Giải pháp phát triển thi trường chứng khoán Việt Nam

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Lý do chọn đề tài. Trong tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường đặc biệt là sau khi Việt Nam tham gia tổ chức thương mại quốc tế WTO 7/11/2006, nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập một cách sâu rộng thì việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng, mục tiêu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nắm vữn

docx63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển thi trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tạo ra những động lực mới, những đột phá mới, từ tư duy đến thực tiễn để sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng chậm phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ở nước ta đã chỉ ra rằng qua 10 năm thành lập và phát triển từ tháng 7/2000, TTCK đã đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, nó vẫn còn rất nhiều yếu tố rủi ro chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp. Mục tiêu của đề tài. Đề tài nhằm tìm hiểu, phân tích và đánh giá một cách có hệ thống TTCK, phân tích các rủi ro gắn liền với các loại chứng khoán, để làm cơ sở lý giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam kết hợp với việc đánh giá thực trạng cơ sở vật chất. Từ đó, đề xuất một số chiến lược phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu qua các phương tiện thông tin như wedsite, tivi…Qua các sách báo, tạp chí kinh tế, chứng khoán,... Phương pháp xử lý số liệu: Lý luận cơ bản là chủ yếu sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp các biến động của thị trường qua các năm qua đó có thể thấy thực trạng TTCK trong những năm qua, trong hiện tại và những định hướng trong tương lai từ đó, đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Chủ yếu nghiên cứu những biến động của TTCK Việt Nam từ đầu năm 2010 đến nay. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm: Lời mở đầu Phần 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam Phần 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam Phần 3: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Kết luận CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1 Lý luận về thị trường chứng khoán 1.1.1 Khái niệm TTCK TTCK là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Cũng có định nghĩa cho rằng TTCK là thị trường vốn mua bán các giấy nợ trung, dài hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ phiếu. Các công cụ trên TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp. Các công cụ trên thị trường vốn thường có thời hạn dài như trái phiếu, cổ phiếu…nên có mức rủi ro cao do đó giá cả của nó dao động mạnh hơn so với các công cụ của thị trường tiền tệ vì vậy phải có cơ chế phát hành và lưu thông chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và thiệt hại cho nền kinh tế. 1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển. Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ sau đó tăng dần rồi hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “ thị trường”. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London (Anh), nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán, … với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia vào thị trường đó. Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước. 1.1.3. Phân loại TTCK Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán, TTCK được chia làm 2 cấp: - Thị trường sơ cấp (hay thị trường phát hành): Là hoạt động chào bán ra công chúng lần đầu tiên một loại chứng khoán của Chính phủ hay doanh nghiệp, đó chính là việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Trừ trái phiếu chính phủ, tất cả các tổ chức kinh tế muốn phát hành chứng khoán đều phải được phép của Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN ). Thông thường việc phát hành CK ra công chứng được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư,… - Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành CK là hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu CK từ nhà đầu tư này sang nhà đầu tư khác. Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần. - Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Thị trường sơ cấp là tiền đề cho hoạt động của thị trường thứ cấp vì nó tạo ra hàng hóa cho thị trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp. Chính việc mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp đã tạo ra tính thanh khoản cho CK, đó là tính chất dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Các nhà đầu tư nắm giữ các loại CK thường nhắm các cơ hội bán đi CK để kiếm lời, chính tính thanh khoản đã thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK. Căn cứ vào tính chất pháp lý của hình thức tổ chức thị trường chia ra: TTCK tập trung (SGDCK) hay TTCK không tập trung (thị trường OTC). - TTCK tập trung: Là địa điểm hoạt động chính thức của các giao dịch chứng khoán gọi là SGDCK. Đó là nơi các nhà môi giới kinh doanh chứng khoán gặp gỡ để đấu giá, thương lượng mua bán chứng khoán cho khách hàng hay cho chính mình theo những nguyên tắc và quy chế giao dịch của SGDCK đề ra trên cơ sở của Luật chứng khoán. - TTCK không tập trung (thị trường OTC): là hoạt động giao dịch của CK không thông qua SGDCK, mà thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên với phương thức giao dịch thông qua mạng điện thoại và mạng máy tính. Căn cứ vào phương thức giao dịch của thị trường, chia ra 2 loại thị trường: - Thị trường giao ngay (Spot market): Là thị trường của những giao dịch CK mà lệnh của khách hàng được thực hiện ngay căn cứ vào giá trị hiện tại và sẽ thanh toán ngay hoăc vào một ngày gần sau đó. - Thị trường kỳ hạn hay thị trường tương lai (Future market):Là thị trường của các hợp đồng tương lai và các công cụ dẫn xuất từ chứng khoán. Hợp đồng được ký kết căn cứ vào giá cả hiện tại, nhưng giao dịch thanh toán lại diễn ra một ngày ở tương lai trong kỳ hạn. 1.2 Chức năng của TTCK 1.