Giải pháp phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Giải pháp phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Lời mở đầu Sau một thời gian dài duy trì kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mô hình kinh tế này sau khi làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó: tập trung sức mạnh của cả nước vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi hoàn thành vai trò lịch sử của mình, việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi lực lượng sản xuất còn chưa phát triển đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế, triệt tiêu nguồn lực phát triển kinh tế. T

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta sớm nhận ra sai lầm của mình đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quá trình đổi mới này được tiến hành dần dần từng bước. Đến nay sau 15 năm thực hiện đổi mới chúng ta thu được những thành tựu hết sức quan trọng. Đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và tăng trưởng: Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực chúng ta đã tiến tới đảm bảo đủ lương thực và các vật chất sinh hoạt cho đời sống và cả tích lũy cho ngân sách nhà nước. Bộ mặt đất nước có rất nhiều thay đổi. Những nhân tố thị trường dần được hình thành đồng bộ và hoạt động có hiệu quả. Sự đổi mới của Đảng và Nhà nước về phương thức lãnh đạo và điều hành tạo thành một cơ chế điều tiết nền kinh tế thị trường (KTTT) một cách có hiệu quả, phát huy nội lực kết hợp ngoại lực đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá(CNH- HĐH). Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được nền KTTT định hướng XHCN của ta còn nhiều hạn chế cần phải nghiên cứu tìm cách giải quyết. Nhằm mục tiêu xây dựng nền KTTT định hướng XHCN tạo động lực sức mạnh cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, đưa nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những mặt hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay đó là: Nền kinh tế còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố thị trường văn minh còn ít hơn là những yếu tố thị trường sơ khai. Mặt khác, trong xã hội cũng xuất hiện một số nhân tố đi quá xa vượt quá giới hạn của nền KTTTđịnh hướng XHCN ví dụ như: Những nhân tố của nền kinh tế…, tình trạng thương mại hóa giáo dục, nhân phẩm. Trình độ thấp kém chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của KTTT ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ: Giá cả hàng hoá và dich vụ còn bị bóp méo, độc quyền còn qúa lớn, tỷ giá chưa phải do thị trường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường… Quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường còn qúa thiếu; không ít những thể chế chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của KTTT. Sau sự can thiệp của nhà nước vào thị trường còn chưa thật phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết với các bộ phận thoái hóa trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra như tham nhũng, nợ nần chồng chất. Trước những hạn chế và tồn tại nói trên để giải quyết được đòi hỏi chúng ta cần phải nắm rõ bản chất, những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Căn cứ vào tình hình thực tế để có những giải pháp đồng bộ thiết thực hiệu quả khắc phục tình trạng trên. Đề án này xin khẳng định lại tính thiết yếu của việc chuyển sang KTTT định hướng XHCN ở nước ta, khẳng định con đường phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn là đúng đắn. Đồng thời xin nêu ra một số những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó đánh giá những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần phải giải quyết và cũng xin đề xuất một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó. Nhằm đạt được mục tiêu CNH- HĐH đất nước, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này xin được đề cập tới những vấn đề cơ bản nhất về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Mai Hữu Thực. Em xin chân thành cám ơn thầy! Nội dung I) Sự cần thiết phải chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN phản ánh hậu quả của việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi đã làm xong vai trò lịch sử của nó là tập trung sức mạnh của dân tộc trong điều kiện khớ khăn, thiếu thốn đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đồng thời cũng phản ánh những sai lầm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải tạo nền kinh tế ngay khi đất nước thống nhất. Trước tình hình nền kinh tế Việt Nam khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng vào đầu những năm 80, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi mới nền kinh tế, chuyển dần nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN. 1) Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta bước ra khỏi chiến tranh với tư thế của người chiến thắng. Cả nước bắt tay vào xây dựng XHCN, Đảng và Nhà nước ta vẫn duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong giai đoạn mới: kiến thiết đất nước trong hoà bình đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu với cơ chế quản lý thống nhất, tập trung theo kế hoạch trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất. Trước đổi mới kinh tế (1986) tình hình nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng yếu kém. Cở sở vật chất kỹ thuật vốn dĩ đã lạc hậu lại càng lạc hậu thêm do nhiều năm không được đổi mới. Kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất nghèo nàn lạc hậu. Bức tranh nền kinh tế Việt Nam 10 năm (1976-1985) trước đổi mới là: mức tăng trưởng thấp (3. 7%/ năm), làm không đủ ăn và nhờ vào viện trợ nước ngoài ngày càng lớn. Thu nhập quốc dân trong nước chỉ đáp ứng được 80%-90% thu nhập quốc dân sử dụng (Năm 1976:78. 5%, năm 1985:69. 8%). Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ các nguồn viện trợ cho vay từ bên ngoài chiếm 10. 2% thu nhập quốc dân sử dụng. Tính chung 5 năm (1981-1985) nguồn thu nước ngoài chiếm 22. 4% thu ngân sách, 28. 9% thu trong nước và 18. 5% tổng thu ngân sách, nợ nước ngoài 8. 5 tỷ rúp và 1. 9 tỷ USD. Điều đáng chú ý là nợ nần chồng chất nhưng bội chi ngân sách vẫn rất lớn và tăng dần. Năm 1980 18. 1%, năm 1980 36. 6%, buộc phải bù đắp bằng phát hành tiền. Cũng vào năm đó, những sai lầm trong việc cải cách giá cả, tiền lương đã làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng siêu lạm phát ở mức 774% năm 1986 kéo theo giá leo thang và vô phương kiểm soát. Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả. Trước đổi mới kinh tế Việt Nam chủ yếu là nước nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ chiếm chưa đến 50% GDP. Đầu tư vào công nghiệp nặng quá nhiều, công nghiệp nhẹ không được quan tâm đúng mức dẫn đến hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trở nên khan hiếm, giá cả tăng vọt làm cho mặt trận lưu thông rối ren. Đầu tư của Nhà nước dàn trải kém hiệu qủa. Các dự án đầu tư của Nhà nước tập trung vào các công trình công nghiệp nặng hoặc vào những công trình xây dựng kết cấu hạ tầng quy mô lớn vượt quá khả năng của nền kinh tế quốc dân, trình độ khoa học còn lạc hậu dẫn đến các công trình dở dang kéo dài gây lãng phí rất lớn. Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Một thời gian dài ở nước ta đã tồn tại quan điểm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt. Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy vì vai trò đặc biệt quan trọng của những tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư nhân thì nó trở thành phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức lao động, tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hóa…Mặt khác, do quản lý theo chiều dọc, theo chức năng kinh doanh của từng ngành (công nghiệp, nông nghiệp, vận tải…) một cách máy móc, cho nên đã dẫn tới các hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành dẫn tới thị trường bị chia cắt và manh mún. Năng suất lao động thấp, thu nhập quốc dân đầu người thấp. Do cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, cơ chế quản lý cũ làm triệt tiêu mất động lực sản xuất. Kết cấu hạ tầng dịch vụ kém phát triển dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập bình quân đầu người của nước những năm trước rất thấp. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình trạng lạc hậu, khủng hoảng, suy thoái của nền kinh tế Việt Nam trên đây vào những năm (1976 – 1985) đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà chúng ta đang áp dụng. Đánh giá một cách xác đáng những tác dụng và hạn chế của nó từ đó rút ra kết luận xem nó còn phù hợp với điều kiện nước ta nữa hay không. Và để nước ta thoát khỏi tình trạng trên thì cần phải có những giải pháp gì? 2) Kinh tế kế hoạch hoá tập trung và những hậu quả của nó Để đánh giá những ưu điểm và khuyết tật của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung- mô hình kinh tế đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây chúng ta đi vào tìm hiểu nó một cách tổng quát và những đặc trưng cơ bản của nó. 2. 1) Kinh tế kế hoạch hoá tập trung là gì? Kinh tế kế hoạch hóa tập trung là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó việc điều tiết và vận hành nền kinh tế chủ yếu thông qua các quyết định tập trung của Chính phủ. 2. 2) Các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung – cơ chế được áp dụng trong một thời gian dài ở nước ta trước đổi mới cũng như ở các nước XHCN trước đây mang những đặc trưng sau: Một là: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với một hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các nhiệm vụ kinh tế được chi tiết hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu, pháp lệnh, kế hoạch thống nhất ở các cơ quan trung ương trước khi nó được giao cho các bộ phận thực hiện. Các bộ phận trong nền kinh tế phải được thực hiện đúng như kế hoạch được giao. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp phải dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các quy định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong cơ chế quản lý này việc lựa chọn ba vấn đề cơ bản: sản xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?, đều do nhà nước thực hiện. Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất, để thực hiện được điều đó nhà nước tiến hành quốc hữu hóa, tập thể hóa, xoá bỏ tư nhân, kiểm soát giá, tiền lương. Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở để thực hiện nhiệm vụ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy cho Nhà nước theo các chỉ tiêu pháp lệnh. Dựa trên nguồn sản phẩm được sản xuất ra, Nhà nước tiến hành phân phối theo các chỉ tiêu đã được quy định sẵn. Như vậy tất cả các khâu trong nền kinh tế đều được vạch kế hoạch một cách thống nhất và chi tiết. Các bộ phận trong nền kinh tế cứ như thế mà thực hiện. Hai là: Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Các cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất của các doanh nghiệp còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vừa ỷ lại vào cấp trên. Sản xuất kinh doanh được tiến hành như khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội. Các khâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bộ máy tổ chức quản lý đều lệ thuộc vào các quyết định của cơ quan hành chính kinh tế. Kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra sao đều được giao cho Nhà nước. Các cơ quan ra quyết định không phải chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Ba là: Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bỏ qua các quan hệ hàng hóa tiền tệ và hiệu qủa kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế cơ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ sản phẩm là chủ yếu. Do đó hoạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới nhiều hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách Nhà nước, mà không ràng buộc đối với người được cấp phát vốn. Như vậy. Nhà nước thực hiện chế độ phân phối bằng hiện vật cho các cơ quan nhà nước, cùng chế độ tem phiếu phân phối cho người tiêu dùng. Do đó, người tiêu dùng không được quyền lựa chọn, phải tiêu dùng cái mà Nhà nước có chứ không được tiêu dùng cái mà mình cần. Thực hiện chế độ bao cấp về giá để tiến hành phân phối cho sản xuất và tiêu dùng làm xuất hiện nhưngx nhu cầu giả tạo, thừa thiếu hàng hóa và dịch vụ… Bốn là: Xuất phát từ ba đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý Nhà nước rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách thì quan liêu, cửa quyền. Để đảm bảo cho việc vạch kế hoạch chi tiết cho nền kinh tế và đảm bảo cho các chỉ tiêu kế hoạch được thực hiện một cách thống nhất cũng như để tập trung mọi nguồn lực đầu vào, đầu ra của sản xuất trong tay Nhà nước đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý khổng lồ qua nhiều cấp trung gian. Mặt khác, nó lại hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh cứng nhắc tạo ra một sức ỳ lớn, kém năng động và linh hoạt, tạo cho người làm việc trong bộ máy ấy một phong cách quan liêu, cửa quyền, kém năng động. Bên cạnh những ưu điểm như: quản lý được tập trung thống nhất toàn bộ nền kinh tế quốc dân và giải quyết được các nhu cầu công cộng của xã hội, đảm bảo phúc lợi xã hội, giải quyết được vấn đề an ninh và các vấn đề xã hội, tập trung các nguồn lực để giải quyết các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. Cơ chế này cũng góp phần tập trung sức mạnh của toàn dân tộc tạo ra một nguồn lực vô cùng to lớn giúp cho dân tộc ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại. Mặc dầu vậy, cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cũng để lại hậu hết sức lớn, do các nhược điểm vốn có của nó sau khi đã làm xong vai trò lịch sử ở nước ta. Hậu quả của nó thể hiện như sau: Một là: Các quy luật kinh tế khách quan bị coi thường. Do hoạt động quản lý nền kinh tế đều dựa trên hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch đã được vạch sẵn mà không dựa trên cơ sở các quy