Giải pháp phát triển thương mại điện tử tại Công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam

Tài liệu Giải pháp phát triển thương mại điện tử tại Công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam: MỤC LỤC Nhận xét của cán bộ tại cơ sở thực tập Danh mục các chữ viết tắt TMĐT: Thương mại điện tử DN: Doanh nghiệp TNHH: Trách nhiệm hữu hạn DLDV: Du lịch dịch vụ CĐĐS: Công đoàn đường sắt WTO: Tổ chức thương mại thế giới CNTT: Công nghệ thông tin UNCITRAL: Ủy ban Liên hợp quốc về luật Thương mại Quốc tế Danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ H1. Trang chủ website www.viratour.com.vn…………………………Trang 33 H2. Trang Tin tức du lịch của website www.viratour.com.vn…………Trang 35 H3. Trang Chươ... Ebook Giải pháp phát triển thương mại điện tử tại Công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển thương mại điện tử tại Công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trình du lịch nội địa của website www.viratour.com.vn………………………………………………………Trang 36 H4. Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Du lịch Dịch vụ Công Đoàn Đường sắt Việt Nam trong vòng ba năm trở lại đây……Trang 43 H5. Sự tăng giảm doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo từng năm (từ năm 2005 đến năm 2007) của doanh nghiệp…………………………………Trang 44 Mở đầu Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với tự do hóa thương mại sẽ được đẩy mạnh, đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Song, bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, nhất là sức ép đối với một đất nước kém phát triển như đất nước ta. Sự cạnh tranh diễn ra trong các ngành thương mại, dịch vụ, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư và công nghệ ngày càng trở nên gay gắt. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh: đẩy nhanh tốc độ kinh doanh, giảm thiểu chi phí, khắc phục được các trở ngại về không gian và thời gian… mà đây lại chính là những điểm mạnh của thương mại điện tử. Như vậy có thể thấy, việc ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động của các doanh nghiệp là một tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Ngày càng nhiều doanh nghiệp nhận thấy thương mại điện tử là một phương thức giúp cho doanh nghiệp mình nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, việc ứng dụng thương mại điện tử ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào mức độ nhận thức, trình độ nhân lực, đặc điểm kinh doanh, hạ tầng công nghệ của doanh nghiệp đó… Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam, em nhận thấy vấn đề phát triển thương mại điện tử ở đây còn có những tồn tại: Mặc dù phương thức kinh doanh thương mại điện tử đã được doanh nghiệp áp dụng nhưng chưa triệt để. Doanh nghiệp mới chỉ xây dựng được website nhằm mục đích giới thiệu về doanh nghiệp mình cùng các sản phẩm dịch vụ doanh nghiệp đang kinh doanh mà khách hàng chưa thể đặt hàng qua website. Việc tham gia các sàn giao dịch điện tử, đào tạo thêm nguồn nhân lực hoặc thiết lập phòng ban riêng về thương mại điện tử cũng chưa được doanh nghiệp quan tâm đến. Do vậy trong những năm vừa qua, mặc dù công ty luôn kinh doanh có lãi nhưng hiệu quả kinh doanh đạt được chưa cao, lợi nhuận thu về chưa tương xứng với tổng mức chi phí mà doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động kinh doanh của mình. Với mong muốn đóng góp ý kiến, góp phần vào sự phát triển của phương thức kinh doanh thương mại điện tử ở Việt Nam nói chung và ở công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam nói riêng, em đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển TMĐT tại công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Đề tài được trình bày làm ba chương, với nội dung như sau: Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Chương II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI CÔNG TY TNHH DU LỊCH DỊCH VỤ CÔNG ĐOÀN ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM Chương III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI CÔNG TY TNHH DU LỊCH DỊCH VỤ CÔNG ĐOÀN ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Quan niệm về thương mại điện tử Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về TMĐT nhưng tựu trung lại có hai quan điểm lớn trên thế giới xin được nêu ra dưới đây: Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về TMĐT của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT sau: Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản (text), âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục ) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). Tóm lại, theo nghĩa rộng thì TMĐT có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng. Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế đưa ra các khái niệm về thương mại điện tử theo hướng này. TMĐT được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang Web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng TMĐT đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người. Theo WTO: Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet. Khái niệm về TMĐT do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc đưa ra là: Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet. Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa hẹp TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex... Qua nghiên cứu các khái niệm về TMĐT như trên, hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Theo nghĩa hẹp thì TMĐT chỉ mới tồn tại được vài năm nay nhưng đã đạt được những kết quả rất đáng quan tâm, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hàng trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử. 1.2. Lợi ích của thương mại điện tử đối với doanh nghiệp Thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng nhân rộng trên phạm vi thế giới. Cho dù các nguồn nghiên cứu khác nhau đưa ra những con số chênh lệch khá lớn về ước tính về giá trị TMĐT toàn cầu, những con số này vẫn cho thấy một tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức 60-70%. Thương mại điện tử không chỉ giải quyết những yêu cầu cấp thiết, cấp bách trên các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hàng hoá, điện tử hoá tiền tệ và phương án an toàn thông tin..., mà hoạt động thực tế của nó còn tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình phát triển của thương mại truyền thống không thể nào sánh kịp. Thương mại điện tử trong khái niệm TMĐT được hiểu là mọi vấn đề nảy sinh từ các mối quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm: việc cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá - dịch vụ, thoả thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, uỷ thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng công trình, tư vấn, hợp tác về công nghiệp, về chuyên chở bằng đường biển, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, áp dụng phương thức TMĐT có khả năng giải quyết được mọi vấn đề có liên quan đến thương mại mà để thực hiện nó cần có sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông. Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử nhằm mang tới những đột phá lớn về hiệu quả và tăng khả năng hội nhập của DN trên cả thị trường trong và ngoài nước. Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử sẽ giảm bớt các rào cản đối với việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, giúp cho DN có khả năng tiếp nhận các dịch vụ này một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Nó cũng sẽ giúp cho các quốc gia, các DN ( nhất là DN vừa và nhỏ) có thể kết nối, giao dịch với các đối tác trên phạm vi toàn cầu và chủ động với hoạt động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Thông qua phương thức kinh doanh TMĐT, DN có thể quảng cáo trực tuyến tới khách hàng tiềm năng ở khắp mọi nơi trên thế giới trong khi nếu sử dụng các phương tiện quảng cáo truyền thống thì họ không thể tiến hành được. Thực hiện phương thức kinh doanh TMĐT tức là tạo được sự kết nối và mối quan hệ chặt chẽ giữa Chính phủ, DN và người tiêu dùng trong việc mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Chính vì vậy, áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT có tầm quan trọng đặc biệt và khác hẳn so với việc áp dụng các phương thức kinh doanh khác trên thị trường. Cụ thể là: Ứng dụng và phát triển TMĐT sẽ giúp các quốc gia nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp hiện đại, tạo ra diện mạo mới, làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia. Trên thực tế, áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT không chỉ là một cuộc cải cách các phương thức kinh doanh mà thực chất là một cuộc đổi mới về cơ cấu và phương thức vận động của nền kinh tế. Đây là phương thức kinh doanh mà mọi hoạt động có liên quan đến thương mại đều được đưa lên mạng, mở rộng cơ hội mua bán hàng hoá và dịch vụ, hạ thấp chi phí, nâng cao hiệu quả giao dịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của các quốc gia cũng như của DN trên thị trường toàn cầu. Theo phương thức kinh doanh TMĐT, khoảng cách giữa người bán với người mua, giữa người sản xuất với người tiêu dùng được thu hẹp rất nhiều. Người sản xuất, người bán hàng có thể giới thiệu hàng hoá của mình trên mạng, người mua có thể nhìn thấy sản phẩm, biết được đặc tính của sản phẩm. Với phương thức kinh doanh bán hàng này, người sản xuất và người bán hàng cùng có lợi. Người sản xuất không cần kho chứa hàng, người bán hàng không cần có cửa hàng và hàng hoá được quản lý một cách có hiệu quả hơn. Đây là xu thế phát triển dễ hiểu của thương mại quốc tế vì khi hoạt động thương mại quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sôi động và với cường độ ngày càng lớn thì đòi hỏi người ta phải tiết kiệm thời gian cũng như chi phí. Sự ra đời và phát triển của TMĐT đã làm giảm đáng kể chi phí lao động của toàn xã hội Áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT giúp DN nắm được các thông tin thị trường một cách đầy đủ, phong phú và từ đó có thể xây dựng được cho mình một chiến lược sản xuất – kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Điều này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các DN vừa và nhỏ, một lực lượng có vai trò như động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Kinh doanh theo phương thức TMĐT giúp DN giảm được chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ, có diện tích nhỏ, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm đi rất nhiều so với giao dịch trực tiếp. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ và họ có thể tập trung vào hoạt động nghiên cứu phát triển nhằm đưa đến lợi ích to lớn và lâu dài cho DN và cho toàn xã hội. Áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT giúp DN có thể giảm chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng các phương tiện hiện đại (Internet/Web), một nhân viên bán hàng có thể cùng một lúc giao dịch được với nhiều khách hàng, một trang Web của DN có thể giới thiệu đến nhiều khách hàng nhiều thông tin về DN, nhiều thông tin về các sản phẩm của DN làm phong phú thêm điều kiện lựa chọn của khách hàng. Áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT (qua Internet/Web), giúp cho DN và người tiêu dùng giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch vì thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng 0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện; chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10 – 20% so với chi phí thanh toán bằng các phương tiện thông thường khác. Việc giảm thời gian và chi phí giao dịch là hai yếu tố cơ bản làm cho hàng hoá, dịch vụ nhanh chóng tiếp cận người tiêu dùng mà không phải qua trung gian. Đây là vấn đề hết sức quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ khi đưa ra thị trường. Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông, việc áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT sẽ làm tăng thêm khả năng cạnh tranh cho DN. Internet có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và công ty nhỏ, kể cả các DN tư nhân và cá nhân người sản xuất. Vì đây là sân chơi bình đẳng nên các DN dù nhỏ nhưng thông qua Website của mình họ cũng có thể đạt được một doanh thu lớn mà điều này là khó có thể có trong việc áp dụng các phương thức kinh doanh truyền thống. Mặt khác, khi áp dụng phương thức TMĐT, doanh nghiệp có thể đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và cung cấp các dịch vụ tư vấn cũng như các thông tin cần thiết cho khách hàng một cách nhanh chóng nhất. Áp dụng phương thức TMĐT sẽ tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố quan hệ giữa các đối tác tham gia vào quá trình thương mại. Thông qua mạng, các DN có thể giao dịch trực tiếp và liên tục với nhau, hàng hoá có thể được cung cấp đến người tiêu dùng cuối cùng mà không phải qua các khâu trung gian. Mặt khác, thông qua Internet, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới dễ dàng được phát hiện nhanh chóng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn được mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT sẽ giúp cho các DN sớm tiếp cận với kinh tế số hoá, tạo cho các nước đang phát triển một bước tiến nhảy vọt để theo kịp các nước khác trong thời gian ngắn nhất. Trong điều kiện hội nhập WTO của nước ta hiện nay, việc thiếu các phương tiện kỹ thuật đủ mạnh và lực lượng cán bộ đủ năng lực đang là khó khăn lớn để các DN thực hiện hiệu quả phương thức kinh doanh thương mại hiện đại này. Tóm lại, đối với các DN, lợi ích lớn nhất mà TMĐT mang lại cho họ chính là sự tiết kiệm chi phí và sự thuận lợi của các bên khi tham gia giao dịch. Giao dịch bằng phương tiện điện tử nhanh hơn so với giao dịch truyền thống, ví dụ: gửi fax hay thư điện tử thì nội dung thông tin đến tay người nhận nhanh hơn là gửi thư theo đường bưu điện. Các giao dịch qua Internet có chi phí rất rẻ, một DN có thể gửi thư tiếp thị, chào hàng đến hàng loạt các khách hàng với mức chi phí bỏ ra chỉ bằng chi phí đối với một khách hàng. Với TMĐT, các bên có thể tiến hành giao dịch khi ở cách xa nhau, giữa thành phố với nông thôn, từ nước này sang nước kia, hay nói cách khác là không bị giới hạn bởi không gian địa lý. Điều này cho phép các DN tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí tiếp thị, chi phí bán hàng và chi phí giao dịch. Bên cạnh đó, DN có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, liên lạc với đối tác và khách hàng ở bất kỳ đâu với chi phí thấp hơn so với phương thức tiếp cận thị trường truyền thống. Những lợi ích này chỉ có được với những DN thực sự nhận thức được giá trị của TMĐT. 1.3. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử 1.3.1. Môi trường pháp lý và chính sách Thương mại điện tử là một loại hình hoạt động xã hội mới, gắn liền với hạ tầng công nghệ, do vậy phải có một khung pháp lý điều chỉnh thích hợp. Tuy nhiên, việc ban hành đầy đủ các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này là công việc không hề đơn giản, đòi hỏi sự nghiên cứu và quan sát từ chính quá trình tham gia TMĐT. Cơ sở pháp lý của TMĐT bao gồm hàng loạt các vấn đề như các đạo luật và chính sách về TMĐT. Để thương mại điện tử phát triển, hệ thống pháp luật của quốc gia phải từng bước hoàn chỉnh để bảo đảm tính pháp lý của các giao dịch TMĐT, của hợp đồng và các chứng từ điện tử. Hạ tầng cơ sở pháp lý của TMĐT còn góp phần đảm bảo tính pháp lý của sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, bảo đảm các bí mật cá nhân của người tham gia giao dịch thương mại điện tử. Hạ tầng cơ sở pháp lý của TMĐT cũng bao gồm các vấn đề xử lý các hành vi phá hoại, những hành vi cản trở hoặc gây thiệt hại cho hoạt động TMĐT ở phạm vi quốc gia và quốc tế. 1.3.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội Hạ tầng cơ sở của TMĐT là một tổng hoà nhiều vấn đề có liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trong đó hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của TMĐT. Hạ tầng kinh tế - xã hội của TMĐT có thể hiểu là toàn bộ các nhân tố, các điều kiện cơ bản về kinh tế - xã hội nhằm tạo ra môi trường cho sự hình thành và phát triển của TMĐT. Quá trình thực hiện hoạt động TMĐT trước hết là quá trình con người sử dụng hệ thống các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế để thực hiện các hành vi thương mại. Đối với TMĐT, một khi các hạ tầng cơ sở kinh tế chưa có hoặc không đầy đủ thì không thể thực hiện được các nội dung của TMĐT. Để thương mại điện tử thực sự đi vào đời sống cần phải có sự nhận thức sâu sắc của chính phủ, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược và toàn xã hội về cơ hội phát triển và những lợi ích mà nó mang lại. Chính phủ phải nhận thức được cơ hội và lợi ích của TMĐT để thiết lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp lý cho TMĐT. Các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược nhận thức được cơ hội và lợi ích của TMĐT để vạch chiến lược phát triển và đề ra giải pháp thích hợp. Từ chiến lược và giải pháp đó mà có kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, có chính sách phát triển. Toàn xã hội nhận thức được cơ hội và lợi ích của TMĐT để tham gia vào hoạt động thương mại điện tử với tư cách là những chủ thể của quá trình. 1.3.3. Hạ tầng cơ sở nguồn nhân lực Để có thể phát triển được TMĐT cũng cần phải có nguồn nhân lực có trình độ tương ứng. Con người cấu thành cơ sở nhân lực của thương mại điện tử trước hết là đội ngũ các chuyên gia tin học, thường xuyên cập nhật những kiến thức của công nghệ thông tin và có khả năng đưa vào ứng dụng trong môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể. Đội ngũ các chuyên gia công nghệ thông tin và kỹ thuật máy tính sẽ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho TMĐT. Đồng thời với các chuyên gia công nghệ thông tin và kỹ thuật máy tính, các nhà kinh doanh, những người quản lý, các chuyên viên và các khách hàng tiêu thụ cũng phải có trình độ nhất định về công nghệ thông tin, về ngoại ngữ và kỹ năng giao dịch trên mạng thì mới có khả năng tham gia TMĐT. Một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới, phát triển để phục vụ cho kinh tế số hóa nói chung và TMĐT nói riêng, cũng như có khả năng thiết kế các chương trình phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn vào nước khác. Vì vậy, TMĐT sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản cả hệ thống giáo dục và đào tạo. 1.3.4. Hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ Thương mại điện tử là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá và công nghệ thông tin mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì vậy, TMĐT thực sự có vai trò và hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ thông tin vững chắc. Hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ ấy bao gồm các chuẩn của DN, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng và không chỉ của riêng từng DN mà phải là một hệ thống quốc gia với tư cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực và toàn cầu (trên nền tảng của Internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm cả các phân mạng, hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu), hệ thống ấy phải tới được từng cá nhân trong hệ thống thương mại (cho tới từng cá nhân người tiêu dùng). Cùng với đó, hạ tầng cơ sở công nghệ của TMĐT còn phải bảo đảm tính kinh tế, nghĩa là chi phí của hệ thống thiết bị kỹ thuật và chi phí dịch vụ truyền thông phải ở mức hợp lý để bảo đảm cho các tổ chức và cá nhân đều có khả năng chi trả và bảo đảm giá cả của các hàng hoá dịch vụ thực hiện thông qua TMĐT không cao hơn so với thương mại truyền thống. 1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại điện tử của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập Phát triển thương mại nói chung là hoạt động hết sức quan trọng để giúp các quốc gia có điều kiện để phát triển sản xuất xã hội và tăng cường khả năng hợp tác với nước ngoài. Từ nhiều năm nay, Đảng ta đã chủ trương phát triển thương mại trong nước cũng như thương mại với nước ngoài để tạo tiền đề cho hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện chủ trương trên, Chính phủ đã tạo mọi điều kiện để các DN có thể ứng dụng hiệu quả các phương thức kinh doanh thương mại, đặc biệt là phương thức kinh doanh TMĐT. Tuy nhiên, các DN Việt Nam thực hiện các phương thức kinh doanh thương mại nói chung và TMĐT nói riêng trong điều kiện quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp, thuận lợi và thách thức đan xen. 1.4.1. Các nhân tố quốc tế Trong điều kiện thế giới đang có những thay đổi rất lớn về kinh tế, chính trị và khoa học công nghệ, việc nghiên cứu, lựa chọn và áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử sẽ phải chịu ảnh hưởng của những nhân tố sau: 1.4.1.1. Toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới đang trở thành xu thế tất yếu Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Toàn cầu hóa thực chất là một quá trình quốc tế hóa kinh tế đã phát triển đến quy mô toàn cầu và bao gồm trong nó hai quá trình phát triển song song là tự do hóa kinh tế và hội nhập quốc tế. Đặc trưng chủ yếu của toàn cầu hóa là: Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xóa bỏ theo các cam kết đa phương. Các công ty của các quốc gia có quyền kinh doanh tự do ở mọi thị trường, trên các lĩnh vực được cam kết, không có phân biệt đối xử. Theo tính toán của Ngân hàng thế giới (WB), việc tăng hiệu quả từ tự do hóa thương mại sẽ làm tăng sản lượng toàn cầu khoảng 305 tỷ USD/năm trong thập kỷ tới. Việc thực hiện tự do hóa thương mại sẽ tạo tiền đề cho một nền thương mại tự do có tính chất toàn cầu. Xu thế chung này đòi hỏi các DN phải quan tâm nghiên cứu, ứng dụng và phát triển TMĐT để có thể cạnh tranh và thâm nhập một cách hiệu quả vào thị trường tự do có tính chất toàn cầu. 1.4.1.2. Thị trường khu vực phát triển mạnh, tạo tiền đề cho thương mại tự do toàn cầu Trong những năm gần đây, khu vực hóa kinh tế - thương mại đã trở thành trào lưu chung ở khắp các châu lục. Nhiều khu vực mậu dịch tự do được hình thành (AFTA, NAFA, ACFTA, APEC) đã tạo cho hoạt động thương mại của các quốc gia trong khu vực được tiến hành một cách tự do. Việc thực hiện tự do hóa thương mại khu vực đang trở thành tiền đề quan trọng cho việc hình thành một thị trường tự do toàn cầu. Thông qua việc thực hiện khu vực mậu dịch tự do sẽ giúp cho các DN ở các nước có thêm sức mạnh, có thêm điều kiện thuận lợi để vươn ra thị trường thế giới. Mặt khác, liên kết khu vực sẽ giúp cho các DN ở các nước thành viên có thể liên kết với nhau để cạnh tranh với các đối tác là các công ty, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các DN Việt Nam cần quan tâm và ứng dụng phát triển TMĐT nhằm chiếm lĩnh thị trường trong khu vực, từ đó vươn ra thị trường các nước khác. 1.4.1.3. Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ Trải qua nhiều thập kỷ, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển. Đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã có những bước đột phá mạnh. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã có ảnh hưởng lớn đến việc định hình phương thức tiến hành hoạt động thương mại (đặc biệt là TMĐT), cách tổ chức kinh doanh và các bước của tiến trình sản xuất. Việc sử dụng Internet và các ứng dụng của nó sẽ làm biến đổi phương thức kinh doanh, làm thay đổi cách thức đàm phán, ký kết hợp đồng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của các bên tham gia. Trong công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông và kinh doanh trên mạng Internet (E-business) sẽ làm biến đổi cách thức, tập quán kinh doanh của DN. Trên thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử. Các khái niệm về tập đoàn lớn hay công ty nhỏ sẽ có những thay đổi bởi người ta không còn đánh giá quy mô công ty qua số lượng công nhân, số chi nhánh, mà chủ yếu dựa vào kết quả kinh doanh. Trong tương lai, khi TMĐT được các DN ứng dụng và phát triển rộng rãi thì việc thiết lập các văn phòng tại các trung tâm thương mại lớn sẽ giảm và các văn phòng ảo trên Internet sẽ trở thành xu hướng nổi trội. 1.4.1.4. Thế giới đang tiến tới một nền kinh tế tri thức, nền kinh tế số Đây là nền kinh tế mà theo đó hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đạt mức cao. Điều này là một tiền đề quan trọng cho việc ứng dụng và phát triển phương thức kinh doanh TMĐT ở mỗi DN. Như vậy, bối cảnh quốc tế đang có nhiều nhân tố thuận lợi cho việc ứng dụng và phát triển TMĐT nhưng cũng đặt ra cho các DN Việt Nam những thách thức không nhỏ. Việt Nam là nước đang phát triển, năng suất lao động chưa cao, lợi thế so sánh là sức lao động và tài nguyên thiên nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp. Để đáp ứng được những đòi hỏi về việc ứng dụng và phát triển TMĐT, Chính phủ và các DN Việt Nam cần một sự nỗ lực lớn thì mới có thể ứng dụng và phát triển thành công phương thức kinh doanh này. 1.4.2. Các nhân tố trong nước Tiếp theo sự phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của giai đoạn 5 năm 2001-2005, kinh tế Việt Nam năm 2006 tiếp tục tăng trưởng cao với tốc độ tăng GDP ước đạt 8,17%. Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối nhanh và bền vững đã tạo tiền đề quan trọng để thực hiện các mục tiêu khác, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, chống lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, giảm tỷ lệ đói nghèo trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Nhìn một cách tổng thể, các nhân tố trong nước có ảnh hưởng đến việc các DN ứng dụng và phát triển TMĐT bao gồm: 1.4.2.1. Thị trường trong nước rất sôi động, lưu thông hàng hóa thông suốt và tăng trưởng (kể cả trên địa bàn nông thôn) Những năm gần đây, các DN đã sử dụng nhiều phương thức kinh doanh để thực hiện hoạt động lưu thông trong nước, đặc biệt là các DN đã ý thức được tầm quan trọng của phương thức kinh doanh TMĐT và đã từng bước áp dụng phương thức này vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, chính sự thay đổi này đã đưa khối lượng và giá trị hàng hóa lưu thông trên thị trường nội địa ngày một tăng. Nhìn chung, Việt Nam đã hình thành một thị trường nội địa thống nhất, thông thoáng với sự tham gia của các DN thuộc nhiều thành phần kinh tế trong cả nước. Hoạt động thương mại phát triển sôi động, khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông tăng liên tục qua các năm, mặt hàng trao đổi phong phú và phù hợp với từng khu vực thị trường nhằm phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của người dân. Phương thức kinh doanh trên thị trường nội địa ngày một đa dạng, mạng lưới kinh doanh được mở rộng trên địa bàn đô thị, nông thôn và miền núi. Nhiều phương thức kinh doanh được tiến hành một cách linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thị trường trong bối cảnh nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu sắc. Mối liên kết giữa sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đã có những bước đột phá, nhiều DN trong nước đã quan tâm đến việc mở rộng thị trường nội địa thông qua việc áp dụng các phương thức kinh doanh hiện đại như TMĐT. Trật tự kỷ cương trên thị trường được khôi phục dần, nạn buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép bước đầu đã được kiềm chế 1.4.2.2. Xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao trong GDP, thị trường được mở rộng trên toàn thế giới Từ năm 2000 đến nay, xuất khẩu của Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Năm 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt 14,483 triệu USD, nhưng đến năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu đã lên tới 39,605 triệu USD. Điều này cho thấy sự đóng góp rất quan trọng của hoạt động xuất khẩu vào tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế và nó cũng là bằng chứng chứng minh rằng các DN Việt Nam đã áp dụng hiệu quả các phương thức kinh doanh thương mại nói chung và phương thức kinh doanh TMĐT nói riêng để thực hiện hoạt động kinh doanh với các DN nước ngoài. 1.4.2.3. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế mà thương mại là ngành đi đầu Thực hiện cam kết AFTA, Việt Nam bắt đầu dỡ bỏ hàng rào thuế quan trong bối cảnh nội lực kinh tế chưa phải là mạnh, đặc biệt năng lực cạnh tranh của hàng hóa và DN Việt Nam đang ở mức thấp. Việt Nam đang là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Tham gia APEC, Việt Nam đang phấn đấu thực hiện tự do hóa thương mại trong khu vực không chậm hơn năm 2020. Đây là thách thức rất lớn đối với Chính phủ và DN Việt Nam vì thời gian thực hiện tự do hóa thương mại đang đến gần trong khi đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa và DN Việt Nam còn yếu và kém xa so với năng lực cạnh tranh của hàng hóa và DN ở các nền kinh tế hùng mạnh trên thế giới như: Mỹ, Nhật, EU, Canada… Việt Nam đang cùng các thành viên khác của ASEAN thực hiện Hiệp định khung về phát triển kinh tế toàn diện giữa các nước ASEAN và Trung Quốc mà trọng tâm của Hiệp định là việc xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA). Với vai trò là cầu nối giữa thị trường Trung Quốc rộng lớn với thị trường ASEAN giàu tiềm năng, việc phát triển hoạt động thương mại nói chung, việc lựa chọn áp dụng phương thức kinh doanh thích hợp như TMĐT trong bối cảnh đó sẽ là những nhân tố quan trọng giúp cho Việt Nam thực hiện tốt các quy định của ACFTA, phát t._.riển thương mại hàng hóa và dịch vụ, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước ASEAN, đẩy mạnh phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc bằng nhiều phương thức kinh doanh khác nhau từ phương thức hàng đổi hàng đến chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, và cả bằng phương thức kinh doanh hiện đại như TMĐT. Năm 2006, Việt Nam đã gia nhập WTO, tổ chức thương mại mang tính toàn cầu. Tuy nhiên, trở thành thành viên của WTO, Việt Nam gặp những thuận lợi to lớn trong việc hội nhập vào kinh tế thế giới, nhưng thách thức của quá trình này cũng là không nhỏ. Điều