Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam

Tài liệu Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ năm 1998 nhưng đến nay “chứng khoán phái sinh” chưa được biết đến với tư cách là một công cụ bảo hiểm rủi ro hữu hiệu cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, những cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, những biến động bất thường về nền kinh tế toàn cầu, những tăng giảm đột ngột của giá xăng, dầu thế giới, những bấp bênh c... Ebook Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa tỷ giá đồng USD… đang là những vấn đề đáng lo lắng cho những nhà đầu tư, những doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vậy phải làm gì để giảm bớt rủi ro? Để tối thiểu tổn thất và tối đa hoá lợi nhuận? Một đòi hỏi cấp thiết đối với thị trường là phải đa dạng hoá các sản phẩm tài chính phái sinh, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có, khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào thị trường này để loại bỏ bớt những rủi ro không đáng có. 2. Mục đích của đề tài Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng về thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, tìm ra nguyên nhân, tồn tại và kiến nghị những giải pháp, định hướng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam trong tương lai. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu: - Quá trình hình thành và của dụng các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam. - Cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng khi tham gia kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh. - Tìm hiểu về thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, mức độ áp dụng các công cụ tài chính phái sinh của các doanh nghiệp và doanh thu của một số ngân hàng thương mại từ việc kinh doanh các sản phẩm này. 4. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu được tiến hành bằng cách: - Theo dõi và thu thập thông tin về thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam - Tổng hợp, phân tích và đánh giá trên cơ sở những lý thuyết tài chính, chứng khoán phái sinh. Các thông tin được phân tích không đặt riêng biệt mà được nhận định trong bối cảnh chung của nền kinh tế đã gia nhập WTO và điều kiện phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh trong nước. - Dựa trên những tồn tại, hạn chế của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam để rút ra những định hướng, điều kiện, và kiến nghị những giải pháp để phát triển các sản phẩm phái sinh tại Việt Nam. 5. Bố cục của khoá luận Tên đề tài: Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán phái sinh Chương II: Đánh giá về quá trình phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam 6. Những từ viết tắt trong khoá luận NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN: Ngân hàng nhà nước TTCK: Thị trường chứng khoán UBCK: Uỷ ban chứng khoán TCTD: Tổ chức tín dụng Khoá luận được thực hiện vào thời điểm thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam còn rất mới mẻ, chưa đựơc nhiều người đón nhận và đang bước từng bước nhỏ trong giai đoạn phát triển. Chính vì vậy khoá luận của em còn rất nhiều thiếu sót, em mong muốn nhận được sự tham gia góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận thêm hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ, khoa Tài Chính Ngân Hàng, trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội, đã giúp đỡ em trong suốt quá trình em thực hiện khoá luận. Sinh viên thực hiện Tạ Thị Huyền CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH Thị trường tài chính phái sinh xuất hiện là kết quả của một quá trình phát triển cấu trúc thị trường trong thời gian dài. Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính phái sinh phát triển mạnh về khối lượng giao dịch cũng như mức độ quan trọng. Khi nhắc đến thị trường tập trung và thị trường OTC – phi tập trung, người ta chỉ nghĩ đến đó là nơi giao dịch chứng khoán, hàng hoá… mà ít ai nghĩ đến đó còn là nơi diễn ra các giao dịch tài chính phái sinh - một công cụ phòng ngừa rủi ro cho các doanh nghiệp. Việc sử dụng các sản phẩm phái sinh hiện nay là một nhu cầu thiết yếu đối với các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH 1. Giới thiệu về thị trường chứng khoán phái sinh Trong các thị trường tài sản, việc mua bán đòi hỏi hàng hoá hoặc chứng khoán phải được giao nhận hoặc là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc thanh toán cũng thường được thực hiện tức thời mặc dù thỉnh thoảng cũng có trường hợp sử dụng một số thoả thuận tín dụng. Do đặc điểm như vậy nên chúng ta thường gọi là thị trường tiền mặt hoặc là thị trường giao ngay. Doanh số được thực hiện, khoản thanh toán được hoàn trả và hàng hoá, chứng khoán được giao nhận. Trong tình huống khác, hàng hoá hay chứng khoán vẫn được giao nhận vào một ngày sau đó, nhưng có các thoả thuận giúp cho người bán hoặc người mua được chọn là có thực hiện bán hay không các loại thoả thuận này, và nghiệp vụ này được thực hiện trong thị trường phái sinh. Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên 1 hoặc 1 số công cụ tài sản khác. Chúng ta xem các công cụ phái sinh như là các hợp đồng, và giống như tất cả hợp đồng, chúng được thoả thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố gắng mua với giá rẻ và người bán cố gắng bán với giá cao nhất. Thành viên của thị trường tài chính phái sinh • Người đầu tư: họ sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi ro do họ luôn phải đối mặt với những rủi ro do biến động giá cả của các sản phẩm chính. • Người đầu cơ: với tâm lí muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của sản phẩm chỉnh nên họ sử dụng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt. • Người cơ lợi (thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro): bằng cách sử dụng chênh lệch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh đều mang lại lợi ích cho các thành viên, chính vì vậy trên thị trường tài chính quốc tế, nghiệp vụ này đã phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. 