Lời mở đầu
Sự cần thiết phải hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Song song với quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phát triển, đóng vai trò “ Trung ương thần kinh “ của toàn bộ nền kinh tế. Trong hơn 10 năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới toàn diện, từ nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức cho đến hệ thống pháp luật, đã và đang phục vụ đắc lực cho việc ổn
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định nền kinh tế vĩ mô và phát triển đất nước. Về cơ bản, một hệ thống ngân hàng hai cấp đã được thiết lập, các nguyên tắc nền tảng về hoạt động ngân hàng – tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã được quán triệt. Tuy nhiên, các hoạt động của một ngân hàng hiện đại ở nước ta vẫn là mới mẻ, đặc biệt là hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Trong khi dó, xu hướng toàn cầu hoá và mở cửa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, môi trường tài chính - tiền tệ còn nhiều bất ổn, cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng phát triển và đổi mới theo hướng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có, tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ được các ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện trong những năm gần đây, nó đã góp phần đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, thoả mãn nhu cầu của doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro trong giao dịch hợp đồng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động quan hệ kinh tế – thương mại. Tuy nhiên, sự phát triển và khởi sắc của nghiệp vụ bảo lãnh trong thời gian qua vẫn chưa thực sự tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Mặt khác, do đây là nghiệp vụ còn mới mẻ nên trong quá trình thực hiện xuất hiện rất nhiều vướng mắc và gây nhiều tổn thất cho ngân hàng.
Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội tôi quyết định lựa chọn đề tài :
“Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội “.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại đa dạng và phong phú, song do thời gian và thể lượng kiến thức còn hạn hẹp nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm sáng tỏ các mục tiêu sau :
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nội dung và những vấn dề có liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội, từ đó đưa ra những mặt đạt được và còn những tồn tại, nguyên nhân của những tòn tại đó.
Đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và những lý luận, chính sách marketing, quản trị trong ngân hàng để rút ra kết luận, những đề xuất chủ yếu.
5. Nội dung nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu của đề tài gồm 3 chương :
Chương I – Nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM – Lý luận chung.
Chương II – Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Chương III – Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Nội dung
Chương I - Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại
Những vấn đề có tính chất lý luận.
I - Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM
1. Sự ra đời và quá trình phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM.
1. 1. Sự ra đời.
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, hoạt động thương mại phát triển mạnh mẽ với xu hướng toàn cầu hoá sâu sắc. Điều này bắt nguồn từ nhu cầu ngày càng cao của xã hội về các loại hàng hoá, dịch vụ nhằm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Hơn nữa, các quốc gia với mục tiêu phát huy những lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh của mình, đã và đang thực hiện chính sách kinh tế mở, thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển. Song điều này cũng ẩn chứa nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp do những biến động bất thường về chính trị, kinh tế - xã hội trên toàn cầu đã tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh. Mặt khác, khi thương mại mở rộng không biên giới thì rủi ro về thông tin không cân xứng cho một doanh nghiệp là rất lớn, từ đó rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp ứng các hợp đồng đã ký kết là khó tránh khỏi. Hoặc nếu họ có thể tìm hiểu được thông tin thì việc tranh thủ cơ hội kinh doanh và chi phí bỏ ra đã cản trở họ thực hiện, gây ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và giảm hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Để khắc phục điều này, đòi hỏi phải có một sự đảm bảo cho các giao dịch diễn ra an toàn, tạo độ tin cậy giữa các đối tác kinh doanh.
Như vậy, từ bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu có một sự đảm bảo trong các giao dịch, dẫn tới một hình thức giao dịch đảm bảo ra đời với hình thức biểu hiện là sự đảm bảo của một bên thứ ba, có đủ tư cách và năng lực thực hiện nhằm điều hoà quan hệ, tạo sự tín nhiệm cho đối tác. Đó chính là hoạt động bảo lãnh.
1. 2. Quá trình phát triển của bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một dạng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, xuất hiện vào giữa những năm 60, trong thị trường nội địa nước Mỹ. Sau đó vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Vào thời gian này, các quốc gia thịnh vượng mau chóng vì sản xuất dầu hoả ở Trung Đông liên tục kí kết những hợp đồng kinh tế lớn với các nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, dự án canh tân công, nông nghiệp, quốc phòng. . . Giá trị rất lớn của các hợp đồng và thế mạnh về tài chính của các quốc gia Trung Đông đã cho phép họ phải có một sự bảo đảm chắc chắn về phía đối tác khi tham gia vào các thương vụ giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do ngân hàng của các nước phương Tây phát hành đã thực sự đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các quốc gia nhập khẩu. Kể từ đó đến nay, với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch, vị trí của bảo lãnh ngân hàng ngày càng được củng cố một cách chắc chắn. Có thể nói rằng, hầu hết các giao dịch lớn trong phạm vi quốc tế, cũng như trong nội địa đều có sự hỗ trợ của bảo lãnh ngân hàng. Doanh số của nghiệp vụ này đã gia tăng một cách đáng kinh ngạc ở hầu hết các quốc gia trên thé giới.
Tại Việt Nam, vào đầu những năm 90, khi nền kinh tế nước nhà lột xác, chuyển đổi cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, bắt đầu hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực, các hoạt động ngân hàng trở nên đa dạng và phong phú, trong đó nghiệp vụ bảo lãnh được phát triển như một tất yếu khách quan cả về qui mô và số lượng. Và cho đến nay, bảo lãnh ngân hàng đã phát triển rộng rãi trên nhiều lĩnh vực.
2. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng :
Bảo lãnh ngân hàng có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau :
ỉ Xét theo khía cạnh học thuật, bảo lãnh ngân hàng là một hình thức " Tín dụng chữ ký - Signature Credit " - là hoạt động không dùng đến vốn của ngân hàng.
ỉ Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một loại hình tài trợ ngoại thương, nhằm chống đỡ những tổn thất của người thụ hưởng bảo lãnh do sự vi phạm của bên đối tác liên quan.
ỉ Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam ( ngày 12/12/1997) qui định : " Bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghiã vụ đã cam kết ".
ỉ ở một cách tiếp cận cụ thể hơn, theo điều 2 trong qui chế về nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng ( ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000của Thống đốc ngân hàng nhà nước ) qui định : " Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng ( bên bảo lãnh ) với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh ) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng ( bên được bảo lãnh ) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền mà ngân hàng đã trả thay ".
3. Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng :
w Bảo lãnh ngân hàng là một mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau. Trong một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh, mà còn bao hàm những mối quan hệ khác. Đó là :
ỉ Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh. Đây là quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh.
ỉ Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh. Đó là quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng tín dụng.
Ä Cả ba mối quan hệ này cùng tồn tại song song và cùng chấm dứt.
w Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng không dùng vốn của ngân hàng, mà dùng đến uy tín của ngân hàng.
w Một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thường có ít nhất ba thành phần sau :
ỉ Người bảo lãnh : là người phát hành bảo lãnh.
ỉ Người được bảo lãnh : là người yêu cầu bảo lãnh.
ỉ Người thụ hưởng bảo lãnh : là người nhận cam kết bảo lãnh.
4. Chức năng chủ yếu của bảo lãnh ngân hàng :
w Bảo lãnh ngân hànglà công cụ bảo đảm.
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra các biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho người thụ hưởng. Chính sự tin tưởng này tạo điều kiện cho hợp đồng được ký kết một cách suôn sẻ thuận lợi. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản giữa bảo lãnh ngân hàng và tín dụng thư thương mại ( tín dụng chứng từ ). Do việc thanh toán dựa trên biến cố vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của người được bảo lãnh ( chẳng hạn như : giao hàng không đúng kế hoạch, không đạt chất lượng theo hợp đồng kinh tế đã ký kết, thanh toán tiền hàng không đúng hạn. . . ) nên trong thực tế tỷ trọng các bảo lãnh được yêu cầu thanh toán không cao, thông thường chỉ khoảng dưới 5% ( chẳng hạn tại Mỹ chỉ có khoảng 1% trong số các bảo lãnh ngân hàng được yêu cầu thực hiện thanh toán ).
w Bảo lãnh ngân hànglà công cụ tài trợ.
