MỤC LỤC
CHƯƠNG MỘT
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI VIỆT NAM
1.1 Đặc điểm sản phẩm thức ăn chăn nuôi............................................................... 5
1.2 Đặc điểm ngành chế biến thức chăn nuôi........................................................... 7
1.3 Vai trò chủ yếu ngành chế biến thức ăn chăn nuôi ........................................... 8
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi
............................
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2644 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển ngành chế biên thức ăn chăn nuôi ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.................................................................................................. 10
1.4.1 Nguyên liệu đầu vào................................................................................... 10
1.4.2 Khách hàng và hành vi tiêu dùng............................................................... 11
1.4.3 Thiết bị và dây chuyền công nghệ.............................................................. 13
1.4.4 Nguồn nhân lực .......................................................................................... 15
1.4.5 Vai trò quản lý Nhà nước đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi................. 16
CHƯƠNG HAI
THỰC TRẠNG NGÀNH CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI VIỆT NAM
2.1 Các doanh nghiệp ngành chế biến thức ăn chăn nuôi .................................... 19
2.1.1 Cơ cấu và qui mô các doanh nghiệp .......................................................... 19
2.1.2 Sản lượng sản xuất và khả năng cung ứng thị trường................................ 23
2.2 Phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chế biến thức
ăn chăn nuôi Việt Nam....................................................................................... 24
2.2.1 Nguyên liệu đầu vào................................................................................... 24
2.2.1.1 Khả năng cung ứng nguyên liệu................................................................. 24
2.2.1.2 Giá nguyên liệu .......................................................................................... 26
2.2.2 Thị trường và cơ cấu khách hàng .............................................................. 28
2.2.2.1 Khách hàng và năng lực thị trường ........................................................... 28
2.2.2.2 Giá thức ăn chăn nuôi ................................................................................ 31
2.2.3 Thiết bị và dây chuyền công nghệ.............................................................. 33
2.2.4 Nguồn nhân lực .......................................................................................... 34
2.2.5 Quản lý Nhà nước đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi ............................ 36
2.2.5.1 Thực trạng chất lượng sản phẩm thức ăn chăn nuôi ................................. 36
2.2.5.2 Trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với chất lượng thức ăn chăn nuôi ..... 38
1
2.3 Đánh giá chung ................................................................................................... 39
2.3.1 Cơ hội phát triển......................................................................................... 40
2.3.2 Những vấn đề tồn tại .................................................................................. 41
CHƯƠNG BA
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI
3.1 Quan điểm phát triển ......................................................................................... 43
3.2 Mục tiêu phát triển............................................................................................. 44
3.3 Các giải pháp phát triển ngành chế biến thức chăn nuôi Việt Nam.............. 45
3.3.1 Giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu ..................................................... 45
3.3.2 Giải pháp cải tiến và xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị ............... 52
3.3.3 Giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực......................................... 53
3.3.4 Giải pháp đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất ................................................................. 54
3.3.5 Giải pháp thâm nhập và mở rộng thị trường .............................................. 55
3.3.6 Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với thức ăn chăn nuôi.................. 58
3.3.6.1 Giải pháp kiểm soát và định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất
thức ăn chăn nuôi ...................................................................................... 58
3.3.6.2 Giải pháp kiểm soát và bình ổn giá thức ăn chăn nuôi ............................. 60
3.3.6.3 Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về kiểm tra, kiểm soát chất lượng
nguyên liệu và sản phẩm thức ăn chăn nuôi ............................................. 61
3.4 Kiến nghị ............................................................................................................. 63
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu đề tài
Chăn nuôi là ngành sản xuất nông nghiệp mang tính truyền thống và tồn tại rất lâu
đời ở nước ta. Tuy nhiên so với mặt bằng phát triển các nước trong khu vực, ngành sản
xuất chăn nuôi Việt Nam đang có sự tụt hậu rõ rệt. Sản phẩm chăn nuôi về căn bản chỉ
đủ đáp ứng cho nhu cầu tiêu dung trong nước, chưa thể hiện được sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới. Đánh giá về tiềm năng phát triển, có thể khẳng định rằng Việt Nam
là một quốc gia có điều kiện tự nhiên và địa lý rất thuận lợi cho sản xuất chăn nuôi,
như vậy sự tụt hậu của ngành suy cho cùng là do hình thức và phương pháp chăn nuôi
chưa được cải tiến, chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế vốn có cho nhu cầu phát
triển.
Điều đó đòi hỏi ngành sản xuất chăn nuôi trong nước phải có bước phát triển nhảy
vọt. Trong đó chuyển đổi hình thức chăn nuôi quảng canh, bán thâm canh truyền thống
sang hình thức chăn nuôi công nghiệp được coi trọng hàng đầu và là một bước thay
đổi tất yếu. Với xu hướng trên, sự phát triển đồng bộ của ngành sản xuất thức ăn chăn
nuôi là một điều kiện không thể thiếu đối với tiêu chí phát triển ngành nôngnghiệp nói
chung và ngành sản xuất chăn nuôi nói riêng. Bởi sản phẩm thức ăn công nghiệp là
nguyên liệu sản xuất chính của ngành chăn nuôi, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
sản phẩm chăn nuôi và hiệu quả kinh tế của người sản xuất chăn nuôi.
Song một thực tế cho thấy, ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi Việt
Nam hiện nay đang phát triển một cách tự phát và thiếu tính đồng bộ.Trong xu thế hội
nhập kinh tế toàn cầu, đặc biệt đứng trước thềm gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế
Giới (WTO) đòi hỏi sản phẩm chăn nuôi Việt Nam phải đảm bảo các chỉ tiêu về chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ sinh thái môi trường theo tiêu chuẩn Quốc
tế. Do vậy ngoài nỗ lực của ngành chăn nuôi, ngay từ bây giờ ngành chế biến thức ăn
chăn nuôi phải có định hướng phát triển một cách đồng bộ, bền vững và phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Đứng trước đòi hỏi cấp bách của nhu cầu phát triển ngành, tác giả chọn đề tài
“Giải pháp phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi Việt Nam” với nỗ lực
nghiên cứu và đưa ra các giải pháp mang tính cấp bách, có ý nghĩa thực tiễn cao cho
quá trình phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn
nuôi Việt Nam và một số nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển ngành.
Trên cơ sở các thông tin đã được phân tích, đánh giá đưa ra các giải pháp phát triển
phù hợp với tiêu chí phát triển kinh tế xã hội nói chung và ngành sản xuất chăn nuôi
trong nước nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi trên phạm vi cả nước. Tuy
nhiên chỉ giới hạn nghiên cứu trong phạm vi các yếu tố ảnh hưởng đến hai loại sản
phẩm chính, có tính đặc trưng và ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của ngành là
thức ăn đậm đặc và thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh sử dụng cho gia súc, gia cầm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng, lịch sử và phân tích
thống kê nhằm đưa ra các thông tin phục vụ cho việc xây dựng giải pháp phát triển, cụ
thể:
¾ Đánh giá, phân tích thực trạng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi trên cơ sở số liệu
thống kê và số liệu điều tra, quan sát.
¾ Dự báo nhu cầu thị trường nguyên liệu, sản phẩm thức ăn chăn nuôi theo mục tiêu
phát triển đàn gia súc gia cầm và định mức chuyên ngành về tiêu hao thức ăn, tiêu
hao nguyên liệu sản xuất thức ăn.
¾ Dự báo khả năng cung ứng nguyên vật liệu trên cơ sở qui hoạch diện tích đất canh
tác nguyên liệu và năng suất ngành sản xuất nông nghiệp.
5. Kết cấu luận văn
Luận văn được trình bày làm ba chương gồm:
Chương một: Tổng quan ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam
Chương hai: Thực trạng ngành chế biến thức ăn chăn nuôi Việt Nam
Chương ba: Giải pháp phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi Việt Nam
Vì thời gian và qui mô nghiên cứu có hạn, đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi
thiếu sót. Mong quý Thầy Cô và bạn đọc đóng góp ý kiến nhằm xây dựng các giải
pháp phát triển mang tính thực tiễn cao hơn.
4
CHƯƠNG MỘT
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI
VIỆT NAM
1.1 Đặc điểm sản phẩm thức ăn chăn nuôi
Thoạt đầu ngành chăn nuôi xuất hiện và phát triển một cách tự phát, sản phẩm
dùng cho chăn nuôi chủ yếu là thức ăn đơn tận dụng từ phụ phẩm của ngành sản xuất
nông nghiệp và các sinh vật tự nhiên sẵn có. Đến đầu thế kỷ 20, khoa học chế biến
thức ăn chăn nuôi mới hình thành và phát triển một cách nhanh chóng cùng với sự phát
triển không ngừng của khoa học kỹ thuật. Mục tiêu của quá trình sản xuất là tạo ra
những sản phẩm có chất lượng, đầy đủ chất dinh dưỡng cho vật nuôi mà thức ăn đơn
không thể đáp ứng được. Mặt khác, mỗi loại vật nuôi trong từng giai đoạn phát triển
sinh lý lại có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau, chính vì thế mà ngành chế biến thức chăn
nuôi phải tạo ra được được nhiều loại sản phẩm phù hợp cho từng loại gia súc, phù
hợp với từng thời kỳ phát triển sinh lý của vật nuôi.
Phải nói rằng, thức ăn chăn nuôi công nghiệp là một tiến bộ kỹ thuật của ngành
chăn nuôi bởi chúng đáp ứng tốt nhất nhu cầu dinh dưỡng cho vật nuôi, giúp tăng
trưởng nhanh chóng, thức ăn được sử dụng tiết kiệm và bảo quản tốt hơn. Từ đó có thể
rút ngắn chu kỳ chăn nuôi, tạo điều kiện phát triển chăn nuôi với qui mô lớn và mang
lại hiệu quả kinh tế cao.
Thức ăn chăn công nghiệp là sản phẩm đã qua chế biến có nguồn gốc thực vật,
động vật, vi sinh vật, hoá chất, khoáng chất cung cấp cho vật nuôi các chất dinh dưỡng
để đảm bảo cho hoạt động sống, sinh trưởng, phát triển và sinh sản. Người ta thường
phân chia thức ăn công nghiệp thành hai loại chính như sau:
Thứ nhất: Thức ăn đậm đặc
Đây là thức ăn giàu đạm, có hàm lượng cao về protein, khoáng, vitamin, axít
amin… nhằm bổ sung vào khẩu phần ăn cho phù hợp với từng loại vật nuôi qua từng
giai đoạn sinh trưởng. Quá trình sử dụng thức ăn đậm đặc thường được pha trộn với
thức ăn thô như bắp, tấm, cám hoặc các loại thức ăn tận dụng khác sẵn có tại địa
phương nên rất phù hợp với mô hình chăn nuôi bán công nghiệp ở nông thôn Việt
Nam. Tuy nhiên để sử dụng thức ăn đậm đặc một cách hiệu quả và hợp lý đòi hỏi
5
người chế biến thức ăn, đặc biệt là người sử dụng thức ăn cần phải nắm rõ một số đặc
điểm cũng như ưu khuyết điểm khi sử dụng thức ăn đậm đặc, cụ thể:
- Chất lượng thức ăn thô phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, mức độ đầu tư và khả
năng chăm sóc nên thường không ổn định và có sự khác biệt giữa các mùa, các địa
phương và thậm chí ngay trong từng hộ gia đình. Trong khi đó trình độ hiểu biết
của người chăn nuôi chưa cao nên việc pha trộn thường không hợp lý dẫn đến tình
trạng chất lượng thức ăn sau khi pha trộn bất ổn định, không phù hợp với nhu cầu
dinh dưỡng của vật nuôi qua từng giai đoạn sinh trưởng.
- Thức ăn thô dùng để pha trộn hầu hết là sản phẩm hoặc phụ phẩm tận dụng từ
ngành sản xuất nông nghiệp, chính vì thế mà giá thành thức ăn sau khi pha trộn rất
thấp. Nếu người chăn nuôi biết áp dụng và sử dụng một cách hợp lý nguồn thức ăn
sẵn có trong quá trình chăn nuôi có thể mang lại hiệu quả kinh tế rất cao.
- Thức ăn đậm đặc thường được sử dụng với số lượng ít nên hạn chế được chi phí
vận chuyển và bảo quản. Vì vậy khách hàng của sản phẩm thức ăn đậm đặc phần
đông là các hộ gia đình chăn nuôi theo hình thức bán thâm canh, phân bổ một cách
phân tán và nằm chủ yếu ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa với điều kiện vận
chuyển khó khăn.
Thứ hai: Thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh
Thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh là hỗn hợp nhiều nguyên liệu đơn được phối chế
theo công thức, đảm bảo chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho từng loại vật
nuôi qua từng giai đoạn tăng trưởng. Khác với thức ăn đậm đặc, thức ăn hỗn hợp dùng
cho vật nuôi thường không cần pha trộn bất cứ một loại thức ăn hay nguyên liệu nào
khác ngoài nước uống.