2. Công cụ tài chính phái sinh 2.1. Khái niệm Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm hiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng nhiều nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi. Những công cụ trên sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Ingersoll – tác giả cuốn sách Theory of Financial Decision Making – Lý thuyết quyết định tài chính (1987) đã đưa ra định nghĩa về chứng khoán phái sinh như sau: Một hợp đồng tài chính được gọi là một chứng khoán phái sinh (derivative security), hoặc một tài sản tài chính có giá trị phụ thuộc(contingent claim), nếu giá trị của hợp đồng tài chính đó tại thời điểm đáo hạn T có thể xác định hoàn toàn bởi giá trị thị trường (thị giá) của công cụ tiền mặt (hay tài sản cơ bản). Theo cách hiểu này, tại thời điểm đáo hạn của hợp đồng phái sinh chứng khoán, ta ký hiệu đó là thời điểm T, thì giá của tài sản phái sinh F(T) được xác định hoàn toàn bởi S(T) là giá thị trường của “tài sản cơ bản”. Sau thời điểm đáo hạn này, cuộc đời của phái sinh chứng khoán cũng kết thúc. Tính chất này rõ ràng và dễ hiểu, là việc con người quy ước với nhau qua hợp đồng. Tuy đơn giản như thế, nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong công tác tính toán giá trị của tài sản phái sinh. Đặc điểm của công cụ tài chính phái sinh: • Chứng khoán phái sinh được tạo lập dựa trên một chứng khoán gốc. Giá trị của phái sinh được xác định dựa trên những sự kiện biến động về giá trong tương lai của chứng khoán cơ sở. Hoạt động của thị trường tài chính tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển các chứng khoán phái sinh. Các chủ thể tham gia thị trường tài chính tạo ra các công cụ phái sinh và sử dụng chúng để thực hiện mục đích kinh doanh hoặc hạn chế rủi ro trong đầu tư. • Hoạt động của thị trường phái sinh góp phần làm tăng tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường tài chính. Những nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua các giao dịch phái sinh mà không cần phải thực hiện mua bán chứng khoán thực tế. + Với sự xuất hiện chứng khoán phái sinh làm tăng số lượng hàng hoá trên thị trường tài chính. Những nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua các giao dịch phái sinh mà không cần phải thực hiện mua bán chứng khoán thực tế. + Giao dịch chứng khoán phái sinh góp phần giảm chi phí giao dịch, hạn chế rủi ro… Từ đó, tạo nên những lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia, góp phần ổn định và phát triển thị trường tài chính. • Được thực hiện vào một ngày trong tương lai. 2.2. Các loại chứng khoán phái sinh cơ bản 2.2.1. Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ vì lí do đó mà nó ít phức tạp nhất. Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua hoặc bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Nếu vào ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá hợp đồng thì người sở hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi nhuận, nếu ngược lại thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu một khoản lỗ. Ví dụ: Vào ngày 01/04 , A ký hợp đồng kỳ hạn mua của B 10 tấn cà phê kỳ hạn 3 tháng với giá 925USD/tấn. Sau 3 tháng, tức vào ngày 01/07, B phải bán cho A 10 tấn cà phê với giá 925USD/tấn và A phải mua 10 tấn cà phê của B với giá đó, cho dù giá cà phê trên thị trường lúc đó là bao nhiêu đi nữa. Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang trong mình 3 loại rủi ro: Thứ 1, nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ được đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy hợp đồng kỳ hạn cung cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo. Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi ro này có hai chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là người chi trả, phụ thuộc vào biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở. Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn của hợp đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên bản thân những hợp đồng kỳ hạn có chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh. 2.2.2. Hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai (hay còn gọi là hợp đồng giao sau) là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay mà không phụ thuộc vào giá ở thời điểm thực hiện hợp đồng. Ví dụ: vào đầu năm 2002, công ty A ký hợp đồng tương lai với công ty B mua 100 tấn gạo với giá 2USD/kg với thời điểm mua vào cuối năm 2003. Như vậy vào thời điểm mua, công ty B phải bán cho công ty A 100 tấn gạo với giá 2USD/kg và công ty A phải mua 100 tấn gạo của công ty B với giá đó, cho dù giá gạo trên thị trường vào cuối năm 2003 là bao nhiêu chăng nữa. Đặc điểm của hợp đồng tương lai: • Hợp đồng tương lai được ký kết và thực hiện thông qua một môi giới trên TTCK, người mua và người bán thường không biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này. • Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác, mà được quy định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Người môi giới xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách giao hàng, giá hợp đồng. • Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá tương lai được xác định trên sàn giao dịch chứng khoán. • Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu tư. • Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng tương lai, do người mua hay người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính thì người môi giới phải đưa ra những quy định về yêu cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với người môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ lại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán. Điểm khác nhau giữa Hợp đồng kỳ hạn và Hợp đồng tương lai • Hợp đồng tương lai là những hợp đồng được chuẩn hoá ( về loại tài sản cở sở mua bán, số lượng các đơn vị tài sản cơ sở mua bán, thể thức thanh toán, kỳ hạn...). Hợp đồng kỳ hạn là những hợp đồng không được chuẩn hoá, các chi tiết là do hai bên đàm phán quy định cụ thể. • Hợp đồng tương lai chỉ được giao dịch các công cụ tương lai được niêm yết tại các Sở giao dịch chứng khoán. Như vậy, giao dịch hợp đồng tương lai đã được các sở giao dịch chuẩn hoá và khi đó các bên tham gia giao dịch không nhất thiết phải biết nhau. Hợp đồng kỳ hạn có thể áp dụng đối với chứng khoán hay hàng hoá . • Hợp đồng tương lai được thoả thuận và mua bán qua người môi giới. Hợp đồng kỳ hạn được thoả thuận và mua bán trực tiếp giữa hai bên kí kết hợp đồng. • Hợp đồng tương lai được mua bán trên thị trường chứng khoán tập trung. Hợp đồng kỳ hạn được mua bán trên thị trường phi tập trung. • Tính thị trường: Hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn thường không có giao dịch thứ cấp, tức là khi muốn thay đổi các bên đối tác tham gia hợp đồng kỳ hạn, phải đàm phán tìm đối tác khác thay thế, điều này làm tăng chi phí, thời gian thực hiện hợp đồng bị kéo dài. Ngược lại, hợp đồng tương lai được chuẩn hoá và giao dịch liên tục trên TTCK. • Rủi ro: Hợp đồng kỳ hạn có thể gặp rủi ro lớn khi bên đối tác không đủ khả năng thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian trong tương lai, trong khi hợp đồng tương lai do giao dịch tại các Sở giao dịch chứng khoán, nên rủi ro sẽ thấp hơn hoặc có cơ chế bảo hiểm khi xảy ra rủi ro. • Thời điểm thực hiện hợp