, chủ yếu là các loại sau: - Căn cứ vào thời hạn tín dụng, có 3 loại. + Tín dụng ngắn hạn : là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm (một số nước quy định dưới 2 năm) + Tín dụng trung hạn : là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm + Tín dụng dài hạn : là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm - Căn cứ vào đối tượng tín dụng, có 2 loại + Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. + Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. - Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, có 2 loại + Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa : là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. + Tín dụng tiêu dùng : là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: Mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa bền chắc như tủ lạnh, điều hòa, máy giặt …. - Căn cứ vào mức độ đảm bảo, có 2 loại + Tín dụng có đảm bảo : là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay + Tín dụng không có đảm bảo : là hình thức cấp tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đảm bảo cho khoản nợ vay. - Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng, có 2 loại + Tín dụng gián tiếp : là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính như NHTM hoặc tổ chức tín dụng khác + Tín dụng trực tiếp : là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc hàng hóa) với người cần sử dụng tiền (hoặc hàng hóa) đó, không cần phải thông qua một trung gian tài chính nào cả 1.2.4. Sự cần thiết phải hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không thể thiếu sự đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh hướng phát triển trọng tâm về các ngành công nghiệp mũi nhọn với những tổng công ty lớn, Nhà nước đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không chỉ vì chúng tiềm ẩn khả năng phát triển thành lớn mạnh mà còn vì vai trò quan trọng của chúng trong việc hỗ trợ cho sự đi lên của các doanh nghiệp lớn cũng như cho toàn bộ nền kinh tế. Ở Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến năm 2007 số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 55.913 đơn vị chiếm 93,6% trong tổng số 56.737 doanh nghiệp. Trong đó của khu vực kinh tế Nhà nước là 3.358 doanh nghiệp chiếm 64,2%, khu vực ngoài quốc doanh là 47.017 doanh nghiệp chiếm 95% và chiếm 33% trên tổng số 2.014 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy xét về số lượng, thì doanh nghiệp ở Việt Nam hầu hết có quy mô vừa và nhỏ chủ yếu nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tổng số vốn đăng ký sản xuất kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này chỉ có trên 52.000 tỷ đồng, bằng khoảng 30% của cả nước và chiếm 26% GDP. Số doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, khách sạn, du lịch… chiếm tỷ trọng lớn nhất 46,3%, tiếp đó là doanh nghiệp công nghiệp chiếm 24,9% mà tập trung chủ yếu ở Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Điều kiện đất nước ta hiện nay cho thấy, trọng tâm nhấn mạnh vào phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất phù hợp, nó sẽ là một chiến lược quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì lẽ đó mà một sự quan tâm hợp lý thể hiện qua những đường lối, chính sách đầu tư của Đảng và Nhà nước vào khu vực này là vô cùng cần thiết. Như đã phân tích ở phần trên, doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài một số lợi thế cạnh tranh nhất định, trong quá trình hoạt động và phát triển của mình cũng gặp phải không ít những khó khăn. Những khó khăn đó do rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là do thiếu vốn. Thiếu vốn khiến cho doanh nghiệp khó có thể mở rộng quy mô, không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiết bị, tiếp cận thông tin… dẫn đến năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh kém trên thị trường. Ngay cả khi chủ đầu tư đã có những ý tưởng, những dự án khả thi nhưng do năng lực tài chính bị hạn chế, chưa đủ độ tin cậy nên không thể thành lập doanh nghiệp hay kêu gọi các nguồn vốn đầu tư khác nhau. Trong khi đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong các bộ phận dân cư, các tổ chức kinh tế lại rất dồi dào. Chính vì thế, tín dụng ngân hàng sẽ là cứu cánh của doanh nghiệp, giúp họ giải quyết nhu cầu bức xúc về vốn để thành lập và phát triển. Với vai trò trung gian tài chính của mình, ngân hàng thương mại sẽ huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ trong xã hội tập trung lại đầu tư cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Theo kết quả của các tổ chức quốc tế tại Hội nghị cấp cao lần thứ II (tại Hà nội ngày 21/11/2000): tình trạng thiếu vốn