Không chỉ là công cụ bảo đảm đối với người thụ hưởng, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho người được bảo lãnh. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua bảo lãnh khách hàng ( người được bảo lãnh ) không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiền nộp thuế. . . Vì vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn nhưng với việc phát hành bảo lãnh ngân hàng đã giúp cho khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi được cho vay thực sự.
w Bảo lãnh ngân hàng là công cụ thúc đẩy.
Bảo lãnh ngân hàng cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đòng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và ngân hàng có quyền đòi lại khoản tiền này. Như vậy ngân hàng bảo lãnh luôn chịu một áp lực của việc thanh toán thay nếu như người được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ. Do vậy, ngân hàng bảo lãnh luôn phải tìm mọi cách đốc thúc người được bảo lãnh hoàn tất hợp đã ký kết.
II - Nội dung của nghiệp vụ bảo lãnh.
1. Qui trình bảo lãnh ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng, do vậy muốn được ngân hàng chấp nhận phát hành bảo lãnh, khách hàng ( người được bảo lãnh ) phải đạt được các điều kiện cấp tín dụng và trải qua các thủ tục như trong các hình thức tín dụng khác. Chính vì vậy, qui trình bảo lãnh được thực hiện qua các bước sau :
Soạn thảo văn bản BL
Lập hồ sơ
và xét duyệt
Kết thúc
BL
Giám sát
và xử lý
Phát hành văn bản BL
1. 1. Lập hồ sơ và xét duyệt :
w Hồ sơ bảo lãnh gồm các tài liệu sau :
ỉ Giấy đề nghị phát hành bảo lãnh. Trong đó, khách hàng nêu các điều kiện và điều khoản cần thiết phải có trong văn bản bảo lãnh, phù hợp với hợp đồng giữa họ và người thụ hưởng bảo lãnh. Đồng thời phải có cam kết hoàn trả lại cho ngân hàng phát hành sau khi ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng.
ỉ Các tài liệu chứng minh khả năng tài chính của khách hàng, chẳng hạn như : bảng cân đối tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. . .
ỉ Các tài liệu liên quan đến giao dịch được yêu cầu bảo lãnh, chẳng hạn như : phương án sản xuất kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá, hợp đồng thương mại, dịch vụ. . .
ỉ Các tài liệu liên quan đến bảo đảm cho việc bảo lãnh, chẳng hạn như : giấy tờ thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba. . .
w Xét duyệt :
Dựa vào các tài liệu trên kết hợp với những thông tin bổ sung từ các nguồn khác như : phỏng vấn trực tiếp khách hàng ; sách báo, tạp chí ; trung tâm thông tin tín - CIC. . . , cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích khách hàng. Trong quá trình phân tích, tìm hiểu về khả năng tài chính, khả năng thực hiện hợp đồng và uy tín của khách hàng, cán bộ tín dụng chủ yếu nhằm định lượng rủi ro về phía khách hàng (người được bảo lãnh ) ; từ đó xem xét có chấp nhận bảo lãnh hay không. Nếu mức độ rủi ro được đánh giá ở mức cho phép thì chấp nhận bảo lãnh còn nếu mức độ rủi ro được đánh giá ở mức không cho phép thì từ chối bảo lãnh.
1. 2. Soạn thảo văn bản bảo lãnh :
w Cơ sở soạn thảo văn bản bảo lãnh :
Đây là một công việc đặc biệt quan trọng trong toàn bộ qui trình bảo lãnh. Do yêu cầu bảo lãnh xuất phát từ hợp đồng, nên các yếu tố trong văn bản bảo lãnh không phải do ngân hàng tự sáng tạo hoặc đề xuất mà phải đưọc xây dựng từ nội dung hợp đồng giao dịch và giấy đề nghị của khách hàng. Chính vì vậy, hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh được xem như một hợp đồng cơ sở, hợp đồng gốc. Và việc nghiên cứu hợp đồng gốc cần phải được thực hiện một cách cẩn thận.
Ngoài ra, để soạn thảo văn bản bảo lãnh, ta cần xem xét bản chất của giao dịch, nghĩa vụ của người được bảo lãnh và thời hạn hiệu lực của hợp đồng gốc.
ỉ Ta cần xem xét bản chất của giao dịch bởi thông tường mỗi loại bảo lãnh nhằm đảm bảo cho một loại rủi ro riêng biệt. Các loại rủi ro này biến đổi theo bản chất của giao dịch trong hợp đồng và do vậy sẽ quyết định loại bảo lãnh được phát hành.
ỉ Khi ngân hàng phát hành bảo lãnh đồng nghĩa vụ thì nghĩa vụ của ngân hàng và của người được bảo lãnh là cùng phạm vi, nhưng nghĩa vụ của ngân hàng chỉ thực hiện sau khi có bằng cớ xác nhận khách hàng vi phạm nghĩa vụ của họ. Bởi vậy ngân hàng cần phải tìm hiểu : nghĩa vụ mà khách hàng phải thực hiện trong hợp đồng có phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh trong giấy phép của khách hàng không ? năng lực thực hiện nghĩa vụ đó ra sao ? với nhứng tình huống như thế nào thì nghĩa vụ này được coi là bị vi phạm ?. . . Tất cả những điều đó ảnh hưởng tới khả năng rủi ro của ngân hàng khi chấp nhận bảo lãnh nên việc xem xét không thể bị coi thường.
ỉ Do bảo lãnh là sản phẩm của hợp đồng nên thời hạn hiệu lực của nó sẽ bị chi phối bởi thời hạn hiệu lực của hợp đồng gốc.
w Nội dung soạn thảo văn bản bảo lãnh :
Văn bản bảo lãnh thường có hình thức như một thư bảo đảm, gửi trực tiếp cho người thụ hưởng ( hoặc thông qua một ngân hàng thông báo ). Nhìn chung không có một mẫu văn bản thống nhất cho tất cả các loại bảo lãnh cũng như cho tất cả các ngân hàng phát hành nhưng nội dung văn bản bảo lãnh phải chứa đựng các yếu tố cơ bản sau :
ỉ Chỉ định các bên tham gia.
Tên của người được bảo lãnh, ngân hàng phát hành, ngân hàng chỉ thị, ngân hnàg thông báo ( nếu có ) và đặc biệt là tên người hưởng bảo lãnh cần phải được đề cập rõ ràng, bởi vì bất cứ một sự mơ hồ hoặc một ẩn ý nào cũng đều có thể dẫn đến hậu quả rủi ro sau này.
ỉ Mục đích của bảo lãnh.
Mỗi một loại bảo lãnh nhằm vào một mục đích khác nhau và do bản chất giao dịch trong hợp đồng gốc quyết định. Thông thường tên gọi của văn bản bảo lãnh luôn thống nhất với mục đích của bảo lãnh. Hơn nữa, do bảo lãnh được thiết lập trong khuôn khổ một hành vi hợp đồng cụ thể nên nội dung văn bản bảo lãnh phải có phần tham chiếu đến số hiệu hợp đồng gốc.
ỉ Số tiền bảo lãnh.