đó đòi hỏi các DN Việt Nam phải nỗ lực hết sức trong việc nâng cao năng lực cạnh của hàng hóa và dịch vụ mà DN đưa ra thị trường, lựa chọn phương thức kinh doanh tối ưu nhất. Trong bối cảnh đó, TMĐT là lựa chọn số một cho các DN. Có như vậy, DN mới có thể đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất, tránh những rủi ro đáng tiếc do không am hiểu luật thương mại quốc tế và các quy định của WTO, không am hiểu phong tục tập quán và những quy định riêng của các quốc gia đối với từng mặt hàng cụ thể. Nhìn chung, các nhân tố trong nước và quốc tế đã và đang tạo cho các DN Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi để lựa chọn và áp dụng phương thức kinh doanh hiện đại như TMĐT. Tuy nhiên, các thách thức đặt ra cho việc lựa chọn và áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT đối với các DN Việt Nam cũng là rất lớn. Lý do chủ yếu là do cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện phương thức kinh doanh TMĐT vừa yếu, vừa thiếu, trình độ khoa học công nghệ ở Việt Nam chưa đủ ở mức cao, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ còn yếu. Bên cạnh đó, còn nhiều vấn đề cản trở sự phát triển TMĐT còn tồn tại: việc rà soát các văn bản pháp luật liên quan tới TMĐT chưa được tiến hành. Một số quy định bất hợp lý cho TMĐT đã được DN nhắc tới từ những năm trước vẫn chưa được khắc phục. Những quy định về cấp phép thành lập website hay mua bán tên miền chưa phù hợp với thực tiễn. Cùng với tiến bộ công nghệ, sự phát triển phong phú, đa dạng của TMĐT. Sự bùng nổ của trò chơi trực tuyến dẫn đến nhu cầu xác định tính hợp pháp của tài sản ảo, các vụ tranh chấp về tên miền cho thấy cần có tư duy quản lý thích hợp với loại tài nguyên đặc biệt này, việc gửi thư điện tử quảng cáo thương mại với số lượng lớn đòi hỏi phải có biện pháp bảo vệ người tiêu dùng. Vấn đề an toàn, an ninh mạng, tội phạm liên quan đến TMĐT cũng là một vấn đề đáng chú ý. Hàng loạt những hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội tăng lên, điển hình là những vụ tấn công các website TMĐT www.vietco.com, www.chodientu.com. Bên cạnh đó, tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh toán cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh. Trong thời gian gần đây, hoạt động phổ biến tuyên truyền và đào tạo về TMĐT đã có chuyển biến mạnh nhưng chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Hoạt động nghiên cứu về TMĐT hầu như chưa được triển khai. Để khắc phục được những yếu kém trên, cần có sự nỗ lực của các ban ngành Chính phủ, của hệ thống DN trong cả nước trong việc đổi mới khoa học công nghệ, đổi mới tư duy kinh doanh và đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Năm 2005 là năm cuối cùng của giai đoạn thương mại điện tử hình thành và được pháp luật chính thức thừa nhận tại Việt Nam. Trong những năm vừa qua, thương mại điện tử ở Việt Nam đã bước sang giai đoạn mới và phát triển trên tất cả mọi khía cạnh từ chính sách, luật pháp, giao dịch kinh doanh của DN và người tiêu dùng cũng như sự hỗ trợ đa dạng của các cơ quan nhà nước. Điều này hứa hẹn trong những năm tới, thương mại điện tử ở Việt Nam có thể có những bước tiến nhảy vọt, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thương mại chung của cả nước. Chương II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI CÔNG TY TNHH DU LỊCH DỊCH VỤ CÔNG ĐOÀN ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM 2.1. Mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp cho việc phát triển thương mại điện tử Để đánh giá mức độ sẵn sàng cho việc phát triển TMĐT trong DN, ta có thể đưa ra một số chỉ tiêu cụ thể bao gồm: tổng số máy tính sử dụng trong DN, đào tạo CNTT và TMĐT, hạ tầng viễn thông và Internet, mục đích của việc sử dụng Internet trong DN, mức độ xây dựng và sử dụng mạng nội bộ. Những chỉ tiêu này có thể chưa nói lên toàn bộ mức độ sẵn sàng cho vấn đề phát triển TMĐT, nhưng cũng đã phần nào phản ánh được bức tranh tổng thể về việc chuẩn bị phát triển TMĐT tại công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam. Trước hết, có thể thấy công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam là một DN có quy mô nhỏ. DN có tổng số lao động là 25 người. Tuy vậy, tình hình đầu tư mua sắm máy tính tại DN là rất khả quan. Gần như mỗi một lao động của DN được trang bị một máy tính phục vụ trong công việc hàng ngày của mình. Có thể thấy điều kiện hạ tầng tối thiểu cho vấn đề phát triển TMĐT ở DN đã được xác lập. Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của phương thức kinh doanh TMĐT đối với hoạt động của mình, DN đã chú ý hơn tới đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển TMĐT. Trong các phương thức đào tạo phổ biến hiện nay, thì hình thức đào tạo tại chỗ được DN lựa chọn và áp dụng để đào tạo thêm trình độ CNTT và TMĐT cho các nhân viên của mình. Về hạ tầng viễn thông và Internet, DN đã sử dụng điện thoại, máy fax và song song với đó DN cũng sử dụng kết nối Internet với hình thức truy cập bằng đường truyền ADSL trong các hoạt động hàng ngày của công ty mình. Bên cạnh đó, để đánh giá mức độ sẵn sàng cho TMĐT trong DN chúng ta cũng có thể xem xét mức độ ứng dụng CNTT và viễn thông ở DN như việc sử dụng các mạng nội bộ. Doanh nghiệp đã lắp đặt mạng LAN, để kết nối các máy tính trong phạm vi công ty từ đó các phòng ban, các cán bộ công nhân viên của công ty có thể chia sẻ tài nguyên với nhau, mà điển hình là chia sẻ tập tin, máy in, máy quét và một số các thiết bị khác phục vụ hoạt động tác nghiệp của các nhân viên. Về mục đích sử dụng Internet của DN, doanh nghiệp dùng Internet chủ yếu là phục vụ các hoạt động: tìm kiếm thông tin, trao đổi thư điện tử với khách hàng, và mục đích quan trọng nhất đó là giao dịch với khách hàng nhằm ký kết các hợp đồng mua bán dịch vụ du lịch của DN mình. Có thể thấy DN đã biết khai thác nhiều lợi thế của Internet. Kết nối Internet giúp cho DN tìm kiếm thông tin về các đối tác qua mạng, tìm hiểu thông tin thị trường về ngành dịch vụ du lịch, tìm các thông tin quảng cáo hoặc chủ động quảng bá hình ảnh của DN. Doanh nghiệp đã có website, việc kết nối Internet cũng là điều bắt buộc để DN cập nhật các thông tin trên trang web của mình. Kết nối Internet cũng là cách dễ dàng và rẻ nhất để DN liên lạc với khách hàng, với các đối tác của mình thông qua thư điện tử hoặc các công cụ truyền và nhận dữ liệu khác. Như vậy có thể khẳng định điều kiện hạ tầng tối thiểu cho ứng dụng TMĐT đã được xác lập ở DN. Những hoạt động này phần nào phản ánh mức độ sẵn sàng cho TMĐT trong công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam là khá cao. Thương mại điện tử có thể ứng dụng và phát triển ở mức độ cao phải được xuất phát từ mức độ tin học hoá cao trong nội bộ DN. Một vấn đề khác cần nói đến ở đây có vai trò quyết định tới sự sẵn sàng ứng dụng và phát triển phương thức kinh doanh TMĐT trong DN đó là các trở ngại đối với việc sử dụng Internet của DN. Đó là vấn đề an toàn và bảo mật thông tin, việc kết nối Internet còn chậm và không ổn định, chi phí đầu tư cho thiết bị mạng cũng là một trở ngại lớn. Những thực tế trên cho thấy công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo mật khi triển khai ứng dụng CNTT và tham gia phương thức kinh doanh TMĐT, nhưng việc đề ra các biện pháp tự bảo vệ thì DN vẫn còn nhiều lúng túng. Chính vì vậy thái độ của DN là e ngại và chờ đợi, chưa chủ động tìm ra giải pháp cho vấn đề bảo mật an toàn mạng nói chung và trong hoạt động giao dịch TMĐT nói riêng. 