Ngày nay thức ăn hỗn hợp được sử dụng một cách phổ biến, đặc biệt rất thuận
lợi với hình thức chăn nuôi công nghiệp bởi chúng có những đặc điểm sau:
- Thức ăn hỗn hợp được sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện đại, quá trình sử
dụng không cần trãi qua giai đoạn pha trộn như thức ăn đậm đặc nên chất lượng rất
ổn định. Người sử dụng có thể chủ động lựa chọn thức ăn phù hợp với nhu cầu
dinh dưỡng của vật nuôi mà nhà sản xuất đã xác định.
- Khác với thức ăn đậm đặc, thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh thường được sử dụng với
số lượng lớn, chi phí vận chuyển và lưu trữ cao nên không phù hợp với vùng xa
6
hoặc khu vực có điều kiện vận chuyển khó khăn. Khách hàng lớn của sản phẩm
thức ăn hỗn hợp chủ yếu là các trang trại chăn nuôi với qui mô sản xuất lớn, chính
vì vậy họ rất nhạy cảm với giá sản phẩm.
- Đối với một số địa phương không thể tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có, hoặc
các trang trại chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, việc sử dụng thức ăn hỗn hợp
hoàn chỉnh sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn sử dụng thức ăn đậm đặc bởi bản
thân thức ăn hỗn hợp chứa đựng đầy đủ chất dinh dưỡng giúp vật nuôi tăng trưởng
nhanh, rút ngắn được chu kỳ chăn nuôi.
- Thức ăn hỗn hợp được đưa vào sử dụng mà không cần phải pha trộn với bất cứ
nguồn thức ăn nào khác nên nhà sản xuất, cơ quan quản lý Nhà nước có thể chủ
động điều chỉnh các chỉ tiêu chất lượng đảm bảo sản phẩm chăn nuôi đạt chất
lượng dinh dưỡng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường
sinh thái.
Như vậy, từ những đặc trưng khác nhau của từng loại thức ăn chăn nuôi chúng
ta có thể nhìn nhận rằng mỗi loại thức ăn đều có một lợi thế riêng và phù hợp với từng
điều kiện chăn nuôi nhất định. Chính vì thế người tiêu dùng khi lựa chọn thức ăn phải
xem xét loại thức ăn nào là phù hợp nhất và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Về
phía doanh nghiệp phải đánh giá và phân khúc thị trường cho từng loại sản phẩm, trên
cơ sở đó lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và sử dụng kênh phân phối tối ưu nhất,
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2 Đặc điểm ngành chế biến thức chăn nuôi
Cũng như các ngành kinh tế khác, ngành chế biến thức chăn nuôi bao gồm các
doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế khác nhau tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh
một cách công bằng theo đúng pháp luật, vận hành theo qui chế thị trường có sự quản
lý nhà nước. Tuy nhiên, mỗi ngành kinh tế khác nhau đều có những đặc trưng khác
nhau và đóng một vị trí, một vai trò khác nhau trong tổng thể nền kinh tế xã hội. Đối
với ngành chế biến thức chăn nuôi, chúng ta có thể nhìn nhận và khái quát thông qua
một số đặc điểm mang tính đặc trưng của ngành như sau:
- Sản phẩm của ngành chế biến thức ăn chăn nuôi bao gồm các loại thức ăn công
nghiệp phục vụ cho ngành chăn nuôi và là nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ vật nuôi, giá thành sản phẩm chăn nuôi, và chất lượng dinh dưỡng của sản
7
phẩm chăn nuôi. Và đó cũng chính là nhân tố ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử
dụng sản phẩm chăn nuôi, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái.
- Các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải chịu trách nhiệm quản lý Nhà
nước đối với sản phẩm hàng hóa do mình sản xuất, trong đó Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn là cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ hoạt động của
ngành từ khâu cấp phép sản xuất kinh doanh đến khâu quản lý chất lượng, phân
phối và tiêu thụ sản phẩm.
- Ngành chế biến thức chăn nuôi là ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành chăn nuôi,
nguồn nguyên liệu chủ yếu là sản phẩm từ ngành sản xuất nông nghiệp, ngành thủy
sản, ngành dược phẩm, do vậy nó tác động và chịu sự tác động rất lớn từ các ngành
sản xuất khác. Chính vì thế mà ngành chế biến thức chăn nuôi phát triển gắn liền
với việc phát triển công nghệ và kỹ thuật của ngành sản xuất khác.
- Công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất luôn được các
doanh nghiệp và Nhà nước thực hiện một cách đồng bộ trong mối quan hệ tương
hỗ. Đối với các doanh nghiệp, quá trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các công
thức pha trộn và sản xuất thức ăn nhằm tạo ra các bí quyết riêng trong vịêc đổi
mới sản phẩm, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tạo ra sự khác biệt và lợi thế
cạnh tranh so với các đối thủ cùng ngành. Đối với nhà nước, quá trình nghiên cứu
khoa học về dinh dưỡng và công nghệ chế biến thức ăn chăn nuôi nhằm giúp các
doanh nghiệp trong nước bắt kịp với xu hướng thế giới, tiếp cận với khoa học hiện
đại. Đưa ra các giải pháp khoa học phát triển chăn nuôi trong mối quan hệ phát
triển bền vững với các ngành khác nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên một các
hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm bớt các di hại do nguồn thức ăn
chăn nuôi gây nên. Từ đó nghiên cứu các cơ chế chính sách phát triển chăn nuôi
phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế.
1.3 Vai trò chủ yếu ngành chế biến thức ăn chăn nuôi
Là một nước nông nghiệp (với hơn 70 % dân số sản xuất nông nghiệp) nước ta
có nguồn nhân lực dồi dào, nguồn nguyên liệu phong phú, thời tiết khí hậu thuận lợi là
một lợi thế phát triển cho ngành chăn nuôi. Xuất phát từ những thuận lợi trên Đảng và
Nhà nước ta đã khẳng định ngành chăn nuôi là một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn, có tiềm năng phát triển và phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã
8
hội. Trong đó ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đóng một vai trò quan trọng thể hiện ở
một số mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất: Sản phẩm thức ăn chăn nuôi là nhân tố chính quyết định đến
hiệu quả sản xuất chăn nuôi.
Trong cơ cấu giá thành sản phẩm chăn nuôi, chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng
65%-70% giá thành sản phẩm và được xem là nhân tố quyết định đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh và sự phát triển của ngành chăn nuôi. Ở một số nước nông nghiệp
phát triển, ngành chăn nuôi đã từng bước được công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Thức
ăn chính sử dụng cho vật nuôi là thức ăn công nghiệp chứa đựng đầy đủ các chất dinh
dưỡng, đảm bảo vật nuôi phát triển tốt, sản phẩm từ ngành chăn nuôi đáp ứng đầy đủ
chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Và một thực tế cho thầy rằng, trong
cùng một điều kiện nuôi nhốt, nếu tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp trong ngành chăn
nuôi càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn bởi tốc độ tăng trọng vật nuôi nhanh và
thời gian chăn nuôi được rút ngắn.
Thứ hai: Sự phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi góp phần thúc
đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đưa tỷ trọng chăn nuôi từ 23% lên 30% vào năm 2010, cụ thể từ nay đến
2010, ngành chăn nuôi dự kiến nâng mức sản xuất thịt hơi từ 35 kg /người năm 2005
tăng lên 45 kg/người năm 2010, 70 quả trứng /người năm 2005 tăng lên 100 quả/người
năm 2010 và sản lương thịt hơi xuất khẩu dự kiến vào khoảng 50.000-100.000 tấn1.
Đó là một nhiệm vụ đòi hỏi ngành chăn nuôi phải không ngừng gia tăng năng suất,
nâng cao mức độ sử dụng tỷ lệ thức ăn công nghiệp trong sản xuất chăn nuôi. Như vậy
ngoài nỗ lực của ngành chăn nuôi, sự phát triển đột phát và mang tính đồng bộ của
ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi là một đòi hỏi không thể thiếu trong
mục tiêu phát triển ngành chăn nuôi.
Thứ ba: Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi là ngành công nghiệp có khả
năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước với số lượng lớn.
1 Phụ lục 1: Mục tiêu phát triển ngành chăn nuôi đến năm 2010
9
Ở nước ta hiện nay, nhu cầu thức ăn tinh cần thiết cho ngành chăn nuôi khoảng
10 triệu tấn/năm, nhưng công suất của tất cả các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi
chỉ khoảng 5,5 triệu tấn2, phần còn lại do các cơ sở sản xuất thủ công cung cấp hoặc
tận dung nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có. Như vậy thị trường tiềm năng thức ăn chăn
nuôi công nghiệp là rất lớn và sẽ phát triển nhanh cùng với phương pháp chăn nuôi
công nghiệp ngày càng phổ biến. Điều đó cho thấy ngành chế biến thức chăn nuôi
đang là ngành công nghiệp đầy tiềm năng và đang có sức hút rất lớn đối với các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách quản lý vĩ mô phù
hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển ngành và đồng bộ với tiến trình phát triển tổng thể nền
kinh tế quốc dân.
Thứ tư: Sự phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi còn ảnh hưởng
đến môi trường sinh thái và sức khoẻ cộng đồng.
Đi đôi với mục tiêu phát triển ngành chăn nuôi từ nay đến năm 2010, ngành
công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
dịch chuyển cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá. Ngoài ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi và
người chăn nuôi, chất lượng thức ăn chăn nuôi còn là nhân tố ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái, vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe người sử dụng sản phẩm chăn
nuôi. Chính vì thế đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách đầu tư hợp lý cho công
tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất. Phải có cơ chế quản lý vĩ
mô phù hợp đảm bảo ngành chế biến thức ăn chăn nuôi phát triển một cách bền vững,
phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi
1.4.1 Nguyên liệu đầu vào
Để thức ăn chăn nuôi đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho vật nuôi qua từng giai
đoạn sinh trưởng, nguồn nguyên liệu đầu vào phải đáp ứng đầy đủ các chất dinh dưỡng
cần thiết cho quá trình chế biến thức ăn chăn nuôi. Tuỳ thuộc vào từng loại thức ăn
khác nhau mà người ta có thể sử dụng chủng loại hoặc cơ cấu nguyên liệu đầu vào phù
hợp, tuy nhiên trong điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế và khoa học kỹ thuật hiện
nay, ngành chế biến thức ăn chăn nuôi sử dụng một số nguyên liệu chính theo các
nhóm chủ yếu sau:
2 Bảng 2: Công suất các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi
10
- Nhóm cung cấp nguồn năng lượng: gồm các nguyên liệu chủ yếu từ ngành sản
xuất nông nghiệp và phụ phẩm nông nghiệp như bắp, sắn, tấm gạo, khoai…Đây là
nguyên liệu chủ yếu cung cấp năng lượng trao đổi cho vật nuôi và khối lượng sử
dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu thành phần nguyên liệu đầu vào chế biến
thức ăn chăn nuôi (thông thường bắp chiếm từ 35-40%, cám lụa 20-25%, bột sắn
khoảng 20%).
- Nhóm nguyên liệu cung cấp đạm và protein: gồm các nguyên liệu chủ yếu cung
cấp đạm và protein trong thành phần dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi. Thuộc nhóm
này chủ yếu là các nguyên liệu chứa nhiều đạm động vật (bột cá, bột xương-thịt,
bột máu…) và các nguyên liệu chứa nhiều đạm thực vật (khô dầu đậu tương, khô
đậu phộng, khô dừa…). Trong đó khô đỗ tương và bột cá là hai nguyên liệu phổ
biến thường được sử dụng và chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các nguyên liệu cùng
loại (khô đỗ tương chiếm 10%, bột cá chiếm 5% trên trọng lượng nguyên liệu đầu
vào).
- Nhóm nguyên liệu cung cấp khoáng chất và vitamin: gồm các nguyên liệu cung
cấp chủ yếu khoáng chất trong trong thức ăn gồm khoáng đa lượng (canxi,
photpho..), khoáng vi lượng và một số vitamin A, B,C. Các chất này thường chứa
nhiều trong bột xương, bột vỏ sò, mai mực có thể giúp bổ sung vào thành phần
thức ăn gia súc.
- Nhóm cung cấp axit amin: gồm các chất giàu axit amin bổ sung vào khẩu phần ăn
vật nuôi như lyzin, methionin…Ở Việt Nam và các nước đang phát triển, hai loại
axít này thường rất hiếm và đắt tiền nên thường người ta có thể sử dụng một số
thức ăn giàu protein từ động vật để bổ sung vào khẩu phần ăn vật nuôi.
Ngoài ra còn một số nguyên liệu khác cung cấp các chất xúc tác tiêu hóa, gây
ngon miệng… chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thành phần thức ăn gia súc. Việc sử dụng
các nguyên liệu này tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp, hay từng loại thức ăn cụ thể mà
doanh nghiệp thấy cần thiết bổ sung vào thanh phần dinh dưỡng thức ăn gia súc.