chiếm 20% - 40% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù chiếm tới 97% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song tổng số vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào sản xuất kinh doanh chỉ bằng 30% của cả nước. Điều này phản ánh mức độ thu hút vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chưa cao và hầu hết đều gặp khó khăn thiếu vốn để sản xuất và mở rộng quy mô. Những số liệu gần đây của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy: 75% các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức vốn dưới 50 triệu đồng. Thiếu vốn nhưng lại rất khó vay vốn là một thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay chỉ có khoảng hơn 20% số doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng, còn đại đa số thường dựa vào thị trường tài chính, chọn giải pháp huy động vốn trong gia đình, họ hàng, người thân hoặc sử dụng tín dụng thương mại của đối tác kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập thì khả năng được vay vốn của ngân hàng lại càng khó khăn hơn, bởi lẽ các ngân hàng không dám mạnh dạn cho vay khi không biết rõ năng lực của họ thế nào. Mặt khác, theo quy định của luật pháp, ngân hàng chỉ được cho vay tối đa 70% giá trị của dự án, số còn lại doanh nghiệp phải sử dụng vốn tự có của mình để đầu tư hoặc có tài sản thế chấp cho ngân hàng số vốn còn thiếu. Thế nhưng với số vốn tự có và tài sản cố định ít ỏi của mình cộng với sự chưa rõ ràng, đồng bộ trong xác định quyền sử dụng đất, tài nguyên… đã khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gần như bế tắc trong việc tiếp cận nguồn._. vốn tín dụng. Đôi khi họ phải trả cho những chủ nợ không chính thức những khoản lãi suất cao hơn gấp 3 đến 6 lần lãi suất ngân hàng. Tất cả những phân tích trên đã chứng tỏ một điều: hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng là vô cùng cần thiết và phù hợp với quy luật chung, mà đặc biệt quan trọng là trong cơ chế thị trường, tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay. 1.2.5. Phát triển tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Là doanh nghiệp hoạt động trong ngành tài chính, ngân hàng cũng phải chịu rủi ro như các doanh nghiệp khác, thậm chí rủi ro hơn vì hàng hoá của họ là tiền. Chính vì vậy ngân hàng phải hạn chế thấp nhất rủi ro trong kinh doanh. Tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN không chỉ vì mục tiêu mở rộng doanh số mà còn phải tính đến hiệu quả và an toàn. Phát triển tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN là tăng dư nợ và quy mô khách hàng. Một số chỉ tiêu thường được sử dụng là tốc độ tăng trưởng khách hàng, vốn; tỷ trọng dư nợ cho vay DNVVN trên tổng dư nợ. Về hiệu quả thường sử dụng các chỉ tiêu liên quan đến chi phí và lãi thu được, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu. Cụ thể như sau: - Sự gia tăng số lượng khách hàng Thể hiện sự tăng lên số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng và thực hiện các món vay ngân hàng. Số lượng doanh nghiệp tăng thêm được so sánh với các năm trước đó để tính tốc độ tăng trưởng khách hàng theo công thức: Tốc độ tăng trưởng = (Số lượng DNVVNnăn n - Số lượng DNVVNnăm n-1 )*100 Số lượng DNVVNnămn-1 Nếu số lượng DNVVN năm n tăng so với năm n-1 sẽ có tốc độ tăng trưởng dương thể hiện số khách hàng đã tăng lên. - Dư nợ đối với DNVVN Dư nợ phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cho DNVVN vay trong cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế. Để đánh giá thường sử dụng một số chỉ tiêu sau: Tỷ trọng dư nợ = Dư nợ của DNVVN *100 Tổng dư nợ Tỷ lệ này phản ánh tỷ lệ dư nợ của DNVVN trong tổng dư nợ cho vay các loại hình doanh nghiệp và cá nhân khác. Nếu tỷ trọng dư nợ DNVVN lớn tức doanh số cho vay với loại hình doanh nghiệp chiếm phần lớn, chứng tỏ ngân hàng đã tích cực mở rộng cho vay với dư nợ lớn. Tốc độ tăng trưởng của dư nợ = Dư nợ DNVVNnăm n – Dư nợ DNVVNnăm n-1 Dư nợ DNVVNnăm n-1 *100 Tốc độ tăng trưởng của dư nợ phản ánh mức độ mở rộng của các khoản cho vay đối với DNVVN. Nếu so sánh với các năm trước và với các loại hình doanh nghiệp khác, tốc độ tăng trưởng dư nợ của DNVVN dương và có tốc độ tăng nhanh hơn có nghĩa là các khoản cho vay dương và có tốc độ tăng nhanh hơn có nghĩa là các khoản cho vay DNVVN được mở rộng với khối lượng tăng lên nhanh hàng năm. - Nợ quá hạn, nợ xấu Nợ xấu và nợ quá hạn được các ngân hàng rất quan tâm và tìm mọi cách để giải quyết. Nợ quá hạn, nợ xấu gồm các khoản nợ cần chú ý (quá hạn dưới 90 ngày); nợ dưới tiêu chuẩn (quá hạn từ 90 đến 180 ngày); nợ nghi ngờ (quá hạn từ 181 đến 360 ngày); nợ có khả năng mất vốn (quá hạn trên 360 ngày). Các khoản nợ làm giảm lợi nhuận và uy tín của ngân hàng. Nợ quá hạn, nợ xấu là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của các khoản cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn của DNVVN = Số dư nợ quá hạn của DNVVN *100 Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn thấp luôn là mong muốn của các ngân hàng. Nếu như tỷ lệ nợ quá hạn của DNVVN thấp so với các loại hình doanh nghiệp khác có thể có hai nguyên nhân: hoặc là doanh số cho vay DNVVN chiếm tỷ lệ nhỏ nên nợ quá hạn không đáng kể; hoặc DNVVN trả nợ đúng hạn. Cần kết hợp với một số chỉ tiêu khác mới cho nhận xét chính xác. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các ngân hàng thương mại. Khả năng mở rộng tín dụng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố cả từ phía môi trường bên ngoài tới nhân tố chủ quan ngân hàng và doanh nghiệp. 1.3.1. Nhân tố khách quan. Môi trường kinh tế: Tín dụng ngân hàng vốn là lĩnh vực nhạy cảm nhất của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mọi biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng cao, ổn định số lượng doanh nghiệp và nhu cầu vay vốn cũng tăng lên tương ứng. Sự lạc quan tin tưởng vào khả năng phát triển đã khiến cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư sản xuất, mở rộng quy mô, do đó nhu cầu về vốn trong thời kỳ này thường là rất lớn. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do năng lực tài chính thấp sẽ chịu sự tác động lớn nhất. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, phá sản, nhu cầu vay vốn sẽ giảm mạnh, quy mô tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp. Môi trường xã hội: Trình độ dân trí, thói quen đầu tư, phong tục tập quán, an toàn xã hội… cũng là nhân tố gây ảnh hưởng không nhỏ đến quy mô tín dụng ngân hàng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến các đối tượng tham gia quan hệ tín dụng, đến hình thức cấp tín dụng… Thực tế đã cho thấy, một xã hội an ninh trật tự sẽ an toàn cho hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất. Như vậy nhu cầu vay vốn tín dụng của ngân hàng sẽ tăng cao. Và sẽ là ngược lại với những nơi nào không đủ an toàn cho đầu tư. Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý trong kinh doanh là tổng hợp tất cả yếu tố pháp lý tác động đến hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường yếu tố pháp lý là điều kiện bảo đảm cho hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng thương mại dù được tự chủ trong kinh doanh nhưng vẫn phải tuân theo mọi quy định của Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định khác. Nhưng khi môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, đồng bộ thì nó lại kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng vói riêng. Ngược lại, những quy định những văn bản pháp luật đồng bộ sẽ tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Và đó là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó giúp cho hoạt động tín dụng có thể mở rộng một cách có hiệu quả. Ngoài ra còn phải kể đến các điều kiện về chính trị, văn hóa, quốc tế,… cũng có ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng đối với DNVVN ở các NHTM. Môi trường chính trị ổn định, sự hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN mở rộng sản xuất và như vậy sẽ là thuận lợi hơn cho việc mở rộng tín dụng của các NHTM. Và ngược lại, khi môi trường chính trị không ổn định, điều kiện về văn hóa, quốc tế khó khăn, không thuận lợi, các DNVVN không mở rộng được sản xuất, kéo theo sự thu hẹp của tín dụng đối với DNVVN. 1.3.2. Nhân tố chủ quan. Đây là những nhân tố gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng. Nó bao gồm các nhân tố xuất phát từ phía ngân hàng và từ chính bản thân doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ phía ngân hàng Gồm các nhân tố chịu sự chi phối tác động của ngân hàng như: chính sách tín dụng, quy trình tín dụng và thông tin tín dụng. - Chính sách tín dụng: Đây là những đường lối, chủ trương ngân hàng đặt ra đối với hoạt động kinh doanh tín dụng trong một thời kỳ nhất định. Nó gồm các yếu tố: giới hạn mức cho vay với khách hàng, thời hạn vay, lãi suất vay… Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ như hiện nay thì một chính sách tín dụng linh hoạt sẽ là hết sức quan trọng. Nó giúp ngân hàng đáp ứng được nhu cầu đa dạng về vốn của các loại hình doanh nghiệp. Từ đó thực hiện được thành công mục tiêu mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng. - Quy trình tín dụng: Các cán bộ tín dụng khi cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thực hiện đúng các bước của quy trình tín dụng. Tuy nhiên, không phải cứ nhất nhất một cách cứng