2.2. Thực trạng phát triển thương mại điện tử ở doanh nghiệp 2.2.1. Thực trạng website của doanh nghiệp Website là tập hợp của rất nhiều trang web - một loại siêu văn bản (tập tin dạng HTML hoặc XHTML) trình bày thông tin trên mạng Internet- tại một địa chỉ nhất định để người xem có thể truy cập vào xem. Trang web đầu tiên người xem truy cập từ tên miền thường được gọi là trang chủ (homepage), người xem có thể xem các trang khác thông qua các siêu liên kết (hyperlinks). Đặc điểm tiện lợi của website: thông tin dễ dàng cập nhật, thay đổi, khách hàng có thể xem thông tin ngay tức khắc, ở bất kỳ nơi nào, tiết kiệm chi phí in ấn, gửi bưu điện, fax, thông tin không giới hạn (muốn đăng bao nhiêu thông tin cũng được, không giới hạn số lượng thông tin, hình ảnh...) và không giới hạn phạm vi khu vực sử dụng (toàn thế giới có thể truy cập).  Một website thông thường được chia làm 2 phần: giao diện người dùng (front-end) và các chương trình được lập trình để website hoạt động (back-end). Giao diện người dùng là định dạng trang web được trình bày trên màn hình của máy tính của người xem (máy khách) được xem bằng các phần mềm trình duyệt web như Internet Explorer, Firefox,... Tuy nhiên ngày nay người xem có thể xem website từ các thiết bị điện tử khác như điện thoại di động, PDA,...Việc trình bày một website phải đảm bảo các yếu tố về thẩm mỹ đẹp, ấn tượng; bố cục đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng, các chức năng tiện lợi cho người xem. Đặc biệt ngày nay, website trở nên sống động với những hiệu ứng đa dạng của hình ảnh và chữ kết hợp với âm thanh. H1. Trang chủ website www.viratour.com.vn Phần Back-end là phần lập trình của website lưu trữ trên máy chủ (Server). Sự khác nhau ở phần lập trình back-end của website làm phân ra 2 loại website: Website tĩnh và website động. - Website động (Dynamic website) là website có cơ sở dữ liệu, được cung cấp công cụ quản lý website (Admin Tool) để có thể cập nhật thông tin thường xuyên, quản lý các thành phần trên website. Loại website này thường được viết bằng các ngôn ngữ lập trình như PHP, Asp.net, JSP, Perl,..., quản trị Cơ sở dữ liệu bằng SQL hoặc MySQL,... - Website tĩnh do lập trình bằng ngôn ngữ HTML theo từng trang như brochure, không có cơ sở dữ liệu và không có công cụ quản lý thông tin trên website. DN phải biết kỹ thuật thiết kế trang web (thông thường bằng các phần mềm như FrontPage, Dreamwaver,...) khi muốn thiết kế hoặc cập nhật thông tin của những trang web này. Website của công ty TNHH DLDV CĐĐS Việt Nam (H1) cũng là một dạng website tĩnh được thiết kế bằng ngôn ngữ HTML. Trước đây, chưa có một bộ tiêu chuẩn nào được định ra cho việc trình bày trang web dẫn đến những khó khăn như sự thiếu tương thích giữa các trình duyệt, không tương thích với các thiết bị truy cập khác không phải máy tính. Chính vì vậy, tổ chức W3C đã xây dựng Dự án chuẩn hóa Web (Web Standard) nhằm thiết lập một số chuẩn chung nhất cho các công nghệ, ngôn ngữ sử dụng trong việc thiết kế Web. Dự báo trong một tương lai gần, website sẽ trở nên thân thiện với người dùng khi có những tương tác tùy biến theo nhu cầu của mỗi người. Trong những năm gần đây, DN đã lựa chọn cho mình chiến lược ứng dụng TMĐT rõ ràng hơn trước. Doanh nghiệp nhận thấy những lợi ích thiết thực của TMĐT thông qua việc cắt giảm được chi phí giao dịch, tìm được nhiều bạn hàng mới từ thị trường trong nước và nước ngoài, số lượng khách hàng giao dịch qua thư điện tử nhiều hơn… Vì vậy, website www.viratour.com.vn đã ra đời kịp lúc để đáp ứng được những điều này. Việc DN có website là một tiêu chí quan trọng phản ánh mức độ phát triển TMĐT trong DN. H2. Trang Tin tức du lịch của website www.viratour.com.vn Thuận tiện hơn hình thức giao dịch truyền thống trước đây, du khách gặp khá nhiều bất tiện như: nhà xa, không gần với các công ty du lịch có uy tín để lựa chọn. Mùa cao điểm mua vé không theo ý muốn hoặc phải chờ đợi tốn nhiều thời gian trong khi bận rất nhiều việc…rất nhiều khó khăn khi du khách tiếp cận được các chương trình tour du lịch, đặc biệt là mùa cao điểm. Không chỉ thỏa mãn cho nhu cầu du khách trong nước; du khách Việt kiều, và nước ngoài có thể đặt tour ngay tại các nước mà không cần đến trụ sở và chi nhánh của công ty. Ngoài website, doanh nghiệp còn sử dụng linh hoạt các phương tiện điện tử khác như thư điện tử, fax, điện thoại để thực hiện giao dịch với khách hàng. Hầu hết các hợp đồng của doanh nghiệp với khách hàng được ký kết thông qua các phương tiện điện tử này. H 3. Trang Chương trình du lịch nội địa của website www.viratour.com.vn Tuy vậy, DN lại chưa chú trọng lắm đến đầu tư phát triển website theo chiều sâu. Website của doanh nghiệp nhìn chung chưa thực sự phát huy được những chức năng của một website chuyên nghiệp. Website chỉ mới dừng lại ở hình thức đưa tin, giới thiệu về doanh nghiệp và sản phẩm lên mạng mà chưa có cơ chế nhận thông tin từ phía các khách hàng. Thêm vào đó, thông tin trên website không được cập nhật thường xuyên, không có những thông tin về sản phẩm mới, hay chiến dịch bán hàng mới. Vì vậy website đã không phát huy được tính ưu việt của hình thức kinh doanh trên mạng dẫn đến giao dịch trên mạng đạt kết quả không cao. Có thể xác định được 4 lỗi ở khâu thiết kế websites của doanh nghiệp sẽ khiến doanh nghiệp mất khách hàng như sau: Lỗi thứ nhất: Kích cỡ website quá lớn Nếu như phải mất từ 10 cho đến 15 giây để tải xuống website của DN thì DN nên đánh giá một cách khách quan về website của mình. Đó là lỗi lớn nhất mà người thiết kế giao diện website thường mắc phải. Có thể DN truy cập internet bằng đường truyền tốc độ cao cộng chút hứng thú nên phần đồ hoạ DN đưa vào chiếm tỉ trọng lớn trong giao diện của trang. Tuy nhiên, DN thử tính đến trường hợp, nếu khách truy cập không có điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi như của DN, không có cáp truyền và tốc độ truy cập cao thì việc phải mất từ 10 đến 15 giây để tải xuống 1 trang web là chuyện thường tình, và tất nhiên không phải ai cũng có đủ lòng kiên trì để chờ đợi như vậy. Lỗi thứ hai: Các quảng cáo loè loẹt, sặc sỡ Đúng vậy, có thể đó là các banner quảng cáo mang đến cho DN nguồn thu về tài chính. Nhưng hãy thử tưởng tượng, khi truy cập vào một trang nào đó mà đập ngay vào mắt mình là cả một cụm, một dãy dài từ đầu tới cuối hay cả một góc của trang tràn ngập các banner và logo quảng cáo thì chắc rằng người khách viếng thăm website cũng không hề có chút cảm tình với trang web đó. Trên thực tế, các website của Việt Nam rất hay mắc lỗi này, các quản trị gia quá chú trọng vào nguồn thu quảng cáo từ việc cho đặt banner, cho nên các trang đó không còn mang tính thẩm mỹ cũng như nét đặc trưng của mình. Vì vậy, nên biết dàn trải một cách hợp lý các banner, logo quảng cáo sang các trang chuyên mục khác. Lỗi thứ ba: Bố cục rắc rối, lằng nhằng Trước khi DN xây dựng một website, phần việc phải tiến hành trước tiên là xây dựng một sơ đồ website. Doanh nghiệp lên kế hoạch bao gồm danh sách cụ thể những gì cần phải làm như: số lượng trang, các chuyên mục, liên kết các trang, liên kết các chuyên mục, dịch vụ, nội dung thông tin cho từng trang, từng chuyên mục. Tiếp đến là tạo một form thông tin liên hệ, chỉ dẫn và đặt lên từng trang ở một vị trí phù hợp và ít bị thay đổi ở các trang khác cho độc giả dễ nhận thấy. Lỗi thứ tư: Lạm dụng trong quảng cáo website Khi DN tiến hành quảng cáo cho website, DN thường dùng phần mềm gửi thư đồng loạt tới các