Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm qua nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng bình quân 7% một năm. Hoà cùng không khí hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng đổi mới hoạt động ngân hàng là khâu đột phá, góp phần phát triển kinh tế, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Những năm qua Ngân hàng đã hoạt động thật sự năng độ

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, tự chủ, sáng tạo và hiệu quả. Song song với quá trình đổi mới toàn diện về cơ chế và bộ máy ngân hàng là hoạt động TTKDTM tại Ngân hàng cũng có nhiều đổi mới tích cực và phát triển. Hoạt động TTKDTM thực sự là một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Với vai trò là trung gian thanh toán thì ngân hàng thật sự là cầu nối giữa các thành phần kinh tế. Nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và cá nhân trong thanh toán, đồng thời tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội. Hiện nay hoạt động TTKDTM tại các Ngân hàng thương mại là loại hình dịch vụ có nguồn thu, không chứa đựng rủi ro như các hình thức đầu tư và cho vay khác, tuy nhiên đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nguồn thu này rất thấp. Cần phải cải thiện hoạt động TTKDTM từ đó làm tăng nguồn thu cho mình là việc làm cần thiết đối với hệ thống NHTM nói chung và đối với chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội nói riêng. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động TTKDTM, trong mấy năm qua ngành Ngân hàng đã thật sự quan tâm đến nghiệp vụ thanh toán nên cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Các hình thức TTKDTM hiện nay rất phong phú và phức tạp và việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào thanh toán ở nước ta còn yếu kém. Bởi vậy mà hoạt động TTKDTM ở các NHNTM hiện nay còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. Từ thực tế trên và trước yêu cầu đổi mới của hệ thống ngân hàng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì việc hoàn thiện và phát triển hơn nữa các hình thức TTKDTM là một yêu cầu cấp thiết đối với các NHTM Việt Nam hiện nay. Từ luận điểm này tôi đã nghiên cứu đề tài: “ Giải pháp phát triển hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội”. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương chính: Chương I: Hoạt động TTKDTM tại các NHTM. Chương II: Thực trạng hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động TTKDTM tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Mặc dù đã hết sức nghiên cứu, sưu tầm tài liệu nhưng do thời gian có hạn, kiến thức còn hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo, cán bộ ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Diệp cùng các thầy cô khoa Ngân hàng – Tài Chính và cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề thực tập! Chương I: HOẠT ĐỘNG TTKDTM TẠI CÁC NHTM. 1.1. NHTM và hoạt động TTKDTM tại các NHTM. 1.1.1. Sự tồn tại khách quan của hoạt động TTKDTM. Sản xuất hàng hóa ra đời kéo theo sự xuất hiện của tìên tệ. Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, nó có thể biểu hiện được giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác và có thể thoả mãn được hầu hết các nhu cầu. Quá trình sản xuất càng phát triển thì hàng hoá tạo ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi ngày càng được mở rộng và phức tạp. Tiền tệ ra đời với chức năng là phương tiện thanh toán, phương tiện lưu thông đã góp phần tích cực cho sản xuất hàng hoá và lưu thông phát triển. Hình thái tiền thân của tiền tệ là hàng hoá được chọn làm vật ngang giá chung. Sau một thời gian thì tiền tệ được cố định là tiền vàng do có nhiều tính ưu việt hơn các loại hàng hoá khác. Trình độ sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, khối lượng hàng hoá tăng theo cấp số nhân, còn trữ lượng vàng thì khai thác không kịp làm cho giá trị danh nghĩa của tiền tê tách rời giá trị thực tế. Tiền giấy ra đời khắc phục hạn chế của tiền vàng do việc in ấn không hạn chế và có nhiều mệnh giá khác nhau, nó đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá phát triển nhịp nhàng hơn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Trong quá trình lưu thông luôn xuất hiện hai dòng luân chuyển: dòng luân chuyển hàng hoá và dòng luân chuyển tiền tệ được thực hiện bởi