1.4.2 Khách hàng và hành vi tiêu dùng
Cũng như sản phẩm của các ngành công nghiệp khác, việc nhận biết và xác
định khách hàng sử dụng sản phẩm thức ăn chăn nuôi là một trong những yếu tố quan
trọng và cần thiết nhất đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thức ăn chăn
11
nuôi. Bởi việc xác định khách hàng, đối tượng mua, đối tượng sử dụng sản phẩm sẽ
giúp cho nhà sản xuất nắm được các đặc tính sản phẩm mà thị trường yêu cầu.
Đối với các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, ngoài yêu cầu phải đảm
bảo một số chỉ tiêu kỹ thuật chuyên ngành, yêu cầu về quản lý Nhà nước đã được qui
định, việc xác định khác hàng và các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của
người tiêu dùng hoặc mong muốn của người sử dụng thức ăn chăn nuôi đang là một
vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm rất lớn. Theo các chuyên gia kinh tế trong
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi, có thể xác định khách hàng và một số yếu tố mang
tính đặc trưng ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng như sau:
Một là: Cơ cấu khách hàng
- Khách hàng là các trang trại chăn nuôi mang tính công nghiệp: đây là nhóm khách
hàng có số lượng vật nuôi tương đối lớn, có đầy đủ cán bộ kỹ thuật được trang bị
đầy đủ kiến thức về khoa học dinh dưỡng và kỹ thuật chăn nuôi, có điều kiện thuận
lợi về cơ sở vật chất nên việc lựa chọn sản phẩm thức ăn chăn nuôi được thực hiện
một cách chủ động và có cơ sở khoa học. Sản phẩm sử dụng cho đối tượng này chủ
yếu là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh và được cung cấp trực tiếp từ các doanh nghiệp
sản xuất.
- Khách hàng là các hộ chăn nuôi cá thể: đây là nhóm khách hàng có thu nhập thấp,
kiến thức hiểu biết về chăn nuôi là rất hạn chế chính vì thế việc lựa chọn sản phẩm
thức ăn chăn nuôi đa số là dựa vào cảm tính và kinh nghiệm, việc chăn nuôi chủ
yếu là tạo thêm nguồn thu nhập và tận dụng thức ăn từ phụ phẩm ngành nông
nghiệp nên họ có xu thế sử dụng thức ăn đậm đặc. Chính vì thế mà việc cung cấp
thông tin về sản phẩm, hướng dẫn cách sử dụng và kỹ thuật chăn nuôi là một vấn
đề cần quan tâm đối với các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi.
- Khách hàng là các đại lý kinh doanh thức ăn gia súc: đây là nhóm khách hàng bao
gồm các tổ chức, cá nhân kinh doanh thức ăn gia súc để bán lại cho người chăn
nuôi trực tiếp. Họ là những người có nguồn vốn lớn, có đầy đủ cơ sở hạ tầng để lưu
trữ thức ăn với khối lượng lớn. Thông thường những đại lý thức ăn chăn nuôi chỉ
kinh doanh một vài loại thức ăn mà thị trường ưa chuộng. Lợi nhuận thu được có
thể thông qua chính sách chiết khấu, hoa hồng của doanh nghiệp sản xuất hoặc bán
chênh lệch giá sản phẩm cho khách hàng. Đối tượng khách hàng chủ yếu là người
12
chăn nuôi có qui mô vừa và nhỏ (hoặc các đại lý cấp dưới) không có điều kiện về
tài chính và công cụ lưu trữ để mua với khối lượng lớn.
Hai là: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng
- Người quyết định mua hàng không phải là người tiêu dùng trực tiếp, do vậy việc
đánh giá chất lượng sản phẩm chỉ có thể thực hiện thông qua quá trình phân tích
các chỉ tiêu chất lượng. Công việc này rất khó thực hiện do chi phí cao và ảnh
hưởng đến thời gian sản xuất. Chính vì thế mà chất lượng sản phẩm thường được
khách hàng đánh giá qua khả năng phát triển của vật nuôi hoặc hiệu quả kinh
doanh qua một chu kỳ sản xuất. Nếu qua một giai đoạn sử dụng sản phẩm mà cảm
thấy có hiệu quả thì người chăn nuôi tự động sẽ trở thành khách hàng trung thành
của sản phẩm và rất ít khi thay đổi. Và ngược lại, vật nuôi là một phần tài sản của
người chăn nuôi, chính vì thế nếu thức ăn có ảnh hưởng không tốt đến vật nuôi
hoặc không mang lại hiệu quả kinh tế cao thì người chăn nuôi sẽ có phản ứng rất
gay gắt và có thể từ bỏ sản phẩm ngay lập tức.
- Mục đích của người chăn nuôi xét cho cùng là lợi nhuận, chính vì thế mà đa số
người tiêu dùng mong muốn mua được một sản phẩm giá rẻ, phù hợp với túi tiền
nhưng lại đảm bảo yêu cầu về chất lượng và hiệu quả chăn nuôi.
- Do điều kiện về cơ sở vật chất không đảm bảo cho quá trình lưu trữ thức ăn, hoặc
vấn đề về tài chính không cho phép nên hầu hết người chăn nuôi chỉ có thể mua
một số lượng thức ăn vừa đủ cho một giai đoạn ngắn. Chính vì thế mà hệ thống
phân phối và khâu lưu thông rất được khách hàng lưu ý. Các doanh nghiệp phải
đảm bảo nguồn hàng đều đặn và ổn định đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong mọi thời
điểm, đồng thời chất lượng phải đảm bảo trong quá trình lưu thông và lưu trữ.
Từ những về thông tin về hành vi tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm
thức ăn chăn nuôi, mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một phân khúc thị
trường hợp lý, hoặc một dãy sản phẩm cụ thể phục vụ cho từng loại vật nuôi sao cho
phù hợp với tiềm năng và qui mô sản xuất của doanh nghiệp.
1.4.3 Thiết bị và dây chuyền công nghệ
Như đã giới thiệu, chế biến thức ăn chăn nuôi là một ngành công nghiệp phức
tạp, mức độ ứng dụng khoa học kỹ thuật cao và luôn được cải tiến. Sản phẩm thức ăn
chăn nuôi đa dạng, đòi hỏi phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng
13
và vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì thế móc thiết bị và dây chuyền sản xuất phải
đáp ứng một số tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên ngành qui định.
Hiện nay, ngành chế biến thức ăn chăn nuôi có hai dây chuyền công nghệ sản
xuất thức ăn là dây chuyền sản xuất thức ăn dạng bột và thức ăn dạng viên. Tuy nhiên,
do một số công đoạn và đặc điểm sản xuất giống nhau nên hai dây chuyền công nghệ
đều có một số máy móc thiết bị giống nhau tương ứng với từng công đoạn sản xuất, cụ
thể:
- Giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu đưa vào sản xuất: thông thường nguyên liệu mua
vào chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp đang ở dạng thô và chưa q._.ua xử lý. Đặc biệt
với khí hậu nhiệt đới ẩm thấp vào mùa thu hoạch có thể làm cho nguyên liệu rất dễ
bị ẩm, mốc. Để đảm bảo nguyên liệu đạt chất lượng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải
trải qua giai đoạn làm sạch, sấy khô nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất và lưu
trữ. Với những yêu cầu trên, hầu hết các doanh nghiệp đều phải trang bị hệ thống
làm sạch (máy sàng, thổi bụi), máy sấy nguyên liệu, hệ thống kho tàng hoặc silo
lưu trữ.
- Giai đoạn lập khẩu phần thức ăn và định lượng nguyên liệu: căn cứ vào kế
hoạch sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ thuật tiến hành lập khẩu phần cho từng loại
thức ăn, lập công thức chế biến thức ăn chăn nuôi và xác định khối lượng cần thiết
của từng loại thức ăn, trên cơ sở đó tính toán số lượng và chủng loại nguyên liệu
cần thiết đưa vào sản xuất. Trang thiết bị cho giai đoạn này chủ yếu thiết bị thí
nghiệm và kiểm tra chất lượng nguyên liệu, hệ thống máy vi tính, phần mềm công
nghệ thông tin cho công tác lập khẩu phần và công thức chế biến thức ăn chăn
nuôi.
- Giai đoạn sản xuất: đây là giai đoạn nguyên liệu được nghiền, trộn và chế biến
theo tỷ lệ qui định. Tuỳ thuộc vào thành phần dinh dưỡng của thức ăn cần thiết sản
xuất, cán bộ kỹ thuật sẽ xác định chủng loại, số lượng vật liệu cần thiết theo công
thức sản xuất thức ăn để tiến hành pha chế, nghiền, trộn. Trang thiết bị cần thiết
cho giai đoạn này chủ yếu là máy cân, máy nghiền, máy trộn, hệ thống băng tải
phục vụ cho công tác chế biến.
- Giai đoạn hoàn thành: sau khi giai đoạn sản xuất sản phẩm đã hoàn tất, cán bộ
chuyên môn sẽ tiến hành lấy mẫu, kiểm tra chất lượng thành phẩm và đóng gói đưa
sản phẩm tiêu thụ hoặc lưu trữ trong điều kiện tốt nhất. Trang thiết bị cho giai đoạn
14
này là hệ thống máy đóng gói, hệ thống máy thí nghiệm và kiểm tra chất lượng
thành phẩm, hệ thống lưu trữ sản phẩm.
Tuy nhiên, do đặc tính kỹ thuật và đặc tính sản phẩm khác nhau nên hai dây
chuyền công nghệ có những công đoạn sản xuất khác biệt. Đối với dây chuyền sản
xuất sản phẩm dạng viên, sau khi trải qua công đoạn nghiền, trộn sản phẩm phải được
pha chế với chất kết dính nhằm tạo sự liên kết và ép thành viên mới chuyển qua công
đoạn đóng gói. Chính vì thế dây chuyền sản xuất sản phẩm dạng bột phải trang bị thêm
hệ thống máy ép viên.
1.4.4 Nguồn nhân lực
Cũng như các ngành sản xuất khác, công nhân lao động trực tiếp, chuyên viên
kỹ thuật chuyên ngành, cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp, đội ngũ nhân viên lao
động gián tiếp… là lực lượng lao động không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên mỗi ngành khác nhau đều có nguồn nhân lực khác nhau tương ứng
với tính đặc thù của mỗi ngành. Đối với ngành chế biến thức chăn nuôi, nguồn nhân
lực có những đặc trưng sau:
- Lực lượng lao động là công nhân sản xuất trực tiếp: đây là lực lượng lao động
đông nhất trong cơ cấu nhân lực tại các doanh nghiệp, được công ty trực tiếp tuyển
dụng phục vụ cho các công đoạn sản xuất trực tiếp. Hầu hết đội ngũ lao động trực
tiếp là công nhân lao động phổ thông và chưa được đào tạo chính qui. Do vậy tuỳ
thuộc vào vị trí công việc mà mỗi doanh nghiệp có hình thức tuyển dụng và đào tạo
tay nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất tại đơn vị.
- Lực lượng lao động là đội ngũ nhân viên lao động gián tiếp: đây chủ yếu là cán bộ
công nhân viên thuộc các phòng ban chức năng phục vụ cho công tác quản lý điều
hành doanh nghiệp, đội ngũ nhân viên bán hàng và marketing. Lực lượng này được
công ty trực tiếp tuyển dụng cho từng vị trí công tác theo đúng chuyên môn nghiệp
vụ đã được đào tạo.
- Lực lượng lao động là các chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư nông nghiệp, kỹ sư chăn
nuôi: đây là lực lượng lao động được đào tạo chuyên ngành về chăn nuôi hoặc dinh
dưỡng. Đòi hỏi phải có đủ năng lực tiếp thu về khoa học dinh dưỡng, có năng lực
thực hiện công việc thí nghiệm và kiểm tra các qui trình sản xuất đảm bảo nguyên
vật liệu mua vào đạt chất lượng. Lập khẩu phần và công thức ăn đảm bảo sản phẩm
đầy đủ dinh dưỡng và giá thành thấp nhất.
15
- Lực lượng lao động là các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu dinh dưỡng: đây là
nguồn nhân lực không thể thiếu đối với ngành chế biến thức chăn nuôi. Hiện nay
nguồn nhân lực nghiên cứu về dinh dưỡng hầu hết thuộc các viện nghiên cứu và
trường đại học. Họ là các chuyên gia nguyên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho vật
nuôi qua các giai đoạn phát triển sinh lý. Đồng thời nghiên cứu khẩu phần cân bằng
các chất dinh dưỡng để sản phẩm chăn nuôi đạt chất lượng cao, vệ sinh an toàn
thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái.
Với những đặc điểm trên, nguồn nhân lực đóng một vai trò quan trọng và quyết
định sự phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Đòi hỏi các doanh nghiệp, cơ
quan quản lý Nhà nước, các viện nghiên cứu và trường đại học phải có kế hoạch đào
tạo một cách đồng bộ, liên tục. Đảm bảo cung cấp đủ nguồn nhân lực có chất lượng
cao phù hợp với nhu cầu phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi.