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Vai trò quan trọng đầu tiên của TTCK là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để hình thành các nguồn vốn lớn có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển kinh tế cũng như tài trợ tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Thực tiễn đã chứng minh TTCK là công cụ huy động vốn hết sức hiệu quả. 1.2.2 Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. TTCK tạo ra cơ hội thuận tiện khuyến khích xã hội tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách có hiệu quả, qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ tạo ra một nguồn vốn lớn cho đầu tư. Mặt khác, trong xã hội cũng tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung: Ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm,… đều có mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng các quỹ tiền tệ này cũng chỉ phát huy hết tác dụng của nó khi có một TTCK tồn tại song hành với nó. 1.2.3 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. TTCK cung cấp cho xã hội một môi trường đầu tư lành mạnh với nhiều cơ hội lựa chọn các loại CK trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro cho phép khách hàng có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu, sở thích của mình. 1.2.4 Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Các chỉ số của TTCK phản ánh sinh động thực trạng của nền kinh tế một cách nhanh chóng và chính xác nhất. Giá CK tăng cho thấy đầu tư đang được mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại giá CK giảm cho thấy những dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Có thể nói TTCK là phong vũ biểu của nền kinh tế, là công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô. 1.2.5 Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán. Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các chứng khoán khác khi họ muốn, đây là yếu tố linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. 1.2.6 Đánh giá giá trị doanh nghiệp. Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện từ đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1.3 Sở giao dịch chứng khoán 1.3.1 Khái niệm. SGDCK là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức tuân theo những luật định nhất định. SGDCK không tham gia vào việc mua bán chứng khoán, không tham gia vào việc ấn định và can thiệp giá chứng khoán mà là nơi gặp gỡ các nhà môi giới chứng khoán để thương lượng đấu giá, mua bán chứng khoán, là cơ quan phục vụ cho hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán. 1.3.2 Hình thức sở hữu. SGDCK là một tổ chức có tư cách pháp nhân, được thành lập theo qui định của luật pháp, SGDCK có thể có các hình thức sau: + Là một tổ chức vận hành theo nguyên tắc thành viên. + Là một tổ chức do chính phủ sở hữu. 1.3.3 Chức năng của SGDCK + Tổ chức quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán. + Quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán. + Cung cấp các dịch vụ liên quan đến mua bán chứng khoán. 1.4 Hàng hóa của thị trường chứng khoán 1.4.1 Cổ phiếu 1.4.1.1 Khái niệm Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Khi một công ty cổ phần huy động vốn để thành lập hoặc mở rộng, hiện đại hoá sản xuất, họ chia số vốn cần huy động thành những phần nhỏ bằng nhau, gọi là cổ phần, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào công ty bằng cách mua các cổ phần. Khi đó, các nhà đầu tư trở thành cổ đông. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. 1.4.1.2 Đặc điểm của cổ phiếu Hình thức cổ phiếu: Cổ phiếu có thể tồn tại dưới dạng chứng chỉ hoặc dưới dạng tài khoản hay bút toán ghi sổ (các cổ đông nắm giữ giấy báo Có số tiền trên tài khoản của mình). Hình thức thứ hai còn được gọi là chứng khoán phi vật thể hay chứng khoán phi vật chất. Hình thức cổ phiếu do Bộ tài chính phát hành, thống nhất trên toàn quốc. Công ty cổ phần nào niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán thì mẫu cổ phiếu phải do Nhà nước quản lý. Thời hạn cổ phiếu: Thời hạn của cổ phiếu gắn chặt với thời hạn hoạt động của công ty cổ phần phát hành ra nó. Về nguyên tắc, cổ đông chỉ được hoàn vốn khi công ty cổ phần chấm dứt hoạt động. Trên thực tế, rất ít khi một công ty đang hoạt động hiệu quả mà lại giải thể. Còn một khi công ty hoạt động kém hiệu quả buộc phải giải thể thì khả năng hoàn vốn cho cổ đông là rất nhỏ. Do đó, cổ phiếu được coi như một loại chứng khoán vĩnh viễn, vô thời hạn. Trên thực tế, vẫn có những loại cổ phiếu được hoàn vốn và điều này do Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Mệnh giá cổ phiếu: Mệnh giá, hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho cổ phiếu, ghi trên bề mặt cổ phiếu, xác định số tiền tối thiểu mà công ty phát hành phải nhận được trên mỗi cổ phiếu. Mệnh giá chỉ có giá trị vào thời điểm phát hành lần đầu để huy động vốn và không tác động đến giá trị thị trường của cổ phiếu. Ở Việt Nam, mệnh giá của cổ phiếu niêm yết tại SGDCK được quy định thống nhất là 10.000 VND. 1.4.1.3 Phân loại cổ phiếu + Phân loại theo quyền lợi cổ đông + Phân loại theo thị trường huy động vốn 1.4.2 Trái phiếu 1.4.2.1 Khái niệm Trái phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc chứng từ ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. 1.4.2.2 Đặc điểm của trái phiếu Trái phiếu có mệnh giá: Mệnh giá trái phiếu có thể do luật định hoặc do tổ chức phát hành quy định. Ở Việt Nam, mệnh giá trái phiếu doanh nghiệp nhà nước và trái phiếu chính phủ sẽ do Nhà nước quy định trên cơ sở đề nghị của Bộ tài chính và quyết định cho từng đợt phát hành trái phiếu.Theo quy định hiện hành là 100.000 VND và các bội số của 100.000 VND. Trái phiếu có thời hạn: Thời hạn của trái phiếu là thời hạn đi vay của tổ chức phát hành đối với trái chủ và được ghi rõ trên bề mặt trái phiếu. Trái phiếu có thể được hoàn vốn khi đáo hạn, nhưng cũng có thể được hoàn vốn trước hạn toàn bộ hay từng phần, do đó, thời hạn trung bình (thời gian mà toàn bộ 100% số tiền của trái phiếu được sử dụng) của trái phiếu có thể có thể bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đáo hạn của trái phiếu. Trái phiếu có quy định lãi suất và thời hạn trả lãi: Mỗi trái phiếu đều ghi cam kết của tổ chức phát hành thanh toán cho người sở hữu trái phiếu một số tiền lãi cố định vào một ngày nhất định. Số lãi thường được ghi là một tỷ lệ phần trăm của mệnh giá trái phiếu, gọi là lãi suất. 1.4.2.3 Phân loại trái phiếu Trái phiếu công ty: Là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau: Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau: - Trái phiếu có đảm bảo: Là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể. - Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định. Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là: - Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn. - Trái phiếu có thể bán lại: Cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn. - Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Trái phiếu chính phủ và các cơ quan nhà nước Trái phiếu chính phủ: Là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ. Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn. Trái phiếu công trình: Là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành. 1.4.3 Các chứng khoán phái sinh. Khi thị trường chứng khoán ngày càng phát triển, bên cạnh hai công cụ lưu thông chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu, còn xuất hiện các giao dịch mua bán các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán, bao gồm những loại sau: Chứng quyền. Chứng quyền là một chứng thư do công ty phát hành cho các cổ đông hiện hữu, trong đó quy định cổ đông đó được quyền mua một lượng cổ phiếu mới phát hành theo giá quy định thấp hơn giá thị trường trong một thời gian nhất định. Chứng quyền chỉ tồn tại ở dạng chứng thư, không có chứng quyền tài khoản, có thời hạn hiệu lực ngắn và trong thời hạn đó, hiệu lực của nó là không thể huỷ ngang. Trên chứng quyền có ghi rõ số lượng quyền mua cổ phiếu mới và giá mua ưu đãi. Chứng quyền là một loại hàng hoá đặc biệt được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán, giá của nó phụ thuộc giá trị của chứng quyền, thời hạn còn lại của chứng quyền, xu hướng biến động về thị giá của cổ phiếu ấn định trong chứng quyền. Bảo chứng phiếu Bảo chứng phiếu là một chứng thư do tổ chức phát hành ra cho tất cả những người mua cổ phiếu và trái phiếu mới của công ty khi có đợt phát hành mới. Người nắm giữ bảo chứng phiếu được quyền mua một lượng cổ phiếu và trái phiếu nhất định theo một giá quy định trong tương lai. Giá đó thường cao hơn giá phát hành. Mục đích của việc phát hành bảo chứng phiếu là nhằm tạo ra một nhu cầu tiềm ẩn đối với cổ phiếu và trái phiếu của công ty mình trong tương lai. Các công ty phát hành chứng minh một cách gián tiếp là cổ phiếu và trái phiếu của mình sẽ tăng giá trong tương lai, hoặc mức giá hiện tại là còn ở mức khuyến mại. Cam kết trong bảo chứng phiếu cũng là một cam kết không thể huỷ ngang trong suốt thời hạn hiệu lực. Thời hạn của bảo chứng phiếu là dài hạn hoặc vô hạn. Khi phát hành, giá trị nội tại của bảo chứng phiếu là bằng không, nhưng nó sẽ có giá trị trong tương lai. Thị giá của chứng phiếu tuỳ thuộc vào các yếu tố như giá chuyển đổi, thời hạn còn lại trên chứng khế, giá trị cổ phiếu cơ bản. Hợp đồng quyền chọn. Đây là loại hợp đồng được ký kết giữa một bên là “người ký phát” và một bên là người mua hợp đồng, trong đó cho phép người mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một lượng chứng khoán, với một giá cả nhất định, trong một thời hạn quy định trong tương lai. Hợp đồng quyền chọn cũng là một loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Hiện nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các giao dịch hợp đồng quyền chọn trên thị trường chứng khoán rất phát triển Hợp đồng tương lai. Hợp đồng tương lai là hợp đồng giữa người bán và người mua, trong đó người bán cam kết giao một số lượng nhất định chứng khoán và người mua sẽ trả tiền khi nhận số chứng khoán đó với một giá nhất định, tại một ngày nhất định trong tương lai, được xác định trước tại thời điểm ký kết hợp đồng. Hợp đồng tương lai là những hợp đồng chuẩn theo mẫu, trong đó các điều khoản và điều kiện của hợp đồng được xác định trước, được quy định cụ thể theo các nguyên tắc giao dịch và thống nhất về số lượng, chất lượng chứng khoán phải giao, địa điểm giao hàng và nhiều quy định cụ thể khác. Với hợp đồng tương lai, số tiền đặt cọc của các bên thường lớn, có khi đến 100%, phí hoa hồng mua bán hợp đồng tương lai thường rất cao, việc thanh toán mua bán các hợp đồng này thường được thực hiện ngay qua tài khoản mở tại trung tâm thanh toán bù trừ. 1.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. 1.5.1 Nhà phát hành. Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán, hàng hoá của thị trường chứng khoán: - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng,... phục vụ cho hoạt động của họ. 1.5.2 Nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những người mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. 1.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán. - Công ty chứng khoán. - Quỹ đầu tư chứng khoán. - Các trung gian tài chính. 1.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán. - Cơ quan quản lý Nhà nước. - Sở giao dịch chứng khoán. - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. - Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. - Công ty dịch vụ chứng khoán: + Các tổ chức tài trợ chứng khoán. + Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm. 1.6. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK. 1.6.1 Nguyên tắc hoạt động. Sự hoạt động của TTCK là rất phức tạp, nhưng nhìn chung nó hoạt động tuân theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc trung gian. TTCK hoạt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện mà do người môi giới trung gian thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoạt động của TTCK. Nguyên tắc trung gian nhằm bảo đảm các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. Nguyên tắc đấu giá. Mọi việc mua bán chứng khoán đều phải tuân thủ theo nguyên tắc đấu giá. Hiện nay có ba hình thức đấu giá cơ bản: - Đấu giá trực tiếp: Các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau (thông qua một trung gian). - Đấu giá gián tiếp: Là hình thức các môi giới không trực tiếp gặp nhau. - Đấu giá tự động: Là hình thức đấu giá qua hệ thống nối mạng giữa máy chủ và các cơ sở giao dịch với hệ máy của các công ty chứng khoán thành viên. Nguyên tắc công khai. Là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán ra công chúng đều được công khai, như là các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính. Kết quả kinh doanh của các công ty có chứng khoán đăng ký niêm yết trên thị trường, số lượng và giá cả từng loại chứng khoán đã mua bán đều được thông báo công khai trên thị trường và trên các phương tiện thông tin đại chúng. 1.6.2 Điều kiện cho sự hình thành TTCK. Không phải bất kì lúc nào ta muốn thành lập TTCK là có thể thành lập được ngay, muốn TTCK hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo một số những điều kiện nhất định: Điều kiện về cổ phần hoá. Nền kinh tế ổn định tạo tiền đề cho các doanh nghiệp cổ phần theo một lộ trình xác định tạo ra nguồn hàng hóa cho TTCK hoạt động. Chất lượng cổ phần hóa của các doanh nghiệp cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của TTCK . Điều kiện pháp lý. TTCK liên quan đến vấn đề sở hữu, quan hệ kinh tế giữa chủ thể và toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy, cần xây dựng kiện toàn hệ thống pháp lý là điều kiện quan trọng cho TTCK phát triển là tiêu đề duy trì lòng tin và bảo vệ các nhà đầu tư. Điều kiện kỹ thuật và tổ chức. Để giúp cho hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, hiệu quả cần xây dựng một hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin, hệ thống thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá thích hợp đáp ứng được khối lượng giao dịch, mặt khác tính được xu hướng mở rộng của thị trường và khả năng có thể nâng cấp trên cơ sở có sẵn. Bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK cần phát triển các tổ chức hoạt động trên thị trường: - Các công ty bảo hành phát hành CK. - Các công ty môi giới CK. - Các công ty giao dịch CK cho chính mình. - Các quỹ đầu tư. - Tổ chức tư vấn. - Nhân viên giao dịch. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đồng thời phát triển các công ty kiểm toán trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía: các tổ chức CK, các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Điều kiện về con người. Nhân tố con người đóng vị trí hết sức quan trọng đối với sự thành công của TTCK. Vì đây là một ngành rủi ro cao nên phải có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, nghiệp vụ và có tư cách. Vì vậy cần đào tạo cán bộ cho TTCK, thực hiện trước khi thành lập TTCK. - Cán bộ quản lý giám sát thị trường, công tác tại Ủy ban chứng khoán. - Cán bộ quản lý, điều hành tại sở giao dịch CK và tại các hệ thống phụ trợ. - Nhân viên KDCK tại các công ty KDCK. 1.7 Một số định chế tài chính trung gian Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. 1.7.1 Chức năng. Chức năng tạo vốn. Các trung gian tài chính huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, hình thành các quỹ tiền tệ tập trung. Bằng cách trả lãi suất, các trung gian tài chính đem lại lợi ích cho người có tiền tiết kiệm và đồng thời cũng làm lợi cho chính mình trong giai đoạn cung ứng vốn. Chức năng cung ứng vốn. Trong nền kinh tế thị trường, người cần vốn là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước. Tổ chức tài chính trung gian sẽ đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn và nhận được một khoản lợi nhất định thông qua việc cho vay với lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất các tổ chức này trả cho người tiết kiệm. Chức năng kiểm soát. Các tổ chức trung gian sẽ kiểm soát nhằm giảm tới mức tối thiểu sự rủi ro bằng cách thường xuyên hoặc định kỳ kiểm soát trước khi cho vay, trong và sau khi cho các doanh nghiệp vay vốn. 1.7.2 Các định chế tài chính trung gian. - Ngân hàng thương mại. - Công ty tài chính. - Quĩ tín dụng. - Công ty bảo hiểm. - Công ty chứng khoán. 1.8 Mô hình TTCK Việt Nam. 1.8.1 Cơ quan quản lý TTCK Việt Nam. Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UNCKNN) đã được thành lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 1.8.2 Về sở giao dịch chứng khoán. Ngày 20/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) TP HCM đã chính thức khai trương và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết. Qua 10 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số: 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán TP HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP HCM đã chính thức được khai trương. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. TTGDCK Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998, chính thức đi vào hoạt động từ năm 2005 với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu. Sau 5 năm hoạt động, TTGDCK Hà Nội đã có những bước trưởng thành nhanh và mạnh, thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và công chúng đầu tư. 1.8.3 Cách thức và các loại lệnh được sử dụng trong giao dịch. Việc mua bán chứng khoán trên các thị trường chứng khoán dựa vào các nhà môi giới và nhà kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện việc giao dịch, nhà đầu tư phải cung cấp cho nhà môi g._.iới những thông tin nhất định. Một trong những thông số mà nhà đầu tư phải cung cấp cho nhà môi giới là các loại lệnh mua bán hay Lệnh giao dịch là chỉ thị mua hoặc bán chứng khoán của người đầu tư cho người môi giới của công ty chứng khoán để thực hiện giao dịch. Cách thức đặt lệnh Khi khách hàng muốn giao dịch, họ phải đặt lệnh bằng một trong các hình thức sau đây: - Đặt lệnh trực tiếp tại phòng lệnh của công ty chứng khoán. - Đặt lệnh qua điện thoại. - Qua mạng máy tính nối mạng trực tiếp với phòng lệnh của công ty chứng khoán. Nội dung của mẫu lệnh gồm các thông tin sau: - Lệnh đó là Mua hay Bán, được in sẵn với mẫu khác nhau. - Số lượng. - Tên chứng khoán, mã số loại chứng khoán. - Tên của khách hàng và mã số. - Ngày giờ đặt lệnh. - Thời gian có hiệu lực của lệnh. Các loại lệnh - Lệnh thị trường (lệnh mua bán theo giá thị trường ) Là lệnh chỉ thị cho nhà môi giới mua hoặc bán một chứng khoán theo giá tốt nhất có thể có được trên thị trường (giá cao nhất đối với lệnh bán hoạc giá thấp nhất đối với lệnh mua). Hiện nay, lệnh này chưa được sử dụng ở Việt Nam. - Lệnh giới hạn (LO) là chỉ nhà môi giới không được mua một chứng khoán quá mức giá ấn định trước hoặc bán một chứng khoán thấp hơn mức giá đã chỉ định. Lệnh giới hạn là một lệnh có điều kiện: Khi nhận được lệnh này người môi giới phải mua và bán một số lượng chứng khoán nhất định theo giá đã được ấn định hoặc tốt hơn. - Một lệnh mua có giới hạn chỉ có thể được người môi giới thực hiện ở mức giá đã được ấn định hoặc thấp hơn. Ngược lại, một lệnh bán có giới hạn chỉ được thực hiện ở mức giá đã được ấn định hoặc ở mức giá cao hơn - Lệnh dừng là lệnh chỉ cho người môi giới không được thực hiện việc mua bán cho đến khi giá thị trường lên xuống phù hợp với giá đã ấn định. Có hai loại lệnh dừng mua khi giá chưa lên đến giá ấn định và lệnh dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định. Hiện tại lệnh này chưa được áp dụng tại Việt Nam. - Lệnh ATO là lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh. Khi nhập vào hệ thống, lệnh ATO không cần phải xác định mức giá nhưng sử dụng chữ viết tắt ATO thay cho việc ghi giá. Trong thời gian đặt lệnh, lệnh ATO được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên trước lệnh giới hạn. Khi hệ thống tiến hành khớp lệnh, lệnh ATO được coi là lệnh có ưu tiên thực hiện đầu tiên. Nếu lệnh ATO chỉ được khớp một phần hoặc không được khớp, hệ thống giao dịch sẽ huỷ bỏ toàn bộ số chứng khoán còn lại không được giao dịch sau khi khớp lệnh (tức là lệnh ATO chỉ có giá trị trong một đợt khớp lệnh và không có giá trị trong đợt khớp lệnh tiếp theo). Lệnh ATO được sử dụng trong đợt khớp lệnh định kỳ thứ nhất. - Lệnh ATC giống lệnh ATO nhưng được sử dụng trong đợt khớp lệnh định kỳ thứ ba. - Lệnh Huỷ mua: Dùng để hủy lệnh đã đặt Mua cổ phiếu. - Lệnh Huỷ bán: Dùng để huỷ lệnh đã đặt Bán cổ phiếu. Chú ý: Lệnh chỉ được Huỷ khi lệnh đặt chưa khớp. 1.8.4 Một số kiến thức khác về TTCK. Chỉ số giá chứng khoán Trên thế giới có nhiều phương pháp tính chỉ số giá chứng khoán khác nhau, nhưng chỉ số giá chứng khoán được tính bằng công thức: HNX-Index = ∑ Pit x Qit ∑ Pio x Qit Trong đó, Pit: Giá thị trường của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại Qit: Số lượng cổ phiếu niêm yết của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại. Pio: Giá thị trường của cổ phiếu I vào ngày cơ sở (gốc i : 1,……, n) VN INDEX = Pt*Qt Po*Qo Trong đó: Pt là giá tại thời điểm hiện tại Po là giá tại thời điểm gốc Qt là số lượng cổ phiếu ở thời điểm hiện tại Q0 là số lượng cổ phiếu ở thời điểm gốc Khớp lệnh định kỳ: Là phương thức giao dịch dựa trên cơ sở tập hợp tất cả