Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN

LỜI MỞ ĐẦU Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986, chính sách mở cửa đổi mới của Nhà nước đã được áp dụng và dần đưa nền kinh tế trong nước phát triển đi lên, vượt qua cơn khủng hoảng. Thị trường trong nước dần được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất hàng hoá. Sự kiện Vịêt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước ngoặt quan trọng tạo điều kiện phát triển thị trường trong nước và trên toàn thế giới. Nền kinh tế Việt Nam được khôi phục một cách nhanh chóng và

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có bước tiến bộ, để có được những thành quả đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của công tác phát triển hàng hoá, dịch vụ. Với mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì việc đẩy mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ đang là mối quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta. Phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ là một mục tiêu quan trọng được Nhà nước đặt ra để phát triển nền kinh tế theo định hướng mới trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề mà đề tài giải quyết sẽ giúp chúng ta hiểu thêm những yếu tố liên quan đến việc phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Biết rõ thực trạng và những nhân tố chính góp phần xây dựng phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ trong nước để từ đó đưa ra giải pháp cần thiết. Đề tài gồm có 4 nội dung chính:Những điều kiện phát triển thị trường, những nhân tố tác động đến thị trường hàng hoá dịch vụ, những nhân tố giúp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; việc phát triển thị trường bị ảnh hưởng bởi các vấn đề khác. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển thị trường trong nước và được sự thống nhất của các thành viên, nhóm 11 lớp KTCT 22 đã quyết định chọn đề tài này để có thể rừ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Đỗ Thị Kim Thoa đã nhiệt tình giúp chúng em hoàn thành tiểu luận này. Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ. Điều kiện xuất hiện thị trường hàng hoá và dịch vụ. a. Việc chuyển dần từ mua bán hàng hoá với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn (tháng 12 năm 1986, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%). Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đại hội toàn quốc lần VI năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt phát tiển trong nền kinh tế của Việt Nam. Nước ta chuyển hướng phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Nhận thức rõ vị trí của thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để thị trường phát triển lành mạnh, đúng hướng. Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1986-1990) được ủy ban Kế hoạch Nhà nước tổ chức nghiên cứu ngay từ năm 1982 bằng việc thành lập và tổ chức lại công tác kế hoạch hóa dài hạn trong nội bộ cơ quan. Tháng 4 năm 1986, trước Đại hội Đảng lần thứ VI, ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã trình Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng báo cáo "Tư tưởng chỉ đạo xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990". Báo cáo đã đánh giá toàn diện việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, đồng thời xác định những nội dung, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1986-1990 là: ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; đồng bộ hóa sản xuất và tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới XHCN, sử dụng tốt các thành phần kinh tế khác, hình thành cơ chế quản lý mới; và bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.Chính phủ đã áp dụng các biện pháp ổn định tài chính và tiền tệ để chống lạm phát; áp dụng cơ chế thị trường trong lĩnh vực giá cả, tỷ giá, lãi suất, xoá bỏ cơ chế nhà nước định giá; xác lập cơ chế giá cả do thị trường định (hiện giá cả hàng hóa và dịch vụ hầu hết do thị trường định, chỉ còn một số giá như điện, nước, bưu chính, viễn thông, vận tải, hàng không... do các tổng công ty ấn định); thực hiện tự do hóa thương mại; bãi bỏ chế độ Nhà nước độc quyền phân phối hàng hóa và dịch vụ, cho phép mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được kinh doanh thương mại...Việc phát triển hàng hoá, dịch vụ trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong chính sách thay đổi của Nhà nước. Mục tiêu của việc thay đổi chính sách, cơ chế là: tập trung phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; ưu tiên 3 chương trình kinh tế mới: chương trình lương thực- thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một trong những nội dung quan trọng nhất của đường lối đổi mới của Đảng.Chuyển đổi từ chính sách đơn thnàh phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu. Trong GDP, xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn dưới 30%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất... Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ theo cả chiều rộng và chiều sâu. Cơ cấu thành phần kinh tế đã tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Công tác của ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã từng bước được đổi mới theo phương hướng chung của nền kinh tế, nhất là tập trung vào tăng cường kế hoạch hóa vĩ mô, tiếp tục chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa định hướng, bảo đảm những cân đối tổng thể cơ bản của nền kinh tế.. Hoạt động của các Vụ, Viện trong ủy ban đã chuyển dần sang nghiên cứu các chuyên đề, dự án phân tích... Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 1990-2003 tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP giảm từ 38,7% xuống còn 21,7%, công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,6% lên 40,5%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,5% Chính sách đổi mới đặc biệt ưu tiên 3 chương trình kinh tế: chương trình lương thực- thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu. Quán triệt các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng, ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã triển khai cụ thể hóa thành các kế hoạch và chương trình hành động, trong đó nổi bật là ba chương trình kinh tế lớn: chương trình lương thực, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình xuất khẩu. Nền kinh tế đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ như sản lượng lương thực đã đủ ăn, có dự trữ và còn có phần để xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 2 lần hơn so với kế hoạch 5 năm trước, bước đầu đã giải phóng được lực lượng sản xuất xã hội, động viên nhân dân tích cực tham gia vào sản xuất kinh doanh, các mặt xã hội và đời sống dân cư có nhiều tiến bộ. b. Việc chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt , khép kín theo địa giới hành chính “tự cấp, tự túc” sang tự do lưu thông. Cùng với nhiều biện pháp khác , Nhà nước đã thực hiện đổi mới các chính sách về giá cả, tài chính. Về giá cả thì thực hiện chính sách định giá cứng cho từng loại hàng, duyệt chiết khấu cho từng khâu lưu thông, ấn định giá bán riêng cho từng đối tượng hưởng thụ, giá cả riêng biệt theo từng chính sách phân phối cụ thể. Giá cả được hình thành chủ yếu theo quan hệ cung cầu nhưng đối với một số vật tư quan trọng để giữ ổn định thị trường, Nhà nước quy định giá bán lẻ tối đa xăng dầu, xi măng, thép, phân bón, giấy viết, hoá chất, ... và quy định giá sàn đối với một số nông sản để tránh ép giá gây thiệt thòi cho người nông dân. Nhà nước còn bảo đảm cân đối vật tư hàng hoá thiết yếu của nền kinh tế như xăng dầu, lương thực, đường, xi măng, thép, phân bón, để tránh tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa trên thị trường. Việc quy giá trần bán lẻ, giá sàn thu mua cũng như các cân đối này chỉ mang tính định hướng để các doanh nghiệp chủ động xác định kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu kinh doanh chứ không mang tính pháp lệnh như trước đây. Ngoài ra, các xí nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện hoạch toán độc lập. Đại hội đã chỉ rõ: đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho Nhà nước. Phát triển nhiều chiến lược hướng ngoại ra thị trường khu vực và quốc tế cũng là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình đẩy mạnh tự do hoá lưu thông. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập WTO... Đẩy mạnh phát triển dịch vụ, giao thông vận tải, thông tin liên lạc...sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tiếp cận với thị trường trong nước và thế giới. Ưu tiên phát triển các nghành này là mối quan tâm lớn của nước ta nhằm phát triển cơ sở hạ tầng,thúc đẩy dao dịch, chuyển đổi hàng hoá. Việc phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, không chỉ trong nước mà còn giữa Việt Nam và các nước khác trong khu vực. c. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, đội ngũ các nhà quản lý được đào tạo theo cơ chế mới. Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI đã thực sự mở đầu cho công cuộc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước một cách cơ bản, mạnh mẽ và toàn diện. Từ đây đổi mới doanh nghiệp nhà nước được đặt trong tổng thể đổi mới nền kinh tế nói chung.Trên cơ sở phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ theo hướng đa dạng hoá, toàn cầu hoá thì việc phát triển trong chính các doanh nghiệp, các công ty đang là một mối quan tâm sâu sắc. Để tạo sức cạnh tranh, phát triển nhiều loại hình hàng hoá,Nhà nước đã thực hiện sáp nhập khoảng 3.000 doanh nghiệp vào các doanh nghiệp khác có liên quan về công nghệ, thị trường và giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp. Nhờ đó đã nâng quy mô vốn bình quân của DNNN từ 3,1 tỷ lên 11,5 tỷ đồng, giảm bớt tài trợ của ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp bị thua lỗ và thúc đẩy các DNNN phải hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp, công ty đẩy mạnh sản xuất, tạo sản phẩm mới phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Đây là yếu tố chính để đẩy mạnh phát triển chất lượng cũng như giảm giá thành của sản phẩm. Mạng lưới của công ty, doanh nghiệp được mở rộng đến nhiều tỉnh thành trong cả nước mở rộng hơn thị trường hàng hoá, dịch vụ. Phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của người dân, cũng chính vì thế mà số lượng sản phẩm sản xuất được ngày càng nhiều và chất lượng cũng được khắc phục hơn.Khi đã phát triển được thị trường trong nước, Nhà nước còn quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển thị trường hàng hoá ở nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh và thu ngoại tệ. Chính vì vậy cần chú trọng hơn đến việc xây dựng thương hiệu, đổi mới, quảng bá hình ảnh của sản phẩm. Để đáp ứng nhu cầu thực tế của người tiêu dùng cũng như chất lượng của hàng hóa, dịch vụ thì đội ngũ quản lý cũng cần phải được quan tâm chú trọng hơn nữa. Quản lý được đẩy mạnh, phát triển trình độ theo nhu cầu mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc lưu thông hàng hoá, phát triển dịch vụ. d. Ngành du lịch, dịch vụ là một nghành chính được đặc biệt quan tâm đẩy mạnh trong thời kì phát triển CNH- HĐH. Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ôn hoà và nhiều danh lam thắng cảnh đẹp đã tạo điều kiện tốt cho việc phát triển du lịch trong nước. Đổi mới, quan tâm phát triển, khai thác tiềm năng các điểm du lịch trong nước. Các nghành hàng không, vận tải , bưu chính viễn thông…cũng được sự quan tâm phát triển của nhà nước. Nhiều chính sách đổi mới đã được áp dụng triệt để, nhằm đáp ứng nhu cầu phân phối hàng hoá trong nước, đẩy mạnh chất lượng dịch vụ. Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành tăng cường năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất khẩu, thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành sản phẩm. Về cơ chế tạo nguồn vốn đầu tư phải huy động bằng nhiều nguồn, nhưng trong đó phải kể đến nguồn vốn từ ngân sách ưu đãi đầu tư của nhà nước và các nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, vốn đầu tư nước ngoài. Có nhiều chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu để giảm nhập khẩu (hàng không, tàu biển). Những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá và dịch vụ. a. Thị trường gắn liền với phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá. Để phát triển và mở rộng thị trường hàng hoá thì vấn đề nâng cao chất lượng hàng hoá được quan tâm chú ý, năng suất lao động được đẩy mạnh. Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, cơ hội nhiều hơn nhưng thách thức cũng không phải là ít. Chính vì vậy mà quá trình chuyên môn hoá trong sản xuất cần được áp dụng triệt để, tạo chất lượng sản phẩm cao và đồng bộ. Nhưng thực tế quá trình chuyên môn hoá chưa thực sự thu được kết quả như mong muốn. Nhà nước vẫn đang nỗ lực để có thể thay đổi được tình hình trên. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất khẩu cũng được chú ý. Nước ta có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên nên việc phát triển xuất khẩu hàng nông sản trở thành thế mạnh, đặc biệt là: gạo, cà phê, hồ tiêu, cá tra, cá ba sa... Xuất khẩu hàng lương thực, thực phẩm của nước ta ngày càng phát triển, mở ra một thị trường hàng hoá, dịch vụ rộng lớn. Bên cạnh đó, quá trình xuất khẩu còn gặp một số trục trặc khi các nước nhập khẩu ngày càng sử dụng nhiều rào cản trong quan hệ thương mại quốc tế, cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt, dẫn đến sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng giảm xuống. Ngoài ra thị trường giá thế giới biến động phức tạp, tăng giảm thất thường (gạo, dầu thô...), thông tin thị trường thế giới thiếu và không chính xác đã tác động nhiều tới kim ngạch xuất khẩu. b. Gắn liền nhu cầu cuộc sống xã hội với nhu cầu của nền kinh tế. Việc đặt nhu cầu của người tiêu dùng lên hàng đầu là yếu tố quan trọng nhất giúp phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ. Nhiều mặt hàng mới được thay đổi hình thức mẫu mã cũng như chất lượng. Đa dạng hoá loại hình dịch vụ tạo điều kiện cạnh tranh phục vụ nhu cầu cuộc sống. Quan tâm sản xuất nhiều sản phẩm thiết thực, phong phú hơn, gần gũi hơn với đời sống của người tiêu dùng. Chính sự cạnh tranh của các sản phẩm đã đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, giá thành sản phẩm cũng được thay đổi treo chiều hướng tốt cho người tiêu dùng. Chính sự cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đã thúc đẩy quá trình xây dựng quảng bá hình ảnh, thương hiệu, từ đó Marketing ở Việt Nam được quan tâm chú trọng phát triển. Quá trình tiếp cận khách hàng được đẩy mạnh, đây là một dấu hiệu tốt cho quá trình phát triển thị trường hàng hoá trong nước. Dịch vụ du lịch được mở rộng hơn, gắn liền với nhu cầu thiết thực của xã hội, chất lượng dịch vụ được đưa lên hàng đầu. Dịch vụ du lịch phát triển góp phần tăng ngoại tệ, phát triển nền kinh tế trong nước. c. Công tác quản lý của cơ quan có thẩm quyền ảnh hưởng trực tiếp đến hàng hoá, dịch vụ. Quá trình quản lý hàng hoá của nhà nước ảnh hưởng một cách trực tiếp đến sự phát triển chất lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều đổi mới. Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường. Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hoạt động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Các thủ tục hành chính cản trở, gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục được sửa đổi và bãi bỏ. Dù những đổi mới trên đây còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng những tác động tích cực cuả những thay đổi đó với thị trường đã thấy rõ và đặt ra sự đòi hỏi cấp thiết hơn . Vấn đề kiểm soát hàng lậu, hàng trốn thuế, hàng nhái hành giả, hàng kém chất lượng được chú trọng quan tâm. Có nhiều biện pháp trong quá trình kiểm tra, thu hồi và sử lý sản phẩm kém chất lượng sẽ tạo điều kiện an toàn thuận lợi hơn cho thị trường hàng hoá trong nước. Quan hệ kinh tế giữa các cá nhân , giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối phần lớn khâu bán buôn, tỷ trọng bán lẻ giảm xuống trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tham gia vào thị trường nội địa. Điều đó đã tạo một môi trường cạnh tranh ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cũng như số lượng hàng hoá. Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành tăng cường năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất khẩu, thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành sản phẩm. Nhóm các chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu để giảm nhập khẩu. Nhiều loại hình sản xuất, phân phối được áp dụng hơn trong quá trình lưu thông hàng hoá. Những vấn đề ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ. Bước đầu còn sơ khai, non trẻ nên chưa có sự thống nhất trong toàn quốc. Tình hình cơ sở hạ tầng trong nước còn rất thấp kém, rời rạc. Đây chính là yếu tố kìm hãm sự phát triển của thị trường hàng hoá trong nước cũng như việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Sản xuất chưa thực sự được quy hoạch, đầu tư chuyên môn hóa nên chất lượng sản phẩm và cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. Nền kinh tế ban đầu theo cơ chế kinh tế kế hoạch, giao dịch chỉ là giao dịch chỉ là việc giao và nhận các sản phẩm nhằm thực hiện các nghĩa vụ có tính pháp lệnh của nhà nước lập kế hoạch. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trên thị trường chưa xuất hiện và gặp nhiều khó khăn trong vấn đề vốn đầu tư. Trước tình hình đó, việc đầu tư vào các khu trung tâm du lịch, giải trí cũng chưa được quan tâm phát triển Việc xây dựng các điểm du lịch, khu du lịch chưa được quan tâm thích đáng, ngược lại do lợi nhuận trước mắt trong nghề kinh doanh khách sạn dẫn đến đầu tư và cấp giấy phép xây dựng, nâng cấp khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ tràn lan gây nên tình trạng cung về buồng khách sạn vượt quá cầu, giá thuê phòng hạ , công suất sử dụng buồng, phòng thấp , đặc biệt là ở Tp HCM và Hà nội . Công tác tuyên truyền quảng bá du lich còn yếu kém. Đến nay, toàn ngành đã có 90 công ty lữ hành quốc tế, nhưng số công ty có văn phòng, chi nhánh ở nước ngoài còn quá ít chưa nói đến quy mô và chất lượng hoạt động. Công tác phối hợp thông tin giữa ngành du lịch Việt Nam với các ngành khác để tuyên truyền, quảng bá cho du lịch Việt Nam còn chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. b. Các thành phần kinh tế rất đông đảo, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Hiện nay, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối 70- 75% khâu bán buôn, tỷ trọng bán lẻ chỉ còn 20- 21% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ.Sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chưa được chặt chẽ . Hệ thống hợp tác xã vẫn còn phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi song chỉ còn chiếm trên dưới 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tham gia vào thị trường nội địa, chiếm tỷ trọng khoảng 3% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Số liệu thống kê chi tiết ở bảng 1 bên dưới. Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế (giá hiện hành) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng số Trong đó Quốc doanh Tập thể Tư nhân Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) 1990 19031,2 5788,7 30,4 519,2 2,7 519,2 66,9 1991 33403,6 9000,8 26,9 662,4 2,0 662,4 71,1 1992 51214,5 12370,6 24,2 563,7 1,1 563,7 74,7 1993 67273,3 14650,0 21,8 612,0 0,9 612,0 77,3 1994 93940,0 22921 24,4 751,5 0,8 751,5 74,8 1995 121160,0 27367,0 23,6 1060,0 0,9 1060,0 75,5 1996 145874,0 31123,0 23,3 1358,0 0,9 1358,0 75,8 1997 161899,7 32369,2 22,0 1244,6 0,8 1244,6 77,2 1998 185598,7 36093,8 19,4 1212,6 0,7 1212,6 79,9 1999 200923,7 37500,0 18,6 1400,0 0,7 1400,0 80,7 2000 220400 39231,2 17,8 1763,2 0,8 1763,2 81,4 2001 245300 40965,1 16,7 2453,0 1,0 2453,0 82,3 2002 277000 45428 16,4 3601 1,3 3601 82,3 2003 310500 50301 16,2 4036,5 1,3 4036,5 82,5 Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003- c. Ảnh hưởng bởi quan hệ cung cầu trên thị trường Đây là một yếu tố hoàn toàn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường, quy luật cung- cầu trong quá trình tự do hoá.Trước đây nhiều mặt hàng phải nhập khẩu thì hiện nay nước ta đã có thể đáp ứng được các nhu cầu trong nước và còn có thể tiến tới xuất khẩu. Nhu cầu đa dạng, phát triển và thu nhập tăng lên đã làm cho cầu thị trường phong phú và biến đổi khôn lường. Tác động cung- cầu đã tác động trực tiếp đến vấn đề phát triển hàng hoá và dịch vụ trong nước. Những nhà kinh doanh thành đạt đều phải xuất phát từ đòi hỏi của khách hàng, bảo đảm chất lượng hàng hoá, giá cả phù hợp và có dịch vụ tối ưu. Cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả từng bước nhường chỗ cho cuộc cạnh tranh bằng dịch vụ. Từ chỗ dịch vụ chỉ là hoạt động yểm trợ bán hàng đã phát triển thành địa hạt của các nhà đầu tư kinh doanh. Ngành kinh doanh dịch vụ ra đời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, quá trình thương mại hoá cũng ảnh hưởng tích cực đến thị trường sản xuất. d. Việc phát triển thị trường quốc tế cả về chất và lượng. Sự kiện Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế trên thế giới là một tiền đè quan trọng trong quá trình phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ, tạo nhiều cơ hội đẩy mạnh sản xuất hàng hoá trong nước. Hàng hoá trong nước được quan tâm hơn về nhiều lĩnh vực, tạo sức cạnh tranh lớn của hàng hoá trong nước với hàng hoá trên thế giới, chính những điều kiện ấy đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến giá cả và chất lượng hàng hoá. Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa. Đó là tín hiệu tốt lành với nền kinh tế vì nó tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh Việt Nam, đồng thời nó cũng tạo ra áp lực và nguy cơ lớn cho sản xuất và kinh doanh trong nước. Điều này cũng cho thấy rằng sự hội nhập của thị trường trong với thị trường khu vực và quốc tế là tất yếu. Vấn đề là chủ động đón nhận và có phương thức ứng xử thích hợp để chuyển từ ngoại lực thành nôị lực. Trong điều kiện hiện tại của nước ta vấn đề chiếm lĩnh thị trường nội địa, chính sách thay thế hàng nhập khẩu có vị trí đặc biệt quan trọng. Do chính sách của nền kinh tế, hàng hoá ngoại nhập tràn ngập thị trường nội địa. Hàng ngoại đang có ưu thế so với hàng sản xuất trong nước. Thêm vào đó là sự yếu