Giải pháp phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

LỜI NÓI ĐẦU Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang diễn ra hiện nay với xu thế toàn cầu hoá, hoạt động ngoại thương đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung hay nền kinh tế mỗi quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, để có thể phát triển được hoạt đông ngoại thương thì đi kèm với phát triển hoạt động ngoại thương cấn có một hệ thồng thanh toán quốc tế phát triển để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển cao của ngoại thương. Có thể nói, thanh toán quốc tế là một mắ

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t xích quan trọng trong hoạt động ngoại thương của mỗi quốc gia, nó đảm bảo quá trình lưu thông hàng hoá một cách thông suốt cũng như những dòng vốn luân chuyển liên tục không ngừng giữa các quốc gia song vẫn đáp ứng nhu cầu lợi ích của các bên tham gia. Nền kinh tế Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế này, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam mới gia nhập WTO trong thời gian gần đây, có thể dễ dàng thấy được nền kinh tế nước ta đang phát triển không ngừng trong lĩnh vực ngoại thương mà bằng chứng là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên không ngừng qua các năm cùng với tổng nguồn vốn vào và ra cũng gia tăng một cách đáng kể. Đứng trước thực tế đó, các NHTM ở Việt Nam cũng đang không ngừng cải tiến kỹ thuật, áp dụng các nghiệp vụ thanh toán quốc tế để có thể đáp ứng nhu nhu cầu của nền kinh tế. Và giờ đây thanh toán quốc tế đã trở thành một nghiệp vụ quan trọng của các NHTM và cũng đem lại một nguồn thu nhập đáng kể cho các NHTM. Nhận thức được điều đó, trong thời gian vừa qua, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm, em nhận thấy rằng mặc dù là một ngân hàng lâu đời, có bề dày lịch sử cùng với đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên môn cao song hoạt động thanh toán quốc tế còn kém phát triển, làm cho ngân hàng kém đi tính cạnh tranh và chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế, cùng với đó là ngân hàng đang làm mất đi một khoản chi phí dịch vụ đáng kể mà ngân hàng có thê tạo ra từ hoạt động thanh toán quốc tế. Chính từ nhứng điều cảm nhận trên, em đã chon đề tài “Giải pháp phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”. Bố cục chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn dề cơ bản về phát triển thanh toán quốc tế của NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Thanh toán quốc tế là một phạm trù rất phức tạp, chuyên đề chỉ là sự nghiên cứu trên giác độ hiểu biết của em, chính vì điều đó cho nên chuyên đề sẽ có rất nhiều thiếu sót, em kính mong thầy cô có những chỉ bảo nhiệt tình để em có thể hoàn thiện chuyên đề cũng như là bổ sung thêm kiến thức cho bản thân. Để có thể hoàn thiện chuyên đề, em xin cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo từ phía giáo viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã giúp đỡ em trong thời gian làm chuyên đề cũg như trong quá trình học tập tiếp thu kiến thức để có thể hoàn thành chuyên đề. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Tài chính - Ngân hàng đã nhiệt tình dạy dỗ chúng em trong suốt 4 năm học vừa qua. Hà Nội, tháng 4 năm 2010 Sinh viên Đoàn Lương Phong CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NHTM Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua NHTM. Khái niềm về thanh toán quốc tế. Trong lịch sử phát triển và hình thành loài người, các quốc gia quan hệ với nhau bao gồm trên nhiều lĩnh vực, như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ thuật... mà trong đó, quan hệ kinh tế (ở đây chủ yếu là ngoại thương) chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến nhu cầu thanh toán giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, từ đó hình thành và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó ngân hàng đóng vai trò là cầu nối trung gian giữa các bên. Từ các phân tích trên, ta có khái niệm về thanh toán quốc tế: Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân quốc gia này với tổ chức, cá nhân quốc gia khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua các mối quan hệ giữa các ngân hàng của các quốc gia liên quan. Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua Ngân hàng thương mại. Trong buôn bán trao đổi quốc tế mà nói chung là hoạt động ngoại thương, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng có thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau mà thông thường phải qua ngân hàng thương mại với mạng lưới chi nhánh và hệ thông ngân hàng đại lý rông khắp. Khi thay mặt khách hàng thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng đóng vai trò là trung gian thanh toán giữa hai bên mua bán. Với vị trí trung gian thanh toán, các ngân hàng tiến hành thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao dịch thanh toán, tư vấn, hướng dẫn khách hàng những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhằm hạn chế rủi ro, tạo lòng tin cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với đối tác nước ngoài. Mặt khác, trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ năng lực về vốn sẽ cần sự trợ giúp từ phía ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho khách hàng một cách chủ động và tích cực. Tựu chung lại, ngân hàng là người cung cấp hoàn hảo các loại hình dịch vụ kỹ thuật và tài chính nhằm hỗ trợ cho khách hàng thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế. Nếu không có hệ thống ngân hàng thương mại hiện đại như thời đại ngày nay, hoạt đông thương mại quốc tế không những không phát triển mà còn rất khó tồn tại theo đùng nghĩa của nó. Do đó hoạt động thương mại quốc tế ngày nay luôn đòi hỏi sự tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ, tài chính của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại cung cấp các phương án lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, đảm bảo lợi ích và an toàn cho cả hai bên tham gia trao đổi, thông qua đó sẽ thúc đẩy ngoại thương phát triển và mở rộng quan hệ với các nước khác trong khu vực và thế giới. Tóm lại, trong quy trình hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc qia, hệ thông ngân hàng tham gia và giữ vai trò trung tâm trong hầu hết các khâu như: thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương... Thanh toán giữa các nước sẽ được thực hiện thông qua cầu nối ngân hàng và ngân hàng thương mại trong thanh toán quốc tế đóng vai trò là chất xúc tác, là điều kiện đảm bảo an toàn và hiệu quả cho các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời tài trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh XNK. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế, với khách hàng và với ngân hàng. *Với nền kinh tế. Trước xu thế kinh tế thế giới ngày càng được phát triển theo hướng quốc tế hoá, các quốc gia đều cố gắng phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập sâu và rộng hơn với thế giới, trong tình hình đó, thanh toán quốc tế nổi lên với vai trò là chiếc cầu trung gian giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế giới, có tác dụng làm chất xúc tác bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, kèm theo đó là các hoạt động đầu tư, thu hút kiều hối và các hoạt động tài chính tín dụng khác. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, các quốc gia đều coi hoạt động kinh tế đối ngoại là trung tâm, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu để có thể phát triển kinh tế quốc gia. Thanh toán quốc tế là mắt xích quan trọng trong quá trình mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các nền kinh tế khác nhau. Nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế tồn tại, các hoạt động kinh tế đối ngoại khó có thể phát triển được. Nếu hoạt động thanh toán quốc tế được diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn, thì sẽ giải quyết được quan hệ lưu thông hàng hóa - tiền tệ giữa người mua và người bán một cách có hiệu quả. Về giác độ kinh tế, người mua trả tiền, người bán giao hàng thể hiện chất lượng của chu kỳ kinh doanh, phản ánh hiệu quả kinh tế và tài chính trong hoạt động của từng doanh nghiệp. Tóm lại, với nền kinh tế, hoạt động thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trọng thể hiện ở các mặt: Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của nền kinh tế như một tổng thể. Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài gián tiếp và trực tiếp. Thúc đẩy và mở rộng hoạt động dịch vụ như hợp tác quốc tế, du lịch, ngoại giao. Tăng cường và thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính quan trọng khác. Thúc đẩy hội nhập thị trường tài chính quốc gia với thị trường tài chính quốc tế. *Đối với khách hàng. Vai trò trung gian của ngân hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành một cách chính xác, an toàn, tiện lợi, và tiết kiệm tối đa chi phí. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không có đủ khả năng về tài chính, cần đến sự trợ giúp từ phía ngân hàng thì ngân hàng sẽ chiết khấu bộ chứng từ, hoặc có thể có những sự trợ giúp cho khách hàng như tín dụng, bảo lãnh..... . Qua việc thực hiện thanh toán, khách hàng còn được nhận sự tư vấn của ngân hàng để có chiến lực kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình. *Với ngân hàng. Trong một số năm trở lại đây, hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam được quan tâm chú ý đầu tư và phát triển hơn bao giờ hết, từ việc đầu tư đào tạo cán bộ chuyên gia thanh toán quốc tế đến đầu tư rất lớn cho hệ thống công nghệ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế... Chính vì vậy, dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, một thực tế vẫn còn đang tồn tại, đó là hầu hết các ngân hàng thương mại mới chỉ tập trung chủ yếu vào khâu làm thế nào để mở rộng và hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế mà chưa quan tâm đến khâu phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động này. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải xem xét lại lợi ích của hoạt động thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại. Ngày nay, hoạt động thanh toán quốc tế là một dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng đối với ngân hàng thương mại, nó đem lại thu nhập đáng kể không chỉ về mặt số lượng tuyệt đối mà còn trong tỷ trọng thu nhập của ngân hàng thương mại. Thanh toán quốc tế còn giữ vai trò là mắt xích quan trọng trong việc chắp nối và thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh doanh khác như kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tăng cuờng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động của ngân hàng, nó không đơn thuần chỉ là một dịch vụ thanh toán thuần tuý mà còn là mắt xích trung tâm trong dây chuyền hoạt động kinh doanh, bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Ngày nay, do nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phất triển ngày càng mạnh mẽ hơn, thuận tiện hơn, an toàn hơn và cũng hiệu quả hơn, hầu hết các họat động thanh toán quốc tế đều diễn ra thông qua ngân hàng, đồng thời hoạt động thanh toán quốc tế đã phát triển dựa trên một tấp quán thông nhất trên quy mô toàn cầu thông qua các phương thức thanh toán quốc tế khác nhau. Thông qua cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân hàng thu một khoản phí nhằm bù đắp cho các chi phí của ngân hàng và tạo ra một khoản lợi nhuận kinh doanh cần thiết. Tuỳ theo từng phương thức thanh toán, môi trường cạnh tranh và độ tín nhiệm của khách hàng mà khoản thu phí dịch vụ này có khác nhau cho các khách hàng khác nhau song thu nhập từ hoạt động này cũng đóng vai trò đáng kể trong tổng thu nhập của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại ngày nay hoạt động đa năng , tạo ra một quy trình kinh doanh khép kín, mỗi nghiệp vụ tạo ra một mắt xích không thể thiếu, trong đó hoạt động thanh toán quốc tế được xác định như là một nghiệp vụ căn bản, làm tiền đề cơ sở cho các nghiệp vụ khác phát triển như kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động ngoại thương..... Chính từ lẽ đó, việc các ngân hàng chú trọng mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế là hiển nhiên và dễ hiểu. Bên cạnh phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, việc phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động này cũng quan trong không kém và để làm được điều đó phải cần đế một hệ thông chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thuơng mại. 1.2 Các phương thức thanh toán quốc tế. Phương thức chuyển tiền. Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người chuyển tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định tới cho một người khác (người thụ hưởng) tại một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Có thể nói, chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản, trong đó người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán với nhau trực tiếp. Ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ này chỉ đóng vai trò trung gian, thanh toán theo uỷ nhiệm để hưởng hoa hồng và không bị ràng buộc bất cứ trách nhiệm gì với với người chuyển tiền và người người nhận tiền. Các bên tham gia. Người yêu cầu trả tiền (Remitter): Là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền cho đối tác nước ngoài. Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người được nhận số tiền do ngân hàng chuyển tới do người chuyển tiền chỉ định. Ngân hàng chuyển tiền (Remitting bank): Là ngân hàng phục vụ cho người chuyển tiền, nhận yêu cầu từ người chuyển tiền. Ngân hàng uỷ nhiệm (Paying bank): là ngân hàng trả tiền cho người thụ hưởng, là ngân hàng đại lý hay chi nhánh của ngân hàng chuyển tiền. Sơ đồ 1.1 Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền. Người yêu cầu chuyển tiền Người thụ hưởng Ngân hàng nhận chuyển tiền Ngân hàng trả tiền (1) (2) (3) (4) 1- Người xuất khẩu giao hàng và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu 2- Người nhập khẩu kiểm tra hàng hoá – bộ chứng từ. Nếu phù hợp lập thủ tục chuyển tiền. 3- Ngân hàng nhận chuyển tiền lập thủ tục chuyển tiền qua ngân hàng đại lý (hoặc chi nhánh) nhận trả tiền. 4- Ngân hàng trả tiền- thanh toán tiền cho người thụ hưởng. Thanh toán chuyển tiền thường có thể thực hiện theo 2 hình thức. - Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T). Chuyển tiền bằng điện là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung một bức điện gửi cho ngân hàng trả tiền thông qua telex hay mạng swift. Chuyển tiền bằng điện có chi phí cao nhưng lại có ưu điểm ở chỗ tốc độ cao. - Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T). Chuyển tiền bằng thư là hình thức chuyển tiền, trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được chuyển bằng thư cho ngân hàng thanh toán. Chuyển tiền bằng thư thì chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song tốc độ lại chậm hơn. Chính nhờ lẽ đó mà chuyển tiền bằng điện thì người chuyển tiền không bị đọng vốn lâu ngày. Nhận xét: Có thể thấy trong thanh toán bằng chuyển tiền, việc có trả tiền hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Người mua sau khi nhận hàng có thể không tiến hành chuyển tiền hoặc cố tình dây dưa, kéo dài thời gian chuyển tiền nhằm chiếm dụng vốn của người bán, do đó, quyền lợi của người bán không đảm bảo. Do đó trong ngoại thương, chuyển tiền chỉ áp dụng trong trường hợp các bên mua bán có uy tín và tin cậy lẫn nhau. Phương thức ghi sổ (open account) Là phương thức thanh toán, trong đó nhà xuất khẩu sau ghi Nợ tài khoản cho bên nhập khẩu sau khi đã giao hàng vào một cuốn sổ theo dõi và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện thông thường theo định kì như đã thoả thuận. Đặc điểm của phương thức thanh toán mở tài khoản. Không có sự tham gia của ngân hàng với vai trò là người mở tài khoản và thực hiện thanh toán. Chỉ có sự tham gia thanh toán của hai bên là người xuất khẩu và người nhập khẩu. Không mở tài khoản song biên, chỉ mở tài khoản đơn biên. Nếu người nhập khẩu mở tài khoản này chỉ là tài khoản theo dõi, không có hiệu lực quyết toán Hai bên mua bán phải thực sự tin tưởng nhau. Sơ đồ 1.2.Qquy trình nghiệp vụ phương thức ghi sổ. Người mua Ngân hàng bên mua Người bán Ngân hàng bên bán (1) (3) (2) Người bán giao hàng hoá và dịch vụ cùng với chứng từ. Báo nợ trực tiếp. Người mua dùng hình thức chuyển tiền để trả tiền khi đến hạn. Một số lưu ý khi thực hiện phương thức thanh toán ghi sổ. Khi thực hiện theo phương thức này, cần quy định rõ đồng tiền ghi trên tài khoản: thoả thuận giữa bên nhập khẩu và xuất khẩu loại tiền được sử dụng trong thanh toán, đồng thời đưa ra biện pháp đẩm bảo hối đoái cho đồng tiền đó, nhằm né tránh tổn thất cho cả hai bên khi tỷ giá đồng tiền thanh toán có biến động. Căn cứ để ghi nợ của người xuất khẩu là hoá đơn giao hàng, căn cứ để nhận nợ của người nhập khẩu dựa vào giá trị của hoá đơn giao hàng và dựa vào thực hàng đã nhận Thanh toán trả tiền cho nhau dưới hình thức chuyển tiền bằng thư hay bằng điện phải được thoả thuận hai bên. Phương thức thanh toán này giúp cho bên mua được sử dụng hàng hoá thường xuyên, thâm chí cả lúc bên mua chưa đủ tiền, ngược lại thuận lợi cho bên bán tiêu thụ được hàng hoá và giữ được thị trường truyền thống. Nhận xét: Trong giao dịch thương mại quốc tế, ghi sổ là phương thức thanh toán thuận tiện nếu người mua có một mối quan hệ tín nhiệm về thanh toán đối với người bán. Bằng việc mửo sổ, nhà xuất khẩu chỉ cần viết biên lai thu tiền của khách hàng với kỳ vọng khách hàng sẽ thanh toán tiền hàng tại một thời điểm nhất định trong tương lai. Song, đây cũng là phương thức thanh toán chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Do không có chứng từ hay sự tham gia của ngân hàng làm đảm bảo,nhà xuất khẩu giao hàng trước khi nhận được thanh toán và không thể kiểm soát được hàng hoá cũng như việc thu tiền hàng. Nhà xuất khẩu hoàn toàn tin tưởng người mua và trong trường hợp người mua từ chối thanh toán, giải pháp duy nhất là đưa ra toà án. Khi ấy nhà xuất khẩu sẽ phải rất mất công sức cũng như chi phí mà không hề được đảm bảo sẽ thu được tiền. Phương thức thanh toán nhờ thu( Collection of payment). Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế trong đó người bán (nhà xuất khẩu) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người mua (nhà nhập khẩu), uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ trông qua ngân hàng đại lý cho bên mua để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác. Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này các bên tham gia thường vận dụng “ Bản quy tắc thông nhất về nhờ thu chứng từ thương mại – ICC 522” do phòng thương mại quốc tế Paris ban hành, bản sửa đổi năm 1995 và được viết tắt là URC 522. Trong thương mại quốc tế, nhờ thu thực chất là quy trình thu hộ tiền từ người mua trả cho người bán. Phân loại nhờ thu phụ thuộc vào tính chất chứng từ mà người mua yêu cầu làm căn cứ trả tiền. Căn cứ vào tính chất chứng từ yêu cầu, nhờ thu bao gồm hai loại: - Nhờ thu phiếu trơn (Clean collection) - Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection) Sơ đồ 1.3. Quy trình nhờ thu phiếu trơn. Người bán Người mua Ngân hàng nhận uỷ thác thu Ngân hàng thu hộ Ngân hàng xuất trình (1) (2) (7) (4) (5) (3) (6) Bên bán (xuất khẩu) giựa trên hợp đồng đã thoả thuận, giao hàng hoá đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên mua (nhập khẩu). Bên bán (xuất khẩu) ký phát hối phiếu đòi tiền bên mua, uỷ nhiệm thông qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua (nhập khẩu). Ngân hàng phục vụ bên bán (nhà xuất khẩu) chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua (nhà nhập khẩu). Ngân hàng phục vụ bên mua (nhà nhập khẩu) đòi tiền người mua hoặc yêu cầu kí chấp nhân hối phiếu. Bên mua thanh toán tiền. Chuyển tiền trả qua ngân hàng phục vụ bên bán. Thanh toán tiền cho bên bán. Nhận xét: Phương thức nhờ thu trơn không đảm bảo quyền lợi cho bên bán, giữa sự trả tiền và nhận hàng tách rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau một cách rõ ràng. Người mua có thể nhận hàng nhưng không trả tiền hoặc trì hoãn việc thanh toán. Ngược lại, đối với người mua, họ cũng có thể bị tổn thất khi họ phải trả tiền trước, khi chưa nhận được hàng hoá và không biết hàng hoá có giao đúng theo hợp đồng hay không. Như vậy, phương thức nhờ thu trơn chỉ áp dụng trong các trường hợp người bán và người mua tin tưởng lẫn nhau hoặc có quan hệ mật thiết với nhau. Hoặc trong trường hợp thanh toán các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu như tiền cước phí vận tải, bảo hiểm.... Quy trình nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ giống như quy trình nhờ thu phiếu trơn song tại bước 2, bên bán lập hối phiếu đòi tiên người mua đồng thời chuyển bộ chứng từ hàng hoá uỷ nhiệm qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua. Trong phương thức Nhờ thu kèm chứng từ, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phải thoả thuận cụ thể điều kiện trao chứng từ quy định trong lệnh nhờ thu là như thế nào. Trong thực tế có 2 phương thức để trao chứng từ, đó là phương thức D/P (Documents against Payment) hay D/A (Documents against Acceptance). Theo điều kiện D/P thì bên mua chỉ được ngân hàng trao bộ chứng từ nhận hàng khi họ đã thanh toán hối phiếu (D/P: Người mua thanh toán ngay khi nhận chứng từ) Theo điều kiện D/A thì bên mua được ngân hàng trao bộ chứng từ nhận hàng khi họ đã kí chấp nhận hối phiếu kỳ hạn (D/A: Người mua phải chấp nhận thanh toán khi nhận chứng từ). Nhận xét: Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ ngoài việc thu hộ tiền còn khống chế chứng từ hàng hóa đối với nguời mua. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn. Với cách khóng chế theo bộ chứng từ,quyền lợi của bên bán được đảm bảo vì sự ràng buộc giữa trả tiền và nhận hàng của người mua. Tuy nhiên, phương thức này có một số hạn chế như: Người bán thông qua ngân hàng, giữ bộ hồ sơ hàng hoá chỉ mới đảm bảo được quyền sở hữu hàng hoá chứ chưa đảm bảo việc được thanh toán từ phía người mua. Người mua có thể kéo dài việc thanh toán bằng cách chưa cần nhận chứng từ hàng hoá, không thanh toán trong trường hợp thị trường biến động bất lợi cho họ Mặc dù người bán vẫn có quyền sở hữu đối với hàng hoá, có thể bán hàng cho người khác nếu người mua không thanh toán, song việc giải toả hàng vẫn có thể gặp nhiều khó khăn, rủi ro trong tiêu thụ hàng. Trong phương thức thanh toán này, ngân hàng chỉ có vai trò trung gian thu tiền hộ người bán, không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua. Phương thức tín dụng chứng từ (Letter of credit – L/C). Tại điều 2, UCP600 (Bản điều lệ và cách thức thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ), Tín dụng chứng từ được định nghĩa: “Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ, cho dù được gọi tên hoặc mô tả như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không huỷ ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”. Được hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại thương, song sau khi được thiết lập, thư tín dụng lại độc lập hoàn toàn với hợp đồng ngoại thương, khi đó phương thức thanh toán này đã được thiết lập. Tính chất độc lập của thư tín dụng thể hiện ở chỗ nghĩa vụ của ngân hàng với người hưởng lợi L/C không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người mua và người bán. Ngân hàng mở LC chỉ căn cứ dựa trên bộ chứng từ mà nhà xuất khẩu trình và nội dung của LC đã được mở để trả tiền cho người bán. Việc thanh toán của ngân hàng không phụ thuộc vào hàng hoá, chỉ phụ thuộc vào chứng từ. Trong trương hợp người mua không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho người bán, thực hiện đầy đủ và đúng với các điều khoản quy định trong LC. Tham gia nghịệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng có thể bao gồm nhiều bên, song thông thường có các bên sau: - Người yêu cầu mở thư tín dụng (The applicant for the credit) là người nhập khẩu (Người mua), là bên mà L/C được phát hành theo yêu cầu của họ. - Người thụ hưởng thư tín dụng (The beniftciary) là người xuất khẩu (Người bán), là bên được hưởng số tiền thanh toán hay sở hữu hối phiếu đã vhấp nhận thanh toán theo LC. Các ngân hàng liên quan: Ít nhất phải có hai Ngân hàng tham gia: Ngân hàng mở L/C hay còn được gọi là Ngân hàng phát hành L/C (The issuing bank), ngân hàng này chịu trách nhiệm trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C; Ngân hàng thông báo L/C (Advising Bank) là ngân hàng thông báo L/C cho người thụ hưởng theo yêu cầu của ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo thường là ngân hàng đại lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước bên xuất khẩu. Tuỳ từng L/C cụ thể, còn có thể có các Ngân hàng khác tham gia như: - Ngân hàng thanh toán, chiết khấu (The Negotiating Bank) : Ngân hàng này chịu trách nhiệm trực tiếp trả tiền cho L/C. Trên thực tế Ngân hàng thanh toán L/C chính là Ngân hàng L/C hoặc Ngân hàng thông báo, hoặc một ngân hàng nào đó do Ngân hàng phát hành L/C chỉ định. - Ngân hàng xác nhận L/C (The confirming Bank). Là ngân hàng bổ sung sự xác nhận của mình vào L/C theo yêu cầu hoặc sự uỷ quyền của NHPH. - Ngân hàng được chỉ định (Nominated bank): Là ngân hàng mà tại đó L/C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu. Đối với L/C có giá trị tự do, thì bất kỳ ngân hàng nào đều có thể trở thành ngân hàng được chỉ định. Trách nhiệm kiểm tra chứng từ của ngân hàng được chỉ định là giống như NHPH khi nhận được bộ chứng từ. Qui trình thanh toán L/C: 1. Người nhập khẩu dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký với bên phía xuất khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu Ngân hàng này mở L/C cho người thụ hưởng là người xuất khẩu. 2. Theo đơn xin mở L/C, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (ngân hàng phát hành) mở một L/C (phát hành L/C) cho người xuất khẩu hưởng. Ngân hàng này chuyển bản chính L/C cho ngân hàng xuất khẩu (Ngân hàng thông báo). 3. Ngân hàng xuất khẩu xác nhận L/C bằng văn bản và gửi bản chính L/C cho phía nhà xuất khẩu. 4. Căn cứ vào nội dung L/C, nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu theo các điều khoản của L/C. 5. Sau khi việc giao hàng được thực hiện hoàn tất, người xuất khẩu phải hoàn tất ngay các bộ chứng từ hàng hoá và hối phiếu gửi cho ngân hàng phục vụ, và đồng thời yêu cầu ngân hàng này thanh toán tiền cho bộ chứng từ đã hoàn chỉnh đó. 6. Ngân hàng thông báo sau khi nhận được bộ chứng từ, thực hiện kiểm tra kỹ nội dung các chứng từ đó, nếu thấy phù hợp với các điều khoản của L/C thì ngân hàng thanh toán (hoặc là chấp nhận chiết khấu bộ chứng từ theo các điều khoản quy định trong L/C). 7. Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu (Ngân hàng phát hành). 8. Ngân hàng phục vụ phía người nhập khẩu (Ngân hàng phát hành L/C) sau khi nhận đựơc các bộ chứng từ do Ngân hàng thông báo chuyển đến (Ngân hàng xuất khẩu), triển khai kiểm tra kỹ các bộ chứng từ này, nếu thấy đáp ứng được những yêu cầu quy định trong L/C thì chuyển tiền thanh toán cho Ngân hàng thông báo để ngân hàng thông báo trả tiền cho nhà xuất khẩu. 9. Ngân hàng phát hành L/C (Ngân hàng phát hành) thông báo cho người nhập khẩu biết đã thực hiện thanh toán tiền cho phía bên người xuất khẩu, đồng thời yêu cầu nhà nhập khẩu hoàn lại số tiền này, sau đó Ngân hàng phát hành trao cho người nhập khẩu bộ chứng từ đã được kiểm tra hoàn chỉnh để làm cơ sở nhận hàng. Sơ đồ 1.4. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) Ngân hàng thông báo L/C (Ngân hàng xuất khẩu) Ngân hàng mở L/C (Ngân hàng nhập khẩu) Bên bán (Nhà xuất khẩu) Bên mua (Nhà nhập khẩu) (2) (7) (8) (3) (5) (6) (1) (9) (4) Đặc điểm của thư tín dụng chứng từ L/C. Ngân hàng và các bên tham gia liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ mà không dựa vào hàng hoá và dịch vụ. L/C phải được chỉ rõ là huỷ ngang hay không huỷ ngang, nếu không chỉ ra như vậy thì L/C sẽ được coi như là L/C không huỷ ngang. Chứng từ được coi như là không phù hợp với các điều khoản quy định trong L/C nếu: chúng mâu thuẫn với các điều khoản đã được quy định trong L/C hay các chứng từ mâu thuẫn nhau. Ngân hàng phát hành có một khoảng thời gian hợp lý không quá 7 ngày làm việc sau khi nhận được chứng từ để kiểm tra chứng từ và xác định chứng từ có phù hợp hay không, nếu quá thời hạn ngân hàng không có quyền thông báo sai sót Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra các chứng từ không có quy định trong L/C. Nếu ngân hàng từ chối chứng từ thì phải thông báo bằng phương tiện truyền thống trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ 7 tính từ ngày tiếp nhân bộ hồ sơ. Ngân hàng không chịu bất cứ trách nhiệm nào về sự chậm trễ do truyền tin, về lỗi chính tả phát sinh trong quá trình chuyển giao hoặc truyền tin. Chính do các đặc đểm trên mà thanh toán bằng L/C tuy có phức tạp về mặt thủ tục, song các nguyên tắc thanh toán lại rất chặt chẽ, rõ ràng, nên việc nhận hàng và trả tiền luôn luôn được đảm bảo. Vì thế, hình thức này được sử dụng rất rộng rãi nhất trong ngoại thương hiện đại ngày nay. Hiện nay trong thanh toán quốc tế có nhiều loại thư tín dụng được sử dụng: - Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C): Với loại này, sau khi L/C được mở, nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần đến sự đồng ý của người hưởng lợi. Nó chứa đựng rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hoặc huỷ ngangcó thể xay ra ngay khi hàng hoá đang vận chuyển hoăc trước khi trả tiền. - Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): Khi loại L/C này được mở thì người yêu cầu mở L/C sẽ không được sửa đổi, bổ sung hay huỷ ngang những nội dung của nó mà chưa có sự đồng ý của người hưởng lợi. Như vậy, tính bảo đảm của L/C này rất cao, do đó nó được dùng phổ biến trong thanh toán ngoại thương. Loại L/C này là tiền đề cơ sở cho các loại L/C khác. - Thư tín dụng xác nhận (Confirming L/C): Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, đồng thời kèm theo có sự xác nhận trả tiền của một Ngân hàng xác nhận, mà ngân hàng này có thể là ngân hàng thông báo hoặc là một ngân hàng thứ 3 tuỳ theo thoả thuận giữ người mua,người bán và ngân hàng phát hành L/C. Dùng thư tín dụng loại này thì việc nhận tiền của người xuất khẩu là rất chắc chắn. Đối với nhà nhập khẩu khi mở loại L/C này thì ngoài việc phải ký vốn mở L/C tại Ngân hàng, trả thủ tục phí mở L/C, bên cạnh đó để được xác nhận còn phải chịu thêm phí xác nhận và đặt cọc tiền xác nhận cho Ngân hàng xác nhận L/C.._. Đó là những bất lợi cho nhà nhập khẩu. - L/C trả ngay (L/C Payable by draft at sight): Là loại L/C không thể huỷ ngang và phải thanh toán ngay khi các hối phiếu được xuất trình. Rủi ro trong loại thư tín dụng này là thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hối phiếu này thường đến trước khi hàng dến nơi. -L/C trả chậm (L/C available by Deffered Payment): Là loại L/C trong đó ngân hàng phát hành cám kết thanh toán cho người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng một vài ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc sau khi giao hàng. -L/C có kỳ hạn: Là loại L/C không huỷ ngang mà trong đó ngân hàng phát hành sẽ chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn do người hưởng lợi lập khi họ xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Những hối phiếu này nhà xuất khẩu có thể giữ lại cho đến thời hạn thanh toán và lúc ấy xuất trình phù hợp cho ngân hàng để có thể lấy lại tiền hoặc chuyển nhượng trên thị trường: các ngân hàng phát hành có thể mua hối phiếu có dấu chấp nhận thanh toán cho chính mình. -L/C trả dần: Là loại L/C không huỷ ngang trong đó có quy định người hưởng lợi sẽ được trả dần toàn bộ số tiền của thư tín dụng theo những thời hạn quy định rõ trong L/C. Khác với loại thư tín dụng có kì hạn, loại L/C này không đòi hỏi hối phiếu do người bán lập. Do vậy người bán không có quyền lợi pháp lý đối với hối phiếu, và quyền truy đòi liên quan đến hối phiếu đó. -L/C chấp nhận (L/C Available by acceptance): Là loại thư tín dụng trong đó ngân hàng phat hành L/C thực hiện chấp nhận hối phiếu hoặc chỉ định bên thứ ba chấp nhận hối phiếu, với điều kiện người thụ hưỏng xuất trình bộ chứng từ phù hợp theo quy định chung của L/c. Ngân hàng phát hành L/C trong bất cứ trường hợp nào cũng phải thanh toán hối phiếu đã được chấp nhận, khi các điều kiện của L/C được đáp ứng hoàn hảo. Một số loại L/C đặc biệt: -L/C có điều khoản đỏ: Là loại L/C, trong đó có ghi rõ điều khoản đặc biệt ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng thông báo (hay ngân hàng xác nhận, ngân hàng thông báo) để thực hiện ứng trước cho người hưởng lợi một số tiền nhất định trước lúc giao hàng, thường thì số tiền ứng trước tính theo tỷ lệ % giá trị toàn bộ L/C và phải xuất trình chứng từ tại ngân hàng mà họ đã nhận tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này nếu không xuất trình đủ chứng từ hợp lệ trong thời hạn quy định. -L/C chuyển nhượng đựơc (Transferable L/C): Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ mà ngưòi hưởng lợi đầu tiên (first beneficiary) có thể đòi hỏi ngân hàng phục vụ chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị L/C gốc (prime L/C) cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thức hai. Mục đích của loại L/C này nhằm giúp cho nhà xuất khẩu tiến hành dịch vụ xuất khẩu mà không cần đến vốn của mình. Trong L/C chuyển nhượng thì người hưởng lợi thứ nhất không tự động cung cấp được hàng hoá, mà chỉ là trung gian môi giới giữa người cung cấp hàng hoá và người mua cuối cùngvà L/C chỉ được chuyển nhượng một lần. - Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): L/C này thường dùng trong trường hợp mua bán qua trung gian.Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình, thì người hưởng lợi nếu không thể cung cấp hàng hoá dùng L/C này để mở một L/C khác cho người có thể cung cấp hàng hoá hưởng với những nội dung gần giống như L/C ban đầu (L/C gốc), L/C sau gọi là L/C giáp lưng. - Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Loại L/C này thường được sử dụng trong trao đổi quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia công quốc tế. Thư tín dụng đối ứng bắt đầu có hiệu lực khi một thư tín dụng đối ứng với nó đã được mở. - Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại thư tín dụng không huỷ ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự động khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. Quy trình giống như L/C không huỷ ngang, sau khi thực hiện bước 9 thì lặp lại từ bước thứ 3 cho tới khi hết tổng giá trị L/C. Loại L/C tuần hoàn thường được sử dụng trong thanh toán với các bạn hàng quen biết, có quan hệ lâu dài, với số lượng hàng, chủng loại hàng mua bán ổn định trong thời gian dài. - Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C): Thực chất đây là một cam kết bảo lãnh của ngân hàng, là một loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự, dù được gọi hay miêu tả theo cách nào, theo đó ngân hàng phát hành L/C cam kết với người hưởng lợi: Trả khoản tiền mà người yêu cầu mở thư tín dụng đã vay hoặc nhận ứng trước. Bồi hoàn về những thiệt hại do người yêu cầu mở không thực hiện được nghĩa vụ của chính mình. Nhận xét: Có thể thấy, ngày nay thì trong trao đổi mua bán hàng hoá quốc tế, thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ chiếm một vị trí chủ đạo trong các phương thức thanh toán. Thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ chiếm vị trí chủ đạo trong thanh toán quốc tế do thanh toán theo phương thức này đảm bảo lợi ích cho các bên, có thể giảm thiểu rui ro tới mức tối đa cho các bên tham gia thanh toán. - Đối với nhà xuất khẩu (bên bán): Lợi ích được đảm báo, được đảm bảo thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C và nhận được thanh toán mộ cách nhanh nhất. Được ngân hàng giúp đỡ tư vấn, giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra người bán có thể dùng bộ L/C như là một phương thức tài trợ cho xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, chuyển nhượng bộ chứng từ cho ngân hàng hoặc có thể dùng L/C để thế chấp vay vốn ngân hàng. Song với phương thức thanh toán này, nhà xuất khẩu phải chịu chi phí cao, đôi khi không đáp ứng được các điều kiện của L/C làm cho việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. - Đối với nhà nhập khẩu (bên mua): Chắc chắn nhà nhập khẩu phải đáp ứng các quy định của L/C, người mua chỉ trả tiền trong trường hợp nhận được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện của L/C để đi nhận hàng. Người mua được sự trợ giúp của ngân hàng trong việc đảm bảo các điều kiện của L/C được thực hiện, dễ dàng được ngân hàng tài trợ về vốn. Tuy nhiên, theo phương thức này, ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ do đó buộc phải thanh toán bất kể trong trường hợp hàng hoá tốt hay xấu. Rủi ro thuộc về phía người mua nếu người bán lập các chứng từ giả mạo, người mua sẽ phải gánh chịu những thiệt hại lừa đảo do người bán gây ra. - Đối với ngân hàng: Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng thu được lợi ích khá lớn từ các khoản thu phí dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ.... Tuy nhiên khi thực hiện phương thức này, ngân hàng cũng bị ràng buộc trách nhiệm của mình đối với người mua và người bán với tư cách là một bên tham gia vào quy trình thanh toán. Có thể nói, thanh toán bằng L/C là phương pháp ưu việt hơn cả, phương thức này dung hoà được quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng mua bán ngoại thương. Những nghĩa vụ và trách nhiệm đan xen, ràng buộc lẫn nhau tạo nên sự đảm bảo và chắc chắn hơn cả cho việc thanh toán hàng, nâng cao quyền bình đẳng lợi ích trong quan hệ thanh toán giữa các bên tham gia. 1.3 Phát triển thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại. 1.3.1 Khái niệm. Như trên đã nói, thanh toán quôc tế là một nghiệp vụ cơ bản của thanh toán quốc tế, làm cơ sở cho các nghiệp vụ khác phát triển như bảo lãnh hay tín dụng xuất nhập khẩu. Do đó phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại có thể hiểu là sự mở rộng phạm vi hoạt động, gia tăng khả năng tham gia vào lĩnh vực thanh toán, gia tăng chất lượng dịch vụ thanh toán, làm tăng giá trị gia tăng cho ngân hàng, nâng cao hiệu quả kinh tế từ dịch vụ như là một dịch vụ thu được lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng hay làm gia tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng, cùng với đó là phát triển doanh số thanh toán qua ngân hàng thương mại. 1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. Từ vai trò của thanh toán quốc tế đối với NHTM, có thể thấy bên cạnh mở rộng hay phát triển hoạt động thanh toán quốc tế,thì việc phân tích đành giá hiệu quả của hoạt đọng này cũng không kém phần quan trọng và để làm được điều này cần phải cần đến một hệ thống chỉ tiêu toàn diện. Đối với ngân hàng thương mại, có hai nhóm chỉ tiêu, đó là nhóm chỉ tiêu gián tiếp (chỉ tiêu đòn bẩy) và nhóm chỉ tiêu trực tiếp. *Nhóm chỉ tiêu gián tiếp (chỉ tiêu đòn bẩy). (1) Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Đối với chỉ tiêu này cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT với doanh số kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại qua các thời gian là như thế nào. (2) Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu. Đối với chỉ tiêu này cũng cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT và doanh số tài trợ xuất nhập khẩu là như thế nào. (3) Tăng cường các hỗ trợ dịch vụ ngân hàng khác (chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh.....). Đối với chỉ tiêu này, cũng cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số chiết khấu hối phiếu, doanh số bảo lãnh của ngân hàng. (4) Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tín dụng. Đối với chỉ tiêu này, cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT với dư nợ tín dụng bình quân qua các thời kỳ. (5) Tăng cường nguồn vốn (đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ). Đối với chỉ tiêu này, cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT với số dư tiền gửi ngoại tệtại ngân hàng, hay doanh số TTQT và số dư tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế khác là như thế nào. (6) Tăng cường và củng cố uy tín của ngân hàng trong nước và quốc tế. Chỉ tiêu này được thể hiện bởi thứ bậc xếp hạng hay các giải thưởng do các tổ chức quốc tế có uy tín xếp hạng hoặc trao tặng. *Nhóm chỉ tiêu trực tiếp -Nhóm chỉ tiêu tuyệt đối gồm: (1) Doanh thu từ hoạt động TTQT (DTQT) (2) Lợi nhuận từ hoạt động thanh toán quốc tế (LNQT) LNQT=DTQT – CFQT Trong đó CFQT là chi phí cho hoạt động TTQT (3) Số vụ khiếu nại do mỗi ngân hàng gây ra. Có thể thấy, nhóm chỉ tiêu này, chỉ tiêu (1) và (2) thì giá trị càng lớn càng thể hiện hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. Với chỉ tiêu (3), số vụ khiếu nại do ngân hàng gây ra càng ít thì càng chứng tỏ trình độ chuyên nghiệp cũng như chất lượng dịch vụ của ngân hàng. -Nhóm chỉ tiêu tương đối gồm: (1) Tỷ số “Lợi nhuậnTTQT/ Doanh thu TTQT” viết tắt là LNQT/DTQT. (2) Tỷ số “Chi phí TTQT/ Doanh thu TTQT” viết tắt là CFQT/DTQT. (3) Tỷ số “Lợi nhuận TTQT/ lãi kinh doanh NH” viết tắt là LNQT/LNNH. (4) Tỷ số “Doanh thu TTQT/ tổng doanh thu dịch vụ” viết tắt là DTQT/DTDV. (5) Tỷ số “Lợi nhuận TTQT/ vốn tự có” viết tắt là LNQT/VTC. (6) Tỷ số “Lợi nhuận TTQT/ tổng tài sản” viết tắt là LNQT/TSC. (7) Tỷ số “Doanh thu TTQT/ vốn tự có” viết tắt là DTQT/VTC. (8) Tỷ số “Doanh thu TTQT/tổng tài sản” viết tắt là DTQT/TSC. (9) Tỷ số “Lợi nhuận TTQT tăng thêm/đầu tư công nghệ mới” viết tắt là LNTT/ĐTCN. (10) Tỷ số “Lợi nhuận TTQT/tổng số cán bộ TTQT” viết tắt là DTQT/CBQT. (11) Tỷ số “Doanh thu TTQT/tổng số cán bộ TTQT” viết tắt là DTQT/CBQT. (12) Tỷ số “Số vụ khiếu nại/Tổng số món thanh toán” viết tắt là SKN/SMTT. Tuỳ từng ngân hàng mà mỗi chỉ tiêu có ý nghĩa cụ thể riêng, có ý nghĩa riêng đối với mỗi trường hợp và có thể tiếp cận phân tích các chỉ tiêu theo hai phương pháp là theo dãy thời gian hoặc so sánh với các ngân hàng thương mại khác có cùng đặc điểm. Các nhóm chỉ tiêu từ (1) cho đến (11) thì có giá trị càng lớn càng thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tuỳ trong điều kiện cụ thể, mối ngân hàng sẽ có những mức tiêu chuẩn đề ra cho phù hợp với ngân hàng mình để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế. Ngược lại, đối với chỉ tiêu (12) thỉ có giá trị càng nhỏ càng thể hiện chất lượng cao của dịch vụ TTQT tại ngân hàng 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. 1.4.1 Nhóm nhân tố khách quan. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng thương mại có thể kể đến như : Tình hình kinh tế xã hội của đất nước nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng, đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế. Các chính sách kinh tế đối ngoai, chính sách tài chính quốc gia của đất nước tạo động lực phát triển về hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài, cải tổ lại hệ thống Ngân hàng .v.v.. từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế phát triển. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng kinh tế, hệ số mở cửa của nền kinh tế ( tỷ lệ doanh số XNK/GDP), môi trường đầu tư nước ngoài hay sự linh hoạt, mức độ mở cửa và độ liên kết của thị trường tài chính trong nước với thị trường tài chính quốc tế cũng ảnh hương không nhỏ đến phát triển thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại. Bên cạnh đấy hệ thống thanh toán của hệ thông Ngân hàng, các công nghệ phục vụ thanh toán cần được hoàn thiện để thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế được nhanh chóng, thuận tiên, chính xác hơn. Đây là nhân tố quan trọng để thúc đẩy phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. Ngoài ra, tình hình quan hệ thương mại quốc tế, sự phát triển của các nước bạn hàng, xu thế nền kinh tế thế giới cũng là những nhân tố quan trọng tác động đến thanh toán quốc tế. Đối với một nền kinh tế thế giới càng có xu hướng mở cửa, các nước bạn hàng càng ngày càng tin tưởng làm ăn với nhau, hoạt động thanh toán quốc tế sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, qua đó tạo điều kiện phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Ngoài ra nhân tố tỷ giá cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển của thanh toán quốc tế. Ngày nay, tỷ giá giữa các đồng tiền có xu hướng biến động thường là rất khó luờng, điều nay tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với các bên tham gia hoạt động ngoại thương, điều này gây trở ngại rất lớn chôhạt động thanh toán quốc tế. Chính vì vậy, các ngân hàng cần phải có những dự báo chính xác về xu hướng biến động tỷ giá, qua đó có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho khách hàng, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, gia tăng uy tín của ngân hàng, làm điều kiện tiền đề để có thể phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. 