1.4.5 Vai trò quản lý Nhà nước đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi
Cũng như các hàng hoá khác, nhà nước thống nhất quản lý về sản xuất, kinh
doanh, xuất khẩu, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người sản xuất, người kinh doanh và người sử dụng thức ăn chăn nuôi. Việc quản lý
thức ăn chăn nuôi được thực hiện theo nghị định 15/CP ngày 19/03/1996 của Chính
phủ, cụ thể:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy sản trong phạm vi chức
năng, quyền hạn của mình thực hiện quản lý Nhà nước về thức ăn chăn nuôi trong
phạm vi cả nước và có trách nhiệm:
- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích sản xuất, nâng cao
chất lượng thức ăn chăn nuôi.
- Quản lý Nhà nước về sản xuất và kinh doanh thức ăn chăn nuôi. Xây dựng tiêu
chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi để cơ quan có thẩm quyền ban hành tiêu
chuẩn Việt Nam.
- Kiểm tra, thanh tra và kiểm nghiệm chất lượng thức ăn chăn nuôi. Cấp giấy chứng
nhận chất lượng thức ăn chăn nuôi theo thẩm quyền của mình.
- Công bố danh mục thức ăn và nguyên liệu cấm sản xuất.
16
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ quy hoạch, kế hoạch sản
xuất, chế biến thức ăn. Ban hành các văn bản hướng dẫn các ngành, địa phương và
các cơ sở quản lý thức ăn chăn nuôi.
Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức quản lý thức ăn
chăn nuôi trong phạm vi địa phương theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn. Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc quản lý Nhà nước về thức
ăn chăn nuôi. Kiểm tra và xử lý các vi phạm về quản lý thức ăn chăn nuôi tại địa
phương trong phạm vi thẩm quyền. Quyết định cấp hoặc thu hồi giấy phép sản xuất
kinh doanh thức ăn trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Ở qui mô Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách
nhiệm kiểm tra và quản lý chất lượng thức ăn trong phạm vi cả nước. Đối với các tỉnh
và thành phố trực thuôc Trung ương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh,
UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chất lượng thức ăn chăn
nuôi trên địa bàn quản lý. Việc tổ chức và theo dõi chất lượng thức ăn chăn nuôi sản
xuất và lưu thông thị trường được quản lý như sau:
- Tổ chức lấy mẫu phân tích, kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi 02 lần/năm.
- Tổ chức kiểm tra đột xuất khi cần thiết khi có sự đồng ý của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
- Nội dung kiểm tra gồm: kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất xưởng và xuất xứ, kiểm
tra vệ sinh thức ăn chăn nuôi, vệ sinh môi trường sản xuất và bảo quản thức ăn.
- Các chỉ tiêu kiểm tra: theo QĐ96/2001/BNN ngày 09/09/2001 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, các chỉ tiêu kiểm tra chất lượng sản phẩm thức ăn chăn
nuôi bao gồm:
¾ Kiểm tra việc công bố tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các nhà sản xuất so
với tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành và qui định kỹ thuật đã quy định.
Kiểm tra các chỉ tiêu kỹ thuật tối thiểu bắt buộc phải công bố khi xây dựng tiêu
chuẩn cơ sở đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn quy định theo QĐ 113/2001/QĐ/BNN ngày 28/11/2001.3 Kiểm
tra các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm so với chỉ tiêu chất lượng mà doanh nghiệp
đã công bố.
¾ Ngoài ra, để đảm bảo cho việc chăn nuôi đạt hiệu quả, đảm bảo cho sức khoẻ
vật nuôi và con người, sản phẩm thức ăn chăn nuôi còn phải được khống chế
3 Phụ lục 02 : Danh mục các chỉ tiêu chất lượng doanh nghiệp phải công bố
17
hàm lượng tối đa độc tố nấm mốc Aflatoxin, hàm lượng tối đa các nguyên tố
khoáng và kim loại nặng có trong 1kg thức ăn chăn nuôi. Hoặc qui định về hàm
lượng tối thiểu các loại vitamin có trong thức ăn chăn nuôi.
¾ Sau khi hàng hoá được công bố tiêu chuẩn chất lượng, doanh nghiệp phải đảm
bảo điều kiện sản xuất, kinh doanh để chất lượng luôn được ổn định trong quá
trình lưu thông đáp ứng tiêu chuẩn đã công bố về mọi nội dung. Để cung cấp
cho người tiêu dùng những thông tin cần thiết để nhận biết hàng hoá, làm căn
cứ cho quyết định lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng hàng hóa, các cơ quan chức
năng kiểm tra giám sát, các chỉ tiêu chất lượng chủ yếu của sản phẩm thức ăn
chăn nuôi mà doanh nghiệp đã công bố bắt buộc doanh nghiệp phải ghi trên
nhãn hàng hóa theo QĐ 178/1999/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ.4
Việc kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi phải thực hiện theo các bước và nội
dung đã qui định. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ kiểm tra định kỳ, lấy mẫu và phân
tích chất lượng sản phẩm tại phòng thí nghiệm chuyên ngành. Trên cơ sở đó kiểm tra
việc ghi chép các thông số, chỉ tiêu kỹ thuật trên bao bì sản phẩm có đầy đủ và đúng
với chỉ tiêu qui định hay không. So sánh kết quả phân tích với chỉ tiêu chất lượng mà
doanh nghiệp đã công bố để kết luận về chất lượng sản phẩm.
Tóm tắt chương một
Sản phẩm thức ăn chăn nuôi là tư liệu sản xuất chính của ngành chăn nuôi trong
nước, chính vì thế sự phát triển ngành chế biến thức ăn phải gắn liền với tiêu chí phát
triển ngành sản xuất chăn nuôi trong nước. Cũng như các ngành kinh tế khác, sự phát
triển của ngành chế biến thức ăn chăn nuôi chịu sự ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố
nội tại của ngành đó là thị trường các yếu tố sản xuất đầu vào (nguồn nguyên liệu, thiết
bị và dây chuyền công nghệ, khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực) và thị trường tiêu thụ
sản phẩm đầu ra. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước theo hướng
công nghiệp hóa-hiện đại hóa, ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đóng một vai trò
không thể thiếu trong mối quan hệ phát triển tương hỗ với các ngành kinh tế khác.
Chính vì thế trong định hướng phát triển ngành chế biến thức ăn chăn nuôi, đòi hỏi các
doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước phải đặt trong mối quan hệ phát triển bền
vững và đồng bộ với các ngành kinh tế liên quan trong tổng thể nền kinh tế xã hội.
4 Phụ lục 04 : Mẫu nhãn hàng hoá thức ăn chăn nuôi
18
CHƯƠNG HAI
THỰC TRẠNG NGÀNH CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI
VIỆT NAM
2.1 Các doanh nghiệp ngành chế biến thức ăn chăn nuôi
2.1.1 Cơ cấu và qui mô các doanh nghiệp
Nhìn chung, các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi Việt Nam rất đa dạng
và phong phú, mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm khác nhau về qui mô, hình thức
đầu tư, nguồn vốn và đặc tính sản phẩm. Hiện nay cả nước có 197 doanh nghiệp chế
biến thức ăn chăn nuôi, để nhận dạng một cách đầy đủ có thể phân loại các doanh
nghiệp dựa vào một số tiêu thức sau:
Phân loại theo hình thức sở hữu: theo tiêu thức phân loại này, có thể chia làm 4
nhóm doanh nghiệp khác nhau: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể: (xem bảng 1)
Bảng 1 : Cơ cấu các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu.
Đơn vị tính : doanh nghiệp, công ty
Năm 2001 Năm 2004 Loại hình doanh nghiệp Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Doanh nghiệp Nhà nước 23 18,3% 32 16,2%
Công ty cổ phần 5 4,00% 10 5,10%
Doanh nghiệp tư nhân 79 62,7% 119 60,4%
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 19 15,1% 36 18,3%
Tổng cộng 126 100% 197 100%
Nguồn số liệu: Cục Nông Nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Biểu đồ 01: Cơ cấu các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu năm 2004
Q uốc doanh
16.2%
Cổ phần
5.1%
Tư nhân
60.4%
Nước ngoài
18.3%
19
Trong đó các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài là lực lượng có
công suất sản xuất cao nhất với tỷ lệ trên 60% tổng công suất các doanh nghiệp, cụ
thể:
Bảng 2: Công suất sản xuất các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu
Đơn vị tính: 1000 tấn
Năm 2001 Năm 2004
Loại hình doanh nghiệp Công
suất
Tỷ lệ
%
Công
suất
Tỷ lệ
%
Doanh nghiệp Nhà nước 391 11,8 613 11,3
Công ty cổ phần 73 2,20 143 2,60
Doanh nghiệp tư nhân 848 25,6 1.151 21,1
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.001 60,4 3.538 65,0
Tổng cộng 3313 100 5445 100
Nguồn số liệu: Cục Nông Nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Biểu đồ 02: Công suất các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu năm 2004
Q uốc doanh
11.3%
Cổ phần
2.6%
Tư nhân
21%
Nước ngoài
65%
Phân loại theo vùng sinh thái: theo tiêu thức phân loại này, các doanh nghiệp được
phân chia theo 6 vùng địa lý khác nhau. Có thể đánh giá năng lực sản xuất và mức độ
sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi của từng địa phương thông qua công suất
sản xuất các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, cụ thể: (xem bảng 03 và biểu đồ 03)
20
Bảng 3: Cơ cấu các doanh nghiệp theo vùng sinh thái
Năm 2001 Năm 2004
Vùng sinh thái Số lượng
(DN)
Công suất
(1000 tấn)
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
(DN)
Công suất
(1000 tấn)
Tỷ lệ
(%)
TDMN phía Bắc 7 176 5,3 16 443,5 8,1
Đồng bằng sông Hồng 22 580 17,5 46 1.729,6 31,8
Bắc và Nam TB 3 46,4 1,40 5 112,5 2,1
Tây Nguyên 2 6,6 0,20 4 17,2 0,3
Đông Nam Bộ 78 2.123 64,0 96 2.335,3 42,9
Đồng bằng SCL 14 381 11,5 29 807,7 14,8
Tổng cộng 126 3.313 100% 196 5.445,8 100%
Nguồn số liệu: Cục Nông Nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Biểu đồ 3: Công suất các doanh nghiệp theo vùng sinh thái năm 2004
Đông Nam Bộ
42.9%
Đồng bằng SCL
14.8%
Bắc và Nam Trung Bộ
2.1%
TDMN phía Bắc
8.1%
Đồng bằng sông Hồng
31.8%
Tây Nguyên
0.3%
Nhận xét:
Trong những năm gần đây, được sự khuyến khích và trợ giúp của Nhà nước,
đặc biệt với tiềm năng phát triển thần tốc của thị trường sản phẩm thức ăn chăn nuôi,
các doanh nghiệp đầu tư vào ngành chế biến thức chăn nuôi ngày càng gia tăng. Trên
cơ sở số liệu thống kê về số lượng và công suất sản xuất hàng năm, các doanh nghiệp
chế biến thức ăn chăn nuôi được nhận dạng qua một số đặc trưng sau:
- Các doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần đều có sự gia tăng về số lượng
song chỉ ở mức thấp, hầu hết đây là các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ với
công suất sản xuất dưới 10.000 tấn thức ăn/tháng
21
- Các doanh nghiệp tư nhân có tốc độ phát triển nhanh nhất về số lượng và qui mô
sản xuất. Song nhìn chung đây là các doanh nghiệp có qui mô sản xuất vừa và nhỏ,
thị trường tiêu thụ hẹp, chủ yếu là khúc thị trường mà các doanh nghiệp lớn không
chú ý đến hoặc bỏ qua. Để giữ vững vị thế cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn,
nhóm doanh nghiệp này thường chú trọng vào công tác chuyên môn hoá sản phẩm
theo từng khúc thị trường. Doanh nghiệp chỉ chú ý sản xuất một số sản phẩm
truyền thống cho từng khách hàng, địa phương hoặc một loại vật nuôi nào đó nên
tính đa dạng hoá sản phẩm không cao.
- Đối với nhóm doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đây là nhóm các
doanh nghiệp có qui mô lớn với công suất trung bình từ 10.000 tấn/tháng đến
40.000 tấn/tháng. Các doanh nghiệp này có tiềm năng lớn về tài chính, đi đầu trong
việc thay đổi và phát triển công nghệ chế biến thức ăn chăn nuôi nên sản phẩm đạt
chất lượng cao, giá thành sản xuất giảm, có thể chủ động trong việc thu mua, nhập
khẩu và lưu trữ nguyên vật liệu đầu vào đáp ứng nhu cầu sản xuất về số lượng và
chất lượng. Sản phẩm thuộc nhóm doanh nghiệp này rất có uy tín trên thị trường
mỗi doanh nghiệp đều có một đội ngũ khách trung thành rất đông đảo, chiếm hầu
hết thị phần sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Đại diện cho nhóm doanh nghiệp này chủ
yếu là các công ty lớn thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ như CP (công suất
60.000 tấn/tháng), Việt Mỹ (20.000 tấn/tháng), Cargil (20.000 tấn/tháng), Con cò
(30.000 tấn/tháng) Vina Chinfon (12.000 tấn/tháng), New hope (10.000 tấn/tháng).
- Khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi là các khu công
nghiệp lớn thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và khu
vực Đồng bằng sông Hồng. Đây là những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, hội đủ
các điều kiện về nhân lực, khoa học kỹ thuật và đặc biệt khu vực này tiếp giáp với
các vùng có tiềm năng phát triển ngành chăn nuôi, vùng cung cấp nguyên liệu phục
vụ cho ngành chế biến thức chăn nuôi.
- Số lượng các doanh nghiệp và công suất sản xuất của các doanh nghiệp đang có sự
chuyển dịch theo vùng sinh thái. Số lượng và công suất chế biến thức ăn chăn nuôi
của các doanh nghiệp thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ đang có sự bão hoà, bắt
đầu có sự chuyển dịch về khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vùng
Đồng bằng sông Hồng và Trung du Bắc Bộ.
22
2.1.2 Sản lượng sản xuất và khả năng cung ứng thị trường.
Để đánh giá năng lực sản xuất và khả năng cung ứng của các doanh nghiệp chế
biến thức ăn chăn nuôi, có thể đánh giá thông qua một số chỉ tiêu mang tính đặc trưng
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi như sau:
- Sản lượng sản xuất hàng năm (gồm thức ăn hỗn hợp và thức ăn đậm đặc )
- Thức ăn hỗn hợp qui đổi: theo các thông số kỹ thuật ngành chế biến thức ăn chăn
nuôi, trung bình lượng thức ăn đậm đặc chiếm khoảng 1/3 trọng lượng thức ăn
chăn nuôi sau khi pha trộn. Như vậy lượng thức ăn hỗn hợp qui đổi được tính bằng
sản lượng thức ăn hỗn hợp và 3 lần sản lượng thức ăn đậm đặc đã sử dụng trong
sản xuất chăn nuôi.
- Doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi.
- Lượng thức ăn tinh: là lượng thức ăn cần thiết dùng cho ngành chăn nuôi bao gồm
thức ăn công nghiệp và thức ăn tự cung tự cấp (sản phẩm, phụ phẩm nông nghiệp
chưa qua chế biến).
- Tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp: tính theo tỷ lệ thức ăn công nghiệp (thức ăn
hỗn hợp qui đổi) và lượng thức ăn tinh.
Có thể đánh giá khả năng sản xuất và cung ứng của các doanh nghiệp chế biến
thức ăn chăn nuôi trên cơ sở số liệu sau: (xem bảng 4)
Bảng 4: Sản lượng và tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi
Năm Sản lượng (1000 tấn)
Qui đổi ra
thức ăn hỗn
hợp
Doanh thu
(triệu đồng)
Lựong thức
ăn tinh
Tỷ lệ sử
dụng thức
ăn công
nghiệp
(1) (2)=ĐĐ+HH (3)=HH+ĐĐ*3 (4) (5) (6)=(3)/(5)
2000 2.030 2.700 6.496 8.200 24,76%
2001 2.256 3.000 7.105 8.500 26,54%
2002 2.556 3.400 9.970 8.900 28,72%
2003 2.895 3.850 13.315 9.500 30,47%
2004 3.100 4.300 15.000 10.000 31,00%
Nguồn số liệu: Cục Nông Nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
23
Biểu đồ 4: Sản lượng và doanh thu các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
2000 2001 2002 2003 2004
Năm
Sản lượng (1000 tấn),
Doanh thu (triệu đồng)
Sản lượng
Doanh thu
Nhận xét:
- Trong 5 năm gần đây, doanh thu và sản lượng thức ăn chăn nuôi tăng bình quân từ
10% - 12% năm. Tuy nhiên tính đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp sản xuất
thức chăn nuôi cũng chỉ mới khai thác khoảng 60 % công suất (3,15 triệu tấn
/5,445 triệu tấn), điều đó cho thấy các doanh nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng
các yếu tố sản xuất đầu vào. Đó là một trong những nguyên nhân làm tăng giá
thành sản xuất làm cho giá tiêu thụ sản phẩm thức ăn chăn nuôi trên thị trường luôn
ở mức cao.
- Tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi tăng đều qua các năm, tuy
nhiên so với các nước trong khu vực và thế giới thì Việt Nam đang ở mức thấp.5
Điều đó cho thấy các doanh nghiệp chưa khai thác hết tiềm năng thị trường thức ăn
chăn nuôi, một mặt do ở một số địa phương hình thức chăn nuôi công nghiệp
không mang lại hiệu quả kinh tế cao bằng hình thức chăn nuôi tận dụng, một mặt
do khâu phân phối và khai thác thị trường của các doanh nghiệp chưa thực sự hiệu
quả.
2.2 Phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chế biến thức
ăn chăn nuôi Việt Nam
2.2.1 Nguyên liệu đầu vào
2.2.1.1 Khả năng cung ứng nguyên liệu
Cũng như các ngành công nghiệp khác, một trong những yếu tố quyết định đến
việc mở rộng và phát triển ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi là nguyên liệu đầu
5 Phụ lục 05: Mức độ dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi ở Việt nam và một số nước Châu Á
24
vào phục vụ cho quá trình sản xuất. Chất lượng, tính sẵn có và giá cả của nguyên vật
liệu là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cũng như giá thành sản xuất
sản phẩm. Đối với ngành chế biến thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu đầu vào là sản phẩm
trực tiếp ngành sản xuất nông nghiệp, ngành ngư nghiệp, công nghiệp hóa chất.... Điều
đó có nghĩa là nguyên vật liệu chế biến thức ăn chăn nuôi không những ảnh hưởng
trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất như là một yếu tố đầu vào mà còn ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh tế của ngành kinh tế khác như là một sản phẩm đầu ra. Chính vì thế
mà việc tính toán nhu cầu thị trường nguyên vật liệu và qui hoạch vùng nguyên liệu
thường được các nhà sản xuất, người nông dân và các cơ quan quản lý Nhà nước thực
hiện một cách đồng bộ, mang tính kế hoạch cao.
Việc tính toán lượng nguyên vật liệu tiêu hao được căn cứ trên cơ sở nhu cầu
thức ăn chăn nuôi cần thiết cho chăn nuôi và định mức trung bình chuyên ngành đối
với từng loại nguyên vật liệu để sản xuất một đơn vị thức ăn chăn nuôi tương ứng. Khả
năng cung ứng nguyên liệu trong nước được tính toán trên cơ sở tỷ lệ phần trăm từng
loại nguyên vật liệu sản xuất trong nước dùng cho chăn nuôi6.
Với những căn cứ trên, hàng năm lượng nguyên liệu thô phục vụ cho ngành
chăn nuôi được tính toán và thống kê như sau: (xem bảng 5)
Bảng 5 : Tình hình cung ứng nguyên vật liệu
Đơn vị tính: triệu tấn
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tên nguyên
liệu Nhu cầu
Sản
xuất
Nhu
cầu
Sản
xuất
Nhu
cầu
Sản
xuất
Nhu
cầu
Sản
xuất
Đậu tương 0,85 0,044 0,89 0,052 0,95 0,06 1,00 0,061
Bột cá 0,43 0,143 0,45 0,265 0,48 0,29 0,50 0,308
Ngô 3,40 1,018 3,56 1,256 3,80 1,568 4,00 1,727
Sắn 1,45 2.105 1,51 2,663 1,62 3,185 1,70 3,346
Tấm, cám 2,13 3.211 2,23 3,445 2,38 3,457 2,50 3,587
Premix 0,26 0,090 0,27 0,100 0,29 0,10 0,30 0,110
Nguồn số liệu: Cục Nông Nghiệp-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Như vậy, nguyên vật liệu dùng cho ngành chế biến thức chăn nuôi đang thiếu
hụt trầm trọng. Theo số liệu thông kê, hàng năm ngành chế biến thức chăn nuôi phải
nhập khẩu khoảng 50%-60% nguyên vật liệu giàu năng lượng như bắp, dầu đậu tương
và bột cá. Các thành phần cần thiết cho chế biến thức ăn chăn nuôi như lysine,
methionine, vitamin, khoáng vô cơ, khoáng hữu cơ, vi lượng, chất chống mốc, chất ô
6 Phụ lục 06: Sản lượng nguyên liệu và tỷ lệ sử dụng nguyên liệu cho ngành chăn nuôi
25
xy hóa, men tiêu hóa, hương liệu, kháng sinh phải nhập khẩu 100%. Sự thiếu hụt
nguyên liệu trong nước được xác định do một số nguyên nhân sau:
- Một số nguyên liệu chính như đỗ tương, bắp còn là nguồn thực phẩm quan trọng
cho con người nên mặc dù sản lượng sản xuất trong nước rất lớn nhưng chỉ dùng
cho chế biến thức ăn chăn nuôi với tỷ lệ nhỏ. Năng suất sản xuất cây nông nghiệp
còn thấp, chưa khai thác diện tích canh tác cây trồng một cách hiệu quả.
- Một số thành phần cần thiết khác lyzin, kháng sinh, vitamin... chưa được sản xuất
trong nước. Nguyên nhân là do trình độ khoa học công nghệ hạn chế nên giá thành
sản xuất cao, chất lượng kém so với sản phẩm nhập ngoại.
- Ở một số địa phương được xem là vùng có tiềm năng lớn về sản xuất bắp, đậu
tương, lúa thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
thường thu hoạch sản phẩm vào mùa mưa với số lượng lớn. Bên cạnh đó hệ thống
kho tàng và thiết bị sấy khô thô sơ nên công tác lưu trữ không đảm bảo, thường dẫn
đến tình trạng thiếu nguyên liệu theo mùa.
2.2.1.2 Giá nguyên liệu
Chiếm trên 70% giá thành thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu đầu vào đóng một vai
trò trong quá trình phát triển và mở rộng ngành chế biến thức chăn nuôi. Để nhìn rõ
bức tranh thị trường nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, cần đánh giá và phân tích sự biến
động giá một số nguyên liệu chủ yếu qua số liệu thống kê các năm gần đây như sau:
(xem bảng 6)
Bảng 6: Giá bình quân một số nguyên vật liệu thô trong nước
Đơn vị tính : đồng/kg
Loại nguyên liệu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Bắp 2.078 2.122 2.432 2.509
Khoai mì 1.451 1.284 1.498 1.908
Cám gạo 1.962 2.042 2.292 2.466
Nguồn: Cục Nông Nghiệp-bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
26
Biểu đồ 5: Biến động giá một số nguyên liệu trong nước
1000
1200
1400
1600
1800
2000
2200
2400
2600
2002 2003 2004 2005
Năm
Giá(đ/kg)
Bắp
Khoai mì
Cám gạo
Bảng 7: Giá một số nguyên liệu các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương
Đơn vị tính: USD/tấn
Bắp Khô dầu Bột cá Tên nước
2004 2005 2004 2005 2004 2005
China 166 174 337 350 598 629
Indonesia 172 178 363 382 669 710
Korea 277 290 289 296 689 716
Malaysia 181 190 359 371 431 458
Taiwan 205 212 361 378 630 660
Thailand 145 152 343 358 521 536
Nguồn: Tạp chí Pig International
Từ những số liệu thông kê trên, có thể đánh giá, phân tích và rút ra một số nét
đặc trưng về giá nguyên liệu sử dụng cho ngành chế biến thức chăn nuôi như sau:
- Giá nguyên liệu trong nước sử dụng cho ngành chế biến thức chăn nuôi trong
những năm gần có xu hướng gia tăng rất nhanh (từ 5%-10% năm) và biến động
không ngừng. Đặc biệt giá một số loại nguyên liệu có biến động mạnh giữa các
tháng và từng mùa trong năm.7
- Giá một số nguyên liệu chính phục vụ cho ngành chế biến thức chăn nuôi trên thị
trường quốc tế có chiều hướng gia tăng và không ổn định. Một số nguyên vật liệu
7 Phụ lục 07: Giá nguyên vật liệu và thức ăn chăn nuôi năm 2002-2005
27
thô như bắp, khô dầu, bột cá có mức giá chênh lệch rất lớn và hầu hết cao hơn thị
trường trong nước.
- Giá thành nguyên liệu nhập thô từ thị trường quốc tế cao hơn rất nhiều so với thị
trường trong nước. Mức giá nguyên liệu giữa các quốc gia không đồng đều và bất
ổn định gây ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành nguyên liệu nhập khẩu, dẫn đến tình
trạng giá sản phẩm thức ăn chăn nuôi biến động theo chiều hướng gia tăng và bất
ổn định..
- Nhìn chung giá nguyên liệu phục vụ cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi những
năm gần đây có xu hướng tăng nhanh và bất ổn định. Đặc biệt vào thời điểm cuối
năm 2004 đầu 2005 giá nguyên vật liệu nhập khẩu có lúc tăng 30%-40% kéo theo
giá thành sản phẩm thức ăn chăn nuôi tăng rất cao gây rất nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi.