các lệnh mua bán trong khoảng thời gian nhất định và tạo ra giá khớp có khối lượng mua bán đạt được là lớn nhất. Những lệnh thoả mãn giá khớp sẽ được thực hiện theo thứ tự ưu tiên về giá và ưu tiên về thời gian. Biên độ giao động giá: Là giới hạn giá chứng khoán có thể biến đổi tối đa trong phiên giao dịch so với giá tham chiếu hiện tại biên độ giao động giá ở các sàn là: Sàn TP.HCM +- 5%, sàn Hà Nội +-7%, sàn Upcom +-10%. Thời gian giao dịch Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, trừ ngày nghỉ lễ theo qui định của nhà nước. HOSE Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư. - Từ 8g30 đến 9g00: Khớp lệnh định kỳ (xác định giá mở cửa). - Từ 9g00 đến 10g15: Khớp lệnh liên tục. - Từ 10g15 đến 10g30: Khớp lệnh định kỳ (xác định giá đóng cửa). - Từ 10g30 đến 11g00: Giao dịch thỏa thuận. - 11g00: Đóng cửa. Đối với trái phiếu. - Từ 8g30-11g00: Giao dịch thỏa thuận - Giờ giao dịch có thể thay đổi khi: + Hệ thống giao dịch gặp sự cố. + Khi có ½ thành viên bị sự cố hệ thống. + Thiên tai, hỏa hoạn hay các sự cố khác không thể khắc phục được. HASTC: Áp dụng phương pháp khớp lệnh liên tục cho cả phiên giao dịch. Đơn vị giao dịch: Là số lượng chứng khoán nhỏ nhất có thể được khớp lệnh tại hệ thống. Đơn vị giao dịch còn được gọi là lô chẵn. Lô chẵn là lô giao dịch có số lượng từ 10 đến 19.990 cổ phiếu. Giao dịch lô chẵn được thực hiện theo phương thức giao dịch khớp lệnh định kỳ tại thị trường giao dịch tập trung. Theo qui định của HOSE đơn vị giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ quĩ đầu tư là 10 cổ phiếu, trái phiếu không qui định lô giao dịch. Còn HASTC đơn vị giao dịch là 100 cổ phiếu hoặc 10 triệu đồng tính theo mệnh giá trái phiếu. Đơn vị yết giá. Đơn vị yết giá được biểu thị qua bảng sau: HOSE Mức giá Đơn vị yết giá <49.900 100 đ 50.000- 99.500 500 đ >100.000 1.000 đ HASTC: Đối với cổ phiếu là 100 đồng, trái phiếu không qui định. Đối với giao dịch thỏa thuận không qui định đơn vị giao dịch và đơn vị yết giá. Ngày thanh toán Theo quy định của Trung tâm giao dịch chứng khoán là ngày T + 3, tức là 03 ngày làm việc sau ngày lệnh được thực hiện (không kể ngày Lễ, ngày nghỉ) có nghĩa: -Khi lệnh mua chứng khoán được thực hiện, sau 03 ngày chứng khoán mới được chuyển về tài khoản của khách hàng. Khi chứng khoán về tới tài khoản thì bạn mới có các quyền đối với số chứng khoán đó. -Khi lệnh bán chứng khoán được thực hiện, sau 03 ngày tiền bán chứng khoán sau mới được chuyển về tài khoản của khách hàng. Trong đó: + Ngày T: Giao dịch. + Ngày T+1: Đối chiếu. + Ngày T+2: Bù trừ. + Ngày T+3: Thanh toán. Ngày giao dịch hưởng cổ tức. Là ngày mà nhà đầu tư mua cổ phiếu trên thị trường sẽ được hưởng cổ tức của công ty phát hành. Ngày giao dịch không hưởng cổ tức. Là ngày mà nhà đầu tư mua cổ phiếu trên thị trường sẽ không được hưởng cổ tức. So sánh cơ bản giữa niêm yết tại HOSE và HASTC. Nội dung HOSE HASTC Điều kiện Điều kiện niêm yết rất cao Điều kiện thấp hơn Thủ tục thông qua trong nội bộ công ty Đại hội đồng cổ đông Đại hội đồng cổ đông Yêu cầu về tổ chức tư vấn Không bắt buộc Không bắt buộc Cơ chế xét duyệt thẩm tra và cấp phép niêm yết 45 ngày làm việc 20 ngày làm việc Cơ quan xét duyệt UBCKNN UBCKNN Cơ chế giao dịch Vốn điều lệ Từ 80 tỷVND(Thực góp) Từ 10 tỷ VND Có lãi 2 năm liền trước năm niêm yết đồng thời không có lỗ lũy kế. 1 năm liền trước năm đăng ký. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. 2.1 Đôi nét về kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2010. Những tháng đầu năm kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều sự biến động lớn. Đầu tiên là tín hiệu hồi phục đã trở nên rõ ràng ở một số khu vực kinh tế chủ chốt, tuy nhiên kinh tế thế giới vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn trên chặng đường hồi phục của mình. Cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu ngày một nghiêm trọng đang đe dọa lên nền kinh tế của các nước khu vực Euro cũng như đe dọa đẩy thế giới đến một khủng hoảng kinh tế mới. Thiên tai liên tục xảy ra ở các khu vực khác nhau với mức độ ngày càng trở nên nghiêm trọng cũng gây những ảnh hưởng nhất định đến sự phục hồi của kinh tế thế giới bên cạnh đó mối đe dọa xảy ra xung đột vũ trang ở các khu vực nhạy cảm như Trung Đông, Nam Mỹ cũng gây ra những áp lực lớn. Tuy vậy, qua 8 tháng đầu năm 2010 này thì những tín hiệu phục hồi ở hầu hết các khu vực trên thế giới đã rất rõ ràng các khu vực kinh tế đều vượt qua khó khăn một cách ngoạn mục và có những bước tăng trưởng tốt, khó khăn đã dần được loại bỏ và tạo lập được lòng tin cho các nhà đầu tư. Dưới đây là biểu đồ thể hiện sức hấp dẫn của một số kinh tế trong năm 2009 và những tháng đầu năm 2010. Theo biểu đồ này thì Việt Nam đứng ở vị trí thứ 60 trong số 66 nước có sức hấp dẫn nhất thế giới. Biểu đồ sức hấp dẫn của các nền kinh tế năm 2009-2010 2.1.1 Nền kinh tế của một số khu vực kinh tế chủ chốt thế giới. Nền kinh tế Mỹ tiếp tục đi lên với mức tăng trưởng 0.3 % trong quý I/2010. Đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng này là sự cải thiện mức chi tiêu cá nhân, xuất khẩu và hoạt động đầu tư khu vực tư nhân. Trong những báo cáo gần đây, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng nền kinh tế đang tiếp tục được cải thiện, cơ quan này cũng nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ từ mức 2.8% - 3.5% lên mức 3.2 – 3.7% trong năm nay. Tuy vậy, quá trình hồi phục vẫn còn chậm và còn chứa đựng nhiều rủi ro thị trường việc làm, tăng lên 9.4% và nhà đất vẫn ảm đạm lượng nhà xây dựng mới giảm 12.8 % mức thấp nhất trong nửa thế kỷ qua. Trong quí II/2010 kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng 0.6% vượt qua mức dự báo của các chuyên gia kinh tế, điều này cho thấy kinh tế Mỹ vẫn đang phục hồi đúng hướng, với sự phục hồi của nền kinh tế lớn nhất thế giới trong nửa đầu năm 2010 sẽ tạo động lực cho kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ trong những tháng đầu năm 2010. Kinh tế châu Âu tăng trưởng chậm, cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng trở nên nghiêm trọng. GDP khu vực EU tăng 0.2% trong quý I, với sự cải thiện của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, sự hồi phục này chưa thật bền vững do sự đe dọa của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế khu vực bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong quí II/2010 khu vực đồng tiền chung EU có những bước tăng trưởng ngoạn mục với mức 1% có được mức tăng trưởng này là do mối đe dọa của cuộc khủng hoảng nợ công đã không còn mạnh mẽ như những tháng đầu năm do nỗ lực của tất cả các chính phủ trong khối UE. Kinh tế Nhật tăng trưởng mạnh nhờ đẩy mạnh xuất khẩu nhờ nhu cầu nhập khẩu từ các nền kinh tế mới nổi khu vực châu Á đã hỗ trợ mạnh mẽ cho kinh tế Nhật những tháng đầu