đồng: Hợp đồng tương lai thường xác định thời điểm thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian trong tương lai, trong khi hợp đồng kỳ hạn xác định chính xác thời điểm thực hiện hợp đồng. • Căn cứ thị trường của hai loại hợp đồng cũng có khác biệt, hợp đồng kỳ hạn chỉ có một thời điểm thanh toán khi kết thúc hợp đồng, còn hợp đồng tương lai yêu cầu các bên tham gia phải có chi phí gắn với diễn biến thị trường. Trong thời hạn của hợp đồng tương lai có thể phát sinh dòng tiền, thu nhập trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ví dụ hợp đồng tương lai đối với trái phiếu thì chủ sở hữu thực vẫn nhận được các khoản thu nhập từ trái phiếu trong thời gian hợp đồng chưa có hiệu lực. Đây là khác biệt căn bản của hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai. • Hợp đồng tương lai được tính hàng ngày theo giá thị trường. Hợp đồng kỳ hạn được thanh toán vào ngày đáo hạn. • Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau cũng có rủi ro hai chiều, rủi ro tín dụng, tức người sở hữu hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là người phải chi trả. Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường giao sau sử dụng 2 công cụ để loại bỏ rủi ro này. + Thứ 1, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào 1 ngày thông qua mua bán đơn thuần vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được thực hiện thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng giao sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời hạn giao sau được rút ngắn lại. Nhờ thanh thế mà rủi ro thanh toán được giảm đi. + Thứ 2, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các thành viên tham gia thị trường, người bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi là ký quỹ. Nếu hợp đồng giao sau tăng giá trị trong ngày giao dịch, mức tăng này sẽ được cộng vào tài khoản ký quỹ vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp đồng bị giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra. Và nếu số dư tài khoản ký quỹ giảm xuống mức tối thiểu đã thoả thuận trước đó thì sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ sung, tài khoản ký quỹ phải được bổ sung như cũ. Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, hợp đồng giao sau và một danh mục các hợp đồng ỳ hạn chỉ giống nhau khi lãi suất là có thể xác định trước, tức là biết được một cách chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau mag tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được thanh toán cũng như một hợp đồng mới được ký kết. Tính chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp đồng giao sau giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn. 2.2.3. Quyền chọn: Mua và Bán Quyền chọn : là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với nhau, loại thị trường này gọi là thị trường OTC – loại thị trường quyền chọn xuất hiện đầu tiên. Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là mua bán các loại tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu.... Mặc dù vậy, cũng xuất hiện một hình thức khác của quyền chọn đó là loại thoả thuận tài chính như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm. Ngoài ra, bản thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản công ty. Quyền chọn cũng có những nét giống với một hợp đồng kỳ hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện giao dịch còn người sở hữu hợp đồng kỳ hạn bắt buộc bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong hợp đồng kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có thể quyết định mua hoặc bán tài sản với giá cố định nếu giá trị của nó thay đổi. Có hai kiểu thực hiện quyền chọn: • Theo kiểu Mỹ: thực hiện quyền chọn vào bất cứ ngày nào trước ngày đáo hạn. • Theo kiểu châu Âu: thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Có hai loại quyền chọn: Quyền chọn mua: Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận, vào thời điểm xác định trong tương lai ( hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn mua. Ví dụ: Giá cổ phiếu ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ tăng lên khoảng 200.000đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu tư phải bỏ ra 100.000.000đ để mua nó. Giả sử sau một thời gian giá cổ phiếu không như dự báo, giảm xuống còn 60.000đ thì nhà đầu tư lỗ 40.000.000đ. Để giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện theo dự báo, nhà đầu tư mua quyền chọn mua: mua 1000 cổ phiếu của AB với giá 100.000đ/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là 20.000đ/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000đ. Trong thời gian 3 tháng trên nếu giá cổ phiếu AB tăng như dự báo lên mức 200.000đ/cổ phiếu thì nhà đầu tư sẽ thu được: 1000cổ phiếu x 200.000đ = 200.000.000 đ tức là nhà đầu tư lãi 100.000.000đ - 20.000.000đ phí mua quyền chọn = 80.000.000đ. Trong trường hợp giá cổ phiếu không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3 tháng thì nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất 20.000.000 đồng tiền phía quyền chọn mua. Quyền chọn bán: Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở một mức giá nhất định trong tương lai. Ví dụ: Nhà đầu tư nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường hiện tại là 100.000đ/ cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm xuống còn 70.000đ/cổ phiếu, vậy nhà đầu tư sẽ lỗ 30.000.000đ. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000đ/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000đ để đảm bảo cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán được với giá 100.000đ/cổ phiếu. Nghĩa là nếu giá cổ phiếu giảm xuống dưới 100.000đ/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở mức cao hơn mức giá cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó. 2.2.4. Hợp đồng hoán đổi Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền, một giao dịch mà cả hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các dòng tiền trong một khoảng thời gian xác định. Ví dụ một bên đối tác đang nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư , nhưng lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên đối tác này sẽ liên lạc với một môi giới hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên OTC, và họ sẽ thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi suất hay giá sau đó như thế nào mà 1 bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ. Lãi của bên này chính là lỗ của bên kia. Thông thường giao dịch hoán đổi bao gồm các thanh toán lãi, trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Có 4 loại hoán đổi là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất , hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Hoán