1.4.2 Nhóm nhân tố chủ quan. Một trong những nhân tố quan trọng để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của một Ngân hàng thương mại là với bản thân Ngân hàng phải có tiềm lực, ở đây, tiềm lực của ngân hàng ta có thể hiểu là tiềm lực về tài chính, công nghệ, con người,chất lượng sản phẩm dịch vụ. Phải có khả năng để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, có nghĩa đây là nhân tố ảnh hưởng đến vấn dề quy mô của ngân hàng. Chất lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế phụ thuộc vào trình độ, khả năng xử lý công việc của cán bộ thanh toán, phụ thuộc vào trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc trao đổi thông tin, phụ thuộc vào nguồn ngoại tệ của Ngân hàng có đủ đáp ứng kịp thời cho việc thanh toán cùng với đó thì điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo, phương hướng hoạt động đúng đắn của ban lãnh đạo. Do đó việc cán bộ ngân hàng cuãng tác dộng rất lớn đến sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế. Để hoạt động thanh toán quốc tế của một Ngân hàng thương mại ngày càng phát triển thì phải chú trọng nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng, đầu tư và nâng cao trang thiết bị máy móc cho các phòng nghiệp vụ. Ngân hàng phải tạo được uy tín, nâng cao được chất lượng các dịch vụ Ngân hàng để thu hút đựơc nhiều khách hàng giao dịch từ đó có thể khai thác được nguồn ngoại tệ cần thiết phục vụ các nghiệp vụ cho vay ngoại tệ, tạo điều kiện mở L/C và thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế khác. Ngoài ra, cũng phải thấy rằng hiểu biết của khách hàng về lĩnh vực ngoại thương nói chung cũng như hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của quá trình thanh toán. Thiện chí của các bên tham gia trong khi mua bán ngoại thương cũng ảnh hưởng tới quá trình thanh toán. Và một điều quan trọng là tiềm lực kinh tế của khách hàng của Ngân hàng. Chính vì vây mà cán bộ thanh toán cần phải tư vấn kỹ cho khách hàng, xem xét khả năng tài chính của khách hàng và Ngân hàng phải có các biện pháp thu hút được nhiều khách hàng hơn. Uy tín của NHTM trong nước và quốc tế cũng là một nhận tố để thúc đẩy phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại. Một ngân hàng có uy tín mạnh là ngân hàng có các hoạt động đa dạng và phong phú không những cả về quy mô mà cả chất lưọng cũng được đảm bảo, điều này sẽ giúp thu hút một số lượng lớn khách hàng đến với ngân hàng để thực hiện giao dịch. Không những thế, một ngân hàng có uy tín thì khả năng mở rộng được thị trường trong nước và quốc tế sẽ có nhiều thuận lợi và dễ dàng hơn. Đăc biệt khi ngân hàng có uy tín đối với thị trường quốc tế có rất nhiều thuận lợi khi thực hiện các nghiệp vụ mang tính bảo lãnh thanh toán cho các đối tượng khách hàng trong nước và các nghiệp vụ TTQT khác, đồng thời các ngân hàng và đối tác nước ngoài sẽ dễ dàng tin tưởng lựa chọn ngân hàng để giao dịch. Các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động TTQT cũng có vai trò thúc đẩy phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Các hoạt động kinh doanh khác như hoạt động tín dụng, bảo lãnh xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng là các hoạt động có tác dụng hỗ trợ cho sự phát triển hoạt động TTQT của NHTM. Một nhân tố khác ảnh hưởng đến phát triển thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại là hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý. Ngân hàng đại lý của một NHTM nhằm giải quyết công việc ngay tại một nước, địa phương trong khi NHTM chưa có chi nhánh tại nước, địa phương đó. Mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu giúp cho việc giao dịch và thanh toán ra nước ngoài được thực hiện nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đúng địa chỉ, giảm thiểu chi phí và giảm bớt rủi ro. Và cũng thông qua ngân hàng đại lý, ngân hàng có điều kiện thực hiện các dịch vụ uỷ thác của ngân hàng đại lý để mở rộng hoạt động TTQT. Trên đây là những nhân tố chủ quan cơ bản có ảnh hưởng đến hoạt động TTQT của NHTM. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH HOÀN KIẾM 2.1 Khái quát chung về chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm 2.1.1 Giới thiệu khái quát về chi nhánh. Thực hiện Nghị quyết 3 – Khoá VI của Ban chấp hành Trung Ương Đảng và Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành về việc tách hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã được thành lập và đi vào hoạt động, đánh dấu một bước tiến lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như của hệ thông Ngân hàng Việt Nam nói riêng. Trước tháng 7/1988 NHCT Hoàn Kiếm là ngân hàng quận Hoàn Kiếm (trực thuộc Ngân hàng Hà Nội) cho đến tháng 7/1988, ngay khi Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập thì NHCT Hoàn Kiếm được chuyển đổi thành một chi nhánh thuộc hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Đi cùng với sự thay đổi đó, NHCT Hoàn Kiếm, từ một quỹ tiết kiệm đã được chuyển từ số 10 Lê Lai về 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm và đây cũng là trụ sở chính của NHCT Hoàn Kiếm cho đến bây giờ. Và hiện tại chi nhánh Công Thương Hoàn Kiếm đã được mở rộng cả sang số 39 phố Hàng Bồ. Nằm ở khu vực trung tâm Quận Hoàn Kiếm, nằm tại trung tâm thủ đô, với nhiều dãy phố kinh doanh sầm uất nhộn nhịp như Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bồ,…và là nơi có mật độ mua sắm với hệ thống cửa hàng và khách tham quan du lịch lớn nhất thành phố, đây cũng là nơi tập trung nhiều các hộ kinh doanh cá thể, cơ quan nhà nước, các văn phòng đại diện của các công ty, phòng du lịch quốc tế cũng như khách du lịch và những người có nhu cầu mua sắm cao. Điều này là điều kiện vô cùng thuận lợi cho Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có khả năng phát triển kinh doanh tín dụng phục vụ kinh doanh và tiêu dùng, các dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử, kinh doanh ngoại tệ, và đặc biệt là các hoạt động thanh toán … Tuy vậy, ngân hàng cũng đang gặp không ít các khó khăn đến từ các ngân hàng khác trên địa bàn cùng hoạt động, cạnh tranh lớn với ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ bên cạnh việc ngày càng chú trọng tới mở rộng nhiều loại dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Đi cùng với các hoạt động nhằm nâng cao chất luợng hoạt động kinh doanh, sản phẩm dịch vụ hoàn thiện, kinh doanh có lợi nhuận, không ngừng cố gắng gia tăng doanh số cho vay và dư nợ có tài sản đảm bảo, uy tín đối với khách hàng , ngân hàng cũng luôn chăm lo đến nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của cán bộ nhân viên, nâng cao chất lượng đào tạo, không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiểu rõ nguồn nhân lực là nhân tố đóng vai trò quyết định trong cạnh tranh, cũng như quyết định tới sự phát triển bền vững của ngân hàng. 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh một số năm gần đây. 2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn. Năm 2009, hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHCT HK gặp rất nhiều khó khăn một mặt do sự cạnh tranh mạnh mẽ về lãi suất huy động vốn giữa các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn quận, sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của các Ngân hàng thương mại cổ phần; mặt khác do cuộc đại suy thoái tài chính - tiền tệ đã tác động rất xấu tới sản xuất, kinh doanh và đời sống đồng thời làm giảm thu nhập của các doanh nghiệp cũng như người dân... Tuy nhiên, Ngân hang Công Thương Hoàn Kiếm đã cố gắng nỗ lực duy trì, làm gia tăng nguồn tiền gửi của nhóm đối tượng khách hàng truyền thống, tăng cường mở rộng mạng lưới thị phần, lập thêm quỹ tiết kiệm tại các khu vực có tiềm năng. Mặt khác, chi nhánh cũng đặc biệt chú trọng tới quan tâm nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hoá các sản phẩm Ngân hàng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ tiết kiệm. Nhờ vậy nguồn vốn huy động của Ngân hàng vẫn giữ được sự ổn định và đảm bảo được đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Đến ngày 31/12/2009, nguồn huy động vốn tại chỗ đạt 4,500 tỷ đồng, chỉ giảm khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước. BẢNG 2.1. CƠ CẤU NGUỒN VỐN QUA CÁC NĂM Đơn vị :Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn vốn huy động 5143 100 5035 100 4500 100 1.Tiền gửi doanh nghiệp 4172 81,12 4300 85,4 3500 77,78 2.Tiền gửi dân cư 971 18,88 735 14,6 1000 22,22 ( Nguồn: Phòng tổng hợp NHCT HK ) Năm 2007 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cũng như sự tăng trưởng đột biến của nền kinh tế nước ta, hơn nữa lại chưa xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, do đó có thể hiểu năm 2007 có tổng nguồn vốn huy động cao nhất trong 3 năm gần đây (5,143 tỷ đồng). Qua bảng trên có thể thấy nguồn tiền gửi từ các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động qua các năm, tuy nhiên năm 2009 có xu hướng giảm rõ rệt so với năm 2008 và năm 2007. 2.1.2.2 Hoạt động tín dụng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính đến hồi kết thúc cũng là lúc các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu rất lớn về vốn để có thể khôi phục sản xuất kinh doanh. Chính vì lẽ đó mà công tác cho vay của NHCT HK năm 2009 đã vượt cao hơn hẳn so với 2 năm 2007, 2008 dù cho nguồn vốn huy động có kém hơn. BẢNG 2.2. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN GIAI ĐOẠN 2007 – 2009 Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Dư nợ cho vay 1.100 100 1,100 100 1.900 100 1. Cho vay ngắn hạn 402 36.55 400 36.36 900 47.37 2. Cho vay trung và dài hạn 698 63.45 700 63.64 1,000 52.63 ( Nguồn: Phòng tổng hợp NHCT HK ) Dư nợ cho vay năm 2007 và năm 2008 đều đạt 1,100 tỷ đồng và tỷ trọng giữa cho vay ngắn, trung và dài hạn không có thay đổi đáng kể, trong đó cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng cao hơn hẳn so với cho vay ngắn hạn. Tổng dư nợ cho vay tính đến ngày 31/12/2009 đạt 1,900 tỷ đồng, cao hơn cùng kỳ năm 2008 gấp khoảng 1.7 lần trong đó tỷ trọng giữa cho vay ngắn hạn và trung, dài hạn không có nhiều sự khác biệt, như vậy đã có sự cân bằng hơn giữa hai loại hình cho vay này. 2.1.2.3 Các hoạt động dịch vụ. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì các hoạt động dịch vụ càng được quan tâm mở rộng và chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập của Ngân hàng. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy phát triển dịch vụ vừa mang lại thu nhập an toàn, vừa là biện pháp hữu hiệu bổ trợ cho các sản phẩm chính, quảng bá hình ảnh cho Ngân hàng, góp phần thu hút khách hàng. Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã luôn chú trọng tới mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ nhằm hướng tới đem lại tiện ích lớn nhất cho khách hàng. Nhờ vậy thu nhập từ dịch vụ ngày càng tăng, năm 2009 đạt 13 tỷ đồng, chiếm khoảng 22% tổng thu nhập hạch toán nội bộ. 2.1.2.4 Thanh toán trong nước và chuyển tiền: Năm 2009 doanh số thanh toán trong nước đạt 45,6 tỷ đồng, tăng 19.2% so với năm 2008. Trong đó mở mới được hơn 300 tài khoản, thực hiện 330 món chuyển tiền và thanh toán điện tử trong nước. Chi nhánh đã đưa vào ứng dụng nhiều dịch vụ hiện đại như dịch vụ chuyển tiền nhanh, chi trả lương qua thẻ ATM, đảm bảo được an toàn đồng thời mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. 2.1.2.5 Hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại: Doanh số thanh toán quốc tế năm 2009 đạt 65 triệu USD, tăng 29.42% so với năm 2008 và tăng 26.5% so với năm 2007. Doanh số thanh toán và chuyển tiền trong nước năm 2009 đạt 45,6 tỷ đồng, tăng 19.2% so với năm 2008 và tăng 34.25% so với năm 2007. Thu dịch vụ năm 2009 đạt 13 tỷ đồng - một kết quả đáng kinh ngạc, cao gấp khoảng 2.6 lần so với năm 2008 và gấp gần 4 lần năm 2007. Ngân hàng nhận thức được rõ ưu thế về vị trí kinh doanh của mình nằm trên địa bàn trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của Hà Nội, chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã đưa vào phục vụ các dịch vụ đối ngoại như thu đổi ngoại tệ, thanh toán thẻ séc du lịch… tại các quỹ tiết kiệm và bước đầu thu được kết quả khả quan, đồng thời nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong bối cảnh hội nhập. 2.1.2.6 Hoạt động tiền tệ kho quỹ: Hoạt động Ngân quỹ của ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã đảm bảo việc thu chi tiền mặt nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, an toàn. Nhân viên thu ngân luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trung thực, liêm khiết và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Trong năm qua, bộ phận kiểm ngân đã phát hiện và thu giữ được hơn 10 triệu đồng tiền giả, hoàn trả lại tiền thừa cho khách hàng với hơn 130 món, tổng số tiền lên đến trên 250 triệu đồng và 2,000 USD. Việc làm này đã làm cho khách hàng cảm thấy rất yên tâm, hài lòng và nâng cao uy tín cho ngân hàng,đồng thời chi nhánh trở thành điểm đến tin cậy cho các doanh nghiệp. 