Số tiền bảo lãnh giới hạn mức thanh toán của ngân hàng bảo lãnh đối với người thụ hưởng nên khi xảy ra biến cố vi phạm của người được bảo lãnh, người thụ hưởng không có quyền đòi bồi thường nhiều hơn số tiền này cho dù giá trị thiệt hại thựctế lớn hơn. Số tiền bảo lãnh thường được qui định theo mức tối đa và xác định dựa trên bản chất của giao dịch cũng như giá trị hợp đồng gốc. Thông thường số tiền bảo lãnh được ghi chính xác theo giá trị tuyệt đối, tránh trường hợp ghi theo tỉ lệ phần trăm so với giá trị hợp đồng gốc ( để đề phòng hợp đồng gốc có thể thay đổi sau khi bảo lãnh đã được phát hành ). Một điểm khác cũng cần lưu ý là điều khoản giảm thiểu giá trị bảo lãnh ( nếu có ) cũng phải được đưa vào trong văn bản bảo lãnh để tránh sự lạm dụng từ phía người thụ hưởng. Chẳng hạn trong bảo lãnh hoàn thanh toán, giá trị bảo lãnh tối đa bằng số tiền ứng trước của của người được bảo lãnh. Nhưng giá trị bảo lãnh này sẽ giảm tương ứng theo nghĩa vụ đã hoàn thành của người được bảo lãnh. Khi người được bảo lãnh hoàn thành toàn bbọ nghĩa vụ của họ thì giá trị bảo lãnh chỉ còn bằng không.
ỉ Các điều kiện thanh toán.
Phần này qui định các chứng từ cần thiết phải xuất trình, làm cơ sở cho việc thực hiện cam kết thanh toán của ngân hàng bảo lãnh. Khi các điều kiện này được thoả mãn thì ngân hàng bảo lãnh có nghĩa vụ phải chi trả và người thụ hưởng được quyền nhận bồi thường. Việc qui định các loại chứng từ xuất trình để thanh toán tuỳ thuộc vào việc lựa chọn điều kiện thanh toán của bảo lãnh mà cơ sở của nó là sự thoả thuận giữa người thụ hưởng và người được bảo lãnh cũng như vị thế của từng bên trong hợp đồng chính, ngân hàng hoàn toàn không can thiệp vào. Tuy nhiên, để ngân hàng có thể thực hiện tốt vai trò kiểm tra trước khi thanh toán của mình, các chứng từ thanh toán cần phải được qui định cụ thể, chi tiết và rõ ràng.
ỉ Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.
Đây là khoảng thời gian mà ngân hàng phát hành với tư cách là người bảo đảm, chịu trách nhiệm thực hiện cam kết thanh toán bất cứ khi nào điều kiện thanh toán dược thoả mãn. Quá thời hạn hiệu lực qui định, ngân hàng được giải phóng khỏi nghĩa vụ bảo lãnh đã phát hành trước đó. Thời hạn hiệu lực chịu ảnh hưởng từ ngày bắt đầu đến ngày hết hiệu lực được qui định cụ thể trong văn bản bảo lãnh.
ỉ Tham chiếu luật áp dụng.
Nội dung này sẽ cho biết các cơ sở để phát hành và giải quyết những tranh chấp trong quan hệ bảo lãnh. Điều này rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên có liên quan.
Hiện tại, những qui định pháp lý cao nhất chi phối bảo lãnh trong nước là :
+ Luật dân sự ( điều 366 đến điều 376 )
+ Luật các tổ chức tín dụng ( điều 58 đến điều 60 )
+ Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 về qui chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
+ Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thực hiện hợp đồng.
+ Nghị định số 178 của ngân hàng nhà nước về bảo đảm tiền vay.
ỉ Điều kiện miễn trừ trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh.
Đây là nội dung riêng biệt của văn bản bảo lãnh đồng nghĩa vụ, trong đó qui định những trường hợp ngân hàng được giải phóng khỏi trách nhiệm của mình do một số thay đỏi có liên quan đến nghĩa vụ của người được bảo lãnh trong hợp đồng gốc. Để tránh tranh chấp về sau, nội dung này cần phải qui định một cách rõ ràng và cụ thể.
1. 3. Phát hành văn bản bảo lãnh.
Sau khi văn bản bảo lãnh đã được soạn thảo xong, bản chính sẽ được chuyển trực tiếp cho người hưởng bảo lãnh hoặc thông qua một ngân hàng khác làm nhiệm vụ thông báo. Về phía ngân hàng phát hành phải làm các công việc sau đây :
w Thu phí phát hành bảo lãnh từ người được bảo lãnh. Trường hợp bảo lãnh thường xuyên và kéo dài, phí sẽ được thu theo định kỳ thoả thuận với khách hàng.
w Quản lý tiền ký quĩ vào tài khoản riêng. Mức ký quĩ thường tính tỷ lệ % trên số tiền bảo lãnh, nhằm bảo đảm khả năng bồi hoàn của khách hàng sau khi ngân hàng thực hiện cam kết thanh toán cho người hưởng. Tuỳ theo uy tín của khách hàng, tỷ lệ ký quĩ có thể dao động từ 10% - 100% số tiền bảo lãnh.
w Tiến hành thủ tục nhận bảo đảm ( thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. . . ).
w Ghi giá trị bảo lãnh vào sổ theo dõi ( ngoại bảng ).
1. 4. Giám sát và xử lý :
Tuỳ từng loại bảo lãnh cụ thể khác nhau mà cán bộ thực hiện bảo lãnh có thể thực hiện một số công việc sau :
w Theo dõi việc phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh
w Theo dõi giải ngân, thực hiện nhận nợ
w Hạch toán số dư bảo lãnh
w Theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh :
+ Theo dõi tình tài chính và sản xuất kinh doanh của khách hàng.
+ Thu phí bảo lãnh.
+ Kiểm tra tài sản bảo đảm cho bảo lãnh.
+ Đôn đốc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh.
+ Xử lý khi phải trả nợ thay.
+ Xử lý các vướng mắc khác ( nếu có ).
1. 5. Kết thúc bảo lãnh.
w Tất toán bảo lãnh
w Giải toả tài sản đảm bảo bảo lãnh
w Đánh giá kết quả, rút kinh nghiệp
w Lưu trữ hồ sơ
2. Các hình thức bảo lãnh ngân hàng :
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau thì có các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác nhau.
w Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh, gồm hai loại : bảo lãnh đồng nghĩa vụ và bảo lãnh độc lập.
ỉ Bảo lãnh đồng nghĩa vụ ( còn được gọi là bảo lãnh bổ sung ) là một loại bảo lãnh mang tính truyền thống xét theo nguồn goóc ra đời của nó. Đặc trưng của loại bảo lãnh này là nghĩa vụ của ngân hàng phát hành bị chi phối bởi qui tắc đồng phạm vi, hay nói cách khác là ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, còn nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa vụ bổ sung. Nghĩa vụ bổ sung được thực hiện khi và chỉ khi có các bằng cớ xác nhận là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
Ä Bảo lãnhđồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng phát hành phải can thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo và người được thụ hưởng, do vậy thường ít sử dụng trong quan hệ quốc tế, mà chủ yếu là trong phạm vi nội địa.
ỉBảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân hàng hiện đại, được sáng tạo từ yêu cầu đòi hỏi trong thực tiễn. Cơ chế hoạt động của nó dựa rên hai qui tắc cơ bản là : độc lập và hoàn toàn phù hợp. Theo đó nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người được bảo lãnh và thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà thôi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tính độc lập của loại bảo lãnh này không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được qui định trong văn bản bảo lãnh giữa ngân hàng và người thụ hưởng.
Ä Bảo lãnh độc lập đem lại sự thuận lợi lớn cho người thụ hưởng bảo lãnh và cả ngân hàng phát hành. Do vậy nó được sử dụng rất phổ biến trong thương mại quốc tế. Hiện nay hầu hết các qui định về bảo lãnh trong lĩnh vực quốc tế đều chỉ quan tâm đến loại bảo lãnh này.
w Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh, bảo lãnh ngân hàng gồm các loại chủ yếu sau :
ỉ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Loại bảo lãnh này nhằm chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng ( bên đặt hàng ) trong trường hợp người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng, chẳng hạn như : giao hàng chậm trễ, không đúng chất lượng, số lượng. . . Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng thay thế cho yêu cầu ký quĩ mà người đặt hàng đề nghị đối với người cung ứng để bảo đảm bồi thường vi phạm hợp đồng. Do vậy, giá trị tối đa của bảo lãnh tương đương với mức bồi thường. Thông thường hiệu lực của loại bảo lãnh này chấm dứt khi người được bảo lãnh hoàn thành nghĩa vụ cung ứng hàng hoá của họ.