đổi được xem như là sự kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn. 2.2.5. Một số loại chứng khoán phái sinh khác 2.2.5.1. Bán khống chứng khoán Đây là một nghiệp vụ trên thị trường tài chính được thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận thông qua giá chứng khoán giảm. Nhà đầu tư sẽ vay cổ phiếu khi giá đang cao để bán, khi giá xuống thấp thì nhà đầu tư mua lại để trả. Khi đặt lệnh bán chứng khoán, nhà đầu tư không có chứng khoán trong tài khoản, họ mong đợi giá sẽ giảm trong tương lai, khi đó họ sẽ mua được chứng kháon với giá thấp hơn để trả cho công ty chứng khoán. Khoản chênh lệch là lợi nhuận của nhà đầu tư, song nếu chứng khoán tăng thì họ sẽ bị lỗ. 2.2.5.2. Repo chứng khoán Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất thì nghiệp vụ repo giống như một khoản vay có bảo đảm bằng các chứng khoán và các tài sản bảo đảm khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng. Một hợp đồng repo sẽ quy định rõ các điều khoản về: • Tư cách của các bên tham gia giao dịch • Quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên • Tài sản đảm bảo • Tài sản dùng để repo: trái phiếu, cổ phiếu hay các chứng khoán khác. • Cách tính lãi suất repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định giá lại chứng khoán cơ sở, biên độ dao động, khoản giảm trừ. • Các điều khoản xử lý các vấn đề phát sinh trong thời gian thực hiện repo. Việc thực hiện nghiệp vụ repo góp phần làm tăng tính thanh khoản cho thị trường, tăng hiệu quả đồng vốn kinh doanh cho nhà đầu tư và đem lại cho nhà đầu tư một số lợi ích như: vẫn có quyền sở hữu cổ phiếu khi mua lại cổ phiếu đã bán sau kỳ hạn nhất định, vẫn được hưởng cổ tức trong thời hạn chuyển nhượng... II. ỨNG DỤNG CỦA CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH 1. Quản trị rủi ro Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Vì thế họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Thị trường các sản phẩm phái sinh còn là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ, người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người có nhu cầu hoàn toàn đối lập với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Thực tế của thị trường các sản phẩm phái sinh sẽ làm một bên được lợi và tất yếu bên kia không tránh khỏi những thiệt hại nhưng những giao dịch này vẫn rất phát triển trên thị trường bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng mong muốn giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được và vì thế các nhà đầu cơ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác. Bên cạnh đó, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ thay vì giao dịch cổ phiếu họ lại giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Thị trường phái sinh không tạo ra và cũng không thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có của thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ những người không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó. Không có thêm bất kì một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này, và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội. 2. Thông tin hiệu quả hình thành giá Thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với việc hình thành giá cả. Có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định giá giao ngay của chúng, vì vậy thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản và thường là giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay của chúng. Ngoài ra thị trường giao sau trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin cung cấp trên thị trường này có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình. 3. Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả 3.1. Lợi thế Thứ 1, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn. Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Hơn nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn. Thứ 3, các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận. Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó. 3.2. Hiệu quả Xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế: thị trường công cụ tài chính phái sinh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính: • Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. • Sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro trên thị trường • Giám sát doanh nghiệp • Tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (cổ phiếu, trái phiếu...) Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: doanh nghiệp có thể mua hoặc bán công cụ phái sinh với 2 mục đích: mục đích phòng ngừa rủi ro tài chính, mục đích đầu cơ, tạo lợi nhuận từ ứng dụng công cụ phái sinh, trên cơ sở tạo trạng thái mở về lãi suất, ngoại tệ, hàng hoá, chứng khoán... Ngoài ra, khi sử dụng phối hợp nhiều công cụ phái sinh với đối tác khác nhau, trên những thị trường khác nhau có thể tạo lợi nhuận trên cơ sở không phải đối mặt với các trạng thái mở, các rủi ro tài chính. Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính: Các lợi ích thu được khi ứng dụng công cụ phái sinh cũng tương tự doanh nghiệp. Hơn thế nữa, với vai trò của trung gian tài chính, các tổ chức này có thể tăng nguồn thu từ chi phí với tư cách của người môi giới. Đặc biệt, khả năng mở rộng, phát triển các hoạt động khác của tổ chức tài chính như huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, tư vấn .... cũng tăng cao và hiệu quả hơn. Như vậy, công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, kỹ thuật tài chính này đòi hỏi một trình độ hiểu biết và phát triển nhất định của bất kì nền kinh tế nào. III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1. Sự ra đời của thị trường quyền chọn Có rất nhiều loại công cụ tài chính phái sinh khác nhau trên thị trường nhưng có thể thấy giao dịch quyền chọn là giao dịch được ưu tiên hơn cả về những ích lợi mà nó đem đến. Điểm lại lịch sử hình thành quyền chọn trên thị trường ta có thể thấy sự phát triển của thị trường này trên thế giới, qua đó thấy được nhu cầu của những nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Giao dịch đầu tiên về quyền chọn bán và quyền chọn mua bắt đầu ở Châu Âu và Mỹ từ đầu thế kỉ XVIII. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Vào đầu những năm 1900, một nhóm công ty đã thành lập Hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với nhau. Nhà đầu tư muốn mua Quyền chọn liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ cố gắng tìm người bán quyền chọn từ những khách hàng của họ hoặc của công ty thành viên khác, nếu không có người bán, công ty sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường OTC, các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch của thị trường. Thị trường quyền chọn của các nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn chịu áp lực của 2 yếu tố: thứ nhất, khi không có thị trường thứ cấp, người mua quyền chọn không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn. Thứ hai, k._.hông có kỹ thuật nào đảm bảo rằng người bán quyền chọn sẽ thực hiện hợp đồng, nếu người bán không thực hiện hợp đồng thì người mua phải tốn chi phí kiện tụng. Tháng 4 năm 1973, Sàn giao dịch quyền chọn Chicago ra đời đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. Từ đó, thị trường quyền chọn trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Mỹ (AMEX) và thị trường chứng khoán Philadelphia (PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào năm 1975. Năm 1976, thị trường chứng khoán Pacific ra đời. Khoảng đầu thập niên 80, khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng đến mức mà số lượng cổ phiếu theo hợp đồng quyền chọn bán hàng ngày vượt quá khối lượng giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán NewYork. Trong thập niên 80, thị trường quyền chọn đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng tương lai đã phát triển ở Mỹ. TTCK Philadelphia là nơi trao đổi ngoại tệ đầu tiên. Thị trường giao dịch quyền chọn Chicago trao đổi quyền chọn chỉ số chứng khoán của S&P 100 và S&P 500. TTCK Mỹ giao dịch quyền chọn về chỉ số chứng khoán của một số thị trường chính, TTCK NewYork giao dịch chỉ số NYSE. Hầu hết các thị trường đều giao dịch quyền chọn đối với những hợp đồng tương lai. Thị trường OTC: thập niên 80 và 90 đã chứng kiến sự phát triển của thị trường OTC dành cho quyền chọn. Giao dịch OTC quyền chọn được thoả thuận qua điện thoại hơn là trên sàn giao dịch. Hiện nay, giao dịch quyền chọn tồn tại ở khắp mọi nơi trên thế giới, đánh dấu những bước phát triển của thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh. 2. Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia Philadelphia là địa điểm giao dịch quyền chọn lớn nhất và giao dịch kì hạn kì hạn lớn thứ 3 của Mỹ. Sau đây là đôi nét về quá trình hình thành của Sàn giao dịch này. Năm 1790 Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia ra đời. Năm 1972, nghề môi giới chứng khoán trở thành một nghề kinh doanh phổ biến ở Philadelphia sau khi “Ban điều hành Philadelphia của những người môi giới ra đời”. Sự phát triển của máy vi tính trong những năm 1960 và 1970 đã làm thay đổi mọi việc kinh doanh và kinh doanh chứng khoán cũng không phải là ngoại lệ. Vào thời gian giữa của sự phát triển kĩ thuật cho việc giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia tiếp tục chương trình công kích của nó về việc đổi mới sản phẩm bằng việc cho vào danh sách “quyền chọn cổ phiếu” năm 1975. Vì vậy, Philadelphia trở thành sở giao dịch đầu tiên ghi vào danh sách quyền chọn cổ phần cho việc mua bán. Tháng 4 năm 1988, Sở giao dịch đã lợi dụng việc luôn bán kỹ thuật điện dùng vào sàn giao dịch chứng khoán để xây dựng một hệ thống mới thích hợp với việc giao dịch quyền chọn. Hệ thống thị trường quyền chọn tự động hoá cho phép việc giao hàng điện tử những đơn đặt hàng từ phía các công ty thành viên đến sàn giao dịch, tự động thực hiện và xác nhận đã hoàn thành những đơn đặt hàng đó. Tuy nhiên, sự phát minh phổ biến nhất của thập kỉ 20 là việc Sàn giao dịch chứng khoán Philadelphia cho ra đời quyền chọn tiền tệ năm 1982. Đến năm 1988, giao dịch quyền chọn tiền tệ lên tới 4tỉ USD/ngày. Quyền chọn bán ở sở giao dịch trên bản đồ quốc tế đã thu hút sự chú ý của châu Âu, Pacific và vùng Viễn Đông, cũng từ đó những văn phòng đại diện sở giao dịch chứng khoán đầu tiên đựơc hình thành ở khắp mọi nơi. Sự thành công của việc giao dịch quyền chọn tiền tệ trên Sở giao dịch Philadelphia đã cho ra đời giao dịch tương lai và giao dịch các sản phẩm tương lai khác. Nhu cầu ở vùng Viễn Đông ngày càng tăng cao nên năm 1987, Philadelphia đã cho ra đời thêm một phiên họp giao dịch vào buổi chiều và tháng 1 năm 1989 thêm một phiên họp vào buổi sáng sớm để đáp ứng nhu cầu của sự gia tăng nhu cầu ở Châu Âu. Tiếp đó là sự ra đời của “mục lục quyền chọn” đã đánh dấu sự thành công về quyền chọn đáng chú ý nhất vào những năm 1990. Từ năm 1991 đến nay, số lượng giao dịch quyền chọn trên thị trường này không ngừng tăng cao. Năm 1991 đến năm 1995 tăng từ 11.470$ lên 17.540$ và con số này năm 2000 là 75.999$. Đến năm 2006 tăng tới 70% đối với giao dịch quyền chọn tiền tệ. Tóm lại, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường quyền chọn từ khi nó ra đời đến bây giờ và tiêu biểu là trên sàn giao dịch chứng khoán và quyền chọn Philadelphia. CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH Ở VIỆT NAM Chứng khoán phái sinh xuất hiện trên thị trường thế giới từ thế kỉ 18 nhưng đối với thị trường Việt Nam, chứng khoán phái sinh vẫn còn là những gì mới mẻ, xa lạ với hầu hết tất cả mọi người. Do đó, qua việc nghiên cứu thực trạng sử dụng chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, em muốn đánh giá những điểm tốt và hạn chế, từ đó rút ra kinh nghiệm phát triển cho thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam trong thời gian tới. I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ TRIỂN VỌNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH VIỆT NAM 1. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam Năm 1986, sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong gần 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, vai trò của đổi mới hoạt động ngân hàng đã đóng góp một phần rất quan trọng đối với nề kinh tế. Ngày 26/03/1988, Chính phủ đã ban hành nghị định 53/HĐBT hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó NHNN làm chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng chuyên doanh trực tiếp kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Hai pháp lệnh về Ngân hàng năm 1990 đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống NHTM ở Việt Nam và góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng cả về mặt hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng. Sau đây là những số liệu cụ thể về số lượng và hình thức sở hữu ngân hàng thương mại qua các giai đoạn. Bảng 1: Phát triển NHTM Việt Nam từ 1991-1997 1991 1993 1995 1997 Ngân hàng quốc doanh 4 4 4 5 Ngân hàng cổ phần 4 41 48 51 Ngân hàng liên doanh 1 3 4 4 Chi nhánh NHNN 0 8 18 24 Tổng cộng 9 56 74 84 Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Với việc bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) vào năm 1993 và năm 1995, Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng, thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo đã góp phần vào sự phát triển đa dạng