2.2.2 Thị trường và cơ cấu khách hàng
2.2.2.1 Khách hàng và năng lực thị trường
Như đã giới thiệu, ngành chế biến thức chăn nuôi là ngành công nghiệp hỗ trợ
phục vụ cho ngành chăn nuôi, do vậy việc xác định hoặc dự báo nhu cầu thị trường về
sản phẩm thức ăn chăn nuôi được căn cứ trên cơ sở đàn gia súc. Một thực tế cho thấy,
sản phẩm thức ăn chăn nuôi hiện nay chủ yếu là phục vụ cho thị trường trong nước bởi
việc xuất khẩu thức ăn thường không đạt hiệu quả kinh tế do chi phí vận chuyển lớn,
khác biệt về tiêu chuẩn và các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, nhu cầu dinh dưỡng vật
nuôi mỗi nước là khác nhau và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết..)
của từng địa phương. Việc xác định khúc thị trường cho từng loại sản phẩm thức ăn
chăn nuôi thông thường được căn cứ vào số lượng vật nuôi phân bổ theo vùng sinh
thái, tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp và hình thức sản xuất chăn nuôi của từng địa
phương.
Để nhận dạng thị trường sản phẩm thức ăn chăn nuôi, điều quan trọng là nghiên
cứu tình hình phân bổ vật nuôi theo vùng thông qua phân tích và đánh giá liệu thống
kê ngành chăn nuôi trong những năm gần đây như sau: (Xem bảng 8)
28
Bảng 8: Phân bổ vật nuôi theo vùng sinh thái
Đơn vị tính: 1.000 con
Năm Loại
ĐB
sông
Hồng
TD
Miền
Bắc
DH
Miền
Trung
Tây
Nguyên
Đông
Nam
Bộ
ĐB
sông
Cửu
Long
Cả
nước
Heo 6.307 5.058 5.599 1.191 1.863 3.52 23.169
Gia cầm 59.700 45.400 45.200 8.400 24.600 50.000 233.3002003
Qui đổi 6.695 5.178 5.343 1.043 2.513 4.897 25.669
Heo 6.757 5.334 5.941 1.330 2.067 3.449 24.877
Gia cầm 63.960 47.879 47.961 9.377 27.298 54.713 250.5012004
Qui đổi 7.172 5.461 5.670 1.165 2.789 5.358 27.562
Nguồn: Cục nông nghiệp -Bộ NN-PTNT (tỷ lệ qui đổi cho 1 đầu vật nuôi là 400 kg,
tương đương 03 con heo hoặc 13 con gia cầm)
Biểu đồ 6 : Biểu đồ phân bổ vật nuôi theo vùng sinh thái
Đồng bằng SH
26%
TDMiền Bắc
20%
Đông Nam bộ
10%
Tây Nguyên
4%
Duyên hải Miền
Trung
21%
Đồng bằng SCL
19%
Một số đặc điểm mang tính đặc trưng về cơ cấu khách hàng và thị trường sản
phẩm thức ăn chăn nuôi như sau:
- Với số lượng vật nuôi trong nước hiện nay (khoảng 24-25 trịêu con heo, trên 250
triệu con gia cầm, chưa kể một số vật nuôi khác), nhu cầu thức ăn tinh cần thiết
phục vụ cho ngành chăn nuôi vào khoảng 10 triệu tấn/năm. Trong khi đó các doanh
nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi hàng năm chỉ sản xuất và tiêu thụ trên thị trường
29
khoảng 3,1 triệu tấn thức ăn công nghiệp, điều này cho thấy mức độ sử dụng thức
ăn công nghiệp trong chăn nuôi ở Việt Nam là rất thấp so với các nước trong khu
vực.8 Trong những năm tới, nếu tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi
đạt khoảng 55%-60% và đầu gia súc, gia cầm hàng năm tăng khoảng 9%-10% như
hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp hàng năm phải cung cấp khoảng 7 triệu tấn thức
ăn công nghiệp. Đó là bằng chứng cho thấy thị trường tiềm năng của sản phẩm
thức ăn chăn nuôi hiện nay là rất lớn, là sức hút hấp dẫn sẽ lôi kéo nhiều doanh
nghiệp mới nhập ngành và là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp hiện tại tăng năng lực
sản xuất, mở ._. không cao. Tức người sản xuất
sử dụng một số nguyên liệu làm cho khả năng tiêu hoá vật nuôi kém, không chuyển
hóa hết hàm lượng dinh dưỡng chứa trong thức ăn.
3.3.2 Giải pháp cải tiến và xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị
Tùy thuộc vào qui mô sản xuất và năng lực tài chính mà mỗi doanh nghiệp đầu
tư cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị với qui mô và chất lượng khác nhau. Song đứng
trước thực trạng về máy móc thiết bị của các doanh nghiệp hiện nay, đòi hỏi các doanh
nghiệp và Nhà nước phải có bước cải tiến toàn diện nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát
triển theo hướng sau:
- Ngoài nỗ lực của các doanh nghiệp, Nhà nước cần thiết phải có chính sách khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện công tác di dời nhà máy ra khỏi khu
dân cư. Trong đó cần coi trọng chính sách hỗ trợ kinh phí di dời bằng nguồn vốn
tín dụng ưu đãi, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mua hoặc thuê đất xây dựng
nhà xưởng ở những nơi đã được qui hoạch. Tránh tình trạng gây ô nhiểm môi
trường sinh thái, đảm bảo nhà máy được xây dựng ở khu vực thuận tiện cho quá
trình vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm.
- Các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi phối hợp với các đơn vị kinh tế khác,
thậm chí phối hợp với nông dân cùng đóng góp xây dựng hệ thống kho tàng, sân
phơi, đường xá, cầu cảng tại các khu vực sản xuất nguyên liệu.
- Hiện nay máy móc thiết bị ngành chế biến thức ăn chăn nuôi còn lạc hậu so với
một số nước trong khu vực. Đặc biệt nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức
đầu tư silo bảo quản nguyên liệu làm cho chất lượng nguyên liệu khi đưa vào chế
biến không đảm bảo. Còn rất nhiều doanh nghiệp sản xuất thức ăn không có phòng
phân tích chất lượng nguyên liệu và thành phẩm. Do vậy trong thời gian tới các
doanh nghiệp thuộc nhóm này cần phải đầu tư thay đổi dây chuyền sản xuất và
máy móc thiết bị theo hướng hiện đại hóa. Xét về mặt hiệu quả kinh tế thì đây là
giải pháp có thể thực hiện được. Bởi một thực tế cho thấy máy móc thuộc giai đoạn
sản xuất như máy sấy, nghiền, trộn, băng chuyền không đòi hỏi công nghệ cao,
chính vì thế các doanh nghiệp có thể thuê gia công trong nước hoặc nhập từ Đài
Loan, Trung Quốc với chi phí đầu tư rất rẻ. Tuy nhiên đối với một số máy thiết bị
11 Phụ lục 09: khuyến cáo tỷ lệ sử dụng nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi
52
đòi hỏi công nghệ cao như thiết bị ép viên, thiết bị thí nghiệm và kiểm tra chất
lượng, hệ thống silo lưu trữ các doanh nghiệp nên nhập khẩu từ các nước có nền
khoa học kỹ thuật phát triển bởi đây là những thiết bị đòi hỏi tính chính xác cao,
trực tiếp quyết định chất lượng sản phẩm.
3.3.3 Giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến năng
suất, chất lượng sản xuất sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Chính vì thế các doanh nghiệp
và Nhà nước cần phải có chính sách phát triển nguồn nhân lực theo các giải pháp
chính sau:
- Lực lượng lao động trực tiếp sản xuất phải không ngừng được đào tạo các kiến
thức chuyên môn về ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Bởi một thực tế cho thấy
sản phẩm chỉ đạt năng suất và chất lượng cao khi đội ngũ lao động trực tiếp nắm và
hiểu biết các qui trình công nghệ sản xuất, qui trình bảo quản nguyên liệu và thành
phẩm. Đặc biệt đối với cán bộ quản lý và nhân viên bộ phận marketing, ngoài nắm
vững kiến thức chuyên môn phải được đào tạo một cách chính thức về công nghệ
chế biến thức ăn, kiến thức về khoa học dinh dưỡng và kỹ thuật chăn nuôi gia súc
gia cầm. Tuy nhiên hệ thống các trường dạy nghề hiên nay hầu như chưa đào tạo
nguồn nhân lực cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Một mặt do nhu cầu thị
trường về nguồn nhân lực này là chưa đủ lớn nên quá trình đào tạo không mang lại
hiệu quả kinh tế, một mặt là do thiết bị và dây chuyền sản xuất của mỗi doanh
nghiệp có tính đặc thù khác nhau nên họ chỉ trực tiếp tuyển dụng lao động phổ
thông và tự đào tạo cho phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp. Như vậy quá trình
đào tạo nguồn nhân lực chỉ mang tính manh mún, chi phí cao nhưng kiến thức đào
tạo rất hạn chế. Chính vì thế Hiệp hội các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi
phải cần thiết phối hợp với các trường đại học, viện nghiên cứu xây dựng chương
trình và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực một cách chuyên nghiệp, mang tính
chuẩn hóa cao nhằm đảm bảo nhu cầu phát triển ngành.
- Các doanh nghiệp phải có chính sách thu hút và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao về khoa học dinh dưỡng, kỹ thuật chăn nuôi phục vụ cho công tác lập khẩu
phần thức ăn chăn nuôi. Một thực trạng cho thấy hiện nay hầu hết các doanh
nghiệp phải thuê chuyên gia, kỹ sư có trình độ cao ở lãnh vực dinh dưỡng và chăn
53
nuôi phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu tại đơn vị. Chính vì vậy đi đôi với chính sách
đào tạo là chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao.
- Đối với công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, chuyên gia
đầu ngành: hiện nay nước ta có nguồn nhân lực dồi dào trong công tác nghiên cứu
dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi. Đội ngũ nhân lực có trình độ cao, đa số tập trung
ở các trường đại học và viện nghiên cứu. Trong tổng số 61 người có trình độ kỹ sư
trở lên, trình độ tiến sỹ và trên tiến sỹ (giáo sư, PGS) chiếm hơn 45% (28 người).
Với nguồn nhân lực đầy tiềm năng trên, Nhà nước có thể giao trực tiếp cho các
viện, các trường đại học đâu tư nghiên cứu trong lĩnh vực dinh dưỡng và thức ăn
chăn nuôi. Đồng thời qui định rõ việc cấp bằng phát minh sáng chế, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu đạt được. Việc đảm bảo lợi
ích của người nghiên cứu, cơ quan nghiên cứu thông qua nguồn lợi kinh tế thu
được từ kết quả nghiên cứu là một động lực thu hút và thúc đẩy công tác nghiên
cứu đạt được kết quả tốt, mang tính khả thi và thực tiễn hơn trong việc áp dụng vào
sản xuất thức ăn và chăn nuôi.
3.3.4 Giải pháp đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất
Theo các thành viên đoàn đàm phán về việc Việt Nam gia nhập WTO, nếu trở
thành hội viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Việt Nam sẽ có nghĩa vụ thực
hiện Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS). Và một điều chắc chắn là nếu
hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) chủ yếu nhắm vào hàng công nghiệp thì
SPS là công cụ hữu hiệu bảo vệ hàng nông sản trong nước. Do vậy trước sau gì các cơ
sở chế biến thực phẩm dù tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu cũng phải từng bước đáp ứng
các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường theo chuẩn quốc gia và quốc
tế. Và để đạt được các điều kiện trên, ngoài các nỗ lực của các doanh nghiệp sản xuất
và xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, quá trình nghiên cứu dinh dưỡng và nguồn thức ăn
đóng một vai trò quyết định và chủ đạo.
Đứng trước đòi hỏi trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần thiết phải
phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan thực hiện một số giải pháp về công tác
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ như sau:
- Về đầu tư kinh phí nghiên cứu: Một thực tế hiện nay, công tác nghiên cứu của
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi vẫn đang còn manh mún, lẻ tẻ và tản mạn nên
không tạo được sức mạnh tổng hợp và chưa có tính đột phát. Do vậy chúng ta cần
54
thiết phải chuẩn bị một số điều kiện về cơ sở vật chất, tập trung nguồn nhân lực,
chủ trương chính sách phù hợp nhằm xây dựng một chương trình nghiên dứu dinh
dưỡng thức ăn mang tính toàn quốc. Hiện nay đầu tư của Bộ cho lĩnh vực nghiên
cứu dinh dưỡng và thức ăn là quá ít, theo Vụ khoa học và Chất lượng sản phẩm
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kinh phí đầu tư cho việc nghiện
cứu giống và thức ăn chỉ chiếm khoảng 18% tổng kinh phí nghiên cứu, trong khi
đó chi phí giống và thức ăn chăn nuôi chiếm trên 80% trong cơ cấu giá thành sản
phẩm chăn nuôi, còn chi phí cho thú y và chi phí khác chỉ chiếm khoảng 15-17%.
Do vậy cần phải phân bổ lại cơ cấu đầu tư cho nghiên cứu theo hướng tăng kinh
phí nghiên cứu về dinh dưỡng, giống và thức ăn đạt mức 35-40% trong tổng chi phí
nghiên cứu.