ỉ Bảo lãnh hoàn thanh toán.
Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng thương mại, dịch vụ. . . mà người mua hàng hay người hưởng dịch vụ đã ứng trước tiền hàng cho người bán hay người cung cấp dịch vụ. Bằng việc cam kết sẽ trả lại số tiền đã ứng trước cho người mua ( khi người bán không thực hiện hợp đồng ), ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua hàng và đồng thời cũng giúp người cung ứng thoát khỏi những khó khăn tạm thời về ngân quĩ. Giá trị của bảo lãnh hoàn thanh toán thường tương đương toàn bộ số tiền đã ứng trước ( kể cả tiền lãi và phạt nếu có ). Tuy nhiên, cần lưu ý để tránh sự lạm dụng của người thụ hưởng, văn bản bảo lãnh hoàn thanh toán phải qui định rằng bảo lãnh chỉ có hiệu lực khi điều kiện tiền đề ( có liên quan đến hành vi ứng trước tiền của người thụ hưởng ) đã được thoả mãn. Bảo lãnh vay nợ là một dạng bảo lãnh hoàn thanh toán được sử dụng khá phổ biến trong và ngoài nước.
ỉ Bảo lãnh trả chậm.
Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả chậm và còn gọi là bảo lãnh thanh toán. Quan hệ giữa người bán và người mua ở đây thực chất là quan hệ tín dụng thương mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hoá theo kỳ hạn nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo lãnh trả chậm của ngân hàng.
Đây một trong những loại bảo lãnh rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
ỉ Bảo lãnh dự thầu.
Mục đích của bảo lãnh ngân hàng loại này nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian và chi phí cho người tổ chức đâú thầu do những vi phạm của bên đối tác liên quan ( người tham gia dự thầu ) chẳng hạn như : rút đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng sau khi trúng thầu, bổ sung thêm các điều kiện khi ký hợp đồng so với bản dự thầu. . . Bảo lãnh dự thầu thực chất là phương tiện thay thế cho việc ký quĩ của người tham gia dự thầu, nên giá trị của bảo lãnh này được qui định theo mức ký quĩ chuẩn do người tổ chức đáu thầu đưa ra. Bảo lãnh dự thầu theo bản tính tự nhiên của nó sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được bảo lãnh không được trúng thầu.
w Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh, bảo lãnh ngân hàng có thể phân biệt thành các loại sau :
ỉ Bảo lãnh trực tiếp.
Bảo lãnh tực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh ( không qua trung gian ). Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh, ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.
ỉ Bảo lãnh gián tiếp.
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng thứ nhất ( gọi là ngân hàng chỉ thị ) đề nghị ngân hàng thứ hai ( gọi là ngân hàng phát hành ) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, người được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng chỉ thị sẽ chịu trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua một cam kết gọi là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng cũng có nội dung và các điều khoản qui định như trong bảo lãnh chính. Sau khi đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình ngân hàng chỉ thị lại có thể truy đòi từ người được bảo lãnh.
Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng, do vậy quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ chắc chắn hơn.
ỉ Đồng bảo lãnh.
Trong một dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này, một ngân hàng đóng vai trò đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng đồng minh khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng chính có thể đòi bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
w Căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh, bảo lãnh ngân hàng bao gồm :
ỉ Bảo lãnh theo yêu cầu.
Bảo lãnh theo yêu cầu hay còn gọi là bảo lãnh theo yêu cầu đầu tiên là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán cuả nó là người thụ hưởng bảo lãnh chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho ngân hàng phát hành. Yêu cầu thanh toán có thể là một trong hai dạng sau :
+ Văn bản yêu cầu thanh toán.
+ Văn bản yêu cầu thanh toán kèm với tờ trình về sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
Các văn bản trên đều do người thụ hưởng đơn phương lập, không cần có sự xác nhận của người được bảo lãnh hoặc của bên thứ ba nào khác.
Có thể nói bảo lãnh theo yêu cầu thể hiện tính độc lập rất cao, theo đó ngân hàng phát hành không có quyền viện dẫn bất cứ lý do nào liên quan đến hợp đồng gốc ddể trì hoãn việc thanh toán. Loại bảo lãnh này tạo cho người hưởng thụ những thuận lợi rất lớn bởi khả năng bảo đảm chắc chắn và tính thanh khoản kịp thời. Về phía ngân hàng phát hành, việc kiểm tra chứng từ trước khi thanh toán khá đơn giản, không đòi hỏi những thủ tục và thao nghiệp vụ phức tạp. Tuy nhiên, do việc lập yêu cầu thanh toán hoàn toàn dựa trên nhận định chủ quan của người thụ hưởng nên có thể gây ra những bất lợi đối với người được bảo lãnh.
ỉ Bảo lãnh kèm chứng từ.
Đây là loại bảo lãnh mà điều kiện phải có chứng từ xác nhận của bên thứ ba ( thường là một bên độc lập có đủ tư cách chuyên môn để xác nhận ). Chứng từ có thể được xuất trình theo một trong hai cách sau đây :
+ Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm nghĩa vụ từ phía người được bảo lãnh. Những chứng từ này do bên thứ ba có tư cách độc lập phát hành.
+ Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán, ngoài ra không cần phải xuất trình bất kỳ loại chứng từ nào khác. Tuy nhiên, quyền thanh toán của người này sẽ bị đình lại nếu người được bảo lãnh cung cấp các chứng từ của bên thứ ba độc lập xác nhận việc hoàn thành hợp đồng.
Bảo lãnh kèm chứng từ bảo vệ quyền lợi của người được bảo lãnh tốt hơn so với bảo lãnh theo yêu cầu, nhưng như vậy có nghĩa là ưu quyền của người thụ hưởng sẽ bị giảm đi. Đứng về phía ngân hàng phát hành thì loại bảo lãnh này đòi hỏi trách nhiệm kiểm tra chứng từ trước khi thanh toán khá phức tạp, bởi vì chúng rất đa dạng và không theo một tiêu chuẩn thống nhất nào.
ỉ Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc toà án.
Điều kiện thanh toán ở đây là người thụ hưởng phải cung cấp một phán quyết của toà án hoặc trọng tài khẳng định việc vi phạm nghĩa vụ của người được bảo lãnh và trách nhiệm bồi hoàn đối với người thụ hưởng.
w Các hình thức bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam :
Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành qui chế bảo lãnh ngân hàng, có các hình thức bảo lãnh sau :
+ Bảo lãnh vay vốn : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
+ Bảo lãnh thanh toán : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàn._.g không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
+ Bảo lãnh dự thầu : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm qui định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiênf phạt cho bên mời thầu thì TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
+ Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
+ Bảo lãnh hoàn thanh toán : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả số tiền đã ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì TCTD sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
+ Bảo lãnh đối ứng : là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hành cho một TCTD khác về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp, khách hàng vi phạm các cam kết với bêb nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
III - Những rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM.
1. Rủi ro đối với người thụ hưởng bảo lãnh.
Trên lý thuyết, ngân hàng được chọn làm ngân hàng bảo lãnh phải là một ngân hàng mạnh về tài chính, có chính sách tài trợ mạnh mẽ, trình độ nghiệp vụ của cán bộ cao, năng lực quản lý điều hành của ban lãnh đạo tốt, có uy tín lớn trên thị trường. . . Đáp ứng được điều này cũng có nghĩa là bên được bảo lãnh tìm được cho mình chỗ dựa vững chắc, đồng thời người thụ hưởng bảo lãnh sẽ có sự bảo đảm lớn về khả năng nhận được bồi hoàn nếu bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết.