nhắc mà cần có sự kết hợp linh hoạt nhịp nhàng với từng trường hợp, từng doanh nghiệp cụ thể. Nó không những giúp đảm bảo an toàn tín dụng mà còn giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng. Do vậy sẽ gây được cảm tình của khách hàng, làm tăng mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. - Thông tin tín dụng: Thông tin giữ một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Có được thông tin đầy đủ, chính xác thì sẽ làm cho chất lượng tín dụng được nâng cao do có thể kịp thời phát hiện và xử lý những vấn đề xấu mới nảy sinh. Hơn nữa, còn có thể phát hiện, dự đoán nhu cầu vay vốn của khách hàng để có được những chính sách tín dụng, chính sách huy động vốn cho phù hợp Ngoài ra, các nhân tố khác như: tình hình huy động vốn, mạng lưới chi nhánh, cơ sở vật chất, công tác tổ chức bộ máy ngân hàng… cũng có ảnh hưởng đến mục tiêu mở rộng tín dụng tại các ngân hàng. Từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ Trên thực tế, cho vay DNVVN phụ thuộc nhiều vào các nhân tố từ phía DNVVN. Ngân hàng sẽ muốn mở rộng tín dụng đối với DNVVN nếu xét thấy có nhu cầu. Tuy nhiên, cho dù các DNVVN có nhu cầu và bản thân ngân hàng rất muốn mở rộng tín dụng đối với khu vực này thì một vấn đề còn quan trọng hơn là liệu các doanh nghiệp có đáp ứng đủ tiêu chuẩn để ngân hàng cho vay hay chưa. Khi quyết định cho vay đối với DNVVN, ngân hàng thường xem xét các vấn đề sau: Về nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất: nếu nhu cầu lớn thì việc mở rộng tín dụng với đối tượng này là rất khả quan. Do vậy trong quá trình hoạt động ngân hàng không những cần phải tìm cách tiếp cận mà còn phải gợi mở nhu cầu đối với các DNVVN, có như vậy việc mở rộng dư nợ cho vay với đối tượng này mới có hiệu quả. Về năng lực của doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp có năng lực tốt, hiệu quả trong hoạt động thì sẽ luôn có nhu cầu vốn để không ngừng mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, do vậy việc mở rộng cấp vốn cho đối tượng này rất khả quan. Về quan hệ với ngân hàng: thường những DNVVN đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng thì việc mở rộng cho vay là dễ dàng hơn, còn với khách hàng mới thường đòi hỏi việc phân tích lâu dài và đôi khi không được kết quả như mong muốn nhưng không thể vì vậy mà không khai thác thêm khách hàng. Vì khách hàng mới là tiềm năng mới cho chính ngân hàng. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Đông Anh 2.1. Khái quát về Ngân hàng đầu tư & phát triển Đông Anh 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. Thuộc hệ thống NHĐT&PT, Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh được thành lập vào năm 1967 với tên gọi là Chi điếm 4 Đông Anh trực thuộc Ngân hàng kiến thiết Hà Nội, với số cán bộ ban đầu chỉ có 10 người. Chức năng của Chi điếm lúc này là thực hiện quản lý cấp phát và cho vay các công trình ở hai huyện Đông Anh và Sóc Sơn. Năm 1983 tách ra làm Chi nhánh Ngân hàng Đông Anh với tên gọi Phòng đầu tư và xây dựng Đông Anh và Chi nhánh Ngân hàng Sóc Sơn. Năm 1987 nhập về thành Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và xây dựng Đông Anh. Cho đến năm 1990 Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh trực thuộc NHĐT&PT Hà Nội, thực hiện các hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng với các nghiệp vụ cơ bản là: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngày 1/12/2006, Chi nhánh NHĐT& PT Đông Anh được nâng lên cấp 1 trực thuộc NHĐT&PT Việt Nam.Với đội ngũ nhân viên là 90 người (trong đó số người có trình độ cao học, đại học, cao đẳng chuyên ngành là 85%, trung cấp là15%, lứa tuổi trung bình là 35), sáu phòng chức năng (tín dụng, dịch vụ khách hàng, kế toán, nguồn vốn, thẩm định, ngân quỹ), bốn phòng giao dịch, một quỹ tiết kiệm huy động vốn, hoạt động chính trên hai địa bàn Đông Anh và Sóc Sơn, do vậy Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh đã khẳng định được vị trí của mình trên địa bàn. 2.1.2. Phạm vi, địa bàn và nội dung hoạt động của Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh. Là một huyện ngoại thành Hà Nội, với tổng diện tích đất tự nhiên là 18.201 ha, trong đó có 10.000 ha đất canh tác Đông Anh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Phát huy những tiềm năng sẵn có, hiện tại huyện đang xây dựng một cơ cấu công nông nghiệp, dịch vụ, du lịch khá hợp lý. Cơ sở hạ tầng toàn huyện và khu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Hệ thống giao thông phát triển đồng đều (cả đường bộ, đường sắt và thuận tiện nếu sử dụng đường hàng không thì rất gần sân bay quốc tế Nội Bài), hệ thống thông tin liên lạc khá hiện đại. Huyện