2.1.2.7 Công tác thông tin, điện toán: Chi nhánh đã quan tâm đúng mức đến việc đầu tư nâng cao chất lượng trang thiết bị và trình độ chuyên môn của các cán bộ thực hiện công tác điện toán. Nhờ vậy, mạng thông tin điện toán tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm luôn đáp ứng nhanh, hiệu quả yêu cầu đặt ra của công việc, góp phần quan trọng đưa chương trình hiện đại hoá INCAS của NHCT đi vào hoạt động có hiệu quả. Đồng thời ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm cũng đã mạnh dạn đưa công nghệ thông tin ứng dụng vào các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, rút ngắn thời gian giao dịch và thời gian xử lý chứng từ. 2.1.2.8 Các hoạt động khác: Công tác kiểm tra kiểm soát tai ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm luôn được coi trọng và dần dần đi vào nề nếp với tiêu chuẩn chất lương ngày càng cao. Năm 2009 công tác này được thực hiện thường xuyên,sát xao theo định kỳ hoặc đột xuất nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong tất cả các khâu nghiệp vụ. Công tác kiểm tra đóng vai trò giúp các hoạt động thực hiện đúng chế độ, an toàn. Là một trong số ba chi nhánh được NHCT VN tin tưởng lựa chọn thực hiện thí điểm dự án mô hình tổ chức hiện đại hoá, sau 5 năm thực hiện chi nhánh đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra một cách xuất sắc, và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Đi cùng với các kết quả đó, công tác tổ chức cán bộ nhằm quản lý, sử dụng lao động một cách có hiệu quả nhất nhất trên cơ sở nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của phòng ban được ban giám đốc đặc biệt chú trọng quan tâm. Mặt khác, công tác đào tạo cán bộ chuyên môn được đặc biệt chú ý, chi nhánh luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ công nhân viên có cơ hội học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ. Kết quả hoạt động kinh doanh: BẢNG 2.3. LỢI NHUẬN 3 NĂM 2007 – 2009 (Đơn vi: Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2007 2008 2009 lợi nhuận 65 90 65 (Nguồn: Phòng tổng hợp NHCT HK) Cùng với những cố gắng của chính phủ Việt Nam từng bước khôi phục nền kinh tế, năm 2009 NHCT HK cũng đã đạt được lợi nhuận đáng khen, mặc dù so với kết quả năm 2008 đã giảm khoảng 33% lợi nhuận. 2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế ở chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. 2.2.1 Sự ra đời và phát triển hoạt động thanh toán thanh toán quốc tế tại ngân hàng. Trước đây, toàn bộ hoạt động thanh toán quốc tế của toàn bộ hệ thống Ngân hàng công thương Viêt Nam chỉ được tiến hành thông qua hai đầu mối là hội sở Ngân hàng công thương Việt Nam (đối với các chi nhánh phía bắc) và Chi nhánh Ngân hàng công thương thành phố Hồ Chí Minh (đối với các Chi nhánh phía nam). Từ năm 1995 trở đi, để đảm bảo sử dụng nguồn ngoại tệ một cách tiết kiệm, có hiệu quả nhất, đồng thời để có thể phát huy được sức mạnh của cả hệ thống và đảm bảo tối đa vai trò kiểm soát của Ngân hàng công thương Viêt Nam, hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Việt Nam đã được tập trung tại một đầu mối duy nhất tại Hội sở chính Ngân hàng công thương Viêt Nam. Ngân hàng công thương Viêt Nam là đầu mối duy nhất của cả hệ thống được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các chi nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam có đủ điều kiện tham gia thanh toán quốc tế đều có thể thực hiện qua đầu mối duy nhất là Ngân hàng công thương Việt Nam. Chỉ có duy nhất Ngân hàng công thương Việt nam mới được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản NOSTRO tại Ngân hàng đại lý ở nước ngoài, cũng như các tài khoản tiền gửi h._. của chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nói riêng. Đặc biệt là cuộc đại suy thoái diễn ra trong năm vừa qua mà bắt nguồn tư đối tác xuất nhập khẩu quan trọng nhất của Vệt Nam là Mỹ. Hai là: Hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn mới. Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế hiện hành vẫn còn chồng chéo, quá nhiều lần được bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu lực pháp lý chưa cao. Nhà nước cũng chưa ban hành những văn bản pháp lý cần thiết để hoạt động TTQT diễn ra một cách thống nhất, nhất là những quy định cụ thể về thực hiện áp dụng các thông lệ quốc tế như UCP, INCOTERMS, hoạt động TTQT chưa thực sự được bảo vệ bởi một hành lang pháp lý có đủ hiệu lực khi xảy ra tranh chấp. Bên cạnh đó, một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước quy định chưa cụ thể, chung chung, không rõ ràng gây ra sự hiểu khác nhau dẫn đến áp dụng không thống nhất tại các NHTM. Ba là: Cơ chế chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại vẫn còn nhiều bất cập. Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan thường xuyên thay đổi về danh mục các mặt hàng được phép xuất nhập khẩu, về biếu thuế áp dụng đối với mỗi loại mặt hàng khác nhau, thời gian kể từ khi ra quyết định đến khi quyết định có hiệu lực thi hành thường là ngắn, không để các doanh nghiệp có đủ thời gian nghiên cứu dự tính sắp xếp kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, dẫn đến ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động TTQT của ngân hàng. Bên cạnh đó, Chính phủ chưa có chiến lược, giải pháp cụ thể để có thể hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp và không rõ ràng, không có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành kiên quan, các quy định còn chồng chéo gây phiền toái cho khách hàng, tốn kém thời gian và chi phí không cần thiết. Chưa xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các ngân hàng khi tham gia hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Bốn là: Tỷ giá hối đoái không ổn định, thị trường ngoại hối chưa được hoạt động một cách lành mạnh gây ra những cơn sốt về ngoại tệ, gây ra các đợt khan hiếm nguồn ngoại tệ phục vụ cho hoạt động TTQT. Mặc dù luật quản lý ngoại hối đã đuợc uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành năm 2005, sông luật này vẫn đang bị xâm hại một cách nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nói chung cũng như hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Năm là: Sự cạnh tranh đang ngày càng khốc liệt đến từ các ngân hàng đang hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng gây ra trở ngại lớn cho hoạt động TTQT của chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Môi trường hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động TTQT nói riêng của chi nhánh có sự cạnh tranh rất lớn của các NHTM khác đặc biệt là ngân hàng Ngoại thương, Kỹ Thương (Tachcombank) và các ngân hàng nước ngoài khác tại Việt Nam. Các ngân hàng này thường có nguồn lực tài chính dồi dào cũng như chiến lược khách hàng hấp dẫn có thể cho phép các doanh nghiệp vay được những khoản vay lớn, thực hiện các dự án lớn, do đó có điều kiện ràng buộc bắt buộc doanh nghiệp phải thanh toán qua ngân hàng. Còn các ngân hàng nước ngoài thường có lợi thế về thông tin hiện đại, trình độ quản lý cũng như thủ tục nhanh gọn thuận tiện, có kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách ngân hàng. Vì vậy, lượng khách hàng đặt quan hệ giao dịch với chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ngày càng giảm. Điều này giải thích tại sao tổng giá trị kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của chi nhánh trong những năm gần đây tăng ít hoặc có lúc giảm. Sáu là: Trình độ thực hiện các nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam còn rất yếu. Khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật về các hoạt động nghiệp vụ ngoại thương, hành vi đạo đức của khách hàng cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra các hạn chế đối với sự phát triển hoạt động TTQT của NHTM. Nhiều khách hàng không có sự hiểu biết cần thiết về các thông lệ quốc tế, thiếu kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, do đó khi kí kết mắc phải những điều khoản thua thiệt. Nghiệp vụ xuất nhập khẩu còn yếu kém, khả năng thao tác, hoàn thiện bộ chứng từ để thanh toán còn chậm, chưa chặt chẽ nên xuất hiện sai sót là điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra, chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, ngân hàng và các chuyên gia trong lĩnh vực xuất nhập khẩu để tìm ra cách giải quyết tốt nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Một nguyên nhân khác cũng xuất phát từ phía khách hàng là khi khách hàng thấy có bất lợi do hàng hoá rớt giá gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh doanh, họ lại nhờ ngân hàng tìm kiếm sai sót để bắt lỗi bộ chứng từ nhằm mục đích từ chối thanh toán, ngay cả khi trong trường hợp sai sót là không đáng kể và không được thừa nhận, việc từ chối là không đúng thông lệ quốc tế làm ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng hoặc đặt ngân hàng vào tình trạng khó xử khi phải thực hiện cam kết thanh toán với ngân hàng nước ngoài. Qua quá trình phân tích thực trạng hoạt động TTQT tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, chúng ta thấy được những kết quả mà ngân hàng đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó. Vấn đề đặt ra là làm sao để có thể khắc phục được những hạn chế tồn tại trên để phát triển hoạt động TTQT tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 3.1 Định Hướng phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh. 3.1.1. Định hướng phát triển tại chi nhánh Hoàn Kiếm- NHCT VN trong năm tới. Bước vào năm 2010, trên cơ sở kết quả kinh doanh năm 2009 và căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp kinh doanh của NHCT Việt Nam. Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã đề ra nhiệm vụ kinh doanh năm 2010, cụ thể như sau: 3.1.1.1. Mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2010 của chi nhánh - Các nguồn vốn huy động tăng từ 6%- 10% so với năm 2009. - Dư nợ cho vay tăng từ 15,5-21,5% so với năm 2009. - Lợi nhuận hạch toán nội bộ tăng 4,5% so với năm 2009. - Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ không quá 0,5%. - Thu nợ đã đưa vào ngoại bảng là 3,5 tỷ đồng. - Thu từ hoạt động dịch vụ đạt 15 tỷ VND 3.1.1.2. Nhiệm vụ kinh doanh năm 2010 Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau: 1) Tập trung tích cực đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn nhằm giữ vững và phát triển nguồn vốn huy động, thực hiện áp dụng chính sách lãi suất và có chính sách khách hàng hợp lý, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, mang tính cạnh tranh; Duy trì ổn định số lượng khách hàng truyền thống; Chú trọng tập trung khai thác nguồn vốn của các tổ chức đoàn thể xã hội, để có thể dần cải thiện và tạo lập một cơ cấu vốn cân đối, ổn định. 2) Tiếp tục phát triển tín dụng theo hướng tăng dần tỷ lệ dư nợ cho vay có tài sản đảm bảo. Đẩy mạnh công tác cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tư nhân, hộ sản xuất...Cho vay có hiệu quả, an toàn, kiên quyết thực hiện chính sách không để tỷ lệ nợ quá hạn vượt mức đề ra. 3) Tập trung cải thiện số lượng và chất lượng các sản phẩm dịch vụ, gia tăng tiện ích cho các sản phẩm truyền thống. Xây dựng phương án triển khai hoạt động dịch vụ chuyển tiền nhanh VND, Western Union, mở thẻ ATM tại tất cả các điểm giao dịch, QTK thuộc chi nhánh. Khảo sát, lắp đặt thêm máy ATM tại những địa điểm thích hợp song đảm bảo tính an toàn, cùng với đó gia tăng tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về sản phẩm thẻ tới mọi đối tượng khách hàng. 4) Gia tăng công tác kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động tín dụng, tài chính và kế toán, kiểm tra sâu sát hơn. Thực hiện công tác chấn chỉnh sau thanh tra một cách nghiêm túc, đảm bảo mọi hoạt động