- Về trang thiết bị nghiên cứu: Đi đôi với việc huy động và tăng nguồn vốn cho công
tác nghiên cứu, các doanh nghiệp phải hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị
trong công tác nghiên cứu. Hiện nay chỉ một số phòng thí nghiệm thuộc viện chăn
nuôi là có qui mô và trang bị đầy đủ máy móc. Tuy nhiên hầu hết trang thiết bị đã
củ kỹ và lạc hậu, do vậy Nhà nước cần thiết đầu tư và trang bị một số thiết bị
chuyên ngành như thiết bị phân tích, hệ thống phần mềm công nghệ thông tin hiện
đại hơn. Đảm bảo kết quả thí nghiệm nhanh, chính xác, kết quả nghiên cứu mang
tính khả thi nhằm giảm bớt rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
3.3.5 Giải pháp thâm nhập và mở rộng thị trường
Cũng như các ngành sản xuất khác, công tác marketing đối với các doanh
nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải xác định được một số mục tiêu chính là: phân
khúc và định lượng tiềm năng từng khúc thị trường đối với từng loại sản phẩm mà
doanh nghiệp có thể cung cấp, đưa ra chiến lược thâm nhập thị trường và xác định
kênh phân phối phù hợp với từng khúc thị trường mà doanh nghiệp đã xác định tiêu
thụ sản phẩm.
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm, khách hàng và thị trường ngành chế biến
thức ăn chăn nuôi, có thể phác họa được bức tranh thị trường với từng loại sản phẩm
thức ăn chăn nuôi như sau:
- “Thị trường đang phục vụ” là các trang trại chăn nuôi công nghiệp: hiện nay thị
trường đang phục vụ của các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi chủ yếu là
55
các trang trại thuộc khu vực miền Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long. Sản phẩm chủ yếu cho đối tượng khách hàng này chủ yếu
là sản phẩm thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh. Xét về cơ bản, việc khai thác tiềm năng
tăng trưởng của khách hàng hiện tại thường mang lại hiệu quả kinh tế cao, song
một thực tế cho thấy khúc thị trường này đang bão hòa, quá trình cạnh tranh, thôn
tính của các doanh nghiệp đang xảy ra quyết liệt. Chính vì thế công ty nào có sự
khác biệt hóa sản phẩm phù hợp và lợi thế về chi phí sẽ là người chiến thắng. Với
uy tín về chất lượng sản phẩm, ưu thế về qui mô sản xuất rõ ràng đây là hướng đi
chủ yếu giành cho các doanh nghiệp có qui mô lớn, mạnh về tiềm năng tài chính.
- Khúc “thị trường đang phục vụ” còn lại chủ yếu là các hộ cá thể chăn nuôi theo
hình thức tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có, nhóm này thường phân bổ một
cách phân tán và thuộc các khu vực rất khó khăn cho quá trình vận chuyển. Tuy
nhiên khúc thị trường này lại là khu vực ít nhạy cảm về giá và mức độ nhận định
chất lượng sản phẩm chỉ mang tính cảm tính, chủ yếu theo kinh nghiệm. Đây là
cơ hội cho các doanh nghiệp thu được lợi nhuận siêu ngạch nếu như chiếm lĩnh
được thị trường. Tuy nhiên để khai thác khúc thị trường này đòi hỏi sản phẩm
phải thích hợp nhằm hạn chế chi phí vận chuyển và tận dụng nguyên liệu sẵn có.
Chính vì thế đây là hướng đi của sản phẩm đậm đặc và là cơ hội cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Khúc “thị trường sẽ phục vụ” là các trang trại chăn nuôi, các hộ chăn nuôi cá thể
được mở rộng theo hướng chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi về khu vực Đồng bằng
Sông Hồng và Trung Du Miền Bắc. Cũng như thị trường đang phục vụ, khúc thị
trường này bao gồm các trang trại chăn nuôi và các hộ chăn nuôi các thể với
những đặc điểm và hành vi tiêu dùng tương đồng với thị trường mà các doanh
nghiệp đang phục vụ. Tuy nhiên khúc thị trường này là cơ hội tốt cho các doanh
nghiệp mới nhập ngành đóng trên địa bàn khu vực. Quá trình khai thác thị trường
này đi đôi với quá trình chuyển dịch vốn đầu tư hoặc hợp lý hoá các kênh phân
phối mới mục tiêu mở rộng thị trường.
Xuất phát từ đặc điểm về thị trường và khách hàng, các doanh nghiệp có thể thực
hiện một số chiến lược thâm nhập thị trường như sau:
- Chiến lược xâm nhập thị trường với chi phí thấp: đây là chiến lược rất quan trọng
bởi giảm giá thành là chiến lược quyết định việc thực hiện các chiến lược khác.
56
Muốn thực hiện chiến lược này các doanh nghiệp phải phân tích chi tiết cơ cấu
giá thành và đánh giá từng nhân tố tác động đến giá thành theo ba phương diện
chủ yếu là: cơ cấu đầu tư, kỹ thuật phối chế dinh dưỡng và các yếu tố sản xuất
đầu vào. Trong đó nên mở rộng tăng cường hoạt động đầu vào đối với nguyên vật
liệu, khai thác triệt để các yếu tố cạnh tranh giữa các nhà cung cấp bởi chỉ có sự
cạnh tranh giữa các nhà cung cấp mới dẫn tới việc giảm giá và tăng chất lượng
nguyên liệu đầu vào.
- Chiến lược sử dụng giá thấp để nhập cuộc: Chiến lược này là quá trình chấp nhận
giảm một khoản lợi nhuận trước mắt để mở rộng thị phần ở thị trường mà họ cần
thiết thâm nhập. Đối với thị trường sản phẩm thức ăn chăn nuôi, chiến lược này
phù hợp với các doanh nghiệp có lợi thế về qui mô, thị trường cần khai thác là thị
trường đang phục vụ với sản phẩm thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, và đối tượng
khách hàng là trang trại chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, hoặc là khúc thị
trường mới đầy tiềm năng nhưng chứa đựng những nhân tố có thể dẫn đến giai
đoạn cạnh tranh quyết liệt. Việc gia tăng thị phần ở thị trường này về lâu dài là
giúp cho các doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận, bởi thực chất đây là sự vận dụng
qui luật tối đa hóa lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh.
- Chiến lược thâm nhập thị trường bằng sự hoàn hảo của chất lượng sản phẩm:
trong môi trường kinh doanh hiện đại, sự hoàn hảo về chất lượng sản phẩm mới
thực sự là bản chất của quá trình cạnh tranh hoàn hảo. Chính vì thế các doanh
nghiệp phải tìm hiểu các nguyên nhân tác động đến chất lượng sản phẩm, trong
đó yếu tố khoa học kỹ thuật, khoa học về dinh dưỡng, chất lượng nguồn nguyên
liệu và trình độ kỹ thuật nguồn nhân lực phải được xem xét hàng đầu.
- Chiến lược thâm nhập thị trường đi đôi với quá trình hợp lý hoá kênh phân phối
theo hướng giảm bớt các khâu trung gian và phát huy hình thức phân phối sản
phẩm đến tay người tiêu dùng.
Như đã nhận định, ngoài nguyên nhân chính làm giá thức ăn chăn nuôi tăng cao
còn một nguyên nhân khác làm tăng giá thức ăn chăn nuôi là do khâu trung gian. Bởi
theo kết quả phân tích thì ngay cả khi giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu
tăng mạnh cũng không thể kéo theo mức tăng 30% của giá thức ăn chăn nuôi như thời
gian vừa qua. Để hạn chế tình trạng trung gian nâng giá nhằm bớt gánh nặng cho
57
người chăn nuôi, ngoài nỗ lực của các cơ quan Nhà nước, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải có chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, cụ thể:
¾ Các doanh nghiệp phải phối hợp vơi các cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội các
doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải yêu cầu các doanh nghiệp trong
hiệp hội không được phép nâng mức giá bán quá cao. Gây sức ép hạn chế các đại
lý phân phối không được "găm" hàng và phải cung ứng đủ cho thị trường. Riêng
các đại lý, cửa hàng phân phối, khuyến cáo chỉ hưởng tỷ lệ phần trăm hoa hồng
trên sản lượng sản phẩm bán ra, không "ăn" thêm ở mức chênh lệch giá.
¾ Có thể xây dựng các “chợ đầu mối”. Tại các chợ này sẽ niêm yết giá thức ăn chăn
nuôi của nhà máy, cộng với các chỉ số về chất lượng sản phẩm. Đặc biệt đối với
các trang trại chăn nuôi hoặc các cơ sở chăn nuôi có qui mô lớn, các doanh
nghiệp cần phải có chính sách phân phối trực tiếp đến nơi tiêu thụ nhằm hạn chế
các khoản chi phí phí do thông qua các khâu trung gian.
¾ Về lâu về dài, hình thức chăn nuôi tận dụng sẽ giảm dần và khách hàng chủ yếu
của các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi là các trang trại chăn nuôi theo
hình thức công nghiệp. Chính vì thế các doanh nghiệp phải có phương án cung
cấp sản phẩm trực tiếp cho người chăn nuôi nhằm giảm bớt vai trò các đại lý
trung gian. Gắn liền kênh phân phối sản phẩm thức ăn chăn nuôi với khâu phân
phối giống, thuốc thú y trong mối quan hệ tương hỗ.
3.3.6 Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với thức ăn chăn nuôi
3.3.6.1 Giải pháp kiểm soát và định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất
thức ăn chăn nuôi
Hiện nay cả nước có 197 doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, đa số doanh
nghiệp ít vốn, không có khả năng nhập khẩu nguyên liệu với khối lượng lớn, thường
phải cạnh tranh mua nguyên liệu trong nước và đẩy giá thành sản xuất lên cao. Thị
trường thức ăn chăn nuôi đang lưu hành và tồn tại nhiều loại sản phẩm kém chất
lượng, gây cản trở và khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước đối với sản phẩm thức
ăn chăn nuôi. Xét về kinh doanh, chế biến thức ăn chăn nuôi có nhiều lợi thế, như là
độ an toàn cao, tỷ suất lợi nhuận lớn và ổn định. Vì thế trong tương lai gần sẽ rất ít
hoặc hiếm có doanh nghiệp rút lui khỏi ngành, mà thay vào đó là sự xuất hiện nhiều
58
doanh nghiệp mới nhập ngành. Do đó, việc quản lý các doanh nghiệp sản xuất thức ăn
chăn nuôi hiện nay nên theo hai hướng chính như sau:
- Không nên cấp phép xây dựng mới một cách tràn làn, mà nên khuyến khích các
doanh nghiệp mở rộng năng lực chế biến. Hiện nay một số nước trong khu vực như
Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc mỗi nước chỉ tồn tại khoảng 30-50 doanh nghiệp
sản xuất thức ăn chăn nuôi, song đây là những doanh nghiệp hoặc những tập đoàn
sản xuất có qui mô lớn, mỗi doanh nghiệp chiếm một khúc thị trường nhất định. Và
một kinh nghiệm cho thấy, việc hạn chế số lượng các doanh nghiệp chế biến thức
ăn chăn nuôi sẽ giúp Nhà nước có thể can thiệp và ổn định thị trường nguyên liệu,
thị trường sản phẩm thức ăn chăn nuôi một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
- Cần công bố thông tin rộng rãi về năng lực hiện tại của các khu vực, tình trạng khai
thác công suất của các nhà máy. Những nhà đầu tư tương lai sẽ căn cứ vào những
thông tin này để quyết định đầu tư hay rút lui.
- Thị trường thức ăn chăn nuôi khu vực Miền Đông Nam Bộ đang có xu thế bão hòa,
trong khi đó thị trường khu vực Đồng bằng Sông Hồng, Trung Du Miền Bắc đang
được không ngừng mở rộng. Một mặt do mức độ công nghiệp hóa trong chăn nuôi
ở khu vực này đang ở mức thấp, một mặt do qui hoạch ngành chăn nuôi đang có xu
hướng mở rộng cơ cấu về phía Bắc. Chính vì thế trong thời gian tới nếu có cấp
phép xây dựng hoặc mở rộng qui mô cho các doanh nghiệp chỉ nên tập trung và ưu
tiên cho khu vực miền Bắc, hạn chế hoặc tạm ngưng cấp phép đối với các doanh
nghiệp thuộc khu vực Miền Đông Nam Bộ.