luật kinh tế khach quan như: quy luật cung cầu, cạnh tranh, quy luật giá trị. Việc sản xuất kinh doanh, giá cả hàng hoá và dịch vụ được phân phối theo quy định của Nhà nước mà không theo quy luật kinh tế khách quan tất yếu sẽ dẫn tới khủng hoảng. Hai là: Do quy luật kinh tế khách quan bị coi thường quan hệ hàng hoá tiền tệ bị thay thế bằng quan hệ hiện vật, giá cả hàng hoá gần như không liên quan gì đến giá trị cũng như tương quan cung cầu, mọi tính toán đều trở nên sai lệch cả. Do đó mà không có tiêu chuẩn khách quan để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quan hệ phân phối và phân phối lại, sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên định mức, quy định, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền lực của nó trong hệ thống phân phối và phân phối lại. Do đó nó làm triệt tiêu động lực của sự phát triển kinh tế, thậm chí còn gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo mội trường lãng phí thất thoát tài sản quốc gia. Cản trở đổi mới khoa học kĩ thuật cho sản xuất, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế. Ba là: Kìm hãm sự phát triển kinh tế, đồng thời gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Việc phân phối các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất thông qua mệnh lệnh, chỉ tiêu kế hoạch mà không căn cứ vào yêu cầu của thị trường dẫn đến sử dụng lãng phí các nguồn lực của sản xuất, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Sự điều tiết kinh tế bằng mệnh lệch được thực hiện bởi bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả, làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng mất tính linh hoạt. Trước hậu quả của cơ chế kế hoạch, tập trung đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải nhanh chóng tiến hành đổi mới kinh tế đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng. Từ những phân tích trên, cho thấy việc chuyển nền kinh tế ra khỏi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung là tất yếu khách quan. Mục tiêu của dân tộc ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Để xây dựng được chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây dựng được cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Quá trình này là một quá trình lâu dài rất khó khăn và phức tạp. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước ta phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu của thời kì quá độ là xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để thực hiện mục tiêu này, trước đây do sai lầm, chủ quan, nóng vội, chậm đổi mới, chúng ta chủ trương phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch tập trung, xoá bỏ hết mọi quan hệ sản xuất phi XHCN khi chúng vẫn còn vai trò lịch sử là thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một quốc gia còn lạc hậu như nước ta. Chính những sai lầm đó đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế đất nước. Vấn đề đặt ra là phải xem xét đánh giá lại quá trình quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Tìm ra mô hình kinh tế thích hợp để đạt được những mục tiêu của thời kì quá độ. Chúng ta đã nhìn thấy KTTT với những tính năng ưu việt và những khuyết tật vốn có của nó có thể giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất như nó đã làm với các nước TBCN. Nhưng mục tiêu của chúng ta lại là CNXH. Do đó chúng ta cần phải có sự nhận thức đúng đắn về nó để vận dụng nó một cách hợp lý sao cho vẫn đạt được mục tiêu phảt triển kinh tế đồng thời cũng giữ vững được định hướng XHCN. 3) Lý luận chung về KTTT. 3. 1) Khái niệm về KTTT. KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó 3 vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì ? như thế nào ? và cho ai ? do thị trường quyết định. Trong nền kinh tế hàng hoá (KTHH) có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh… và lợi nhuận là động lực chủ yếu của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của giá cả thị trường dẫn đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. 3. 2) Các đặc trưng của KTTT. Một là:Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của KTTT. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền kinh tế hàng hoá. KTHH không bao dung hành vi bao cấp. Các vấn đề có liên quan đến việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu. Hai là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Giá cả là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hang hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là dưới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn doanh lợi thì càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với ích lợi giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được ích lợi của cả người mua lẫn người bán. Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thống giả cả, nền KTTT luôn duy trì được sự cân bằng giữa sức cung và sức cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít khi gây ra sự thiếu thốn và khan hiếm hàng hoá. Ba là: Thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua bán hàng hoá. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của KTTT so với kinh tế tự nhiên. Sự đa dạng và phong phú về chủng loại những hàng hoá trên thị trường, một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên tốc độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Những ưu thế của KTTT phản ánh sự phát triển của khoa học- kĩ thuật và công nghệ, tựu trung lại phản ánh trình độ cao của lực lượng sản xuất xã hội. Bốn là: Cạnh tranh là một yếu tố tất yếu của KTTT. Cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà sản xuất kinh doanh trên thị trường cạnh tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện muốn có nhiều lợi nhuận, các đơn vị phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụng nhiều kĩ thuật mới vào sản xuât để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm chi phí lao động cá biệt, nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền KTTT cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong lĩnh vực sản xuất, trong lĩnh vực lưu thông. Hình thức và các biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường. Nó có vai trò rất quan trọng trong nền KTTT. Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là động lực của sự phát triển mà còn là yếu tố quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Năm là: KTTT là một hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng và phức tạp,được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trong nền KTTT,việc mở rộng thị trường,mở rộng phạm vi cạnh tranh, mở rộng mạng lưới phân công lao động quốc tế và tăng cường sự hợp tác,cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- chính trị- xã hội ở mỗi quốc gia, mô hình KTTT mà quốc gia lựa chọn mà KTTT được điều tiết ở mỗi mức độ và cách thức khác nhau thông qua hệ thống luật pháp và hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Từ việc phân tích những đặc trưng tên của KTTT ta thấy KTTT có rất nhiều ưa điểm,là mô hình tốt nhất để phát triển kinh tế hiện nay. Tuy nhiên KTTT không phải là chìa khoá vạn năng của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó vẫn chứa đựng trong đó những khuyết tật nhất định. 3. 