kinh doanh thuận lợi, an toàn. 5) Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ một cách căn bản, có hệ thông đặc biệt là các kỹ năng về công nghệ mới. Công tác đánh giá cán bộ cần chú trọng tính sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn. Công tác tuyển dụng lao động cần tiêu chuẩn hoá, đảm bảo hội đủ phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ, đáp ứng yêu cầu chất lượng công viêc ngày càng cao. 6) Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn thể trong việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thi đua thiết thực gắn với mọi hoạt động của các tổ chức đoàn thể như Công doàn, Đoàn thanh niên. Duy trì phát triển các phong trào văn nghệ, thể thao, tạo không khí thi đua sôi nổi trong cơ quan, cải thiện đời sống tinh thần cán bộ góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển. 3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tại chi nhánh Hoàn Kiếm NHCT VN trong thời gian tới Hoạt động TTQT ngày nay đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các hoạt động kinh doanh khác của NHTM. Do đó định hướng phát triển hoạt động TTQT cần phải dựa trên cơ sở định hướng phát triển các hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Để đạt được những mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng, cần phải gắn với phương châm kinh doanh" Phát triển- An toàn- Hiệu quả" đồng thời có những bước chuẩn bị tích cực cho quá trình mở rộng kinh doanh theo hướng ngày càng sâu rộng để sau năm 2010 có đủ điều kiện nội lực thực hiện phương châm "Phát triển - Hội nhập - Hiện Đại". Tập trung vào nhiệm vụ phấn đấu nâng cao hơn thị phần hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu trong địa bàn, phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, đa dạng hoá và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực, phấn đấu để năm 2010 này đưa NHCT VN trở thành một ngân hàng tiên tiến có uy tín trong khu vực cũng như trên thế giới. Để có thể thực hiện được các yêu cầu đặt ra, thời gian tới định hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm cần phải thực hiện tốt các nội dung nhiệm vụ chủ yếu sau: Tập trung vào xây dựng chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại một cách đồng bộ và toàn diện nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh, mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Phát triển mạnh và cung cấp nhiều dịch vụ mới gắn kết với nhau để làm tiền dề cơ sở tạo lập, giữ vững và mở rộng thị phần. Tập trung đầu tư có hiệu quả về cơ sở vật chất, con người, củng cố hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy nhằm triển khai và thực hiện tốt chiến lược kinh doanh đối ngoại mà tập trung là đẩy mạnh hoạt động TTQT, củng cố và phát triển ngân hàng đại lý của ngân hàng. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, đảm bảo có khả năng cạnh tranh được với các NHTM hàng đầu trong nước. Tận dụng lợi thế có mạng lưới khách hàng rộng rãi, có mối quan hệ mật thiết với số lượng lớn khách hàng truyền thống để phấn đấu góp phần nâng cao phần nào thị phần TTQT của toàn bộ ngân hàng trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Thành lập một bộ phận chuyên trách nghiên cứu, cập nhật và phân tích các thông tin, tình hình hoạt động của các tổ chức tài chính tín dụng, thị trường tài chính, tiền tệ và kinh tế của các nước có quan hệ kinh tế với Việt Nam làm cơ sở để hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng hoạt động có hiệu quả và gia tăng khả năng tư vấn cho khách hàng. Đào tạo và bổ sung đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và kỹ thuật làm nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có trình độ chuyên môn cao. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với không chỉ ở Hội sở chính mà ngay cả tại các chi nhánh, đặc biệt là trình độ nghiệp vụ tài trợ thương mại quốc tế và TTQT của cán bộ phụ trách quan hệ khách hàng, kỹ năng giao tiếp của cán bộ nghiệp vụ và tiếp thị cũng là nội dung cần đào tạo một cách căn bản và có hệ thống. Đầu tư thích đáng và có hiệu quả để công nghệ thông tin thực sự trở thành thế mạnh, tạo nên sự đột phá cho việc mở rộng khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ, gia tăng khả năng cạnh tranh. Con người và công nghệ được coi là hai yếu tố đặc biệt quan trọng mang tính quyết định đối với sự thành công trong cạnh tranh và hội nhập của toàn bộ hệ thống NHCT VN trong những thời gian tới. Củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại theo mô hình ngân hàng thương mại quốc tế. Tập trung nghiên cứu, điều chỉnh mô hình cơ cấu tổ chức, chức năng và phân cấp quản lý kinh doanh đối với từng bộ phận nghiệp một cách phù hợp để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển trong từng giai đoạn. Rà soát và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ hiện có. Phát triển hệ thống các sản phẩm ngân hàng bán lẻ tự động và điểm giao dịch ngoài ngân hàng để tận dụng ưu thế mạng lưới rông khẵp địa bàn có sẵn của ngân hàng, mở rộng địa bàn hoạt động và gia tăng thị phần. Tổ chức và triển khai tốt các hoạt động marketing, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác trong địa bàn đồng thời đảm bảo được tính thống nhất và sự phối hợp chặt chẽ trong nội bộ ngân hàng. 3.2 Một số giải pháp đề xuất nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Có thể thấy phân tích ở trên, công tác thanh toán quốc tế tại chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn Kiếm còn rất yếu, chưa được quan tâm đầu tư một cách đúng mực, chưa thực sự mang tính cạnh tranh và không đem lại hiệu quả kinh tế cao cho ngân hàng. Qua thời gian thực tập tại ngân hàng, trong bài viết, em xin đề xuất một số ý kiến nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh. 3.2.1 Thay đổi nhận thức của lãnh đạo về vai trò của công tác thanh toán quốc tế. Qua thời gian thực tập tại ngân hàng, em thấy đây có lẽ là yếu tố quan trọng nhất nhẳm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Là một ngân hàng lâu đời, có số lượng khách hàng truyền thông lớn, song dường như công tác thanh toán quốc tế tại ngân hàng đã bi bỏ ngỏ, do vậy, thiết nghĩ lãnh đạo ngân hàng cần phải có một cái nhìn đúng dắn hơn về vai trò của thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại nói chung hay tại ngân ahngf mình nói riêng. Đây là giải pháp quan trọng làm tiền đề cho các giải pháp khác có cơ hội được triển khai và phát huy tác dung nhằm hướng tới mục tiêu phát triển ngân hàng với mục tiêu phát triển, hiện đại, an toàn. Lãnh đạo ngân hàng cần hiểu rõ nâng cao năng lực hoạt động thanh toán quốc tế chính là chìa khoá nâng cao năng lực cạnh trạnh, gia tăng lợi nhuận, tăng uy tín của ngân hàng đối với thế giới đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cường độ và mức độ của ngoại thương đang càng ngày càng gia tăng một cách đáng kể, nếu lãnh đao nắm bắt được điều nay thì ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nếu không ngân hang sẽ bị tụt hậu so với các ngân hàng khác, và điều này tự nó dẫn đến gây thệt hại nhiều mặt cho ngân hàng. Từ giải pháp tiền dề trên, khi lãnh đạo ngân hàng đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của thanh toán quốc tế đối với ngân hàng mình thì các giải pháp sau mới có cơ hội được áp dung một cách hiệu quả vào hoạt động TTQT của ngân hàng. 3.2.2 Cải thiện năng lực trình độ chuyên môn cũng như bổ sung cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế. Hiện nay phòng thanh toán quốc tế của chi nhánh mới chỉ có 4 người, như vậy là khá ít so với quy mô một ngân hàng lớn như ngân hàng. Để đáp ứng được nhu cầu hội nhập ngày nay, việc quan trọng là phải bổ sung nguồn nhân lực để có thể đáp úng được khối lượng công việc sẽ tăng cao trong những năm tới. Ngoài ra, với đội ngũ cán bộ hiện tại cần phải nâng cao nhận thức về công việc mình đang làm, cần phải hiểu rõ công việc mình đang làm, nắm vững nội dụng công việc, nâng cao khả năng ứng xử để có thể giao tiếp với khách hàng một cách lịch sự, có khả năng tư vấn tốt các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán quốc tế . Để làm được việc này, cần có các khoá đào tạo ngắn hạn hoặc dài han để bồi dưõng nghiệp vụ cho các nhận viên hiện có cũng như các nhân viên tiềm năng trong tương lai. Đây chính là cách giải quyết căn bản vấn đề nguồn lực đối với ngân hàng trong lĩnh vự thanh toán quốc tế. Khi tổ chức các khoá học này nên mời các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế trong nước cũng như nước ngoài để có thể đáp ứng đa dạng nhu cầu của thị trường. Cần xây dựng một hệ thông tiêu chuẩn hợp lý trong công tác tuyển dụng cán bộ mới, tìm cách tuyển được những cán bộ có đầy đủ khả năng về đạo đức cũng như chuyên môn, tránh tuyển những cán bộ không có đủ năng lực vào làm tại ngân hàng. Ngoài ra, lãnh đạo ngân hàng cũng nên có nhưng quan tâm thích đáng đến nhu cầu nguyện vọng của cán bộ để cán bộ có thể yên tâm công tác, đảm bảo chất lượng công việc luôn được diễn ra với tiêu chuẩn cao nhât. 3.2.3 Tăng cường đầu tư vào công nghệ máy móc thiết bị. Có thể nói ngày nay, trong thời đại công nghệ thông tin, máy móc thiết bị đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế thị trường. Đứng trước thực trạng đó, để có thể đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi tốc độ thông tin liên lạc ngày càng đòi hỏi cả về tốc độ cũng như sự chính xác, việc phải cải tiến thiết bị máy móc phục vụ cho hoạt đọng thanh toán quốc tế là một giải pháp đúng đắn và có thể phát huy tác dụng gần như ngay tức thì. Để thực thi giải pháp này một cách có hiệu quả, cần phải có sự học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, cũng với đó là phải có sự chuẩn bị về nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận và sử dụng công nghẹ mới một cách có hiệu quả, tránh lãng phi. Đầu tư vào công nghệ máy móc thiết bị sẽ làm cho khả năng cạnh tranh của ngân hàng gia tăng một cách đáng kể, khi các máy móc có đủ quy chuẩn đáp ứng được yêu cầu nội dung công việc thì đây là một nhân tố tác động làm cải thiện uy tín của ngân hàng đối với các ngân hàng đại lý cũng như các ngân hàng khác tren thế giới, điều này làm cho khả năng thu hut khách hàng đến sử dụng dịch vụ tại ngân hàng sẽ được nâng cao, qua đó làm gia tăng thu nhập cho ngân hang. Việc đầu tư vào công nghệ máy móc còn làm cho những sai sót không đáng có hay nhưng chậm trễ trong thanh toán sẽ giảm một cách đáng kể qua đó giảm thểu được số vụ khiếu nại trong thanh toán quốc tế, làm cho chất lượng dịch vụ ngân hàng được gia tăng. Việc đầu tư vào máy móc thiết bị còn làm cho mục tiêu hiện đại của ngân hàng có nhiều khả năng được hoàn thành sớm trước hạn định đề ra. Sau khi tập trung các giải pháp hướng đến con người, nâng cao trình độ công nghệ của ngân hàng, đây là các giải pháp mang tính căn bản để có thể phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng, là những giải pháp mang tính chuẩn bị cho sự mở rộng hoạt động nghiêpj vụ TTQT của ngân hàng.Tiếp theo sau các giai pháp căn bản này, em có nêu thêm một số các giải pháp khác. 3.2.4 Gia tăng hoạt động marketing cho ngân hàng. Khi mà khả năng đáp ứng những đòi hỏi cao của nội dung công việc, chất lượng dịch vụ từng bước được nâng cao, lúc này cần phải quảng bá hình ảnh của ngân hàng rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các doanh nghiệp, người dân có thể biết đến khả năng cung ứng dịch vụ TTQT của ngân hàng. Qua đó sẽ từng bước chiếm lĩnh thị trường, gia tăng thị phần thanh toán quốc tế, qua đó làm tiền đề cho các hoạt động khác phát triển như hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng xuất