- Không nên cấp phép xây dựng mới, thậm chí mở rộng năng lực sản xuất cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi đặc điểm của ngành sản xuất thức ăn
chăn nuôi là dây chuyền công nghệ sản xuất đơn giản, vốn đầu tư không lớn nên rất
phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Việc hạn chế các
doanh nghiệp nước ngoài là một biện pháp bảo vệ các doanh nghiệp trong nước
trước sức ép cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
59
3.3.6.2 Giải pháp kiểm soát và bình ổn giá thức ăn chăn nuôi
Giá thức ăn chăn nuôi ở nước ta hiện nay đang ở mức cao hơn so sới các nước
trong khu vực từ 15%-30%. Trong bối cảnh đó, nhiều nhà máy chế biến thức ăn chăn
nuôi lại tăng giá bán sản phẩm. Giải thích nguyên nhân trên, nhiều chuyên gia kinh
cho rằng, các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi tăng giá là nhằm mục đích bù lại
các khoản thiệt hại do dịch cúm gia cầm gây nên. Tuy nhiên việc giải thích đó cũng
không hoàn toàn có cơ sở vì các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau về giá. Quy luật
cạnh tranh hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân trên cơ sở giá thị trường. Ngày nay
rất ít thấy đơn phương một doanh nghiệp nào tăng giá. Nhiều khi chạy theo giá mà
các doanh nghiệp còn giảm chất lượng. Một ví dụ có thể đưa ra là đợt giá nguyên liệu
tăng vào đầu năm 2004 khi mà giá không dầu tăng từ 4000đ lên 7000đ/kg. Dự tính
số tiền mà ngành chế biến thức chăn nuôi bị thiệt hại trong đợt cúm gia cầm vừa qua
ước khoảng 700 tỷ đồng. Thiệt hại chủ yếu là do số thức ăn gia cầm tại các nhà máy
(khoảng từ 50.000 đến 60.000 tấn) khi không được phép vận chuyển đã phải xử lý và
chế biến sang các loại thức ăn chăn nuôi khác.Và số lượng thức ăn gia cầm đã
chuyển đến các đại lý nhưng không tiêu thụ được khoảng từ 150.000 đến 170.000
tấn.
Ngoài ra do giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong và ngoài nước tăng cao,
cộng với một số yếu tố khác cũng tăng giá, như xăng, dầu, nguyên liệu nhựa... Tất cả
đã tác động trực tiếp làm tăng chi phí chế biến thức ăn chăn nuôi, do đó các doanh
nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi đều đồng loạt tăng giá bán, hãng Proconco tăng giá
bình quân từ 11,76 - 15,38%, hàng Higro, CP tăng từ 12,2 - 15,7%.
Ở một khía cạnh nào đó, giá thức ăn chăn nuôi tăng giá là hợp lý, tuy nhiên để
khôi phục đàn gia cầm trong nước, ngoài các biện pháp tiêu độc vệ sinh chuồng trại,
chuẩn bị con giống tốt..., Nhà nước đang có chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi
cũng như các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Thế nhưng việc các doanh nghiệp
liên tục tăng giá do giá nguyên liệu tăng trong bối cảnh dịch cúm gia cầm vừa tạm lắng
dễ làm cho dư luận đánh giá hành động này đi ngược lại với các biện pháp khuyến
khích người dân chăn nuôi trở lại. Đặc biệt, trong bối cảnh gia nhập AFTA và WTO
đến gần, hàng hoá chăn nuôi trong nước cần phải có đủ sức để cạnh tranh với các đối
thủ của khu vực. Mong muốn kiểm soát giá nhưng rất khó thực hiện bởi thức ăn chăn
60
nuôi có tính dị biệt rất cao. Để thực hiện chức năng kiểm soát giá thì tốt hơn là kiểm
soát giá nguyên liệu trong những thời điểm nhạy cảm.
3.3.6.3 Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về kiểm tra, kiểm soát chất lượng
nguyên liệu và sản phẩm thức ăn chăn nuôi
Thời gian gần đây hầu hết các doanh nghiệp sản xuất chất lượng đều vi phạm
các qui định về chỉ tiêu chất lượng thức ăn chăn nuôi. Theo kết quả lấy mẫu và kiểm
tra của một số ngành chức năng, nhiều doanh nghiệp đã vi phạm qui chế nhãn mác,
thành phần dinh dưỡng bị sụt so với chỉ tiêu đăng ký hoặc không ghi đầy đủ các thông
tin về công bố chất lượng trên bao bì. Hầu hết các chỉ tiêu chất lượng không đạt yêu
cầu chỉ có thể nhận biết khi thông qua kết quả thí nghiệm, điều đó có nghĩa là người
tiêu dùng không hề nhận biết được rằng chất lượng sản phẩm mà mình sử dụng có đạt
yêu cầu chất lượng hay không, hoặc chất lượng sản phẩm đạt đết mức nào và thiệt hại
kinh tế khi sử dụng sản phẩm kém chất lượng là một vấn đề còn mơ hồ không thể xác
định được.
Đứng trước tình trạng này, nhiều người đã đặt vấn đề là trách nhiệm của các cơ
quan quản lý Nhà nước tới đâu, và có giải pháp nào hữu hiệu để hạn chế tình trạng
thức ăn chăn nuôi kém chất lượng còn lưu thông, gây thiệt hại trực tiếp cho người chăn
nuôi, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sức khoẻ công đồng.
Theo nghị định 15/Cp ngày 19/03/1996 về việc quản lý thức ăn chăn nuôi, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm kiểm tra và quản lý chất lượng
thức ăn chăn nuôi trong phạm vi cả nước, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực
thuộc và UBND các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm trực triếp việc kiểm tra và quản
lý chất lượng thức ăn chăn nuôi trên địa bàn quản lý.
Tuy nhiên công tác quản lý đến nay vẫn còn nhiều bất cập, việc phân cấp và
phối hợp giữa các cơ quan chức năng vẫn chưa đồng bộ dẫn đến tình trạng chồng chéo
quyền hạn, trách nhiệm không rõ ràng trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm
thức ăn chăn nuôi. Hiện nay tại các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ có từ
3-5 thanh tra viên nông nghiệp song phải thực hiện kiểm tra thuốc trừ sâu, phân bón,
thức ăn… Và con số này là quá mỏng. Do vậy quá trình thanh tra, kiểm tra lấy mẫu
61
phân tích chỉ thực hiện theo đợt và mang tính chiếu lệ, chưa có biện pháp xử lý triệt để
các sai phạm.
Đứng trước tình hình trên, thiết nghĩ Chính phủ và các cơ quan chức năng, cụ
thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phải có qui chế cụ thể, phân cấp và
giao trách nhiệm một các rõ ràng trong công tác quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi.
Từ những bất cập trên Nhà nước có thể đưa ra một số giải pháp chính trong công tác
quản lý nhà nước đối với chất lượng thức ăn chăn nuôi như sau:
- Với những địa bàn tỉnh, thành phố rộng lớn thì cần phân cấp xuống tận địa bàn
trong việc giám sát thức ăn chăn nuôi. Cần có quy chế rõ ràng phân cấp quản lý. Theo
ý kiến đông đảo của cán bộ quản lý thức ăn chăn nuôi, tốt nhất công tác quản lý chất
lượng thức ăn chăn nuôi nên phân cấp đến cấp huyên, tức phòng chăn nuôi mỗi huyện
phải có trách nhiệm kiểm tra, nếu thu giữ được hàng nghi giả, kém chất lượng thì phải
tiến hành lấy mẫu đem đến phòng thí nghiệm thuộc sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn các tỉnh để phân tích, giám định. Công việc kiểm tra phải được thực hiện tại
phòng thí nghiệm hiện đại. Các mẫu kiểm tra đều phải “mã hoá". Tức là không cho
biết tên sản phẩm, đơn vị sản xuất mà đánh số ngẫu nhiên, khi có kết quả về mới ráp
nối để biết được tên đơn vị, tên sản phẩm. Việc làm tuyệt mật này sẽ tránh được sự
tiêu cực nhằm thay đổi kết quả kiểm tra. Nếu kết quả kiểm tra phát hiện ra sản phẩm
kém chất lượng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải trực tiếp xử lý một cách
triệt để, nếu sai phạm lớn, có dấu hiệu của hành vi gian lận hoặc gây hiệu quả nghiêm
trọng đến tình hình phát triển kinh tế xã hội thì phải chuyển hoặc xin ý kiến Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn xử lý.
- Đi đôi với công tác phân cấp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần gấp
rút trang bị phòng thí nghiệm, nguồn nhân lực cho các Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn trực thuộc. Hiện nay cơ sở hạ tầng và cán bộ quản lý tại các sở là quá mỏng
nên việc kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi chưa đáp ứng nhu cầu. Hiện tại, tại các
địa phương, thống kê chỉ có 20/60 tỉnh, thành trong Sở Nông Nghiệp và Phát Triển
Chăn Nuôi có Phòng Chăn nuôi, đó là chưa nói đến cấp huyện. Con số này quả là cực
kỳ khiêm tốn so với sự phát triển mạnh mẽ của các các doanh nghiệp. Phòng thí
nghiệm và phân tích mẫu chỉ tập trung chủ yếu ở các Viện nghiên cứu, hoặc các sở
trực thuộc thành phố lớn do vậy quá trình phân tích thường gặp bất cập. Có những mẫu
62
thức ăn thực tế có thể tốt, nhưng do quá trình đợi phân tích lại xuống cấp trầm trọng,
hoặc là kết quả phân tích quá chậm dẫn đến tình trạng xử lý không kịp thời, bị mua
chuộc và làm lệch kết quả kiểm tra.
Nguyên liệu là một trong những nguyên nhân chính làm cho chất lượng sản
phẩm thức ăn chăn nuôi kém chất lượng, song một thực tế hiện nay là công tác kiểm
tra chất lượng nguyên vật liệu hầu như đang bỏ ngõ. Chính vì thế nhiều doanh nghiệp
đã lợi dụng sự bất cập và lơi lỏng trong công tác kiểm tra chất lượng nguyên liệu nên
đã cố tình thu mua và sử dụng nguyên liệu giá rẻ, không đảm bảo các chỉ tiêu chất
lượng qui định. Thậm chí có những doanh nghiệp sử dụng một số nguyên liệu vượt
quá tỷ lệ cho phép, sử dụng các chất kháng sinh hoặc hooc môn tăng trưởng bị cấm.
Như vậy kết hợp với công tác quản lý chất lượng sản phẩm, Nhà nước cần phải đưa ra
qui chế kiểm tra chất lượng nguyên liệu một cách chặt chẻ từ khâu thu mua, xử lý, lưu
trử đến khâu định lượng trước khi đưa vào sản xuất.
3.4 Kiến nghị
Các giải pháp đưa ra với mục đích khắc phục những mặt khó khăn và phát huy
tối đa lợi thế các mặt nội tại của ngành phục vụ cho chiến lược phát triển ngành chế
biến thức ăn chăn nuôi từ nay đến 2010. Về cơ bản, các giải pháp phát triển được đưa
ra đều có tính thực tiễn cao, phù hợp với đặc điểm và điều kiện kinh tế xã hội Việt
Nam, song để các giải pháp được áp dụng một cách thực thi bản thân đưa ra một số
kiến nghị như sau:
Đối với Nhà nước
- Nội dung các giải pháp vĩ mô chủ yếu tập trung vào các chính sách kinh tế vĩ mô
hỗ trợ cho sự phát triển ngành, trong đó qui hoạch vùng nguyên liệu, xây dựng cơ
sở hạ tầng là yêu cầu cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên quá trình thực hiện lại đòi
hỏi thời gian và kinh phí lớn, chính vì thế Chính phủ phải gấp rút triển khai một
cách đồng bộ, phải có kế hoạch thực hiện giải pháp cho từng giai đoạn cụ thể, phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Chỉ đạo cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xúc tiến công tác nghiên cứu
khoa học trong thời gia tới là : nghiên cứu phát triển và sử dụng các nguồn thức ăn
mới bao gồm nguồn thức ăn giàu năng lượng, khoáng và protein. Nghiên cứu khẩu
63
phần cân bằng dinh dưỡng để cho sản phẩm thịt, trứng, sửa đạt chất lượng cao,
không chứa các chất kháng sinh, hocmon gây ảnh hướng đến sức khoẻ công đồng.
Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ về dinh dưỡng, thức ăn chăn nuôi
với mục đích giảm giá thành thức ăn trong sản xuất chăn nuôi, hạn chế chất thải
như nitơ, phốt pho gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các doanh nghiệp
- Hiện nay chỉ một số doanh nghiệp lớn trong ngành chế biến thức ăn chăn nuôi là
xác định được chiến lược sản xuất kinh một cách cụ thể và đồng bộ. Còn hầu hết
các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chỉ hoạt động một cách manh mún, mục
tiêu sản xuất kinh doanh chỉ vì mục đính kinh tế trước mắt, thiếu tính đồng bộ. Do
vậy bộ phải sự phối hợp và chỉ đạo các doanh nghiệp trong ngành vận dụng các
giải pháp phát triển phù hợp, tạo nên sự phát triển bền vững ngành chế biến thức ăn
chăn nuôi trong nước.
- Các giải pháp phát triển đưa ra trong điều kiện nên kinh tế đang phát triển ổn định,
tuy nhiên chiến lược phát triển ngành là mang tính lâu dài nên không thể tránh khỏi
sự ảnh hưởng của các biến động kinh tế, chính trị trong và ngoài nước. Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, do ảnh hưởng của giá cả xăng dầu và dịch cúm gia cầm
đang gây cản trở rất lớn đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội nói chung, ngành
sản xuất chăn nuôi và ngành chế biến thức ăn chăn nuôi nói riêng. Chính vì thế
việc xây dựng và áp dụng các giải pháp phát triển ngành đòi hỏi các cơ quan quản
lý Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi phải có các phản ứng
nhanh, linh động đối với sự tác động của các nhân tố bên ngoài.
64
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1389.pdf