3) Ưu điểm và khuyết tật của KTTT. 3. 3. 1) KTTT có những ưu điểm sau đây. Trước hết,kích thích hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động,huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất. Hai là: Cơ chế thị trường kích thích đổi mới,đẩy mạnh sự phát triển của khoa học kỹ thuật,công nghệ,nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. KTTT lấy lợi nhuận siêu nghạch làm động lực hoạt động . Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học- công nghệ mới nhất. Do đó cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất,tăng trưởng kinh tế cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Ba là: Cơ chế thị trường phân phối các nguồn lực một cách tối ưu. Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bảncủa KTTT. Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền KTTT được kiểm soát bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng hiệu qủa nhất các yếu tố đầu vào của sản xuất và đầu ra. Bốn là:KTTT tạo điều kiện để thoả mãn nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của xã hội một cách tốt nhất. Trong nền KTTT, các nhà sản xuất kinh doanh căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường để xác định mặt hàng mà mình cần sản xuất. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu xã hội. Nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và của sản xuất về hành ngàn,hàng vạn sản phẩm khác nhau. Năm là: Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo tạo khả năng thích nghi cao cho nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là,trong nền KTTT tồn taị một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được nhiều lợi nhuận nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên. Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nướcvà có khả năng thích nghi cao hơn khi có những điều kiện kinh tế thay đổi. Bên cạnh những mặt tích cực trên KTTT chứa đựng rất nhiều hạn chế những mặt tiêu cực. 3. 3. 2)KTTTcó những khuyết tật như: Một nền kinh tế do thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kì. Khủng hoảng sản xuất thừa là ‘ căn bệnh cố hữu của các nền KTTT phát triển. ở đây do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán, cho nên dẫn tới tình trạng dư thừa hàng hoá’. Trong nền KTTT mục đích hoạt động của các chủ thể kinh tế là tối đa hoá lợi nhuận và chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị ô nhiễm, lạm dụng tài nguyên, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản thất nghiệp, phân hoá xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được đảm bảo, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp, trốn thuế, làm hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh không chịu làm những ngành nghề ít lợi nhuận, số vốn đầu tư lơn, thu hồi vốn chậm nhưng lại rất cần thiết cho sự phát triển của kinh tế -xã hội. KTTT làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo nhưng cũng ra cho con người tâm lý sùng bái đồng tiền, chạy theo lợi nhuận và quên đi những giá trị đạo đức, tình cảm tốt đẹp. Qua sự phân tích trên ta thấy nền KTTT có khả năng tập hợp tự động hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của xã hội: đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Phát triển KTTT có vai trò quan trọng đối với nước ta muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn XHCN thì không còn con đường nào khác là phải phát triển KTTT. Phát triển KTTT được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất. Tuy vấn đề đặt ra là phải có sự can thiệp của Chính phủ để hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Việc xây dựng mô hình KTTT có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên mỗi nước xây dựng cho mình một mô hình riêng phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế – chính trị -xã hội và mục tiêu của mỗi nước. Như nước Đức có mô hinh: KTTT hỗn hợp, ở Trung Quốc có mô hình mang màu sắc Trung Quốc…Sự can thiệp của Nhà nước vào nền KTTT ở mỗi mô hình đó ở những mức độ khác nhau và nhằm vào những mục tiêu không giống nhau. Mô hình kinh tế là trạng thái cấu trúc của nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện những đặc trưng, tính chất, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng, các hình thức kinh tế, giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của đất nước trong một thời kì nhất định. Mô hình kinh tế bị chi phối bởi các yếu tố: bản chất của chế độ xã hội, bản sắc và truyền thống dân tộc, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, lợi thế so sánh quốc gia, trình độ hợp tác quốc tế và xu thế phát triển kinh tế – xã hội của thời đại. Mục tiêu của toàn Đảng, toàn đân ta là xây dựng cnxh ở nước ta vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của đất nứơc ta là CNH- HĐH đất nước xây dựng cơ sở vật chất của CNXH. Chính những nhân tố trên quy định tính tất yếu phải lựa chọn và xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN ở VN. Tong đó KTTT chỉ là con đường là phương tiện để thực các mục tiêu củaCNXH,CNXH không chỉ phấn đấu đạt mức phát triển cao về kinh tế mà điều quan trọng là thực hiện công bằng xã hội,hơn nữa là bình đẳng xã hội. 3. 4) Các nội dung cơ bản của KTTTđịnh hướng XHCN ở VN. Mô hình KTTTđịnh hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng có những nội dung chính sau: Một là: Các hình thức và phương pháp quản lý nền KTTT được sử dụng như là một công cụ,phương tiện để đạt tới nền kinh tế tăng trưởng cao,bền vững ổn định,nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đồng thời với việc khai thác triệt để những mặt tích cực,những lợi thế KTTT,chúng ta khắc phục ngăn ngừa những hạn chế,nhứng mặt tiêu cực của KTTT mâu thuẫn với bản chất của CNXH saocho phát triển trong công bằng và bền vững. Vận dụng các quy luật của thị trường để kiên trì thực hiện công bằng xã hội để phát triển toàn diện con người. Hai là: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng,làm cho kinh tế nhà nước phát triển về chất để nắm vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành thao cơ chế thị trường định hướng XHCN ở VN. Đây là nhân tố quan trọng đảm bảo định hướng XHCN cho nền kinh tế. Ba là: Đối với việc phát triển lực lượng sản xuất,nền sản xuất xã hội được dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại,đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các nghành,các vùng trong cả nước,có cơ cấu kinh tế hợp lý để hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Bốn là: Thực hiện nhiều hình thức phân phối. Trong đó hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý,nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo một cách hợp lý,vừa khuyến khích lao động,vừa đảm bảo phúc lợi xã hội cơ bản. Năm là: mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế,bình đẳng hợp tác với tất cả các nước trên thế giới,trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,bình đẳng,cùng có lợi . Nền kinh tế dặt dưới sự lãnh đạ._.o của đảng và Nhà nước theo định hướng XHCN nhằm khắc phục tất cả những thất bại của thị trường. Nhà nước đó phải là một Nhà nước pháp quyền thực sự của dân do dân và vì dân. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có những đặc điểm riêng biệt bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - chính trị -xã hội của nước ta. Đi tìm hiểu những đặc trưng đó giúp chúng ta phát triển nền KTTT định hướng XHCN một cách hợp lý phù hợp với điều kiện của đất nước. Đảm bảo thực hiện các mục tiêu đặt ra. II) Những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VN. 1)Lực lượng sản xuất đã phát triển hơn trước đây nhưng vẫn còn ở trình độ kém phát triển. Trước khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN,nền kinh tế nước ta ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Quá trình chuyển đổi này đã đem lại bước phát triển mới cho lực lượng sản xuất của nước ta. Chúng ta dần thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu,chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn. Quy mô của nền KTQD đã tăng lên đáng kể. Cơ cấu kinh tế đã dần hợp lý hơn, cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng được nâng cao,khoa học công nghệ cũng có những bước tiến mới. Năng suất lao động được nâng cao,người lao động cũng dần xoá bỏ được tác phong nông nghiệp hình thành tác phong công nghiệp. Từ chỗ phải nhập khẩu gạo năm 1988,hiện nay nước ta đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Trong 10 năm qua chúng ta đã đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế trên 7% mỗi năm. Cơ cấu kinh tế có những bước chuyển dịch đáng chú ý,tỷ trọng công nghiệp và xây dựng năm 1990 là 22,6% tăng lên 36,6% năm 2000. Tuy vậy lực lượng sản xuất của nước ta còn đang trong tình trạng kém phát triển, cở sở vật chất, kỹ thuật,công nghệ còn ở trình độ thấp, lạc hậu. Trừ một số cơ sở được trang bị kỹ thuật hiện đại, trong nhiều nghành kinh tế máy móc cũ kỹ công nghệ lạc hậu. Hiện nay theo đánh giá của nhiều nhà chuyên môn máy móc thiết bị của VN lạc hậu so với thế giới từ 2- 3 thế hệ thậm chí từ 4-5 thế hệ, công nghệ hiện đại chỉ chiếm khoảng 10%-15%. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động. Nền kinh tế mới chỉ dừng lại ở mức độ khai thác tài nguyên và nguồn lao động dồi dào, những nghành công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn còn nhỏ bé. Kết cấu hạ tầng còn kém phát triển. Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc còn kém phát triển. Mật độ đường giao thông của chúng ta bằng 1% mức trung bình của thế giới, tốc độ truyền thông của ta chậm gấp 30 lần so với thế giới. Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ kém phát triển nên phân công lao động xã hội còn kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, nền kinh tế vẫn chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ Công ngiệp VN đã được đầu tư khá lớn nhưng hiệu quả còn thấp, nhiều xí nghiệp quốc doanh làm thua lỗ kéo dài nên phần đóng góp của nó trong GDP còn thấp nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế mới chỉ thích ứng với giai đoạn chuẩn bị đi vào công nghiệp hoá. Do cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp làm cho khối lượng sản phẩm luân chuyển trên thị trường nhỏ bé, chủng loại hàng hoá nghèo nàn lạc hậu, chất lượng thấp, giá cả cao, mức cạnh tranh còn yếu, có những mặt hàng bỏ mặc cho hàng nước ngoài chiếm lĩnh thị trường như đồ điện gia dụng, động cơ nổ loại nhỏ, tivi… Do năng suất lao động thấp cho nên mức tiêu dùng của xã hội chiếm phần lớn GDP, do vậy tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp. Năm 2000 cao nhất nước đạt 27% GDP. Lực lượng lao động của nước ta có trình độ tay nghề còn thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Đặc biệt đội ngũ cán bộ, các nhà quản lý giỏi còn quá ít. Trước tình trạng kém phát triển của lực lượng sản xuất trên đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp thích hợp để phát triển lực lượng sản xuất. Đây là một trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. 2) Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Trong nền KTTT ở nước ta tồn tại ba loại hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình thức sở hữu cơ bản trên hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Do yêu cầu của quy luật khách quan của phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tức là phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Thực tiễn của quá trình đổi mới ở nước ta đã khẳng định tính đúng đắn của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN (gọi tắt là KTTT định hướng XHCN). Các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đều có những vai trò và ý nghĩa nhất định đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Điều đó được thể hiện như sau: 2. 1. 1) Đối với sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước. Sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu chung của toàn xã hội. Đối tượng sở hữu là của chung của toàn xã hội và mọi người cùng chiếm hữu. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: đất đai, núi rừng, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi của vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế - văn hoá- xã hội, khoa học- kĩ thuật, ngoại giao, quốc phòng – an ninh. Nhà nước đại diện của chủ sở hữu, Chính phủ thống nhất quản lý và đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả, tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân nắm vai trò chủ đạo trong cơ cấu sở hữu ở nước ta. Nó là cơ sở cho sự hình thành kinh tế Nhà nước. 2. 1. 2) Đối với sở hữu tập thể. Là hình thức sở hữu của hợp tác xã do cá nhân, hộ gia đình góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ cùng quản lý và cùng hưởng lợi. Sở hữu tập thể là cơ sở cho sự hình thành kinh tế hợp tác. Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. 2. 1. 3) Đối với sở hữu tư nhân. Là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: - Sở hữu cá nhân. - Sở hữu tiểu chủ. - Sở hữu tư bản tư nhân. Sở hữu tư nhân là cơ sở cho sự hình thành kinh tế tư nhân như: kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một vài, một số tư nhân góp vốn lại, thuê lao động, sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế. Mặc dù còn một số ý kiến khác nhau nhưng thực tiễn cho thấy khó thay thế sở hữu tư nhân bằng một động lực khác có hiệu quả hơn hoặc bằng nó trong phát triển kinh tế. 2. 1. 