có tốc độ đô thị hoá nhanh với số dân phi nông nghiệp trên 5 vạn người trên tổng số trên 24 vạn dân số của huyện. Theo quy hoạch chi tiết phát triển đô thị và công nghiệp của thành phố Hà nội thì cho đến năm 2020, 49% diện tích đất nông nghiệp của huyện sẽ được chuyển thành đất đô thị. Trên địa bàn huyện cũng được đầu tư xây dựng và củng cố thêm về cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp và đô thị. Đông Anh sẽ là một đô thị hiện đại trong tương lai. Do đó đây là một địa bàn hoạt động rất tiềm năng, số các khách hàng là tổ chức kinh tế sẽ tăng thêm rất nhiều, thêm vào đó là sự xuất hiện của các doanh nghiệp liên doanh hay 100% vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp. Mặt khác, cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của huyện, nhu cầu về các sản phẩm ngân hàng của các cá nhân trên địa bàn chắc chắn sẽ là rất lớn. Hoạt động trên một địa bàn tiềm năng như trên là một thuận lợi cho Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh, thế nhưng Chi nhánh cũng gặp phải không ít khó khăn mà trước tiên là sự cạnh tranh gắt gao trên thị trường tiền tệ tại địa bàn. Chỉ trong một diện tích không lớn 18.201ha mà có 3 Ngân hàng thương mại quốc doanh, 1 Ngân hàng thương mại cổ phần, 1 Chi nhánh kho bạc và quỹ tín dụng nhân dân cùng hoạt động trên địa bàn. Vì vậy để thu hút được khách hàng, Chi nhánh đã chú ý quan tâm và cố gắng tạo sự khác biệt trong nội dung hoạt động của mình. Là một ngân hàng thương mại quốc doanh, Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan như kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung: nhận tiền gửi, sử dụng tiền để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán, theo đúng định hướng chỉ đạo điều hành của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Theo xu hướng phát triển chung, Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh cũng tiến tới trở thành một ngân hàng đa doanh, tuy nhiên Chi nhánh vẫn tạo ra sự khác biệt cho mình bằng cách phát huy các nội dung thế mạnh từ trước đến nay: là ngân hàng phục vụ cho các doanh nghiệp xây dựng cơ bản tốt nhất và nhanh chóng tiến hành triển khai các nghiệp vụ mới như thanh toán quốc tế, đại lý chuyển tiền nhanh hay cung cấp thẻ rút tiền tự động ATM. 2.1.3. Tình hình hoạt động của chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh trong ba năm trở lại đây 2.1.3.1. Công tác huy động vốn Để thấy được tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Anh trong 3 năm gần đây (2005 - 2007) ta xem xét bảng số liệu sau: Bảng1: Kết quả huy động vốn trong 3 năm gần đây của Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2006/2005 2007/2006 Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % I. Phân loại theo kỳ hạn 1. Tiền gửi thanh toán 93.860 42,36 93.370 36,53 118.559 33,97 1,05 1,21 2. Tiền gửi < 12 tháng 88.822 40,08 121.833 45,24 143.224 41,04 1,37 1,18 3. Tiền gửi > 12 tháng 38.918 17,56 49.100 18,23 87.197 24,99 1,26 1,78 II. Phân loại theo nội tệ 1. Nội Tệ 158.396 71,48 198.482 73,7 260.738 74,71 1,25 1,31 2. Ngoại tệ quy đổi 63.204 28,52 70.821 26,3 88.242 25,29 1,12 1,25 III. Tổng nguồn 221.600 100 269.303 100 348.98 100 1,22 1,30 (Nguồn số liệu: Báo cáo nguồn vốn thời điểm 31/12 các năm 2005, 2006,2007) Qua bảng trên ta thấy, tình hình huy động vốn của Ngân hàng có sự tăng trưởng vững chắc qua các năm với những tín hiệu đáng mừng về vốn có kỳ hạn. Điều này cho thấy khả năng huy động vốn của chi nhánh ngày càng được nâng cao về cả số lượng cũng như chất lượng. Cụ thể: Năm 2005 Tổng nguồn vốn đạt 221.600 triệu đồng trong đó 57,64% là tiền gửi có kỳ hạn, còn lại 40,08% là tiền gửi thanh toán. Những con số này thể hiện được sự cố gắng của chi nhánh trong công tác huy động vốn. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng khá lớn là một khoản vốn rẻ, tuy nhiên tính ổn định của chúng không được cao sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc sử dụng vốn. Huy động bằng VND là chủ yếu với 158.396 triệu đồng chiếm 71,48%, giá trị ngoại tệ quy đổi đạt 63.204 triệu đồng phần lớn là bằng USD. Khả năng thu hút vốn tốt đã đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư của chi nhánh trong năm, không gây áp lực lên nguồn vốn. Năm 2006 Tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 269.303 triệu đồng tăng 22% so với năm 2005 (tăng từ 221.600 triệu đồng lên 269.303 triệu đồng). Sự tăng trưởng này cho thấy, phương pháp và cách thức thu hút vốn của chi nhánh đang ngày càng phù hợp với thị hiếu của nhân dân. Trong đó có sự tăng lên đáng kể của nguồn vốn có kỳ hạn ( từ 127.740 triệu đồng lên 170.933 triệu đồng ): tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng 37%; trên 12 tháng tăng 1,26%. Tổng tiền gửi thanh toán cũng vẫn tăng về số lượng nhưng tỷ trọng trong nguồn vốn đã giảm. Chứng tỏ trong năm chi nhánh đã chủ động hơn trong công tác huy động, chú trọng vào những nguồn vốn có tính chất ổn định, lâu dài. Tính chủ động về vốn đã được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ không nhanh bằng của nội tệ dẫn đến tỷ trọng trong tổng nguồn đã giảm (từ 28,52% năm 2005 xuống còn 26,3% năm 2006). Năm 2007 Kết quả đạt được của ngân hàng năm 2007 là rất đáng biểu dương, tổng nguồn huy động đã tăng 79.667 triệu đồng so với năm trước (từ 296.303 triệu đồng lên 348.980 triệu đồng ), tốc độ tăng trưởng đạt 30%. Tỷ trọng của tiền gửi thanh toán giảm xuống còn 33,97% mặc dù vẫn có sự tăng mạnh về số tuyệt đối (từ 98.370 triệu đồng năm 2005 lên 118.559 triệu đồng năm 2006). Nguyên nhân chính là do tốc độ tăng của tiền gửi trung dài hạn quá nhanh, lên tới 78% khiến cho tỷ trọng của chúng tăng lên 24,99%. Có được kết quả này là do trong năm, Ngân hàng đã chủ động thu hút vốn dài hạn bằng cách phát hành trái phiếu và khuyến khích nhân dân gửi tiền dài hạn. Về cơ cấu tiền gửi, ngoại tệ vẫn chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm. Những thành tích trên đã cho thấy sự cố gắng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Anh trong công tác huy động vốn. Nguồn vốn huy động của chi nhánh đã tăng trưởng liên tục với tốc độ nhanh và vững chắc. Với một huyện ngoại thành không lớn như Đông Anh, việc đạt được những kết quả như vậy thật không dễ dàng. Nó cho thấy một hướng đi đúng dắn của ngân hàng góp phần thực hiện phương châm “ an toàn trong tăng trưởng”. 2.1.3.2 Về tình hình sử dụng vốn. Song song với nghiệp vụ nguồn vốn thì nghiệp vụ sử dụng vốn có một vai trò quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhận thức được rõ vấn đề trên, trong những năm qua, chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh đã hết sức quan tâm đến công tác sử dụng vốn, đặc biệt là hoạt động tín dụng luôn luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Với những nỗ lực không ngừng, hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh đã không ngừng được mở rộng,và được thể hiện qua bảng tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng như sau: Bảng2: Tổng Dư nợ thời điểm 31/12 của Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2006/2005 2007/2006 Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % I. Theo kỳ hạn 1. Ngắn hạn 310.657 79,4 353.213 79,6 441.921 81,5 1,14 1,25 2. Trung dài hạn 80.678 20,6 90.730 20,4 100.188 18,5 1,12 1,10 II. Theo đối tượng 1. Doanh nghiệp 385.641 98,5 437.553 98,6 535.012 98,7 1,13 1,22 2. Cá nhân 5.694 1,5 6.234 1,4 7.097 1,3 1,09 1,14 III. Theo loại tiền tệ 1. VNĐ 341.445 87,3 395.663 89,2 490.044 90,4 1,16 1,24 2. USD 42.890 12,7 48.124 10,8 53.065 9,6 1,12 1,10 Tổng dư nợ tín dụng 391.335 100 443.787 100 542.109 100 1,13 1,22 (Nguồn số liệu: Báo cáo dư nợ các năm 2005,2006,2007- Phòng tín dụng) Bảng3: Nợ quá hạn của Chi nhánh trong các năm 2005, 2006, 2007 Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Nợ quá hạn 2.302 2.017 1.518 Tổng dư nợ cho vay 391.335 443.787 542.109 Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ 0,59% 0,45% 0,28% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2005, 2006, 2007 - Phòng tín dụng) Kết quả chi nhánh đạt được: Tổng dư nợ tín dụng tăng đều qua các năm với tốc độ ngày càng cao, từ 391.335 triệu đồng năm 2005 lên tới 443.787 triệu đồng năm 2006 và đến năm 2007 con số này đã là 542.109 triệu đồng, với mức tăng trưởng 13% trong năm 2006, đặc biệt năm 2007 đã đạt tới 22%. Đây là một kết quả rất đáng biểu dương nhất là khi tốc độ tăng bình quân của toàn ngành NHĐT&PT chỉ có 11% và so với mức 14% của cả nước. Trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng luôn nằm ở mức thấp (0,59% năm 2005; 0,45% năm 2006 và đến năm 2007 chỉ là 0,28%). Chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của chi nhánh trong những năm gần đây là rất tốt. Nếu xét trên cơ cấu tổng dư nợ, có thể dễ dàng nhận thấy, khách hàng chủ yếu của chi nhánh là các doanh nghiệp với tỷ trọng trên 98%. Do trên địa bàn tồn tại chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên nhu cầu vay vốn lưu động chiếm phần lớn, dẫn tới dư nợ ngắn hạn luôn ở mức 79% - 80%, nhu cầu vay vốn trung dài hạn tài trợ tài sản cố định chưa cao. Những khoản vay vốn của cá nhân ở chi nhánh không nhiều. Phần lớn các khoản tín dụng (khoảng 90%) được ngân hàng giải ngân bằng nội tệ, chỉ một số ít các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, liên doanh có nhu cầu vay USD và thường là để thanh toán cho L/C nhập khẩu của mình và một số dự án vay bằng USD. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và cũng còn gặp nhiều hạn chế, tồn tại nhưng cũng có thể khẳng định hoạt động tín dụng của chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh trong những năm qua đang được nâng lên xét về cả quy mô và chất lượng, ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong khu vực. Để đánh giá khái quát hoạt động của ngân hàng ta sử dụng chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng vốn = Doanh số huy động Doanh số cho vay Trên cơ sở đó ta có bảng sau: Bảng 4: Cân đối nguồn huy động và cho vay năm 2005-2007 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Tổng nguồn vốn huy động 221.600 269.303 348.980 Tổng dư nợ cho vay 391.335 443.787 542.109 Tỷ lệ huy động/ tổng dư nợ 56,63% 60,68% 64,37% (Nguồn: Báo cáo nguồn vốn và dư nợ 2005-2007-Phòng nguồn vốn) Qua bảng số liệu trên có thể thấy nguồn vốn huy động của Chi nhánh vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, thường chỉ thoả mãn 50 đến 60% dư nợ của Chi nhánh. Số thiếu hụt còn lại là vốn điều hoà nhận từ NHĐT&PT Hà Nội và NHĐT&PT Việt Nam. Trong ba năm gần đây, tỷ lệ này lại có xu hướng tăng lên mà nguyên nhân chính là do sự tăng nhanh của nhu cầu vay dù tỷ trọng vốn tự huy động tại chỗ trên tổng dư nợ có tăng lên. 2.1.3.3. Hoạt động nghiệp vụ khác Bên cạnh nghiệp vụ kinh doanh tín dụng truyền thống, NHĐT&PT Đông Anh còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng như: hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, bảo lãnh, thanh toán quốc tế… nhằm đem lại thu nhập cho ngân hàng, đa dạng hoá hình thức tài trợ tín dụng cho nền kinh tế, nâng cao tiện ích và thu hút khách hàng. - Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt : chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn thu từ phí dịch vụ và được khách hàng đánh giá cao bởi tính chính xác, nhanh chóng, an toàn, thuận tiện. Gồm các phạm vi: Thanh toán bù trừ, Thanh toán tập trung, Thanh toán điện tử… Chỉ tính riêng trong năm 2007, Chi nhánh đã làm trung gian thanh toán cho các khách hàng của mình với quy mô tiền chu chuyển lớn.Tổng số phí thanh trong nước thu được trong năm 2007 là 214 triệu đồng, chiếm 21.66% số phí thu được từ hoạt động dịch vụ. Do đó phát triển hoạt động trung gian thanh toán tại Chi nhánh không những làm tăng cường hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế mà còn góp phần tăng trưởng phí dịch vụ của ngân hàng, chuyển đổi dần dần cơ cấu phí dịch vụ trong tổng doanh thu của Chi nhánh. - Hoạt động bảo lãnh gồm nhiều hình thức bảo lãnh khác nhau, nhưng phổ biến là: Bảo lãnh thanh toán, Bảo lãnh dự thầu, Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Bảo lãnh chất lượng sản phẩm… Cụ thể: chỉ tính trong năm 2007, Chi nhánh đã thực hiện 869 món bảo lãnh, với tổng số tiền bảo lãnh lên tới 83.643 triệu đồng. Phí thu được từ hoạt động này là 622 triệu đồng, chiếm 63% so với tổng phí dịch vụ, tăng 195% so với năm 2006. Chi nhánh cũng đã áp dụng nhiều biện pháp cải tiến các thủ tục bảo lãnh để khách hàng thực hiện việc giao dịch được thuận tiện, nhanh chóng. - Thanh toán quốc tế và thu đổi ngoại tệ chủ yếu tập trung vào việc thu đổi ngoại tệ với hai đồng ngoại tệ mạnh là USD và EUR. Trong năm 2007, Chi nhánh có doanh số thu ngoại tệ là 10.767 ngàn USD, tăng 48% so với năm 2006. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế mới được triển khai tại Chi nhánh từ tháng 7 năm 2005 với các nghiệp vụ chủ yếu là: Nghiệp vụ phát hành và thanh toán L/C hàng nhập, Nghiệp vụ nhận và xử lý bộ chứng từ nhờ thu hàng nhập, Kiểm tra hồ sơ giao dịch chuyển tiền đi…Tuy nhiên kết quả đạt được là rất khả quan : có tổng số là 33 nghiệp vụ, trong đó thanh toán L/C hàng nhập là 23, thanh toán nhờ thu là 6, chuyển tiền là 4, với tổng trị giá là 1.942.445 USD và 379 EUR, số tiền thu phí lên tới 65 triệu đồng, chiếm khoảng 20% phí dịch vụ thu được trong cùng thời gian đó. Và tính đến 31/12/2005, đã có 34 L/C được mở với số tiền là 2,5 triệu USD, số phí thu được là 152 triệu đồng, chiếm 15,4% số phí dịch vụ thu được trong cả năm 2005. Sự thành công không những thể hiện ở những con số cụ thể như giá trị thanh toán, số lượng, phí dịch vụ…mà còn thể hiện ở tính đa dạng và phong phú về các loại hình nghiệp vụ 2.1.3.4 Kết quả doanh thu. Bảng 5: Một số kết quả hoạt động của chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh trong 3 năm gần đây Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêau Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2006/2005 2007/2006 Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % I. Thu lãi từ cho vay 24.079 98,3 27.555 98,2 32.090 97 1,14 1,16 1. Ngắn hạn 22.060 91,6 24.821 90,1 28.310 88,2 1,13 1,14 2. Trung dài hạn 2.019 8,4 2.734 9,9 3.780 11,8 1,35 1,38 II. Thu từ hoạt động dịch vụ 425 1,7 531 1,8 988 3 1,07 1,11 Tổng doanh thu 24.504 100 28.086 100 33.078 100 1,13 1,15 (Nguồn: Báo cáo kế toán các năm 2005, 2006, 2007- Phòng kế toán) Số liệu trên đã cho thấy sự tăng trưởng ổn định trong doanh thu của Ngân hàng với tốc độ từ 13% - 15%/năm. Nó cũng phù hợp với tình hình huy động và sử dụng vốn của chi nhánh trong 3 năm vừa qua. Trong đó nguồn thu từ lãi cho vay luôn chiếm tỷ trọng cao (gần 98%), chứng tỏ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phụ thuộc nhiều vào công tác tín dụng. Tương ứng với cơ cấu tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, lãi thu được từ tín dụng ngắn hạn chiếm đến gần 90% so với tổng doanh thu. Như tình trạng chung của hầu hết các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, nguồn thu từ dịch vụ phí chiếm tỷ trọng không lớn nhưng cũng đang phát triển với tốc độ cao (trên dưới 10%/năm), đã thể hiện một sự cố gắng nhiều của chi nhánh ngân hàng. Có thể thấy, hoạt động của ngân hàng trong 3 năm trở lại đây là rất ổn định, với một mức tăng trưởng khá và đều qua các năm, thị phần ngày càng gia tăng, đời sống của cán bộ công nhân viên Ngân hàng đang ngày càng được cải thiện. Điều đó chứng tỏ một hướng đi đúng đắn của chi nhánh trong thời kỳ mới. 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Đông Anh 2.2.1. Tình hình tăng trưởng dư nợ đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Để có được những đánh giá chính xác, ta xem xét bảng số liệu sau: Bảng 6: Tình hình tăng trưởng dư nợ đối với DNVVN tại NHĐT&PT Đông Anh Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 Tổng dư nợ tín dụng 391.355 443.787 542.109 1,134 1,221 Tổng dư nợ đối với DNVVN 281.278 337.009 407.816 1,198 1,210 Tỷ lệ Dư nợ DNVVN/ Tổng dư nợ 71,87 % 75,94 % 75,23% 1,056 0,991 (Nguồn: Báo cáo tín dụng thường niên các năm 2005,2006,2007) Nhìn vào bảng tổng kết ta thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có dư nợ tín dụng chỉ trên dưới 75% của tổng dư nợ toàn chi nhánh. Điều này cũng là dễ hiểu bởi giá trị các khoản vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không lớn dù có số lần giao dịch rất lớn. Doanh số cho vay ra của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tăng dần qua các năm với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm. Chỉ trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, tổng dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng 150.754 trđ tức là khoảng gấp 1,5 lần. Chứng tỏ Ngân hàng đang ngày càng mở rộng được thị phần của mình ra khối doanh nghiệp này, các doanh nghiệp đặt quan hệ tín dụng với chi nhánh ngày một đông làm cho doanh số cho vay tăng mạnh. 2.2.2. Cơ cấu dư nợ đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Để nghiên cứu cụ thể hơn dư nợ đối với DNVVN tại chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh, ta xét trên 3 mặt sau: 2.2.2.1. Cơ cấu theo thời hạn Bảng 7 : Cơ cấu dư nợ theo thời hạn đối với DNVVN tại NHĐT&PT Đông Anh Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tương đối % Số tương đối % Số tương đối % Tổng dư nợ đối với DNVVN 281.278 100 337.009 100 407.816 100 Dư nợ Cho vay ngắn hạn 236.099 83,94 282.571 83,85 344.698 84,53 Dư nợ cho vay trung, dài hạn 45.179 16,06 54.438 16,15 63.118 15,47 (Nguồn: Báo cáo tín dụng thường niên các năm 2005,2006,2007) Theo bảng trên, ta thấy, đặc điểm về nguồn vốn của Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã kéo theo dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn (khoảng trên dưới 83% đến 84%), đây đa phần là các khoản vay vốn lưu động theo hạn mức mà Ngân hàng và doanh nghiệp đã ký kết vào đầu mỗi kỳ kinh doanh. Các khoản vay theo món, có kỳ hạn dài chiếm tỷ trọng rất thấp chỉ vào khoảng 16% tổng dư nợ đối với DNVVN. Trong những năm gần đây, các khoản tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng đang có xu hướng tăng lên về số tuyệt đối (Năm 2006 tăng 9.259 triệu đồng so với năm 2005, năm 2007 tăng 8.680 triệu đồng so với năm 2006) tuy nhiên tỷ trọng lại không được nâng lên (năm 2006 tăng 0.09%, năm 2007 giảm 0.68%). Nguyên nhân dẫn đến sự tăng chậm này phần lớn nằm từ phía các doanh nghiệp, họ chưa chú trọng nhiều đến việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, hoặc các dự án lập ra chưa đủ tính khả thi, chưa đủ điều kiện đảm bảo để Ngân hàng tin tưởng. 2.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7898.doc
Tài liệu liên quan