Song trên thực tế không phải lúc nào bên được bảo lãnh cũng như người thụ hưởng bảo lãnh tìm được cho mình một ngân hàng bảo lãnh như ý. Chính vì vậy mà người thụ hưởng bị chi phối bởi khả năng tài chính của ngân hàng bảo lãnh. Chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ sẽ kéo dài theo sự sụp đổ của ngân hàng bảo lãnh và hâụ quả là người thụ hưởng bảo lãnh phải chịu rủi ro. Ngoài yếu tố trên, các nguyên nhân bất khả kháng cũng có thể gây rủi ro cho người thụ hưởng như : thiên tai, sự bất ổn về chính trị. . .
2. Rủi ro đối với bên được bảo lãnh.
Do tính chất cũng vai trò của bảo lãnh nên bên được bảo lãnh bị ràng buộc trong việc thực hiện các hợp đồng đã ký kết với người thụ hưởng bảo lãnh. Bên được bảo lãnh luôn chịu sức ép phải đền bù về mặt tài chính nếu sự vi phạm của mình được chứng minh trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh. Chính vì vậy mà người thụ hưởng bảo lãnh có thể lợi dụng cơ hội này để lập các chứng từ giả về việc bên được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng để nhận được bồi hoàn trong khi bên được bảo lãnh vẫn nghiêm túc thực hiện hơpj đồng. Như thế trong trường hợp này, bên được bảo lãnh không những phải chịu gánh nặng cũng như sức ép phải thực hiện dúng hợp đồng đã ký kết để tránh khỏi phải đền bù tài chính mà còn luôn đề phòng sự lừa đảo của người thụ hưởng bảo lãnh.
3. Rủi ro đối với ngân hàng bảo lãnh.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, ta thấy rằng tiền của ngân hàng không ra khỏi ngân hàng mà ngân hàng chỉ phát hành mỗi thư bảo lãnh. Song không vì thế mà rủi ro ngân hàng có thể gặp phải sẽ giảm đi. Bởi lẽ, về thực chất mức độ trách nhiệm, nghĩa vụ của ngân hàng trong nghiệp vụ này cũng tương đương như nghiệp vụ tín dụng. Khi ngân hàng chấp nhận phát hành bảo lãnh cho khách hàng cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng cam kết chịu trách nhiệm trả tiền thay cho khách hàng ( bên được bảo lãnh ) nếu họ không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh.
Như vậy, có thể khái quát rằng mọi rủi ro của doanh nghiệp được bảo lãnh dẫn đến doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên thụ hưởng bảo lãnh ( như : thiên tai, hoả hoạn, thiếu thông tin, lạm phát, tình hình chính trị - kinh tế không ổn định. . . ) cũng sẽ là rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng.
Bên cạnh nguyên nhân từ khách hàngthì từ bản thân ngân hàng cũng chứa đựng khá nhiều rủi ro như :
+ Chất lượng cán bộ ngân hàng không có trình độ sẽ dẫn đến những đánh giá không chính xác tình hình và khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng, không lường trước được rủi ro có thể xảy ra khi tiến hành bảo lãnh, làm giảm chất lượng bảo lãnh và tăng những rủi ro tiềm ẩn trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng.
+ Công tác quản trị điều hành trên cơ sở qui chế chính sách của nhà nước và cơ quan chủ quản lỏng lẻo, không thực hiện tốt thì sẽ không phát hiện và ngăn chặn được những thiếu sót trong quá trình thực hiện, không nắm bắt được tình hình thực tế gây những hậu quả không nhỏ trong hoạt động kinh doanh, đồng thời có thể cản trở sự phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh.
+ Việc tuân thủ qui trình bảo lãnh, như ta đã biết : các bước trong một qui trình bảo lãnh có liên quan mật thiết, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, một quyết định hay một hành động sai trong bước này sẽ dẫn đến quyết định hay hành động sai trong bước tiếp theo.
Do vậy, trong thời gian thư bảo lãnh còn hiệu lực ngân hàng cần phải theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết của khách hàng. Nếu không ngân hàng sẽ không có những biện pháp thích hợp để can thiệp và xử lý khi cần thiết. Công nghệ ngân hàng và thông tin cũng là một yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu thiếu thông tin, cán bộ ngân hàng không đủ cơ sở để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại cũng như tương lai của doanh nghiệp, khả năng thực hiện đã cam kết với ngân hàng, không dự đoán được những biến động có thể xảy ra. Do đó, có thể đưa ra những quyết định và kế hoạch chính xác, kịp thời nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động bảo lãnh.
IV - ý nghĩa của bảo lãnh ngân hàng.
1. Đối với ngân hàng.
Mặc dù mới xuất hiện ở Việt Nam song nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng từ khi ra đời đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình qua việc nâng cao hiệu quả các hợp đồng kinh tế và lành mạnh hoá môi thương mại. Điều này được chứng minh bởi những lợi ích thiết thực mà bảo lãnh ngân hàng mang lại cho ngân hàng, cho doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế. Trước hết là đối với ngân hàng :
+ Việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mang lại cho ngân hàng một nguồn thu nhập đó chính là phí bảo lãnh mà ngânhàng thu từ khách hàng của mình. Phí bảo lãnh được tính theo công thức :
Phí bảo lãnh = Tỷ lệ phí (%) * giá trị bảo lãnh * thời gian bảo lãnh
Phí bảo lãnh chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng dịch vụ các ngân hàng hiện đại. Một ưu điểm trong bảo lãnh là ngân hàng không phải xuất vốn ra ngay, do vậy chưa phải sử dụng vốn của mình, không phải trả chi phí huy động và không phải mất chi phí cơ hội cho mục đích kinh doanh khác.
+ Luật pháp bắt buộc muốn bảo lãnh phải có ký quĩ bảo lãnh, khoản này gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng bảo lãnh suốt thời gian bảo lãnh, cho nên đối với ngân hàng đây là nguồn vốn khá ổn định mà thông thường được qui định không phải trả lãi. Mặt khác do tiền ký quĩ lớn, trong đó có một phần là vốn tự có của khách hàng và phần lớn khách hàng phải thế chấp tài sản vay tiền để ký quĩ bảo lãnh nên ngân hàng có thể vừa cho vay tương đối an toàn, lại vừa thu được lãi vay.
+ Nội dung văn bản bảo lãnh thường có điều kiện ràng buộc nhất định, do đó ngân hàng có thể đảm bảo hoạt động của mình diễn ra an toàn, ràng buộc khách hàng phải thực hiện các dịch vụ thanh toán, đồng thời thu được phí dịch vụ cho ngân hàng.
+ Ngoài ra, thực hiện bảo lãnh giúp cho ngân hàng thực hiện được chính sách khách hàng, một mặt đáp ứng nhu cầu và gắn bó hơn với khách hàng mới. Từ đó góp phần nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng, đặc biệt là trên trường quốc tế.
2. Đối với doanh nghiệp.
+ Đối với bên được hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh có ý nghĩa đảm bảo cho doanh nghiệp yên tâm khi tham gia giao dịch, tiết kiệm được thời gian và chi phí, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Đồng thời, bảo lãnh cũng đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất khi có rủi ro xảy ra. Trong giao dịch bảo lãnh, người được hưởng bảo lãnh bao giờ cũng được ưu tiên thanh toán theo yêu cầu đầu tiên.
+ Đối với bên được bảo lãnh.
Một cái lợi trước mắt mà bên được bảo lãnh được hưởng là họ có khoản vay có chi phí nhỏ hơn so với việc vay của các NHTM khác. Xa hơn nữa, họ còn được ngân hàng giúp phân tích, đánh giá hiệu quả vay vốn để họ làm ăn có hiệu quả. Sở dĩ như vậy là vì quyền lợi của ngân hàng gắn liền với quyền lợi của người mua.
Bảo lãnh tạo điều kiện cho nhà doanh nghiệp có đủ phương tiện và khả năng thực hiện hợp đồng nhưng lại chưa có đủ uy tín đối với bên đối tác, có đủ khả năng để tham gia đấu thầu, tham gia giao dịch và ký kết hợp đồng. Bảo lãnh thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn và hoàn thành hợp đồng theo đúng qui định.