năm 2010. GDP quý I của Nhật tăng 1.2 %, nếu so với cùng kỳ năm ngoái, nền kinh tế này tăng trưởng với tốc độ 4,9%, cao hơn nhiều so với khu vực châu Âu và Mỹ. Tuy vậy, kinh tế Nhật đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó lớn nhất là nợ công và thâm hụt ngân sách đã lên tới mức báo động khiến những chính sách kích cầu, chống giảm phát kinh tế bị hạn chế và sự phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu trong khi nhu cầu nội địa vẫn thấp khiến tăng trưởng của Nhật không bền vững trong điều kiện kinh tế thế giới hồi phục chậm ảnh hưởng tới xuất khẩu ngoài ra, biến động trên chính trường, việc thay đổi thủ tướng và nội các đầu tháng sáu năm nay là cơ hội cho một sự thay đổi về điều hành kinh tế, đồng thời cũng là thách thức lớn cho chính phủ mới thành lập. Trong bối cảnh hiện nay các nền kinh tế mới nổi với nòng cốt là nhóm BRIC (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) lại là động lực mạnh mẽ kéo kinh tế thế giới đi lên. Một số nước đã dần lấy lại đà tăng trưởng của giai đoạn trước khủng hoảng. Mặc dù vậy tăng trưởng quá nóng và nguy cơ lạm phát tại một số nền kinh tế trong nhóm các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ,… đang đặt ra yêu cầu điều chỉnh chính sách, hạ nhiệt kinh tế. Thảm họa cháy rừng ở Nga cũng đang rất nghiêm trọng và có thể gây ảnh hưởng đến ngành nông nghiệp của nước này và nền kinh tế thế giới. 2.2 Đôi nét về nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2007 với nhiều thành tựu mức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt kỷ lục 17,8 tỉ USD và tăng trưởng kinh tế đạt 8.4%. Thị trường chứng khoán có một năm tăng mạnh với chỉ số Vn-Index đạt trên ngưỡng 1.000 điểm kể từ nửa cuối tháng 1-2007 cho đến giữa tháng 11-2007, xen giữa là giai đoạn giảm nhẹ trong tháng 8 và 9-2007. Tuy nhiên mức nhập siêu tăng đặc biệt là với Trung Quốc tăng gấp gần 2,5 lần so với năm 2006 và chỉ số lạm phát lần đầu trở lại với 2 con số sau hơn một thập kỷ kể từ 1995. Đúng vào thời điểm đó thì thị trường tín dụng, bất động sản của Mỹ xảy ra khủng hoảng và lan rộng một cách nhanh chóng theo một dây chuyền trong sự liên thông giữa thị trường bất động sản, tiền tệ, chứng khoán, nhiều ngân hàng và định chế tài chính Mỹ và thế giới rơi vào tình trạng thua lỗ nặng, mất tính thanh khoản, đối diện với nguy cơ phá sản cao, kể từ tháng 8-2007 cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt đầu đến tận cuối năm 2009 thì nền kinh tế thế giới mới có những dấu hiệu phục hồi. Trong bối cảnh đó Việt Nam vẫn nỗ lực tiếp tục đà tăng trưởng đã đạt được từ những năm trước đó. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến những biến động lớn về thị trường, tỷ giá, đầu tư và thương mại. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu ngày càng làm cho thời tiết trở nên bất lợi hơn cho nông nghiệp, thiên tai xuất hiện với tần số cao hơn, sức tàn phá mạnh hơn, chi phí cho canh tác nông nghiệp tăng lên. Tổng kết tình hình kinh tế trong năm 2009 kinh tế nước ta đạt được những thành tựu: tăng trưởng GDP 5.2%, trên mức trung bình khu vực song là mức thấp nhất từ một thập kỷ. Lạm phát được kiểm soát duy trì ở mức dưới hai con số. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn những điểm cần chú ý: bội chi ngân sách tăng lên cả về con số tuyệt đối lẫn theo tỷ lệ GDP, nợ chính phủ và nợ nước ngoài tăng lên, nhập siêu và cán cân thanh toán tài khoản vãng lai bị thâm hụt, gây sức ép lên tỷ giá đồng tiền Việt Nam. Trong quí I năm 2010 nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5.83%, gấp gần 1.9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5.8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13.6%, thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao,… Sáu tháng đầu năm 2010 kinh tế Việt Nam có những tín hiệu tích cực Theo Cục Ðầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), sáu tháng đầu năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 8.43 tỷ USD, bằng 80.9% so với cùng kỳ năm 2009. Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào nước ta 7 tháng đầu năm 2010 là trên 70 tỷ mức khá cao trong bối cảnh chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Biểu đồ so sánh đầu tư nước ngoài FDI 7 tháng đầu năm 2009-và 7 tháng đầu năm 2010 TT Chỉ tiêu Đơn vị tính 7 tháng năm 2009 7 tháng năm 2010 So cùng kỳ 1 Vốn thực hiện triệu USD 6,300 6,400 101.6% 2 Vốn đăng ký triệu USD 13,375 9,128 68.2% 2.1. Cấp mới triệu USD 7,979 8,413 105.4% 2.2. Tăng thêm triệu USD 5,396 715 13.3% 3 Số dự án 3.1. Cấp mới dự án 635 533 83.9% 3.2. Tăng vốn lượt dự án 241 137 56.8% 4 Xuất khẩu 4.1. Kể cả dầu thô triệu USD 16,314 20,674 126.7% 4.2. Không kể dầu thô triệu USD 12,611 17,670 140.1% 5 Nhập khẩu triệu USD 13,292 19,453 146.4% Nguồn: www.vneconomy.vn Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn: Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn khiêm tốn. Một số nhân tố kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện đáng kể, nhất là cân đối xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, cân đối vốn đầu tư phát triển, chỉ số giá tiêu dùng tuy đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Những khó khăn, thách thức đó đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế của nước ta. Vì vậy, nếu không tích cực tìm các giải pháp khắc phục có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2010 như: sản xuất nông nghiệp đang gặp khó khăn do hạn hán, nắng nóng trong suốt tháng 6/7 vừa qua, ngay sau đó chúng ta phải đối đầu với 2 cơn bão mạnh nhất là bão số 1 conson, giá cả thế giới tăng và đặc biệt là giá dầu tiếp tục gây áp lực lớn đến lạm phát lần đầu tiên trong nhiều tháng qua giá dầu thô thế giới đạt mức 82 USD/thùng. Xuất khẩu giảm sút, trong khi nhập khẩu tăng làm cho nhập siêu bị đẩy mạnh trong tháng 1/2010 thâm hụt giữa xuất khẩu và nhập khẩu là 58,5 triệu USD, ảnh hưởng đến cân đối ngoại tệ và dự trữ ngọai hối giảm sút. Việc huy động vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là vốn tín dụng với lãi xuất có xu hướng tăng. Hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, trong khi đó áp lực cạnh tranh của nước ngoài trên thị trường quốc tế và cả ở thị trường trong nước ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó Việt Nam đang bước vào giai đoạn dân số vàng với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm 66,2 % điều này có nghĩa là 2 người lao động mới phải nuôi thêm một người phụ thuộc nếu tận dụng tốt giai đoạn này thì Việt Nam có thể tạo được một bước tiến dài về kinh tế. Biểu đồ dân số Việt Nam Dưới đây là biểu đồ so sánh tình hình lạm phát và GDP của Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc. Qua biểu đồ trên ta thấy rằng tình hình lạm phát ở nước ta vào quí I và quí II của năm 2010 ở mức