địa chỉ e-mail, tuy nhiên phương pháp này giờ tỏ ra không mấy hữu hiệu bởi các nhà cung cấp dịch vụ e-mail coi đó là hành động gửi thư rác. Và tất nhiên, nếu như DN gửi một bức thư có cùng một nội dung tới các địa chỉ khác nhau có đuôi tên miền của một nhà cung cấp dịch vụ thì bức thư đó sẽ tự động bị nhận dạng là spam. Trong chiến dịch xúc tiến quảng bá website, DN có thể sử dụng các biện pháp quảng cáo đơn giản miễn phí kèm theo khác như sử dụng các diễn đàn, tham gia các nhóm chat, trao đổi banner quảng cáo hai chiều với các website khác. Một vấn đề cũng cần được quan tâm đó là việc tham gia sàn giao dịch điện tử của DN cũng chưa được triển khai. Trong bối cảnh, nguồn nhân lực cho triển khai TMĐT của DN còn ít và nguồn tài chính khiêm tốn thì việc tham gia các sàn giao dịch TMĐT là một giải pháp mang tính chiến lược và có hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh của DN nhưng ngay cả giải pháp mang tính hiệu quả này vẫn chưa được quan tâm thích đáng. 2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực phục vụ thương mại điện tử Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự hội tụ giữa các dịch vụ viễn thông – truyền thông như điện thoại, fax, internet, e-mail... đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh, thương mại của các tổ chức, cá nhân và sự phát triển kinh tế xã hội của các nước. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông cũng đẩy nhanh tốc độ tự do hóa kinh tế, toàn cầu hóa và khu vực hóa, điều này tạo ra nhiều sức ép về nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam nói riêng. Đồng thời, cách duy nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh cho một DN có quy mô nhỏ cũng là đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực và đẩy nhanh tốc độ tham gia các thị trường chung. Thương mại điện tử là một yêu cầu tiên quyết vì khi hội nhập kinh tế và tham gia các thị trường chung, doanh nghiệp phải sử dụng phương thức giao dịch đang trở nên phổ biến hiện nay là phương thức kinh doanh thương mại điện tử. Phát triển TMĐT là xu hướng tất yếu của thời đại trên phạm vi toàn cầu. Triển khai ứng dụng TMĐT ở công ty TNHH Du lịch dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam đã được xác định cụ thể qua kế hoạch tổng thể của ban lãnh đạo công ty và các chương trình trọng điểm theo hướng phát triển của DN những năm sau này. Trong những chương trình này, chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT có vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp đã nhận thấy lợi ích và tầm quan trọng của TMĐT đối với hoạt động kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử hoàn toàn chưa có, chỉ một số rất ít là các cán bộ kinh doanh, hoặc cán bộ tin học được đào tạo ngắn hạn về TMĐT. Hơn nữa, do đặc thù của lĩnh vực TMĐT đòi hỏi người làm phải có cả ba khối kiến thức về: thương mại, CNTT và ngoại ngữ nên đào tạo ngắn hạn không thể đem lại những kiến thức và kỹ năng đầy đủ, cần thiết để tổ chức hoạt động thương mại hiệu quả nhất tại doanh nghiệp. Mặc dù định hướng đào tạo thêm nguồn nhân lực hoặc thiết lập phòng ban riêng về TMĐT được DN quan tâm đến, nguồn lực cho CNTT nói chung và cho việc phát triển TMĐT ở DN nói riêng vẫn còn thiếu và yếu. Thực tế hiện nay, DN chưa hề có một cán bộ chuyên trách về TMĐT mà chủ yếu mảng hoạt động TMĐT do cán bộ kiêm nhiệm phụ trách. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT ở công ty. Khoảng trống lớn về nhân lực có kiến thức thương mại điện tử sẽ là khó khăn lớn cho doanh nghiệp khi phải thích nghi với các phương thức giao dịch thương mại của các nước phát triển. Nếu không được đầu tư kịp thời về nhân lực, thương mại điện tử vốn là một lợi thế để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quy mô nhỏ có thế sẽ trở thành một rào cản nữa cho doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao, có khả năng quản lý các hoạt động liên quan đến TMĐT là một nhu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Làm thương mại trong môi trường kinh doanh quốc tế đòi hỏi không chỉ am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nắm vững luật pháp kinh doanh quốc tế mà còn phải biết tận dụng những thành tựu của CNTT - truyền thông và các hoạt động kinh doanh để tăng hiệu quả, giảm chi phí, nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Với đặc thù của chuyên ngành TMĐT, việc sử dụng một nguồn nhân lực vừa có kiến thức về kinh doanh quốc tế và chuyên sâu về thương mại điện tử, giỏi ngoại ngữ, có kỹ năng và kiến thức đầy đủ về CNTT, chắc chắn sẽ đáp ứng được nhu cầu đang rất cấp bách của doanh nghiệp trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển thương mại điện tử ở doanh nghiệp 2.3.1. Những thành tựu đạt được Sau hơn 5 năm hoạt động kể từ ngày thành lập (tháng 5/2002) và sau 3 năm triển khai ứng dụng phương thức kinh doanh TMĐT vào hoạt động của mình, ban lãnh đạo công ty TNHH Du lịch Dịch vụ Công Đoàn Đường Sắt Việt Nam cho biết: Nhờ có website mới ra đời, hoạt động kinh doanh của công ty đã có những thay đổi về chất, khắc phục được những trở ngại về địa lý giữa Việt Nam và các nước. Website www.viratour.com.vn đã mang lại cho công ty này thêm khoảng 5% du khách quốc tế tìm đến với dịch vụ của mình. Ngoài ra, sự xuất hiện của công ty trên Internet đã góp phần đưa uy tín của DN này lên một tầm cao mới. Nhiều đề nghị hợp tác, nhiều cơ hội thị trường mới đã xuất hiện nhờ sự có mặt của website này trên Internet. Đến tháng 10/2005, chỉ sau vài tháng kể từ khi website www.viratour.com.vn công ty được chính thức đưa vào hoạt động, Tổng Cục Du Lịch đã cấp giấy phép lữ hành quốc tế cho công ty Du lịch. Đây chính là điều kiện cần và đủ để công ty Du lịch Dịch vụ Công đoàn Đường sắt phát triển bền vững vươn tới chiếm lĩnh thị trường và khẳng định thương hiệu Du lịch Công đoàn Đường sắt Việt Nam. Với lợi thế là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch và đã xây dựng được website của riêng mình, công ty Du lịch đã và đang tiếp tục mở rộng thị trường khách quốc tế đi các nước như: Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Canada, Mỹ, và thị trường khách Nhật, Pháp…Công ty luôn chú trọng đến việc xây dựng hoàn chỉnh, cập nhật thường xuyên các thông tin về dịch vụ du lịch của mình như: các tour tuyến, bố trí chỗ ăn nghỉ, tàu xe đi lại hợp lý và điều chỉnh giá tour có tính cạnh tranh với các công ty du lịch khác, phần nào đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Mặt khác công ty còn tiếp tục mở rộng và phát triển thêm dịch vụ vé máy bay, hộ chiếu, visa… H4. Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Du lịch Dịch vụ Công Đoàn Đường sắt Việt Nam trong vòng ba năm trở lại đây: TT Nội dung Thực hiện 2005 Thực hiện 2006 Thực hiện 2007 Tính cho cả 3 năm 1 Tổng lượt khách DL 2.574 2.647 2.918 8.139 + Khách nội địa + Khách VN đi quốc tế + Khách quốc tế vào VN 2.258 258 58 2.161 351 135 2.302 395 221 6.721 1.004 414 2 Chi phí (triệu VND) 2.405 2.977 3.529 8.911 3 Tổng doanh thu (triệu VND) 2.816 3.407 4.011 10.234 4 Lãi gộp (triệu VND) 411 430 482 1.323 H5. Sự tăng giảm doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo từng năm (từ năm 2005 đến năm 2007) của doanh nghiệp Qua biểu đồ biểu diễn ba chỉ tiêu: doanh thu, chi phí và lợi nhuận ta thấy rõ hiệu quả trong hoạt động của công ty. Tổng doanh thu của doanh nghiệp qua từng năm luôn cao hơn tổng chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đường tổng doanh thu luôn có xu hướng đi lên và song song với đường chi phí do vậy có thể đưa ra nhận xét: cơ cấu giữa doanh thu và chi phí là khá hợp lý. Bên cạnh đó, đường lợi nhuận thuần (lãi gộp) luôn có xu hướng đi lên, tức lợi nhuận thu được của doanh nghiệp năm sau luôn đạt và vượt cao hơn năm trước. Về doanh thu từ TMĐT của 3 năm gần đây (từ năm 2005 đến 2007) so với các năm trước đó mà DN chưa áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT vào hoạt động của mình (từ năm 2002 - 2004), doanh nghiệp cho biết doanh thu từ TMĐT của họ đã tăng lên đáng kể. Nhìn chung có thể nhận thấy trong những năm vừa qua, hoạt động kinh doanh du lịch của doanh nghiệp luôn đạt hiệu quả, tỷ lệ tăng doanh thu và tỷ lệ tăng lợi nhuận năm sau luôn đạt và vượt cao hơn năm trước. Việc ứng dụng và phát triển khá thành công phương thức kinh doanh TMĐT vào hoạt động kinh doanh của DN cũng đem lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Với những thành tựu đã đạt được của DN với phương thức kinh doanh TMĐT trong những năm vừa qua có thể nói: TMĐT ở công ty TNHH Du lịch Dịch vụ Công đoàn đường sắt Việt Nam đã bước sang giai đoạn mới và điều này hứa hẹn trong những năm tới, TMĐT ở DN có thể có những bước tiến nhảy vọt, góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh của công ty và góp phần vào sự phát triển kinh tế thương mại chung của cả nước. 2.3.2. Những tồn tại cần quan tâm giải quyết để phát triển thương mại điện tử ở doanh nghiệp Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển phương thức kinh doanh TMĐT ở Việt Nam. Bằng việc ban hành các văn bản pháp lý để hướng dẫn và quản lý việc áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT, Nhà nước đã tạo dựng được một môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển TMĐT tại các doanh nghiệp trên phạm vi cả nước. Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử ngày 9 tháng 6 năm 2006 đánh dấu một bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thương mại điện tử. Nghị định này thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong các hoạt động liên quan tới thương mại. Đây là cơ sở để DN và người tiêu dùng yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử, khuyến khích TMĐT phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại điện tử. Nghị định về thương mại điện tử là nghị định đầu tiên hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và là nghị định thứ sáu hướng dẫn Luật Thương mại (sửa đổi) được ban hành. Mặc dù vậy, nhiều tồn tại, bức xúc vẫn cần phải được quan tâm giải quyết trong việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển TMĐT ở DN. Cụ thể là: Việc ban hành các văn bản thi hành luật Giao dịch điện tử diễn ra còn chậm. Nhiều Bộ ngành đã rất cố gắng trong việc xây dựng các nghị định khác hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử như Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, đến cuối năm 2006 chưa có nghị định nào trong số những nghị định này được ban hành. Việc rà soát các văn bản pháp luật liên quan tới TMĐT chưa được tiến hành. Một số quy định bất hợp lý cho thương mại điện tử đã được doanh nghiệp nhắc tới từ những năm trước vẫn chưa được khắc phục. Những quy định về cấp phép thành lập website hay mua bán tên miền chưa phù hợp với thực tiễn. Cho đến hiện nay, nhận thức của DN về sự cần thiết và hiệu quả của việc áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT chưa đầy đủ. Doanh nghiệp hiện nay rất thiếu cán bộ có tay nghề đáp ứng được nhu cầu của công nghệ như: Việc nối mạng và sử dụng mạng cơ sở; kiến thức, kỹ năng nhận và xử lý thông tin; ngôn ngữ trên mạng; khả năng tài chính để kinh doanh và sử dụng mạng. Do vậy, DN đã nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của phương thức kinh doanh TMĐT nhưng thực sự họ không biết khởi đầu từ đâu và làm như thế nào với ai. Website của DN nhìn chung chưa thực sự phát huy được những chức năng của một website chuyên nghiệp. Website chỉ mới dừng lại ở hình thức đưa tin, giới thiệu về doanh nghiệp và sản phẩm lên mạng mà chưa có cơ chế nhận thông tin từ phía các khách hàng. Thêm vào đó, thông tin trên website không được cập nhật thường xuyên, không có những thông tin về sản phẩm mới, hay chiến dịch bán hàng mới. Vì vậy các website đã không phát huy được tính ưu việt của hình thức kinh doanh trên mạng dẫn đến giao dịch trên mạng đạt kết quả không cao. Vấn đề an toàn, an ninh mạng, tội phạm liên quan đến TMĐT cũng là một vấn đề đáng chú ý trong năm 2006. Những hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội tăng lên một cách đáng lo ngại, điển hình là những vụ tấn công các website thương mại điện tử www.vietco.com, www.chodientu.com, ngay cả cổng TMĐT quốc gia www.ecvn.gov.vn cũng bị các hacker tấn công. Bên cạnh đó, tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh toán cũng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh. Doanh nghiệp cũng đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo mật khi triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và tham gia TMĐT, nhưng để đưa ra các biện pháp tự bảo vệ thì DN còn lúng túng. Chính vì thế mà thái độ của DN vẫn là e ngại và chờ đợi, chưa chủ động tìm ra giải pháp cho vấn đề bảo mật an toàn mạng nói chung và trong giao dịch TMĐT nói riêng. Cuộc thi bình chọn năm sự kiện thương mại điện tử nổi bật năm 2006 do Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện cho kết quả là: 1) Việt Nam đăng cai và chủ trì thành công các hội nghị về thương mại điện tử trong khuôn khổ APEC; 2) Luật Giao dịch điện tử có hiệu lực; 3) Cổng Thương mại điện tử quốc gia (ECVN) vươn ra tầm quốc tế; 4) Ban hành Nghị định về thương mại điện tử; và 5) Sàn thương mại điện tử hàng đầu của Việt Nam (ECVN) bị tấn công. Điều này cho thấy sự cấp thiết phải xây dựng hệ thống văn bản pháp quy và triển khai các biện pháp phòng chống tội phạm công nghệ cao nhằm tạo môi trường ổn định cho thương mại điện tử phát triển. Bên cạnh những vấn đề về an toàn và bảo mật thông tin là trở ngại lớn nhất đối với DN thì việc kết nối Internet chậm và không ổn định do đường truyền có tốc độ thấp, giá kết nối và truy cập mạng so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn ở mức cao cũng là một trở ngại. Những trở ngại này có thể nói đã ảnh hưởng lớn đến việc ứng dụng và phát triển phương thức kinh doanh thương mại điện tử ở DN. Một vấn đề cũng cần được quan tâm đó là nguồn lực cho công nghệ thông tin nói chung và cho việc phát triển TMĐT ở doanh nghiệp nói riêng vẫn còn thiếu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả áp dụng TMĐT doanh nghiệp. Chương III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI CÔNG TY TNHH DU LỊCH DỊCH VỤ CÔNG ĐOÀN ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM 3.1. Quan điểm Phát triển TMĐT sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy thương mại và nâng cao sức cạnh tranh của DN trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Thương mại điện tử tạo ra cơ hội mới giúp DN mở rộng thị trường, giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian, nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng, v.v... qua đó nâng cao sức cạnh tranh của mình. Trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ hội nhập sâu sắc và toàn diện vào nền kinh tế thương mại quốc tế. Năm 2006 cũng là năm đánh dấu sự hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc và toàn diện của Việt Nam. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11533.doc
Tài liệu liên quan