3. Đối với nền kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Nó thực sự là chất xúc tác giúp cho các hợp đồng thương mại, xây dựng, các giao dịch hàng hoá, dịch vụ trong nước và quốc tế được ký kết một cách thuận lợi. Nó tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn và ngành kinh tế phát triển thông qua các chính sách của ngân hàng như : mở rộng bảo lãnh vay vốn nước ngoài, hạn mức bảo lãnh. . . để khuyến khích các ngành này phát triển. Ngược lại, với những ngành cần hạn chế, ngân hàng có những chính sách bảo lãnh khắt khe, từ đó góp phần cân đối nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh còn giúp mở rộng thương mại, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Đặc biệt riêng đối với nền kinh tế Việt Nam, với đặc điểm vừa chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đã góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá ở nước ta. Bảo lãnh hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng đứng vững trong cơ chế thị trường, hoạt động có hiệu quả và vươn lên sánh vai với các doanh nghiệp khác trên Thế giới.
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển, nó đã chứng minh sự cần thiết cũng như vai trò và tác dụng hữu hiệu không chỉ với từng doanh nghiệp mà còn với cả nền kinh tế của một nước và nền kinh tế thế giới. bảo lãnh đã trở thành một trợ thủ đắc lực của nhà kinh doanh. Để phục vụ một cách tốt nhất và đáp ứng nhu cầu kinh doanh, ngân hàng luôn tìm cách đổi mới và hoàn thiện công tác bảo lãnh. Nghiên cứu về công tác bảo lãnh sẽ giúp chúng ta đánh giá thực trạng này ở Việt Nam, từ đó có các biện pháp cải tiến hoạt động bảo lãnh cho thích hợp.
Chương II - Thực trạng hoạt động bảo lãnh
tại NHNo & PTNT Hà Nội
I - Giới thiệu khái quát về quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội.
1. Một số nét về NHNo&PTNT Hà Nội.
1. 1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội :
+ NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập theo quyết định số 21 ngày 27/6/1988 của Thống đốc NHNN. Cùng thời gian này, chi nhánh NHNo Hà Nội được thành lập, nhận bàn giao từ NHCT bốn quận nội thành và 12 chi nhánh ngân hàng huyện là : Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Mê Linh, Sóc Sơn, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba Vì.
+ Năm 1991, NHNo Hà Nội bàn giao 6 chi nhánh ngân hàng huyện ( Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba Vì ) về NHNo Hà Tây và bàn giao chi nhánh ngân hàng huyện Mê Linh về NHNo Vĩnh Phú
+ Năm 1994, NHNo Hà Nội thành lập thêm chi nhánh chợ Hôm, sau này là NHNo quận Hai Bà Trưng.
+ Năm 1995, NHNo Hà Nội bàn giao 5 ngân hàng huyện ( Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Sóc Sơn ) về Trung tâm điều hành. Cũng trong năm này, NHNo Hà Nội thành lập thêm 2 chi nhánh : NHNo Đồng Xuân - sau này là NHNo quận Hoàn Kiếm và NHNo Thanh Xuân.
+ Năm 1996, NHNo Hà Nội thành lập thêm 2 chi nhánh : NHNo Tây Hồ và NHNo Giảng Võ - sau này là NHNo quận Ba Đình.
+ Năm 1997, NHNo Hà Nội thành lập thêm chi nhánh NHNo Cầu Giấy.
+ Năm 1999, NHNo Hà Nội thành lập thêm 2 chi nhánh : NHNo quận Đống Đa và NHNo Tam Trinh.
+ Năm 2002, NHNo Hà Nội thành lập thêm 2 chi nhánh : NHNo Tràng Tiền và NHNo Chương Dương.
Đến nay, NHNo&PTNT Hà Nội có 10 chi nhánh, 25 phòng giao dịch và 10 quĩ tiết kiệm. Dự kiến đến cuối năm 2003, NHNo&PTNT Hà Nội có 13 chi nhánh và khoảng 35 á 40 phòng giao dịch. Với qui mô hoạt động như trên, NHNo&PTNT Hà Nội được xếp là chi nhánh NHNo&PTNT cấp I loại I.
1. 2. Các nghiệp vụ chủ yếu Ngân hàng No& PTNT Hà Nội đang thực hiện là :
ỉ Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ của tất cả các tổ chức kinh tế, tài chính và tiền gửi của dân cư với các hình thức :
+ Không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. . .
+ Phát hành kỳ phiếu với nhiều thời hạn khác nhau sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu về mở tài khoản cho mọi cá nhân, thành phần và tổ chức kinh tế. . .
ỉ Cho vay vốn bằng đồng Việt nam, ngoại tệ đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và dân cư để sản xuất, kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực : công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và dịch vụ. . .
+ Thực hiện cho vay vốn với các dự án lớn của Chính phủ, Tổng công ty 90, 91. . . và cho vay ủy thác thông qua các công ty tài chính.
+ Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ( và mở L/C thanh toán xuất nhập khẩu)
+ Cho vay đời sống tiêu dùng : mua nhà mới, sửa chữa cải tạo nâng cấp nhà cửa, phương tiện sinh hoạt, ôtô, xe máy, tivi, máy giặt. . .
+ Cho vay cầm cố các chứng chỉ có giá.
+ Cho vay tất cả các đối tượng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đa ngành nghề mà luật pháp không cấm kinh doanh.
ỉ Dịch vụ ngân hàng :
+ Thực hiện thanh toán, chuyển tiền nhanh trong nước qua mạng điện tử và thanh toán quốc tế trực tiếp trên mạng SWIFT.
+ Chiết khấu chứng từ có giá.
+ Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.
+ Thực hiện các dịch vụ đại lý cho các tổ chức kinh tế xã hội.
1. 3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội :
Tại trụ sở chính ( số 77 Lạc Trung ) có các phòng nghiệp vụ sau :
+ Phòng Kế toán - Ngân quĩ + Phòng Kiểm soát
+ Phòng Kinh doanh + Phòng Tổ chức cán bộ
+ Phòng Kế hoạch + Phòng Marketing
+ Phòng Thanh toán quốc tế + Phòng Vi tính
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội.
Theo định hướng hoạt động kinh doanh được NHNo&PTNT Việt Nam xác định là : " Kiên trì thực hiện đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ; triệt để đi theo cơ chế thị trường ; thực hiện cung cầu vốn trên từng địa bàn với lãi suát thực dương, đảm bảo đủ chi phí cho hoạt động và có lãi, từng bước cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên ". Dưới sự chỉ đạo tập trung, kiên quyết của các cấp lãnh đạo, các mặt hoạt động của NHNo&PTNT Hà Nội đã có bước tiến vượt bậc.
2. 1. Về công tác huy động vốn :
Với phương thức đa dạng hoá và sử dụng các biện pháp thích hợp đã làm cho nguồn vốn của chi nhánh ngày một tăng trưởng, đáp ứng đầy đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Dưới đây là kết quả huy động vốn trong 3 năm gần đây nhất của chi nhánh :
Bảng 1 : Kết quả huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội :
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
TG tiết kiệm
358
10, 7
640
15
964
15, 7
TG kỳ phiếu
930
27, 8
1141
26, 8
2054
33, 5
TG của các TCKT
622
18, 6
761
17, 9
898
14, 7
TG kho bạc
322
9, 6
161
3. 9
156
2, 5
TG, TVcủa các TCTD
1112
33, 3
1552
36. 4
2057
33, 6
Tổng nguồn vốn
3344
100
4257
100
6125
100
(Nguồn vốn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh )
Biểu đồ 1: Mức tăng trưởng nguồn vốn của NHNo&PTNT Hà Nội
Nhìn một cách tổng quát ta thấy : nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng trưởng liên tục và tương đối ổn định. Năm 2001 nguồn vốn huy động tăng so năm 2000 là 913 tỷ đồng tương ứng với 27, 3%. Năm 2002 nguồn vốn huy động tăng so năm 2001 là 1868 tỷ đồng tương ứng với 43, 9%. Có được kết quả này là do ngân hàng đã chú trọng việc đề ra chiến lược nguồn vốn và sử dụng vốn thích hợp ngay từ đầu mỗi năm. Cụ thể : đã thực hiện có hiệu quả các biện pháp sau ;
+ Làm tốt công tác thanh toán vốn cho khách hàng, mọi nhu cầu chuyển tiền của khách hàng được đáp ứng nhanh chóng, an toàn và chính xác trong thời gian rất ngắn. Đồng thời thường xuyên thay đổi phong cách phục vụ khách hàng nên số lượng doanh nghiệp giao dịch về nguồn vốn ngày càng tăng, nhờ vậy mà nguồn vốn cũng ổn định và tăng trưởng.