4) Đối với sở hữu hỗn hợp. Sở hữu hỗn hợp là sở hữu đối với các tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận. Sở hữu hỗn hợp tồn tại dưới các hình thức: - Hỗn hợp liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với KTTB tư nhân trong và ngoài nước. - Các công ty cổ phần vốn Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, nhân dân góp vào. Trong hình thức sở hữu hỗn hợp mà nòng cốt là thành phần KTTB Nhà nước, còn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân tự cấp, tự túc, kinh tế cá thể tiểu chủ trong các khu vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuất hàng hoá chậm phát triển. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối quan hệ nội tại và tác động qua lại với nhau, nó là kết cấu của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hướng XHCN. Các hình thức sở hữu này có mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác lẫn nhau tạo nên cơ sở kinh tế của KTTT, trong sự vận động quá độ phát triển theo định hướng mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh” và “ xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở nước ta. Đa dạng hoá chế độ sở hữu là một nội dung trọng yếu của qúa trình chuyển đổi, nó quyết định mức độ hoạt động của KTTT ở nước ta. Trên cơ sở các hình thức sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Đại hội Đảng VIII đã xác định nước ta có 5 thành phần kinh tế:Kinh tế Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ. Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại hội Đảng IX quyết định bổ sung thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế đầu tư nước ngoài. Như vậy, hiện nay ở nước ta có các thành phần kinh tế như sau: Kinh tế Nhà nước, kinh tế TBTN, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có thể có các hình thức sản xuất kinh doanh đan xen, hỗn hợp vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Lý do bổ sung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Chúng ta hay xem xét từng thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 2. 2) Các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 2. 2. 1) Thành phần kinh tế nhà nước (KTNN). Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất việc tổ chức sản xuất kinh doanhđược tiến hành theo chế độ hoạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động. Kinh tế Nhà nước bao gồm các hình thức: - Các doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước và các doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối. - Các tổ chức kinh tế của Nhà nước: Hệ thống ngân sách, ngân hàng, bảo hiểm, lực lượng dự trữ quốc gia. - Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân: Đất đai, tài nguyên mà Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quyền sở hữu mang lại. Trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vì:mỗi chế độ xã hội đều dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định. Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN. Vì vậy KTNN phải giữ vai trò chủ đạo để tạo dần cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới. Bên cạnh đó KTNN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Vai trò chủ đạo của KTNN thể hiện ở những mặt sau: Kinh tế Nhà nước nắm giữ những ngành chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế quốc doanh như: Điện lực, bưu chính viễn thông, quốc phòng- anh ninh, giao thông vận tải… KTNN đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Nhờ đó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thành phần KTNN hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội Đảng thứ VIII đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của KTNN ở chỗ: “ Làm đòn bẩy tăng nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ điều tiết quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới…” KTNN và kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, KTNN vẫn chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt, sự chủ đạo của nó đối với nền kinh tế quốc dân khi tác động đến các thành phần kinh tế khác. KTNN vừa phải phát huy tính hơn hẳn của mình trong sự định hướng, điều tiết các thành phần kinh tế khác vừa khơi dậy tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Hiện nay, KTNN chưa thực sự làm đầu tầu để kéo các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, mặc dầu đã được xắp sếp và tổ chức lại nhưng hiệu quả kinh tế của khu vực này vẫn chưa tương xứng với vai trò và tiềm lực hiện có của nó. Các doanh nghiệp Nhà nước phần lớn là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu không đủ sức cạnh tranh, hiệu quả sản xuất không tương xứng với vốn đầu tư: 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ khoáng sản, 83% cây công nghiệp dài ngày, 90% lực lượng lao động được đào tạo, và có được những địa điểm kinh doanh thuận lợi nhất, trong khi đó mới chỉ đóng góp vào GDP 47% (1994), vẫn còn tồn tại những DNNN phải bị lỗ do làm ăn không có hiệu quả. Hiện tượng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước vẫn còn tồn tại. Vì lẽ đó,cần phải đổi mới KTNN làm cho nó thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhằm bảo đảm thực hiện định hướng XHCN. Để khu vực KTNN giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, trong hơn 10 năm đổi mới, Nhà nước đã thực hiện việc sắp xếp lại các DNNN để tăng cường sức mạnh nội lực cho nó. Hiện nay, DNNN vẫn tiếp tục sắp xếp lại theo định hướng khắc phục những yếu kém của những doanh nghiệp này và khơi dậy những yếu tố tích cực, sức mạnh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn tốt để phát huy ảnh hưởng của KTNN đối với nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc đổi mới các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, việc cải tạo và đổi mới KTNN phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm, bổ sung những tri thức “ cập nhập” nhằm thực hiện cho kì được vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN của thành phần kinh tế này. 2. 2. 2) Thành phần kinh tế hợp tác. Kinh tế hợp tác là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể. Nó bao gồm những đơn vị kinh tế do những người lao động góp vốn cùng sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, quản lý dân chủ và cùng có lợi. Kinh tế hợp tác được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác xã (HTX) đến HTX là hình thức chủ yếu của kinh tế hợp tác. Kinh tế hợp tác tồn tại trong: Nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… Hiện nay, một thực tế đặt ra là nếu không phát triển và củng cố HTX để nó cùng với KTNN tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là rất khó khăn. Phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ cuối những năm 50. Nó đã đóng góp rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những HTX với mô hình cũ khi chuyển qua KTTT đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đổi mới kinh tế HTX nông nghiệp theo định hướng XHCN, Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới theo tinh thần chỉ thị 100 của ban bí thư và nghị quyết 10 của bộ chính trị tiến hành từ khoán khâu đến khoán hộ. Thay đổi đó đã có tác dụng to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp, trong khi đó lại có tình trạng kinh tế tập thể dần yếu đi, thậm chí không còn tác động nữa. Đại hội đại biểu lần VIII đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX với hình thức liên kết tự nguyện của người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết những vấn đề của sản xuất kinh doanh. Như vậy kinh tế hợp tác xã phải phát triển với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, tuân thủ nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ. Cái mới hơn trước đây của mô hình kinh tế hợp tác xã nông nghiệp là: “ HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Như vậy vị trí và vai trò của kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng định hướng XHCN sự phát triển kinh tế nhất là kinh tế HTX Nông nghiệp. 