nhập khẩu.... Kích thích được khả năng thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng là làm gia tăng được nguồn thu cho ngân hàng từ hoạt động dịch vụ, điều này làm cho đa dạng hoá được cơ cấu thu nhập của ngân hàng, cân đối được hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng cần có một chiến lược thu hút khách hàng cũng như chính sách khách hàng hợp lý, ngoài nhưng khách hàng hiện hữu, ngân hàng phải có chính sách phù hợp để thu hút thêm khách hàng, có những tiêu chuẩn đánh giá phù hợp, khả năng phân tích để phát hiện và nuôi dưỡng khách hàng tiềm năng. Ngân hàng cần phải có một chính sách hợp lý đối với từng nhóm khách hàng, đánh giá lại tầm quan trọng của mỗi nhóm khách hàng, trước đây ngân hàng thường chỉ quan tâm tới nhóm khách hàng doanh nghiệp lớn mà quên đi mảng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như khách hàng cá nhân. Hiên nay với mỗi nhóm khách hàng đều có tầm quan trọng riêng do đó ngân hàng cần phải xây dưng lại chính sách khách hàng cho phù hợp với điều kiện mới. Đối với những khách hàng lớn thường xuyên có hoạt động xuất nhập khẩu và sử dụng dịch vụ TTQT qua ngân hàng, ngân hàng cần có chính sách ưu đãi như miễn giảm một số loại phí,lệ phí, giảm lãi suất cho vay, ưu đãi về tỷ lệ ký quỹ khi mở L/C... để thu hút và duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống cũng như để tránh tình trang khách hàng có tài khoản tại ngân hàng nhưng lại thực hiện dich vụ qua ngân hàng khác. Đối với nhóm khách hàng ít có hoạt động TTQT, ít có kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương thì cán bộ phòng TTQT nên tư vấn lựa chọn phương thức TTQT nào có lợi nhất, cùng với đó ràng buộc các điều khoản có lợi cho khách hàng để giảm rủi ro, tạo lòng tin với khách hàng. Đối với khách hàng cá nhân, đây là nhóm khách hàng rất có tiềm năng trong tương lai, cần có biện pháp linh hoạt trong việc xác định tài sản thế chấp, có thể thế chấp bằng chính lô hàng, giảm tỷ lệ ký quỹ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện hợp đồng ngoại thương khi vốn có hạn, xây dựng mối quân hệ tốt đẹp đối với khách hàng, tìm hiểu kỹ khả năng tài chính của khách hàng để có thể có biện pháp thích hợp. 3.2.5 Mở rộng hệ thông đại lý. Khi mà các công tác trên đã làm tốt, ngân hàng cần chú trọng mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý để có khả năng chiếm lĩnh thị trường, mở rộng mạng lưới, điều này làm cho hoạt đông thanh toán diễn ra thuận lợi hơn Xây dựng hệ thống phân loại và chính sách quan hệ đại lý phù hợp để nâng cao uy tín quốc tế, tạo điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện các giao dịch tại ngân hàng. Đồng thời khai thác hệ thống thanh toán của ngân hàng đại lý để phục vụ cho nhu cầu thanh toán của ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Ngoài ra, ngân hàng còn học hỏi được kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các ngân hàng nước ngoài. Chính vì vai trò hết sức quan trọng của hệ thống ngân hàng đại lý nên trong thời gian tới, ngân hàng cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần tiếp tục duy trì và củng cố mối quan hệ với các ngân hàng đại lý để có thể đảm bảo giữ vững uy tín của mình trên thị trường trong nứoc cũng như trong khu vực và quốc tế. Thứ hai, cần mở rộng mối quan hệ đại lý với các ngân hàng mới tại nhiều quốc gia khác nhau để đáp ứng nhu cầu thanh toán với các đối tác ngày càng trải khắp thế giới của khách hàng. 3.2.6 Gia tăng các loại hình dịch vụ mới. Với sự phát triển công nghệ ngân hàng ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, ngân hàng cần phải có nhận thức rõ ràng để có thể áp dụng công nghệ hiện đại một cách có hiệu quả nhằm hướng tới đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ TTQT. Sự đa dạng hoá dịch vụ sẽ chứng tỏ được quy mô, chất lượng của ngân hàng và đáp ứng ngày càng cao nhu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng. Trong một vài năm trở lại đây, các dịch vụ TTQT tại ngân hàng đã phần nào giảm đươc sự chênh lệch, nhưng cơ cấu doanh thu từ phương thức tín dụng chứng từ vẫn là lớn nhất. Chính vì lẽ đó, ngân hàng cần đầu tư đa dạng hoá các dịch vụ, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng các dịch vụ khác nhằm cân đối cơ cấu doanh thu dịch vụ thanh toán quốc tế. Hiện nay, giá trị doanh thu TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ vẫn chiếm một tỷ lệ khá cao trong cơ cấu tổng doanh thu TTQT tại chi nhánh. Và lại phẩn lớn tập trung vào cá khoản phí thu được từ hai loại L/C không huỷ ngang và L/C không huỷ ngang có xác nhận. Do đó, chi nhánh nên thực hiện đa dạng hoá các loại L/C để mở rộng thị phần TTQT của mình cũng như đa dạng hoá dịch vụ TTQT. Có thể đưa ra một số ví dụ như: - Đối với nhứng loại hàng hoá được kinh doanh qua trung gian có thể áp dụng loại thanh toán phù hợp như tín dụng thư giáp lưng(back to back L/C), tín dụng thư chuyển nhượng(Transferable L/C) . - Đối với hàng hoá gia công, giao dịch theo phương thức hàng đổi hàng hay hàng hoá được giao thường xuyên theo chu kỳ nên áp dụng phương thức tín dụng chứng từ thư tuần hoàn(Revolving L/C). - Đối với những sản phẩm hàng hoá là thực phẩm nông sản phẩm có đặc tính là mau hư hỏng thì có thể áp dụng L/C dự phòng nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của cả hai phía xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, séc du lịch vì ngành du lịch hiện nay đang được đầu tư mạnh mẽ và phát triển rất mạnh, do đó nên có những dịch vụ phù hợp để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng trong và ngoài nước. 3.2.7 Nâng cao nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu. Việc đẩy mạnh tín dụng xuất nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển hoạt động TTQT tại chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Vì vậy, để làm tốt công tác tín dụng xuất nhập khẩu có thể đưa ra một số giải pháp khả thi sau: - Lựa chọn khách hàng để ưu đãi tín dụng xuất nhập khẩu: NHCTHK cần đặt ra các hệ thông tiêu chuẩn tuỳ từng mỗi thời kỳ về khả năng tài chính, kim ngạch xuất nhập khẩu, thị trường xuất nhập khẩu để có chính sách ưu đãi tín dụng hợp lý, cạnh tranh. Ví dụ như: đối với các khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín trong quan hệ tín dụng, thanh toán thì ngân hàng cần phải có chính sách ưu đãi hơn đối với khách hàng chỉ quan hệ tín dụng duy nhất. - Cần phải có sự ưu tiên lãi suất hơn đối với các món vay thanh toán xuất nhập khẩu so với những món vay thông thường khác, bởi vì lẽ cho vay thanh toán xuất nhập khẩu thì ngoài phần lãi mà ngân hàng nhận được từ khoản cho vay, ngân hàng còn thu được các loại phí TTQT liên quan như phí mở L/C, phí thông báo, sửa đổi... - Trong thời gian sắp tới cần nghiên cứu áp dụng nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi (mua đứt bộ chứng từ) đối với những bộ chứng từ hoàn hảo và được phát hành bởi ngân hàng đáng tin cậy. Như vậy sẽ đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác. - Bên cạnh đó, để có thể mở rộng hoạt động TTQT thì ngân hàng phải đảm bảo một nguồn cung ngoại tệ dồi dào để có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu thanh toán. Nhằm đảm bảo nguồn ngoại tệ thanh toán, ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt từ các nguồn vốn tài trợ, phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. LỜI KẾT Ngày nay, trong một thế giới hội nhập ngày càng sâu rộng, các nền kinh tế ngày càng mở cửa hơn, việc mua bán trao đổi với nhau giữa các quốc gia ngày càng điễn ra với cường độ mạnh hơn, với khối lượng lớn hơn. Để có thể đáp ứng được hết các yêu cầu mới của thời đại, ngảy nay hoạt động thanh toán quốc tế đã trở thành một hoạt động nghiệp vụ căn bản của ngân hàng, song Việt Nam mới chỉ ở những bước đi đầu tiên của quá trình hội nhập, do đó việc thực hiện tiến hành các nghiệp vụ này không thể không có sai sót đặc biệt đối với các ngân hàng. Nhận thức được điều đó, tìm hiểu và đua ra những giải pháp kịp thời nhằm thúc đẩy phát triển hoạt động TTQT trở nên cần thiết hơn bao giờ hêt, qua thời gian thực tế tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, vận dụng kiến thức được học trong nhà trường, trong chuyền đề này em đã đề cập được các nội dung: Trình bày được rõ vai trò và tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngân hàng thương mại nói riêng. Nêu được thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra trong một số năm trở lại đây tai ngân hàng Công Thuơng chi nhánh Hoàn Kiếm, từ đó bước đầu có những đánh giá về những mặt tích cực cũng như hạn chế của hoạt động thanh toán quốc tế tai ngân hàng. Từ những yếu kém tồn tại, nắm được nguyên nhân của yếu kém tồn tại, giựa trên hiểu biết chung cũng như hiểu biết thông qua thời gian thực tiễn tai ngân hàng, em có đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Mặc dù đã có những cố gắng song với nhận thức còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế nghèo nàn, bài viết không thể không có những thiếu sót, em rất mông được sự hướng dẫn chỉ bảo từ phía các thầy cô đặc biệt là từ phía giáo viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn thị thu Thảo. Một lần nũa em xin chân thành cảm ơn các anh chị trong phòng thanh toán quốc tế của ngân hàng công thương chi nhánh Hoàn Kiếm đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian vừa qua và các thầy cô đã tận tình giúp đỡ em về mặt kiến thức khi còn ngồi trong ghế nhà trường. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Nghiệp vụ thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo. 2. Giáo trình Thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Văn Tiến 3. Trang Web chính thức của ngân hàng Công Thương Việt Nam – Vietinbank.vn 4. Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP 600 5. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm năm 2007,2008,2009 6. Hướng dẫn quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. MỤC LỤC DANH MỤC SƠ DỒ, BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1 Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền. 9 Sơ đồ 1.2.Qquy trình nghiệp vụ phương thức ghi sổ. 11 Sơ đồ 1.3. Quy trình nhờ thu phiếu trơn. 13 Sơ đồ 1.4. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) 18 BẢNG BIỂU BẢNG 2.1. CƠ CẤU NGUỒN VỐN QUA CÁC NĂM 33 BẢNG 2.2. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN GIAI ĐOẠN 2007 – 2009 34 BẢNG 2.3. LỢI NHUẬN 3 NĂM 2007 – 2009 37 BẢNG 2.4. TÌNH HÌNH TTQT THEO PHƯƠNG THỨC NHỜ THU 51 BẢNG 2.5.TÌNH HÌNH TTQT THEO PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN 53 BẢNG 2.6. KHỐI LƯỢNG L/C NHẬP KHẨU TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 55 BẢNG 2.7. TRỊ GIÁ THANH TOÁN L/C NHẬP KHẨU TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 56 BẢNG 2.8. BIỂU PHÍ ĐỐI VỚI L/C NHẬP KHẨU TẠI NHCT VIỆT NAM 57 BẢNG 2.9. LỢI NHUẬN TỪ HOẠT ĐỘNG THANH TOAN 58 L/C NHẬP KHẨU 58 BẢNG 2.10 SỐ LƯỢNG L/C THÔNG BÁO VÀ THANH TOÁN 58 BẢNG 2.11 . TRỊ GIÁ THANH TOÁN L/C XUẤT KHẨU 59 BẢNG 2.12. BIỂU PHÍ THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ ĐỐI VỚI HÀNG XUẤT KHẨU CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VỊÊT NAM 60 BẢNG 2.13 LỢI NHUẬN THU ĐƯỢC TỪ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN L/C XUẤT KHẨU 60 BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Biểu đồ cơ cấu doanh số thanh toán qua ngân hàng năm 2009. 61 Biểu đồ 2.2. Cơ cấu thu nhập từ các phương thức thanh toán. 63 NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Hà Nội, ngày........tháng ...........năm 2010 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31531.doc
Tài liệu liên quan