+ Làm tốt công tác và mở rộng diện thu tiền mặt tại chỗ không thu phí cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh có thu tiền mặt lớn.
+ Mở rộng địa bàn hoạt động tiền gửi đối với các trường học, bệnh viện, các cơ quan hành chính sự nghiệp và các khu vực tập tung dân cư, các khu trung tâm thương mại lớn … vừa thu hút tiền gửi dân cư vừa làm dịch vụ chuyển tiền.
2. 2 : Về công tác đầu tư tín dụng :
Với ý thức gắn liền công tác huy động vón, tăng cường mở rộng tín dụng cả về số lượng lẫn chất lượng để nâng cao hiệu quả kinh doanh, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đã thực hiện một bước nhảy vọt về tăng trưởng tín dụng. Các hình thức tín dụng được đa dạng hoá. Dưới đây là kết quả đầu tư tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Bảng 2 : Tình hình đầu tư tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Dư nợ ngắn hạn
1143
88, 1
1143
72, 7
1186
59, 2
Dư nợ trung dài hạn
154
11, 9
429
27, 3
817
40, 8
Tổng dư nợ
1297
100
1572
100
2003
100
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt dộng kinh doanh )
Biểu đồ 2 : Mức tăng trưởng dư nợ của NHNo&PTNT Hà Nội.
Từ biểu đồ trên ta thấy : dư nợ tín dụng tăng trưởng đều đặn qua các năm. Để đạt được kết quả này, ban lãnh đạo chi nhánh đã xây dựng cho mình đường đi đúng đắn, từng bước dổi mới nhận thức, phong cách làm việc của cán bộ ngân hàng, chủ động đi tìm khách hàng thay cho việc thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến như trước đây. Công tác thảm định tính khả thi của dự án và thẩm tra tình hình tài chính được phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban có liên quan đã góp phần rút ngắn thời gian thẩm định dự án đầu tư, phục vụ khách hàng kịp thời, mở rộng tăng trưởng tín dụng, tăng niềm tin của khách hàng đối với chi nhánh. Bên cạnh đó, chi nhánh đã cải tiến qui trình giao dịch, thực hiện tốt chính sách khách hàng. Chính vì vậy, số lượng khách hàng của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội được tăng lên hàng năm.
2. 3. Về công tác dịch vụ ngân hàng :
Nhằm đáp ứng yêu cầu các hoạt động của một ngân hàng hiện đại trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngày càng được mở rộng với các loại hình như : dịch vụ chuyển tiền mặt, dịch vụ thanh toán quốc tế, thanh toán trong nước, dịch vụ thanh toán thẻ, dịch vụ bảo lãnh …
Dịch vụ thanh toán quốc tế :
Năm 2002, NHNo&PTNT Hà Nội đã tích cực cung ứng ngoại tệ cho khách hàng nên phần lớn các nhu câu về ngoại tệ trong năm đều được đáp ứng tương đối kịp thời và đầy đủ, không để xảy ra tình trạng thanh toán chậm mà ngược lại NHNo&PTNT Hà Nội còn được nhiều ngân hàng nước ngoài tín nhiệm vì đã làm tốt công tác thanh toán quốc tế và nhờ vậy một số doanh nghiệp kể cả một số Tổng công ty 90 – 91 đã thực hiện thanh toán với nước ngoài qua NHNo&PTNT Hà Nội. Nhờ vậy, phí dịch vụ thanh toán quốc tế thu được 189 ngàn USD.
Nghiệp vụ bảo lãnh :
Bảo lãnh là một nghiệp vụ mới của chi nhánh, các hình thức bảo lãnh vẫn còn nghèo làn, tập trung chủ yếu vào 2 loại hình : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, doanh số bảo lãnh vẫn tăng dều qua các năm ( đạt 259405 triệu đồng năm 2000, 343712 triệu đồng năm 2001, 644804 triệu đồng năm 2002 ).
II – Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
NHNo&PTNT Hà Nội bắt đầu tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh từ năm 1997, khi hệ thống NHNo&PTNT Hà Nội bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn hoạt động với sự nghiệp đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và yêu cầu đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, chi nhánh đã cho ra đời và phát triển một “ chất xúc tác “ cho nền kinh tế, một loại hình dịch vụ của ngân hàng hiện đại.
Tuổi đời mới được 15 năm trưởng thành và phát triển nhưng vị thế của ngân hàng không phải là nhỏ. Chi nhánh thực thi nghiệp vụ bảo lãnh trước hết phục vụ khách hàng truyền thống, làm đa dạng hoá các loại sản phẩm ngân hàng. Hoạt động trên địa bàn Hà Nội – trung tâm thương mại lớn của cả nước – với vị thế của mình, nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh của khách hàng tại NHNo&PTNT Hà Nội ngày càng tăng.
Hoạt động bảo lãnh ở NHNo&PTNT Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất dịnh. Song nó vãn chưa thực sự trở thàh một công cụ linh hoạt, chưa khai thác được hết tièm năng, thế mạnh của NHNo&PTNT Hà Nội cũng như trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sau đây là thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội :
1. Tình hình thực hiện qui trình bảo lãnh tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Cho đến nay, chi nhánh vẫn chưa xây dựng được qui trình riêng cho mình mà tuân thủ theo qui trình bảo lãnh chung của NHNo&PTNT Việt Nam, thể hiện rõ trong quyết định số 09/HĐQT ngày 18/1/2001 của HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam về hướng dẫn thực hiện qui chế bảo lãnh.
2. Kết quả hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Bảng 3 : Kết quả bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Số tiền
Số tiền
±%
Số tiền
±%
Doanh số bảo lãnh
259405
343712
+32, 5%
644804
+87, 6%
(Nguồn : Báo cáo của phòng kinh doanh )
Biểu đồ 3 : Mức tăng trưởng doanh số bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Từ biểu đồ trên ta thấy : doanh số bảo lãnh của chi nhánh liên tục tăng trưởng qua các năm. Năm 2001 tăng so năm 2000 là 84307 triệu đồng tương ứng 32, 5%. Năm 2002 tăng so năm 2001 là 301092 triệu dồng tương ứng 87, 6%. Để đạt được kết quả tăng trưởng nhảy vọt này, năm vừa qua ngân hàng đã thực hiện đơn giản hoá thủ tục bảo lãnh và sau khi có quyết định số 838/NHNo-05 ngày 28/4/2000 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về việc uỷ quyền cho các giám đốc các chi nhánh thành viên ký bảo lãnh dự thầu, doanh số bảo lãnh tăng lên rất nhiều. Mặt khác, mức tăng trưởng này cũng là điều tát yếu, nó phản dúng thực trạng nền kinh tế đang chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Hơn nữa, trong những năm vừa qua, ngân hàng đã không ngừng mở rộng cung ứng dịch vụ với chất lượng tốt hơn, thực hiện đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh. Trước đây, hoạt động bảo lãnh chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, đến nay loại hình bảo lãnh đã phong phú hơn, bổ sung thêm một số loại hình bảo lãnh như : bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh vay vốn trong và ngoài nước. Việc bổ sung thêm loại hình bảo lãnh dể đáp ứng nhu cầu da dạng của khách hàng và tăng cạnh tranh cùng các ngân hàng có tiếng trên dịa bàn.