2. 2. 3) Kinh tế tư bản tư nhân (KTTBTN). Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê. Thành phần kinh tế này tồn tại dưới các hình thức sau: - Doanh nghiệp tư nhân. - Công ty TNHH - Công ty cổ phần trong đó không có vốn của Nhà nước. . . KTTBTN là thành phần kinh tế đại diện cho trình độ phát triển cao về kinh tế với trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý tiến bộ hơn so với nhiều thành phần kinh tế khác. Trong thời kỳ quá độ KTTBTN vẫn là hình thức kinh tế có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm… Vì vậy cần khuyến khích KTTB tư nhân phát triển trong những ngành nghề mà luật pháp không cấm. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ huy động hết các tiềm năng và các nguồn lực của thành phần kinh tế này cho công cuộc xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Từ năm 1991 sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ra đời KTTBTN phát triển mạnh đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta tư nhân chưa sẵn sàng đầu tư vào sản xuất vì họ thiếu lòng tin và kiến thức kinh doanh. Cho nên,một mặt cần phải tạo điều kiện để họ tiếp cận với hoạt động kinh doanh,sẵn sàng đón nhận cái may và chấp nhận cái rủi trong kinh doanh. Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển KTTBTN, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, khuyến khích TBTN(tư bản tư nhân) đầu tư vào sản xuất,bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp,tạo điều kiện và niềm tin để các nhà tư bản đàu tư vào phát triển sản xuất. 2. 2. 4) Thành phần kinh tế tư bản nhà nước (KTTBNN). Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước và TBTN trong và ngoài nước,nhằm sử dụng phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia,đặt dưới sự kiểm soát và giúp đỡ của Nhà nước . KTTBNN có vai trò quan trọng trong việc huy động, sử dụng nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nhà tư bản. Lê _nin chỉ rõ:”trong một nước tiểu nông …phải xuyên qua CNTBNN,tiến lên CNXH. ” Tong thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta, phải sử dụng CNTBNN vì: Do yêu cầu của việc dùng quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Do yêu cầu của việc thu hút vốn, kỹ thuật -công nghệ nước ngoài để nhanh chóng páht triển lực lượng sản xuất. Do yêu cầu của việc phát triển nền kinh tế theo đúng định hướng XHCN. Như vậy, trong thời kỳ quá độ KTTBNN có vị trí quan trọng trong việc huy động về vốn,kỹ thuật công nghệ hiện đại,khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản vì lợi ích cả bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng CNXH. KTTBNN được coi là khâu trung gian để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta, nên sự phát triển của thành phần này có tầm quan trọng đặc biệt. Đảng ta cũng đã chỉ rõ ra là:phải áp dụng rộng rãi các hình thức KTTBNN để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN. Từ khi có luật đầu tư nước ngoài, KTTBNN phát triển mạnh, góp, phần không nhỏ vào phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hình thành và phát triển nảy sinh nhiều vấn đề thực tiễn cần phải giảp quyết như:vấn đề về hoàn thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ lợi ích người lao động. 2. 2. 5)Kinh tế cá thể tiểu chủ. Là thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân người sở hữu. Kinh tế cá thể tiểu chủ tồn tại trong nhiều ngành sản xuất cả ở thành thị và nông thôn. Hiện nay, thành phần kinh tế này tồn tại dưới hình thức kinh tế hộ gia đình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống, tạo ra nhiều của cải vật chất và góp phần giải quyết việc làm. Vì thế nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp vào phát triển kinh tế -xã hội, nó cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN. Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế chủ trương giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ về vốn, khoa học- công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm …Song kinh tế cá thể tiểu chủ cũng có những hạn chế vốn có của nó không phù hợp với kinh tế XHCN. Vì vậy cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn một cách hợp tác tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã… Như vậy nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau. Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập mà gắn bó đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối liên hệ kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế đều có vai trò và chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự điều tiết thông nhất của Nhà nước. Các thành phần kinh tế đều là yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ. Bên cạnh việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN còn thực hiện nhiều hình thức phân phối. 3) Đặc trưng về cơ chế phân phối trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN. Phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên với lợi ích của toàn xã hội. Tính chất của quan hệ phân phối do tính chất của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Bản thân phân phối là sản phẩm của nền sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức, bởi vì phương thức tham gia vào sản xuất của con người quyết định hình thức đặc thù của phân phối. Khi nói về cơ sở kinh tế của sự phân phối, ở đây bao hàm ý nghĩa nói đến việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả phân phối cho sản xuất- xem là yếu tố của sản xuất, và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá trình sản xuất, cho nên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Trước hết, xã hội cần phải trích ra một phần để: Để bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí. Mở rộng sản xuất. Lập quỹ dự phòng khi tai họa bất ngờ. Phần trích này là một tất yếu về kinh tế, vì nếu không khôi phục, mở rộng sản xuât thì không thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội để tiêu dùng. Nhưng trước khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân còn phải trích một phần để: Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ Tổ quốc. Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội. Sau đó, phần vật phẩm còn lại mới được trực tiếp phân phối tiêu dùng cá nhân của những người làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số lượng và tài sản mà họ đóng góp vào quá trình sản xuất. Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta có một số hình thức phân phối sau đây: Một là: Phân phối theo lao động. Hai là: Phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Ba là: Phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác. Trong đó phân phối theo lao động là hình thức chủ yếu, phân phối ngoài thù lao lao động và qua các quỹ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Hai cách phân phối này dựa vào nhau bổ sung cho nhau để góp phần giải quyết những yêu cầu chung của xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn, và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu hợp quy luật. 3. 1) Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện việc phân phối thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Đối với thành phần này việc phân phối theo lao động là tất yếu: Do dựa cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ của người lao động về mặt kinh tế được xác lập. Lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người. Vì vậy mà phân phối theo lao động phù hợp vơí quan hệ sản xuất của thành phần kinh tế này. Hiện tại ở nước ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động như: lao động trí óc, lao động chân tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn… Do đó mà cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác trong xã hội nước ta hiện nay vẫn còn có những người muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác. Nền kinh tế nước ta vẫn còn trong tình trạng lạc hậu. Trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp. Để thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động đòi việc trả công phải căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của mỗi người phải trả công bằng nhau cho lao động ngang nhau, trả công khác nhau cho lao động khác nhau với tất cả mọi người. Thực hiện tốt nguyên tắc theo lao động có tác dụng to lớn đối với xã hội và bản thân người lao động: Một là: Nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của từng cá nhân người lao động. Hai là:Nó khuyến khích người lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn,làm cho đội ngũ những người lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Ba là:Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sức lao động được ổn định trong cả nước, đảm bảo cho sản xuất xã hội phát triển cân đối có kế hoạch. Bốn là: Góp phần giáo dục về quan điểm,thái độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên trong xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích của bản thân mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình,từ đó ra sức đẩy mạnh sản xuất. 3. 2) Phân phối theo tài sản hay nguồn vốn và những đóng góp khác. Một đặc điểm khá rõ nét của nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ là:xây dựng CNXH từ một nến sản xuất nhỏ trong tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn. Một phần tương đối lớn vốn hiện nay vẫn còn nằm rải rác phân tán trong tay người lao động,tư hữu nhỏ,tư sản nhỏ. Để có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này cho sản xuất xã hội chúng ta không thể áp đặt các chính sách áp đặt như trưng thu, trưng mua hay đóng góp cổ phần một cách bình quân. Tất cả các cách làm đó đều làm suy yếu lực lượng sản xuất vốn có của xã hội. ở nước ta đã xuất hiện một số biện pháp huy động vốn như: một số đơn vị quốc doanh và tập thể huy động vốn dưới các vay vốn, hùn vốn góp cổ phần …cách làm như vậy đã có tác dụng đưa nguồn vốn nhàn rỗi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và tập thể nắm giữ nguồn vốn lớn hơn nhiều so với vốn tự có. Thích ứng với điều kiện cụ thể của nước ta trong thời kỳ quá độ,xét trên mặt lợi ích kinh tế,chính trị và nhiệm vụ phát triển đất nước,cần tạo đủ các điều kiện pháp lý để các thành phần kinh tế,tư nhân, cá thể,tất cả thành viên trong xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Với quan điểm đó,cần phải xem việc phân phối theo kết quả sản xuất kinh doanh,theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dưới hình thức lợi tức và lợi nhuận là một hình thức phân phối hợp pháp. 3. 3) Phân phối ngoài thù lao lao động và thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Phân phối theo thù lao lao động và phân phối theo tài sản,vốn đầu tư là tất yếu khách quan. trong thời kì quá độ, các hình thức phân phối đó thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập sự công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay,ngoài những người có sức khoẻ đang làm việcđược trả công theo lao động,những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất kinh doanh để thu được lợi tức và lợi nhuận thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia vào lao động để được trả công của xã hội. Đời sống của số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác,với những cán bộ công nhân viên chức Nhà nước thì mức sống của họ cũng dựa một phần vào các quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nước,của các doanh nghiệp. Với đặc điểm đó,ở nước ta hiện nay ngoài hai hình thức phan phối trên còn áp dụng hình thức phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Hình thức phân phối này là môt sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà mà thù lao lao động tính theo đầu người thấp hơn mức bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất,kích thích sự phát triển toán diện của mỗi thành viên trong xã hội. Trong điều kiện kinh tế_chính trị _ xã hội ở nước ta hiện nay việc áp dụng hình thức phân phối này được coi là mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội và côn người,khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân và tập thể. Đảm bảo sự thống nhất giữa các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội. Trong khi năng suất lao động còn thấp, nguồn thu của ngân sách còn hạn chế, cần phải xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề chính sách xã hội, phải huy động mọi khả năng của Nhà nước và nhân dân, trung ương và từng địa phương cùng làm. Như vậy, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được tiềm năng của cơ cấu kinh tế thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào việc phát triển kinh tế. 4. Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 4. 1 Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có quản lý của Nhà nước theo XHCN. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta cũng vận động theo những quy luật nội tại của nền kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sự quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Cơ chế kinh tế hiện nay ở Việt Nam đã khác hẳn với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây. T._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0297.doc