các loại hình Ngân hàng thương mại Việt Nam cả số lượng lẫn hình thức sở hữu, thúc đẩy nỗ lực cạnh tranh giữa các NHTM, từ đó nâng cao trình độ nghiệp vụ và chất lượng phục vụ sao cho ngày càng tiện ích cho khách hàng. Bảng 2: Phát triển NHTM giai đoạn 1997 – 2001 1997 1999 2000 Ngân hàng quốc doanh 5 5 5 Ngân hàng cổ phần 51 48 39 Ngân hàng liên doanh 4 4 4 Chi nhánh NHNN 24 26 26 Tổng cộng 84 83 74 Nguồn: Báo cáo của NHNN Việt Nam Sau khi Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng ra đời, số lượng NHTM tiếp tục gia tăng và đóng vao trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hiện nay. Từ năm 2001 đến nay, các NHTM Việt Nam bước vào thời kì củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh tranh trong thời kì hội nhập và tự do hoá hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, các NHTM đang tích cực triển khai các dịch vụ ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân cũng như các doanh nghiệp, đóng góp vai trò quan trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động của NHTM: • Huy động vốn bao gồm nhận tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn, vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, vay vốn của NHNN. • Hoạt động tín dụng bao gồm cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức cấp tín dụng khác. • Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm mở tài khoản, thu chi tiền, cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác. • Các hoạt động khác bao gồm góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn, và các dịch vụ tư vấn khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng. 2. Quá trình hình thành và sử dụng các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam Bắt đầu xuất hiện tại các thị trường phát triển từ những năm 80 của thế kỷ trước, hiện các công cụ tài chính phái sinh đã được các NHTM trên thế giới sử dụng rộng rãi như những công cụ bảo hiểm rủi ro cho khách hàng. Nhưng tại Việt Nam, sau khoảng 7 năm có mặt trên thị trường, doanh số các sản phẩm phái sinh của các ngân hàng vẫn chưa đáng kể. Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ một phần rủi ro cho thị trường bằng các công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng ta áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam. 2.1. Giao dịch kỳ hạn Là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên được giao dịch trên thị trường Việt Nam. Những giao dịch này được thực hiện trong các hợp đồng mua bán USD và VND giữa NHTM với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các NHTM khác được phép của NHNN. Tuy nhiên, hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5 – 7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 2.2. Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng Theo thống kê thì những công cụ phái sinh này được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỉ giá và giá vàng luôn ở mức tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ đựơc thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động ở Việt Nam được NHNN cho phép và các ngân hàng ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này. Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, ICB và Ngân hàng Hồng Kông chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VND thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VND đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, vì thế cần phải có thời gian để đánh giá mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ này. Đến thời điểm này, đã có rất nhiều ngân hàng được NHNN cho phép thực hiện các nghiệp vụ quyền chọn. Đặc biệt, NHNN cũng đã cho phép thực hiện các nghiệp vụ quyền chọn tiền Đồng tại BIDV, NHTM Cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới, nhờ đó mà vị thế của VND và Việt Nam cũng tăng lên. Nhìn chung, hoạt động Quyền chọn đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Quyền chọn USD và VND đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu, trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. 2.3. Giao dịch hoán đổi Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/07/2001 của thống đốc NHNN. Đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND. Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở Việt Nam và được các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ-NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp được sủ dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng, giữa ngân hàng với những doanh nghiệp vay vốn tại các tổ chức tín dụng khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các ngân hàng trong nước với nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các tổ chức tín dụng nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác là các tổ chức tín dụng quốc tế nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng do đó hướng dẫn hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng. Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ 01/2003), đã có một số ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 01/03/2005 tới 02/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có ưuy định chính thức của NHNN. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Hoán đổi tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD tại thị trường Việt Nam. Từ đó, HSBC đưa VND và nhận USD từ khách hàng và tháng 12/2007, HSBC đã đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách hàng đã dạt đựơc mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kì hạn 3 năm mà không chịu bất cứ rủi ro nào về tỷ giá USD/VND. Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng. Trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường. Hoán đổi lãi suất: Là một dạng công cụ lai tạp có nguồn gốc từ giao dịch hoán đổi. Có các dạng hoán đổi lãi suất đã được triển khai trên thị trường ngoại hối Việt Nam như hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai…. Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn số 3324/NHNN-CSTT, tháng 04/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiên. Mặc dù đây là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Điều này có nghĩa một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kì sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ. Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do chính chủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt Nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nước ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. 