Qua phân tích trên, phần nào ta tháy được tình hình hoạt động bảo lãnh chung của NHNo&PTNT Hà Nội. Tuy nhiên, muốn nhìn nhận được rõ ràng hơn, cụ thể hơn về việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng này dể từ đó có được nhận định đúng về những khó khăn, tồn tại trong nghiệp vụ bảo lãnh ; dồng thời dưa ra các giải pháp phù hợp, có tính khả thi, ta cần đi sâu xem xét, phân tích những mặt sau đây :
+ Việc thực hiện các loại bảo lãnh :
Bảng 4 : Tình hình thực hiện các loại bảo lãnh tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Đơn vị : triệu đồng
Loại bảo lãnh
2000
2001
2002
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Bảo lãnh dự thầu XDCB
171726
66, 2
207258
60, 3
403002
62, 5
Bảo lãnh thực hiện hợp dồng
76524
29, 5
117549
37, 2
204403
31, 7
Bảo lãnh vay vốn trong và ngoài nước
10766
4, 15
14132
4, 08
26050
4, 04
Bảo lãnh bảo hiểm
389
0, 15
1100
0, 32
1289
0, 2
Bảo lãnh thanh toán
-
-
1817
0, 53
7175
1, 11
Bảo lãnh hoàn thanh toán
-
-
1856
0, 57
4191
0, 65
Tổng số
259405
100
343712
100
644804
100
(Nguồn : Báo cáo của phòng kinh doanh )
+ Về bảo lãnh dự thầu :
Đây là loại hình bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn nhất – có thể nói là chủ yếu – trong tổng doanh số bảo lãnh ( 66, 2% năm 2000, 60, 3% năm 2001, 62, 5% năm 2002 ) bao gồm rất nhiều món bảo lãnh ( chiếm khoảng 55% tổng số món bảo lãnh phát sinh hàng năm ). Điều này là hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ trong giai đoạn này, nhà nước đang tích cực đầu tư xây dựng cơ bản, có nhiều dự án được thực hiện. Các doanh nghiệp muốn tham gia vào các dự án này đều phảI đăng ký dự thầu và chủ đầu tư thường yêu cầu họ phải có bảo lãnh dự thầu của một ngân hàng có uy tín. Mặt khác, với thế mạnh uy tín lớn cùng với việc tạo chính sách thông thoáng ( cụ thể : quyết định số 838/NHNo-05 ngày 28/4/2000 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về việc uỷ quyền cho giám đốc các chi nhánh thành viên ký bảo lãnh dự thầu ), thu hút khách hàng đến yêu cầu NHNo&PTNT Hà Nội phát hành bảo lãnh dự thầu cho họ.
Trong hoạt động bảo lãnh dự thầu thì tỷ lệ trúng thầu của các đơn vị được NHNo&PTNT Hà Nội bảo lãnh rất cao và tập trung ở nhiều công trình có vốn đầu tư lớn.
+ Về bảo lãnh thực hiện hợp dồng :
Đây là loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn thứ hai ( sau bảo lãnh dự thầu ) trong tổng doanh số bảo lãnh ( 29, 5% năm2000, 37, 2% năm 2001, 31, 7% năm 2002 ), bao gồm nhiều món bảo lãnh với giá trị lớn. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng rộng rãi cả trong lĩnh vực thương mại và lĩnh vực xây dựng. Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, bảo lãnh thực hiện hợp đồng rất được ưa chuộng. Còn trong bảo lãnh xây dựng, loại hình bảo lãnh này nhằm ràng buộc nhà thi công thực hiện đúng cam kết đã ký với chủ đầu tư, nó thường là giai đoạn bảo lãnh tiếp theo cho nhà thầu dã trúng thầu. Những bảo lãnh này có giá trị rất lớn.
+ Về bảo lãnh vay vốn trong và ngoài nước :
Đối với bảo lãnh vay vốn nước ngoài ( thông qua mở L/C trả chậm ) : trước đây, các doanh nghiệp khi vay vốn nước ngoài thông qua bảo lãnh chỉ phảI ký quĩ 10%- 30% giá trị lô hàng nhập. Sau khi lô hàng về, bán ra, nộp tièn vào ngân hàng giảI ngân từng đợt cho đến hết theo giá trị của lô hàng. Do đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xin bảo lãnh mua hàng trả chậm một cách tràn lan, không kể đó là hàng tiêu ding hay vật tư sản xuất. Từ khi có qui dịnh chặt chẽ vvề bảo lãnh mở L/C trả chậm, các trường hợp nhập hàng trả chậm doanh nghiệp phảI ký quĩ 80% và số vay nằm trong hạn mức vay vốn nước ngoàI của ngân hàng mở L/C thì số lượng bảo lãnh mở L/C đã giảm đI trong toàn hệ thống.
Mặt khác, việc vay vốn nước ngoàI hoặc nhập hàng trả chậm thì lãI suất tương đối thấp so với vay vốn trong nước nhưng doanh nghiệp nhà nước thường phảI chịu giá thành cao, chi phí tốn kém, điều kiện xử lý tranh chấp là khắt khe và bất lợi cho bên Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp dều lựa chọn vay ngoại tệ trong nước.
Trên đây chính là nguyên nhân làm cho doanh số bảo lãnh vay vốn nước ngoàI tại NHNo&PTNT Hà Nội tăng trưởng chậm và có xu hướng giảm dần qua các năm, thể hiện qua số liệu ở bảng 4.
+ Về bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn thanh toán và bảo lãnh bảo hiểm : Các loại bảo lãnh này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh số bảo lãnh. Cho đến nay, NHNo&PTNT Hà Nội mới chỉ thực hiện một lượng không đáng kể 3 loại bảo lãnh này.
Đối với bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn thanh toán : ngân hàng vừa mới thực hiện nên doanh số bảo lãnh còn dè dặt, chỉ chiếm 1, 11% đối với bảo lãnh thanh toán và 0, 65% đối với bảo lãnh hoàn thanh toán trong tổng doanh số bảo lãnh.
Đối với bảo lãnh bảo hiểm : do nền kinh tế nước ta chưa chú trọng đến việc bảo hiểm các dự án đầu tư, các công trình xây dựng nên nhu cầu bảo lãnh bảo hiểm rất ít.
+ Đối tượng khách hàng bảo lãnh :
NHNo&PTNT Hà Nội nhận bảo lãnh những đối tượng sau :
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam bao gồm : DNNN, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoàI tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân.
Các TCTD được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD.
Hợp tác xã và các tổ chức khác có điều kiện qui định tại điều 94 bộ luật dân sự.
Các tổ chức kinh tế nước ngoàI tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.
Hộ kinh doanh cá thể.
Xét theo thành phần kinh tế ;
Bảng 5 : Kết cấu bảo lãnh xét theo thành phần kinh tế tại NHNo&PTNT Hà Nội
Đơn vị : triệu đồng
Khách hàng
2000
2001
2002
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
DN quốc doanh
258263
99, 56
340687
9, 12
636421
98, 7
DN ngoài quốc doanh
1142
0, 44
3025
0, 88
8383
1, 3
Tổng số
259405
100
343712
100
644804
100
(Nguồn : Báo cáo của phòng kinh doanh )
Hiện nay, không chỉ riêng đối với tín dụng mà cả hoạt động bảo lãnh, các giao dịch của ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn rất nhỏ bé ( chỉ chiếm trên dưới 1% so tổng doanh số bảo lãnh ). Như vậy, phải chăng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ít có nhu cầu bảo lãnh. Thực tế cho thấy hoàn toàn không phải như vậy. Nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp ngoài quốc rất lớn nhưng việc đáp ứng các điều kiện về tài sản thé chấp đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tín dụng cũng như trong bảo lãnh là rất khó khăn. Mặt khác, nguyên nhân ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0255.doc