kém về chất lượng, giá cả, quy cách, chủng loại của hàng nội địa và tâm lý sùng bái hàng ngoại đã làm cho hàng nội yếu thế. Vấn đề này tác động trực tiếp đến giá cả của hàng hoá trên thị trường. e. Sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nước đối với thi trường. Trước những năm 1990, quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại được kế hoạch hoá tập trung. Còn về giá cả thì thực hiện chính sách định giá cứng cho từng loại hàng, duyệt chiết khấu cho từng khâu lưu thông, ấn định giá bán riêng cho từng đối tượng hưởng thụ, giá cả riêng biệt theo từng chính sách phân phối cụ thể.,chính thức tuyên bố chính sách đổi mới, ra đời hệ thống « giá kinh doanh chính thức ».Chế độ tem phiếu được xoá br với một số lượng lớn hàng hoá, giá chính thức của hàng hoá không thiết yếu được nâng lên mức gâng với thị trường tự do. Chính sách tiền tệ thắt chặt năm 1990-1992 được áp dung, sử dụng sự sai lệch về lãi xuất và miễn thuế nhằm hỗ trợ khu vực quốc doanh. Các nguồn lực có thể được phân bổ cho các đơn vị quốc doanh sau đó nguồn lực này được sử dụng để tạo ra những hàng hoá mang lại lợi nhuận cao.Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường. Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hạot động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Bộ máy quản lý Nhà nước về thị trường, thương mại đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giản, hiệu quả. Các thủ tục hành chính cản trở, gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục được sửa đổi và bãi bỏ. Kết hợp đồng hành cùng chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định giá tiêu dung, đảm bảo nhu cầu thiết thực của người tiêu dùng. Nhà nước áp dụng chính sách tăng thuế nhập khaaur và phí về các dịch vụ công cộng. Điều này ảnh hưởng một cáh trực tiếp đến giá cả hàng hoá, giảm hàng lậu, hnàg kém chất lượng trên thị trường. Mặc dù những thay đổi trên còn châm chạp nhưng đã ít nhiều tác động tích cực dến nền kinh tế hàng hóa trong nước, đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cấp thiêt hơn đối với thị trường trong nước. f. Ngành dịch vụ cũng có một vị trí quan trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào sản xuất hàng hoá được quan tâm chú trọng và có định hướng rõ ràng. Nguồn vốn đầu tư vào giao thông vận tải và bưu chính viễn thông tương đối lớn, đạt 142 nghìn tỉ.Trong năm 2004, vốn đầu tư ttoàn ngành giao thông vận tải thực hiện 14816 tỷ đông(125,46% kế hoạch), giải ngân 11378 tỷ đồngtrong đó : Vốn ngân sách( gồm cả ODA) thực hiện 8040 tỷ, giải ngân 7054 tỷ Vốn tín dụng ưu đãi thực hiện và giải ngân 473 tỷ Vốn trái phiếu chính phủ thực hiện 4347 tỷ, giải ngân khoảng 2500 tỷ( 64,02% kế hoạch).Huy động 1028 tỷ từ các dự án BOT.( Nguồn : tài liệu Kinh tế xã hội Việt Nam trước thềm hội nhập- NXB Bộ kế hoạch và đàu tư) Nguồn vốn đặt ra được dùng vào viẹc phát triển thị trường hàng hóa, giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng. Xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển mạng viễn thông với cấu trúc mạng thế hệ mới, tiếp tục cáp quang hoá 100% các tuyến trục liên tỉnh ,và nội tỉnh, hình thành xa lộ thông tin trục Quốc gia, cung cấp các dịch vụ thoại và truyền số liệu trên cơ sở hạ tầng thông tin thống nhất, tiếp tục phát triển điện thoại di động truyền thống, phát triển di động băng hẹp CDMA nội tỉnh, Phổ cập dần dịch vụ Internet công cộng, phóng và khai thác hiệu quả vệ tinh viễn thông Việt nam. Báo cáo ghi lại những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược có sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, trong đó có con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt. Tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002, và trong cùng khoảng thời gian, số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lến 25% dân số. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khoa học kĩ thuật, áp dụng khoa học kĩ thuật vào tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá. Công tác này đang dần được hoàn thiện, hầu hết việc thanh toán ở các siêu thị, trung tâm buôn bán đều được giao dịch nhờ hệ thống thông tin công nghệ cao. Xây dựng, nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Áp dụng vận chuyển, lưu thông hàng hoá dịch vụ và ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin để giảm giá thành, kích thích sức mua, kinh doanh có hiệu quả . Đối với thị ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27584.doc