2.4. Repo chứng khoán Tháng 7 năm 2000, NHNN bắt đầu sử dụng các hợp đồng mua lại và mua đảo ngược như những công cụ để điều hành chính sách tiền tệ. Năm 2003, nghiệp vụ repo được các công ty chứng khoán và ngân hàng thực hiện đối với trái phiếu chính phủ. Đến nay nghiệp vụ này đã đi tới cổ phiếu với mức độ rủi ro nhiều hơn so với trái phiếu. Hiện nay, ở Việt Nam, repo là nghiệp vụ do Công ty chứng khoán đưa ra để mua có kỳ hạn các loại cổ phiếu chưa niêm yết, chưa lên sàn, với các cổ phiếu đã niêm yết thì có dịch vụ cầm cố. 2.5. Đánh giá về mức độ áp dụng công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam Theo số liệu của Viện chiến lược phát triển thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư, tỷ lệ doanh thu từ các sản phẩm phái sinh trên tổng doanh thu của các NHTM trong các năm 1995, 2000 và 2006 chỉ là 11,7%, 15,4% và 17,5%. Ta có thể thấy rõ hơn ý nghĩa của các con số này qua biểu đồ sau: Biểu đồ : Tỷ lệ doanh thu các sản phẩm phái sinh/ Tổng doanh thu của các NHTM Rất dễ dàng nhận thấy sau 6 năm doanh thu từ các sản phẩm phái sinh tăng không đáng kể, chỉ tăng được 2%. Trong khi đó, theo báo cáo của IMF, thị trường phái sinh quốc tế có sự tăng trưởng rất mạnh, tính riêng từ đầu năm 2007 đến nay đã tăng 30% và đạt quy mô khoảng 370 tỷ USD. Như vậy, ta có thể thấy các công cụ phái sinh chưa được thị trường Việt Nam đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. 3. Triển vọng phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam 3.1. Sự tham gia tích cực vào thị trường kỳ hạn trên thế giới Thị trường kỳ hạn là thị trường mua bán hàng hoá được giao và thanh toán ở một ngày nhất định trong tương lai nhưng theo giá thoả thuận hiện tại. Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp luôn đứng trước những nguy cơ tiềm ẩn về tỷ giá, lãi suất, giá cả hàng hoá... Chính vì vậy các Doanh nghiệp cần ý thức hơn nữa về việc sử dụng các công cụ để phòng ngừa rủi ro trên thị trường tài chính. Sau đây ví dụ về quá trình tham gia của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trên các sàn giao dịch thế giới: Trên sàn giao dịch kỳ hạn cà phê London Tháng 12/2004, Bộ Thương mại cũ (nay là Bộ Công thương) và NHNN Việt Nam đã cho phép Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) làm nhà môi giới giao dịch cà phê giữa các nhà kinh doanh cà phê Việt Nam với sàn giao dịch LIFFE – London. Khi giao dịch trên thị trường này, doanh nghiệp sẽ thực hiện việc mua-bán cà phê bằng hợp đồng tương lai, giá cà phê được chốt ngay tại thời điểm đặt lệnh –thời điểm mà giá cà phê trên thị trường được doanh nghiệp “ưng ý” nhất, còn hàng thì giao sau với thời điểm do hai bên thoả thuận. Trước đây, khi chưa trực tiếp giao dịch tại thị trường kỳ hạn London, doanh nghiệp xuất khẩu cà phê phải chịu rất nhiều thua thiệt. Thông thường, chênh lệch giữa giá chào bán cà phê Việt Nam với giá giao dịch kỳ hạn trên thị trường London khá lớn, luôn ở mức trên 100USD/tấn. Nhờ vào giao dịch trực tiếp trên thị trường kỳ hạn London, doanh nghiệp được lợi khoản chênh lệch trên và chỉ phải chịu một mức phí rất thấp cho nhà môi giới (Techcombank) – 10USD/tấn cho mỗi giao dịch dưới 200lot (lot là đơn vị tính cho mỗi hợp đồng 5 tấn cà phê nhân) và với giao dịch trên 1000lot mức phí giảm xuống 2USD/tấn. Trên sàn giao dịch Newyork Vào ngày 13/10/2007, Sở giao dịch hàng hoá NewYork (NYBOT) đã mời các nhà kinh doanh cà phê robusta của Việt Nam tham gia giao dịch cà phê kỳ hạn tại sàn NewYork. Đây là một lợi thế cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Mỗi hợp đồng cà phê robusta giao dịch ở sàn NewYork có khối lượng 37.500 pounds, tức 17,025 tấn, cao hơn gấp 3 lần so với giao dịch tại sàn giao dịch LIFFE của London. Hiện nay khối lượng từng hợp đồng của LIFFE là 5 tấn cà phê robusta. Mức phí giao dịch của sàn Newtừng hợp đồng của LIFFE là 5 tấn cà phê robusta. Mức phí giao dịch của sàn NewYork là 18,75USD mỗi hợp đồng, tức 0,908 USD/tấn, thấp hơn so với phí giao dịch ở LIFFE. Bên cạnh đó, lợi thế của sàn Newyork là mở cửa từ 12h trưa theo giờ Việt Nam, còn sàn London lại mở cửa từ 16h. Hiện khối lượng cà phê các doanh nghiệp trong nước tham gia giao dịch kỳ hạn với LIFFE bằng một nửa sản lượng cà phê thật xuất khẩu của Việt Nam. Một số doanh nghiệp tham gia giao dịch bị thua lỗ nhưng đa số các doanh nghiệp nhờ có giao dịch với LIFFE đã phòng chống được rủi ro cho xuất khẩu cà phê trước các biến động của thị trường cà phê thế giới. Bên cạnh đó, Nghị định số 158/2006/NĐ-CP do Chính phủ ban hành vào tháng 12/2006 quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch, trong đó có các quy định về giao dịch với các Sàn giao dịch nước ngoài, làm cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp tham gia. Hiện nay có rất nhiều các sản phẩm ngoài cà phê có giao dịch trên thị trường tương lai thông qua sàn giao dịch như : Gạo, Cao su, Đường trắng, bông, nước cam...; các sản phẩm tài chính như: JBG, T-notes, T-bill... ; các loại nhiên liệu: xăng dầu, khí đốt... Có thể thấy giao dịch kỳ hạn ngày càng được phổ biến và được nhiều doanh nghiệp sử dụng. Với các công cụ phái sinh hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam có đủ tự tin hơn khi bước ra thị trường thế giới và thành công trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, buôn bán với nước ngoài như hiện nay. 3.2. Phát triển sở giao dịch hàng hoá nội địa Hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá được quy định chi tiết trong Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ban hành ngày 28/12/2006. Theo Nghị định này thì Sở giao dịch hàng hoá được thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và phải đáp ứng các điều kiện sau: có vốn pháp định là 150 tỷ đồng, Giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có thời gian công tác tròn lĩnh vực kinh tế-tài chính ít nhất là 05 năm. Thành viên của Sở giao dịch gồm thương nhân môi giới và thương nhân kinh doanh. Vốn pháp định của thương nhân môi giới là 05 tỷ đồng, thương nhân kinh doanh là 75 tỷ đồng. Tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của Sở giao dịch hàng hoá có thể uỷ thác cho thành viên kinh doanh thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá. Tổng hạn mức giao dịch với một loại hàng hoá của toàn bộ các hợp đồng trong thời hạn giao dịch không vượt quá 50% tổng khối lượng hàng hoá đó được sản xuất tại Việt Nam của năm ngay trước đó. Hạn mức giao dịch của một thành viên không được vượt quá 10% tổng hạn mức giao dịch nói trên. Trên đây là một số điều kiện cơ bản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia sở giao dịch hàng hoá. Hiện nay ở Việt Nam chưa có sở giao dịch hàng hoá nhưng trong tương lai gần ta sẽ có một số sở giao dịch, tiêu biểu là Sở giao dịch hàng hoá thành phố Hồ Chí Minh. Mặt hàng chủ lực của Sở sẽ là hàng nông – thuỷ – hải sản. Đây sẽ là