trung bình chấp nhận được tuy mức lạm phát có cao hơn trong năm 2009 và cao hơn các nước trong khu vực nhưng nếu đặt vào hoàn cảnh kinh tế của nước ta hiện nay thì điều đó hoàn toàn có thể kiểm soát được và sẽ không gây nhiều trở ngại lớn cho nền kinh tế nước ta. Hơn thế nữa với quyết tâm của chính phủ Việt Nam trong việc kiềm chế lạm phát thì tôi hoàn toàn tin tưởng vào việc lạm phát sẽ được duy trì một cách hợp lý. 2.3 Toàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam 8 tháng đầu năm 2010. Qua 8 tháng đầu năm 2010, TTCK đã có những biến động nhưng chỉ số VN-Index nhìn chung không có những biến động lớn mà chỉ dao động quanh mức 500 điểm. Nguyên nhân của những biến động đó là do những chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ. Chính sách thắt chặt tín dụng được áp dụng trong những tháng cuối năm 2009 đã khiến dòng tiền cho nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng bị hạn chế, điều đó khiến VN-Index điều chỉnh giảm mạnh vào cuối năm 2009. Tới những tháng đầu năm 2010, chính sách vĩ mô đã dần được nới lỏng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi nỗi lo lạm phát đã dần lắng xuống. Chính điều này đã tạo nên đợt hồi phục khá ấn tượng của VN-Index từ mức 471 điểm lên mức 550 điểm trong giai đoạn từ cuối tháng 01/2010 tới đầu tháng 05/2010. Và cho đến nay đã xuất hiện thêm nhiều dấu hiệu phục hồi kinh tế, hỗ trợ tích cực cho TTCK và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước khá khả quan nhưng do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp và một số quốc gia Châu Âu, xu thế tăng điểm của thị trường trong nước đã bị gián đoạn VN-Index rơi xuống dưới 500 điểm vào cuối tháng 5 nhưng ngay sau đó VN-Index đã dần hồi phục trở lại trong tháng 6,7 cuối cùng đến tháng 8 thị trường đã có những điều chỉnh và giảm nhẹ. Biểu đồ HOSE-index năm 2009. (nguồn Qua biểu trên ta thấy chỉ số HOSE-index liên tục tăng điểm từ tháng 20/2/2009 đến tận tháng 10/2009 trước khi giảm điểm vào những tháng cuối năm 2009 nguyên nhân của sự điều chỉnh này như tôi đã trình bày ở trên là do sự thay đổi về chính sách tiền tệ cuả chính phủ. Biểu đồ VN-index những 8 tháng đầu năm 2010. Qua đến những tháng đầu năm 2010 VN-Index tiếp tục đà giảm điểm của những tháng cuối năm 2009. Đến tháng 2/2010 VN-Index đã bắt đầu có những dấu hiệu tích cực thị trường đã bắt đầu tăng điểm trở lại và xu thế đó kéo dài đến tận tháng 5/2010 có được điều đó là do chính sách nới lỏng tiền tệ của chính phủ cùng với việc giảm lãi suất vào tháng 3/2010. Trong tháng 5 lãi suất ngân hàng giảm nhưng chỉ số VN-Index lại điều chỉnh giảm do những tác động của nền kinh tế thế giới và thị trường cũng cần có thời gian để tích lũy trước khi có những bước tăng trưởng mới. Biểu đồ HNX-index năm 2009. (nguồn Biểu đồ HNX-index 8 tháng đầu năm 2010. Qua quan sát các biểu đồ ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong những tháng gần đây cả chỉ số VN-Index và HNX-Index đều có xu hướng giảm xuống sau một thời gian dài không có những biến động lớn VN-Index thường xuyên giao động quanh mức 500 điểm còn đối với HNX-index là 160 điểm. Nền kinh tế nước ta vẫn đang trên đà hồi phục với những dấu hiệu khởi sắc rõ ràng hơn nhưng cả hai chỉ số chứng khoán đều giảm theo tôi đó chỉ là những điều chỉnh mang tính chất kỹ thuật, nếu so sánh với năm 2009 ta thấy rằng đến tháng 7/8 thị trường bắt đầu tăng trưởng mạnh cho tới tận tháng 10 nhưng trước đó vào những tháng đầu năm cả hai chỉ số cũng đã có một thời gian điều chỉnh giảm. Vì vậy, theo tôi sau đợt điều chỉnh này sẽ tạo lực cho thị trường tăng trưởng vào những tháng cuối năm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến đợt điều chỉnh giảm trên là sự tăng giá của vàng, các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào TTCK thì họ sẽ đầu tư vào thị trường vàng, nhưng đến một thời điểm nào đó khi giá vàng hạ nhiệt thì TTCK sẽ só những phiên tăng trưởng trở lại. Biểu đồ giá vàng thế giới (Nguồn www.kitco.com) Qua biểu đồ trên ta thấy giá vàng thế giới trong những tháng đầu năm 2010 đã tăng một cách nhanh chóng từ 1075 lên đến 1250 trong suốt từ tháng 2/2010 đến tháng 28/6/2010 mới hạ nhiệt. Nhưng đến những ngày cuối tháng 7 và đầu tháng 8 giá vàng có xu hướng tăng trở lại điều này cũng làm cho giá vàng trong nước có những biến động nhất định, giá vàng trong nước tăng lên 28 triệu VND/chỉ. Trong những tháng đầu năm vừa qua lãi suất đã có những dấu hiệu hạ nhiệt một cách rõ ràng, trong buổi làm việc với các Giám đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng thư ký Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam ngày 27/4 vừa qua dưới sự chủ trì của ông Nguyễn Văn Giàu thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam các bên đã đật được thỏa thuận sẽ giảm lãi suất cho vay từ 0.5-1 % năm bắt đầu thực hiện vào ngày 1/5. Biểu đồ lãi suất từ 7/2009- 7/2010 (Nguồn www.vnexpress.net) Trong mối quan hệ giữa lãi suất và TTCK, khi lãi suất bước vào thời kỳ tăng cao nhất thì cũng đồng nghĩa TTCK bước vào một thời kỳ tăng trưởng. Với việc lãi suất tăng cao nhất vào tháng 3/2010 là 1,96% và bắt đầu giảm như trên có thể sẽ gây ra một đợt điều chỉnh giảm của chứng khoán. Khi lãi suất đạt mức cao nhất có nghĩa là lạm phát đã được đẩy lùi, sau đó lãi suất sẽ giảm tính thanh khoản, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn chứng khoán cũng sẽ tăng trưởng như vậy lãi suất và chứng khoán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Biểu đồ mối quan hệ giữa lãi suất và TTCK (Nguồn www.cafef.com) Qua biểu đồ trên ta thấy rằng khi lãi suất tăng lên thì VN-index lại giảm điểm. Rõ ràng là giữa lãi suất và VN-index có mối quan hệ tỷ lệ nghịch, hi vọng với đợt giảm lãi suất của các ngân hàng và các công ty chứng khoán sẽ tạo một lực đẩy giúp VN-index tăng trưởng mạnh. Lãi suất thị trường cũng là một nhân tố quan trọng gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đặc biệt là lãi suất cho vay để đầu tư chứng khoán vì vậy, nhiều công ty chứng khoán đã giảm lãi xuất cho vay đầu tư chứng khoán nhằm kích thích nhà đầu tư lướt sóng. Công ty chứng khoán Rồng Việt giảm phí tài trợ cho đầu tư chứng khoán từ 0,05 %/ngày xuống còn 0.04% ngày, công ty HSC từ 18% năm xuống 16%/năm. Các công ty chứng khoán cho biết thời gian qua có rất ít nhà đầu tư vay để mua chứng khoán trong xu hướng giảm nên nhà đầu tư ngại lướt sóng. Nếu thị trường tốt, thanh khoản cao thì lãi vay trên 0,05%/ngày cũng không là vấn đề, còn như hiện nay nhà đầu tư có tiền nhàn rỗi cũng hạn chế đầu tư (báo tuổi trẻ ngày 12/08/2010). Hi vọng với việc giảm lãi suất cho vay này của các công ty chứng khoán sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư. Bên cạnh đó, việc các ngân hàng thương mại lớn giảm lãi suất cho vay trong các tháng gần đây