Sở giao dịch hàng hoá đầu tiên được thành lập ở nước ta, vận hành theo mô hình công ty, có vốn điều lệ 200 tỉ đồng. Sở sẽ xây dựng 3 trung tâm đấu giá hàng hoá bằng việc nâng cấp 3 chợ đầu mối thành trung tâm đấu giá gồm Tam Bình (Q. Thủ Đức), Bình Điền (Quận 8) và Tân Xuân (Huyện Hóc Môn). Mới đây, Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam cũng đã lên kế hoạch cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia bởi theo thống kê thì Việt Nam đã trở thành quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng đứng đầu thế giới. Nếu cứ tiếp tục để thị trường giao dịch tự do chắc chắn nhà đầu tư cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro. Thành lập các sở giao dịch hàng hoá là một phương thức quản trị rủi ro hữu hiệu cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam và cũng là điều kiện quan trọng để hàng hoá Việt Nam đứng vững trên thị trường quốc tế. Trên thế giới đã có rất nhiều sở giao dịch hàng hoá nhưng việc phát triển sở giao dịch hàng hoá nội địa vẫn là một điều kiện cần đối với thị trường Việt Nam. Hi vọng trong tương lai Việt Nam sẽ có thêm nhiều Sở giao dịch và Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một sự khởi đầu tốt đẹp cho quá trình phát triển ở Việt Nam. II. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM 1. Cơ sở pháp lí 1.1. Đối với phái sinh ngoại hối và phái sinh vàng 1.1.1. Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN Đây là quyết định ban hành quy chế về hoạt động giao dịch hối đoái nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh doanh hối đoái, đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường, tạo các công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường trong tương lai… Phần I là những quy định chung về các loại giao dịch hối đoái, phạm vi giao dịch, đối tượng giao dịch, các thủ tục đối với tổ chức tín dụng khi muốn tham gia kinh doanh giao dịch hối đoái, những đồng tiền được phép giao dịch, phí giao dịch và kỳ hạn đối với từng loại giao dịch. Phần II là những quy định cụ thể về kỹ thuật giao dịch như nguyên tắc giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hối đoái, mẫu hợp đồng gao dịch hối đoái… Tiếp đó là những quy định về chế độ báo cáo và xử lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng khi không chấp hành những quy định về chế độ báo cáo. 1.1.2. Quyết định số 2554/QĐ-NHNN Quyết định này được ban hành vào ngày 31 tháng 12 năm 2006, thay thế quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN, ban hành về việc một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng cho phép được hoạt động ngoại hối. Tổng giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua, bán giao ngay của đồng Việt Nam theo nguyên tắc: • Đối với Đô la Mỹ: Không vượt quá biên độ ±0,5% so với tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng áp dụng cho ngày giao dịch do NHNN thông báo. • Đối với các ngoại tệ khác: Do tổng giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối xác định. • Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán: Do tổng giám đốc (giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối xác định. 1.1.3. Thông tư số 03/2008/TT-NHNN Đây là thông tư hướng dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng được NHNN ban hành ngày 11/04/2008. Theo thông tư này, các tổ chức tín dụng ngoại hối của các ngân hàng sau khi được NHNN xác nhận đủ điều kiện, các ngân hàng được cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường trong nước cho khách hàng trong phạm vi như cung cấp các giao dịch ngoại hối dưới hình thức giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai và các giao dịch hối đoái khác theo thông lệ quốc tế… Sau khi có xác nhận của NHNN, các ngân hàng được cung cấp dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế cho khách hàng như cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, thực hiện các giao dịch mua, bán ngoại hối và vàng trên thị trường nước ngoài, tham gia các thị trường tiền tệ, thị trường phái sinh ở nước ngoài, cung cấp các dịch vụ ngân hàng đầu tư trên thị trường quốc tế… Trước khi thực hiện cung ứng dịch vụ ngoại hối, tổ chức tín dụng phải xây dựng quy trình giao dịch, các biện pháp quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ chặt chẽ. 1.2. Quy định về bán khống ở Việt Nam Bán khống là một khái niệm còn tương đối mới mẻ trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Còn trên thế giới, nghiệp vụ này đã được thực hiện từ rất lâu và hiện trở nên phổ biến ở thị trường chứng khoán các nước phát triển. 1.2.1. Luật chứng khoán 2006 Theo khoản 9, điều 71 Luật chứng khoán quy định về nghĩa vụ của công ty chứng khoán như sau: “Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ tài chính”. Như vậy, Luật không cấm việc bán khống chứng khoán nhưng phải chờ hướng dẫn của Bộ tài chính. Và theo lộ trình phát triển của công ty chứng khoán của UBCKNN thì đến năm 2009, nghiệp vụ bán khống mới có quy chế hướng dẫn thực hiện. 1.2.2. Công văn số 557/UBCK Công văn số 557/UBCK được ban hành vào ngày 7/04/2008 gửi các công ty chứng khoán về việc tuân thủ các quy định về giao dịch chứng khoán. Theo công văn này, các công ty chứng khoán phải đảm bảo tất cả các giao dịch mua chứng khoán của nhà đầu tư phải có đủ tiền và bán chứng khoán phải có đủ chứng khoán trong tài khoản. Đồng thời, Uỷ ban nghiêm cấm các thành viên cho nhà đầu tư vay tiền bằng chứng khoán chưa về tài khoản và chưa thực sự thuộc sở hữu của nhà đầu tư. Đây là một động thái nhằm siết chặt hoạt động bán khống chứng khoán trên thị trường khi chưa có quy định cụ thể về việc bán khống chứng khoán ở Việt Nam. 2. Các thành viên tham gia thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam 2.1. Ngân hàng thương mại Hiện nay, hầu hết các NHTM đều đã triển khai dịch vụ tài chính phái sinh do nhu cầu của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và bản thân người dân khi đến ngân hàng gửi tiết kiệm, mua ngoại tệ hay vàng. 2.1.1. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam(BIDV) BIDV là ngân hàng tiên phong tại thị trường Việt Nam cung cấp các sản phẩm phái sinh với mục đích bảo hiểm giá cho các hàng hoá. Trong những năm gần đây, BIDV không ngừng triển khai các dịch vụ mới và đã đạt được rất nhiều thành công. Năm 2006, nghiệp vụ giao dịch hợp đồng tương lai hàng hoá đối với mặt hàng cà phê có được kết quả rất khả quan : trong 6 tháng cuối năm, doanh số hợp đồng giao dịch cà phê tương lai tại BIDV đã đạt trên 10% tổng lượng cà phê xuất khẩu của cả nước trong năm 2006. Năm 2007, theo đánh giá của các định chế tà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT084.doc
Tài liệu liên quan