cũng là một tín hiệu tích cực. Ngân hàng MB tháng 5/2010 đã hạ lãi xuất cho vay ngắn hạn bằng VND thấp nhất đã là 12,8%/năm đối với các doanh nghiệp tốt theo đánh giá của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 13,5%/năm, cũng như với các doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp có quan hệ truyền thống với ngân hàng. Bắt đầu từ tháng 7/2010 ngân hàng tiếp tục thực hiện hạ lãi suất cho vay xuống 12,5%/ năm đối với các khoản vay ngắn hạn, áp dụng cho các đối tượng khách hàng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp truyền thống tốt. Các khoản vay trung dài hạn cũng sẽ giảm dần. 2.3.1 Diễn biến của các nhóm ngành. Sau 5 tháng đầu năm 2010, VN-Index đã có những dấu hiệu khởi sắc trở lại với mức tăng 2,56% so với thời điểm 31/12/2009. Nhìn chung tất cả các nhóm ngành đều có sự gia tăng nhưng mức tăng còn hạn chế, cũng có những nhóm ngành đã tăng mạnh trong giai đoạn này, tiêu biểu như giá cổ phiếu ngành bảo hiểm có mức tăng trưởng gần 30% tiếp theo sau là nhóm xây dựng và vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, nếu ta xem xét kỹ những nhóm ngành này thì ta thấy đã có sự dịch chuyển doanh thu từ hoạt động xây lắp, cung cấp vật liệu xây dựng sang lĩnh vực bất động sản. Ngược lại với các ngành trên thì ngành Ngân hàng, Chứng khoán và các công ty cung cấp dịch vụ khai thác, dẫn truyền dầu khí lại tiếp tục giảm xuống những mức giá thấp hơn. Biểu đồ so sánh giữa ngành tài chính chứng khoán và VN-index trong năm 2009 (Đường màu xanh là đường chỉ số nghành còn đường màu cam là đường chỉ số VN- index) (Nguồn công ty chứng khoán Âu Việt) Biểu đồ so sánh giữa ngành bất động sản và VN-index trong năm 2009 (Đường màu xanh là đường chỉ số nghành còn đường màu cam là đường chỉ số VN- index) (Nguồn công ty chứng khoán Âu Việt) Qua 2 biểu đồ trên ta thấy rằng đường chỉ số các ngành bất động sản và nghành tài chính chứng khoán đều nằm trên đường VN-index và có những biến động gần giống với đường chỉ số VN-index điều này chứng tỏ rằng giữa TTCK và các nghành nghề kinh doanh khác nhau đều có những mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Giai đoạn từ cuối tháng 1/2010 tới đầu tháng 3/2010, do chính sách nới lỏng tín dụng của chính phủ đã có một lượng vốn lớn chảy mạnh vào các cổ phiếu có vốn hóa lớn và trong giai đoạn từ cuối tháng 3/2010 tới đầu tháng 5/2010, nhóm cổ phiếu có vốn hóa nhỏ lại thu hút rất mạnh nhà đầu tư tham gia. Với chính sách nới lỏng tín dụng của chính phủ các dịch vụ tài chính đã được mở rộng điều đó đã mang lại những dấu hiệu tích cho TTCK. Đây chính là nguyên nhân khiến những mã cổ phiếu nhỏ, có lượng cổ phiếu lưu hành thấp đã tăng giá mạnh trong suốt tháng 4/2010. Điều này khiến phần lớn cổ phiếu đều tăng giá quá nhiều trong khi những yếu tố mang tính chất cơ bản chưa có nhiều thay đổi. Hậu quả việc tăng mạnh trong thời gian ngắn đã khiến thị trường điều chỉnh giảm hầu hết thời gian của tháng 5/2010 và thông tin thế giới tiêu cực cũng khiến đà giảm này mạnh lên. Trong suốt tháng 6 và 7 sau đó VN-index luôn ở thế giằng co quanh mức 495-515 điểm TT liên tục có những điều chỉnh và cuối cùng đến những phiên giao dich tháng 8 VN-index đã thường xuyên ở dưới 500. 2.3.2 Quy mô giao dịch. Giá trị giao dịch toàn thị trường ở mức tương đối thấp trong những tháng đầu năm khi VN-Index trong quá trình điều chỉnh giảm và giao dịch tăng khá mạnh trong quý II khi dòng tiền lớn được đưa vào thị trường. Cho tới cuối tháng 5/2010 và 6/2010 giá trị giao dịch vẫn duy trì ở mức cao thể hiện còn dòng tiền mạnh trong thị trường. Biểu đồ qui mô giao dịch của HSX và HNX từ năm 2006-2009 2006 2007 2008 2009 HOSE Khối lượng cổ phiếu(tr) 538,5 1.817 2.978 10.432 Giá trị tỷ VND 35.742 217.835 124.576 423.299 Giá tb một cổ phiếu 66.370 119.900 41.832 40.577 HASTC Khối lượng cổ phiếu(tr) 95,6 612 1.531 5.765 Giá trị tỷ VND 3.917 63.442 57.122 197.524 Giá tb một cổ phiếu 40.970 103.630 37.310 34.263 Toàn thị trường Khối lượng cổ phiếu(tr) 634.1 2.426 4.509 16.197 Giá trị tỷ VND 39.389 281.258 181.698 620.823 Giá tb một cổ phiếu 62.118 115.935 40.296 38.329 ( Nguồn công ty chứng khoán Âu Việt) Qua biểu đồ trên ta thấy rằng từ năm 2006-2009 khối lượng cổ phiếu và giá trị của các cổ phiếu niêm yết tại 2 sàn HOSE và HASTC đã tăng lên rất lớn. Đối với sàn HOSE khối lượng cổ phiếu niêm yết tăng gấp đôi, còn giá trị giao dịch tăng gấp 12 lần. Còn đối với sàn HASTC thì số lượng cổ phiếu niêm yết tăng 60 lần còn giá trị tăng 50 lần. Điều đó chứng tỏ rằng TTCK Việt Nam đã só những bước tiến đáng kể chỉ sau 4 năm từ 2006-2009. Qui mô thị trường HASTC Toàn thị trường Cổ phiếu Trái phiếu UPCoM Số chứng khoán niêm yết 924 327 509 88 Tổng khối lượng niêm yết 7,368,756,917 4,779,055,548 1,676,760,000 912,941,369 Tổng giá trị niêm yết 226,755,969,170,000 49,950,555,480,000 167,676,000,000,000 9,129,413,690,000 (Nguồn ) Hiện tại thị trường có trên 900 loại chứng khoán niêm yết trên sàn HASTC, trong đó, có những doanh nghiệp đứng đầu về thị phần môi giới như SSI, BVS,VND.Với tổng khối lượng niêm yết trên 7 triệu và tổng giá trị trên 226 ngàn tỷ đồng. Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu Số CK niêm yết (1 CK) 315 253 5 57 Tỉ trọng (%) 100 80,32 1,59 18,10 KL niêm yết(ngàn CK) 11.900.577,18 11.512.296,80 276.099,29 112.181,09 Tỉ trọng(%) 100 96,74 2,32 0,94 GT niêm yết(triệu đồng) 129.102.069,93 115.122.968,03 2.760.992,90 11.218.109,00 Tỉ trọng (%) 100 89,17 2,14 8,69 (Nguồn ) Trên HOSE hiên đang có hơn 300 loại chứng khoán niêm yết, với 253 mã cổ phiếu, 57 mã trái phiếu và 5 lọai chứng chỉ quỹ, với khối lượng trên 11.000 CK, lớn hơn so với sàn HASTC. Tổng giá trị giao dịch 129.102 tỷ đồng . Phần lớn các công ty chứng khoán niêm yết là những công ty đầu tiên của TTCK Việt Nam, có lợi thế về kinh nghiệm, quy mô hoạt động và nguồn tài chính vững chắc. 2.3.3 Thị trường trái phiếu. Số lượng trái phiếu trên thị trường chứng khoán ngày càng dồi dào đi cùng với đó là chất lượng cũng được nâng cao một cách đáng kể, kinh tế Việt Nam đang trên đà hồi phục chính vì thế mà nhu cầu phát hành trái phiếu của nhà nước cũng như của các doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng. TTTP đã trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả, thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, góp phần giảm bớt sức ép tiền mặt trong lưu thông và hạn chế lạm phát. Phương thức phát hành ngày càng phong phú và không ngừng được cải tiến, độ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLUẬN VĂN TỐT NGHIỆP - Copy.docx
  • docxLỜI CAM ĐOAN.docx
  • docxLỜI CẢM ƠN.docx
  • docxMục lục.docx
  • docxNHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN.docx
  • docxphu bia.docx
  • docxTRANG BIA.docx
  • docxDanh mục các ký hiệu.docx
Tài liệu liên quan