các chủ thể kinh tế. Bất kỳ một chủ thể nào muốn tiến hành sãn xuất kinh doanh đều phải có hai quá trình trao đổi: quá trình mua hàng hoá dịch vụ đầu vào để tiến hành sản xuất kinh doanh và quá trình bán sản phẩm đầu ra nhằm thu lợi nhuận. Và trong quá trình sản xuất kinh doanh đó thì thanh toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh đó. Thanh toán là điều kiện quan trọng đảm bảo sự tuần hoàn bình thường của lưu thông hàng hóa của quá trình chu chuyển vốn được liên tục trong từng đơn vị sản xuất nói riêng cũng như trong nền kinh tế nói chung. Khâu thanh toán bị ách tắc thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn, các mối quan hệ kinh tế bị phá vỡ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Thanh toán bằng tiền mặt có nghĩa là việc chi trả được thực hiện trực tiếp bằng tiền mặt trong các quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán, hay sự vận động của hàng hoá gắn liền với một khối lượng tiền tệ nhất định. Khi sản xuất hàng hoá chỉ ở trong một phạm vi hẹp, nền kinh tế ở trình độ thấp, khối lượng thanh toán nhỏ thì thanh toán bằng tiền mặt tỏ ra linh hoạt diễn ra ở mọi lúc mọi nơi tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người mua và người bán. Khi sản xuất hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trao đổi hàng hóa không còn bó hẹp trong phạm vi một vùng nữa mà nó đã mở rộng ra phạm vi toàn quốc và trên thế giới. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ với quy mô lớn, phạm vi rộng, việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ không an toàn làm tăng chi phí lưu thông (chi phí vận chuyển, in ấn, bảo quản, kiểm đếm,…). Việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ gây cản trở cho tốc độ chu chuyển vốn, đồng thời tạo ra những khe hở không thể kiểm soát như tham ô, trốn thuế trong kinh doanh. Với những hạn chế nói trên thanh toán bằng tiền mặt trở nên không còn phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại đòi hỏi phải có một hình thức thanh toán mới là hình thức TTKDTM qua ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phương tiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ hưởng. Để có được hình thức thanh toán này thì khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng. TTKDTM là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng, là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Nó là cần thiết khách quan không chỉ đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng mà còn cần thiết cho một nền kinh tế hiện đại. Để thực hiện TTKDTM thì không thể thiếu sự tham gia của hệ thống các NHTM. Sự xuất hiện của NHTM gắn liền với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hóa, tiền tệ. NHTM là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với ba nghiệp vụ chính là: nhận gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán, ngoài ba nghiệp vụ này còn có các dịch vụ khác tuỳ theo sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Hoạt động của NHTM là khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. NHTM không chỉ cung cấp vốn cho sản xuất mà còn thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế thông qua dịch vụ TTKDTM qua ngân hàng. Trong thực tiễn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mọi đơn vị kinh tế đều phải có một khối lượng tiền tệ nhất định để mua nguyên vật liệu, chi trả các khoản phí phát sinh trong quá trình sản xuất của mình. Các đơn vị kinh doanh thương mại có quá trình mua hàng hoá vào và bán hàng ra, tất yếu phải có hoạt động thanh toán tiền hàng. Nếu như mỗi đơn vị này phải vận chuyển tiền lượng tiền mang đi hay thu về bằng phương tiện giao thông vận tải thì chi phí lớn, không an toàn và mất thời gian. Chính vì vậy mỗi đơn vị cần một trung gian đáng tin cậy để đóng vai trò lưu trữ, bảo quản và thực hiện chi trả hộ. Trung gian đó chính là Ngân hàng. Việc thanh toán sẽ được diễn ra trong nội bộ hệ thống ngân hàng với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại khiến cho hoạt động thanh toán được nhanh chóng, tiết kiệm và an toàn. NHTM là đơn vị thực hiện hoạt động TTKDTM. Với vai trò là trung gian thanh toán trong nền kinh tế, Ngân hàng đưa ra các công cụ thanh toán hữu ích đa dạng nhằm đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các chủ thể trong nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện tốt hoạt động TTKDTM là thúc đẩy nhanh quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Với sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng, quan hệ thanh toán trở nên đơn giản hơn rất nhiều đối với các đơn vị kinh doanh, họ sẽ không tốn nhiều thời gian và chi phí cho sản xuất, không gian sản xuất được mở rộng. Các đơn vị kinh doanh ở xa vẫn có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng mà không phải tốn nhiều thời gian và chi phí cho hoạt động thanh toán của mình. Bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại với các mối quan hệ đa dạng của mình ngân hàng thực hiện thanh toán cho một doanh nghiệp một cách nhanh chóng và an toàn. Các hoạt động thanh toán như vận chuyển tiền, kiểm tra tiền để thanh toán nay không còn nữa mà thay vào đó các đơn vị kinh doanh chỉ cần mở một tài khoản tại ngân hàng và ký lệnh thanh toán khi cần thiết là mọi hoạt động thanh toán coi như đã hoàn tất. Hơn nữa khoản tiền gửi của các đơn vị kinh tế, cá nhân tại ngân hàng được an toàn và được hưởng lãi từ khoản tiền gửi đối với lãi suất tiền gửi thanh toán. Ngân hàng làm trung gian thanh toán đã làm giảm lượng tiền mặt lưu thông , tiền mặt không bị vận chuyển qua lại nhiều lần từ đó làm tăng tuổi thọ của tiền. làm giảm các chi phí in tiền vận chuyển và bảo quản tiền, các khoản tiền nhàn rỗi được sử dụng để phát triển kinh tế xã hội. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động TTKDTM Hoạt động TTKDTM đã xuất hiện từ rất lâu. Lịch sử xuất hiện thanh toán chuyển khoản đầu tiên ở nước Anh. Trước năm 1854 nước Anh phát hành tờ giấy bạc 1000 bảng Anh trị giá bằng 7,3224 kg vàng để tiện cho các nhà tư bản rút tiền mặt thanh toán với nhau, đến chiều thì lại nộp vào ngân hàng. Năm 1854, nước Anh phát minh ra phòng thanh toán bù trừ và mang kết quả thanh toán bù trừ về làm chuyển khoản giữa các nhà tư bản thì việc rút tiền mặt buổi sáng nộp lại buổi chiều chấm dứt. Kể từ đó các ngân hàng nước Anh chuyển từ các ngân hàng tiền mặt thành các ngân hàng chuyển khoản. Hoạt động TTKDTM được dựa trên cơ sở tiền gửi ở ngân hàng, việc thanh toán được tiến hành bằng phương pháp ghi chuyển từ tài khoản người này sang tài khoản người khác. TTKDTM có những đặc điểm sau: Sự vận động của hàng hoá và tiền tệ luôn có sự tách rời về thời gian, sự vận động của tiền tệ có thể trước hoặc sau sự vận động của hàng hoá. Để sự vận động này được diễn ra một cách hợp lý thì cơ chế thanh toán phải quy định thời gian lập và chuyển chứng từ giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng với các tổ chức kinh tế cho tương xứng với thời gian vận chuyển hàng hoá, cung cấp dịch vụ đến tay người mua. Hiện nay với sự phát triển của công nghệ máy tính, thời gian thanh toán rất nhanh chỉ sau vài phút có khi chỉ vài giây là việc thanh toán được hoàn tất, trong khi đó thời gian vận động của hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì vậy mà cần phải có nhiều hình thức thanh toán khác nhau để đáp ứng tốt các quan hệ mua bán hàng hóa và thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Khi thực hiện hoạt động thanh toán thì các chứng từ là do khách hàng lập đòi hỏi cơ chế thanh toán phải quy định những nguyên tắc thống nhất, nghiêm ngặt có tính chuẩn mực cao, hình thức thanh toán nào được áp dụng thì sẽ sử dụng bộ chứng từ đó, trong các chứng từ số liên cũng phải đủ, đúng chữ ký, lập theo mẫu quy định của Ngân hàng Nhà nước giúp cho việc thanh toán thuận lợi, chính xác, đồng thời hạn chế việc lập các chứng từ giả. Hệ thống ngân hàng hoạt động với mạng lưới rộng khắp, số lượng nghiệp vụ lớn, để kiểm soát theo dõi ngân hàng và khách hàng dễ dàng trong quá trình thanh toán phải có sự thống nhất về quy trình thanh toán, loại hình chứng từ, mẫu chứng từ,…giữa các ngân hàng. Khi khách hàng gửi chứng từ thanh toán đến, kế toán giao dịch sẽ nhận biết đó là loại chứng từ nào, của ngân hàng nào, việc thanh toán trở nên nhanh chóng hơn. Hoạt động thanh toán được kết thúc trên các tài khoản tại ngân hàng. Nhưng nhiều lý do khác nhau mà việc kết thúc này không được trọn vẹn, tức là sau khi ghi chép trên tài khoản còn có nhiều khách hàng từ chối thanh toán. Sự từ chối gây ra nhiều rắc rối, gây ảnh hưởng đến khả năng tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cá nhân trong xã hội. 1.1.3. Vai trò của hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế. Hiện nay TTKDTM có vai trò rất quan trọng đối với các thành phần kinh tế. Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ thương mại giữa các nước ngày càng mở rộng, phát triển cả về khối lượng và chủng loại hàng hoá. Chính vì vậy mà hoạt động TTKDTM là một hoạt động không thể tách rời với hoạt động kinh tế, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Vai trò của hoạt động TTKDTM thể hiện như sau: 1.1.3.1. Đối với Ngân hàng Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTKDTM có sự tách rời giữa sự vận động của hàng hoá và tiền tệ, trong thời gian đó ngân hàng vẫn có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi từ hoạt động thanh toán, nhất là hình thức thanh toán bằng séc bảo chi, thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán khách hàng phải ký quỹ tương ứng với giá trị của nó. Thanh toán qua ngân hàng tạo ra một lượng vốn rất lớn cho hoạt động sản xuất. Ngân hàng phải trả lãi cho tiền gửi thanh toán nhưng đây lại là nguồn vốn kém ổn định, có thể giảm bất cứ khi nào nên hiệu suất sử dụng nguồn vốn này thấp, chỉ có thể cho vay ngắn hạn khó có thể cho vay trung và dài hạn được. Vì thế mà lãi suất trả cho nguồn này thấp khoảng 0.15%/năm, trong khi ngân hàng có thể dùng nguồn này để cho vay, thanh toán để thu lãi và phí dịch vụ. Đối với các ngân hàng nước ngoài thu phí từ các dịch vụ chiếm khoảng 70% tổng thu nhập của ngân hàng. Với hình thức TTKDTM, khách hàng gửi tiền vào tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng có thể kiểm soát được một lượng tiền trong nền kinh tế, cũng như khả năng tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó ngân hàng cung ứng một lượng tiền thích hợp cho nền kinh tế, giúp ngân hàng hoạt động an toàn hơn, nâng cao hiệu quả tín dụng, đầu tư, tạo điều kiện cơ cấu lại thành phần kinh tế cho hợp lý. Hoạt động TTKDTM không chỉ tác động trực tiếp đến nghiệp vụ thanh toán mà còn tác động đến các nghiệp vụ khác như hoạt động cho vay, huy động vốn của ngân hàng. Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ nhau cùng phát triển. 1.1.3.2. Đối với khách hàng Các khách hàng tham gia thanh toán tại ngân hàng bao gồm các tổ chức, các thành phần kinh tế, và các cá nhân dân cư trong xã hội. Để tiến hàng thanh toán các khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng phục vụ mình và trên tài khoản này luôn có số dư để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Hoạt động TTKDTM giúp khách hàng bảo toàn khối lượng tiền của mình trong ngân hàng, nên tránh được rủi ro, tránh được sơ hở có thể bị lợi dụng. Khi có hoạt động thanh toán thì ngân hàng trích từ tài khoản này sang tài khoản khác nên tiết kiệm được chi phí bảo quản, vận chuyển. TTKDTM tạo điều kiện quay nhanh vòng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả. TTKDTM đảm bảo chính xác, rút ngắn thời gian thanh toán với chi phí thấp, giúp các khách hàng an tâm, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng hiệu quả sản xuất của xã hội. 1.1.3.3. Trên phương diện quản lý vĩ mô của Nhà nước Đố với nền kinh tế, việc tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí lưu thông, chi phí in ấn, phát hành, kiểm đếm, bảo quản,… đồng thời giúp Ngân hàng Trung Ương điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. NHTW làm trung tâm thanh toán của toàn bộ nền kinh tế, nhưng không chỉ thực hiện nghiệp vụ thanh toán một cách đơn thuần mà ngân hàng còn thực hiện kiểm soát quan hệ mua bán, quy trình sử dụng vốn, việc chấp hành chế độ, nguyên tắc quản lý kinh tế của từng ngân hàng. Có thể thấy thông qua hoạt động TTKDTM Chính phủ, NHTW thực hiện tốt hơn chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, điều tiết được lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Từ đó góp phần hạn chế lạm phát, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, định hướng phát triển nền kinh tế theo sự quản lý của Nhà nước. Tóm lại hoạt động TTKDTM có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, được thể hiện dưới mấy điểm sau: Một là TTKDTM tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội. Hai là TTKDTM đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh, đảm bảo sản xuất lưu thông liên tục. Ba là TTKDTM tạo điều kiện tập trung nguồn vốn trong nền kinh tế làm tăng nguồn vốn cho ngân hàng. Bốn là TTKDTM có vai trò cung cấp thông tin cho ngân hàng thực hiện kiểm soát bằng đồng tiền. Như vậy, hoạt động TTKDTM có vai trò trực tiếp cũng như gián tiếp ảnh hướng đến ba thành viên quan trọng của nền kinh tế đó là doanh nghiệp, Ngân hàng, Nhà nước. Thực hiện tốt hoạt động TTKDTM sẽ tạo điều kiện cho từng thành viên đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.2. Các hình thức TTKDTM phổ biến. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, ở mỗi thời kỳ và tuỳ theo thói quen của dân cư mà mỗi nước có thể sử dụng các hình thức thanh toán khác nhau cho phù hợp, Từ sau năm 1986 nước ta xoá bỏ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã nhiều lần thay đổi các văn bản quy định về các hình thức TTKDTM. Thời kỳ bắt đầu đổi mới hệ thống ngân hàng những năm 1990 – 1991, các hình thức TTKDTM được thực hiện bởi quyết định số 101/QĐ ngày 31/07/1991 bao gồm 4 hình thức thanh toán sau: Séc Uỷ nhiệm thu (UNT) Uỷ nhiệm chi (UNC) Thư tín dụng (L/C) Sau một quá trình thực hiện quyết định trên, NHNN nhân thấy 4 hình thức TTKDTM này chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 22/QĐ-NH ngày 21/12/1994 bổ xung thêm 2 công cụ thanh toán, theo quyết định này thì các cá nhân và đơn vị thanh toán qua ngân hàng được áp dụng các hình thức thanh toán dưới đây: Séc UNT UNC Thư tín dụng Phiếu thanh toán Thẻ thanh toán Riêng về séc thanh toán ngày 09/05/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/CP về quy định sử dụng séc, NHNN đã ban hành thông tư hướng dẫn quy chế phát hành và sử dụng cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng, thông tư hướng dẫn có hiệu lực từ ngày 04/04/1997. Trong các hình thức TTKDTM được quyết định ở số 22/QĐ-NH của Thống đốc NHNN, ngân phiếu được coi là một hình thức TTKDTM. Tuy nhiên theo quyết định số 425 ngày 17/12/1998 của Thống đốc NHNN thì ngân phiếu thanh toán được xếp vào tài khoản loại 1, loại hoạt động ngân quỹ. Mặt khác do đặc điểm của ngân phiếu thanh toán là do NHNN phát hành, có thời hạn thanh toán và mệnh giá in sẵn trên từng tờ, vô danh, được chuyển nhượng. Với đặc điểm này thì ngân phiếu thanh toán được sử dụng như tiền mặt có thời hạn. Hơn nữa đối với bất kỳ hình thức TTKDTM nào người sử dụng hình thức thanh toán đó phải có tài khoản tại ngân hàng. Có những trường hợp khách hàng đến ngân hàng xin lĩnh ra bằng ngân phiếu thanh toán thì nhân viên ngân hàng có thể trả lời: “Hiện nay chưa có ngân phiếu thanh toán, xin khách hàng vui lòng lĩnh tiền mặt”. Sự từ chối này tương tự với việc không có tiền mệnh giá lớn, đề nghị khách hàng vui lòng nhận tiền mệnh giá bé. Như vậy thì hình thức thanh toán bằng ngân phiếu không phải là một hình thức TTKDTM. Vì thế mà hiện nay các hình thức TTKDTM phổ biến bao gồm 5 hình thức: Séc, UNT, UNC, thư tín dụng, thẻ. 1.2.1. Thanh toán bằng Séc 1.2.1.1. Khái niệm và quy định chung về sử dụng séc. 1) Khái niệm. Séc là một lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân hàng, ra lệnh cho ngân hàng trích tiền trên tài khoản của mình để thanh toán cho người được hưởng. Theo quyết đinh số 101/QĐ-NH do Thống đốc NHNN ban hành ngày 30/7/1991, séc được coi là một trong 4 hình thức TTKDTM gồm 3 loại séc là: séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức. Đến ngày 21/12/1994 Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 22/QĐ-NH bổ xung thêm 2 hình thức thanh toán và thêm một loại séc là séc cá nhân. 2) Các quy định chung về sử dụng séc. Theo Nghị định 30/CP của Chính phủ ban hành về quy chế phát hành và sử dụng séc do thủ tướng chính phủ ký ngày 09/05/1996 quy định rõ Việt Nam được phép lưu hành loại séc vô danh và séc ký danh. Trong đó séc vô danh được chuyển nhượng tự do, còn séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng, trừ trường hợp người phát hành séc đã ghi cụm từ “không được phép chuyển nhượng”, hoặc trên tờ séc ghi “không tiếp tục chuyển nhượng”. Nghị định 30/CP ra đời đánh dấu một bước chuyển đổi có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo Nghị định này thì séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà như một công cụ lưu thông. Séc được sử dụng thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ…hoặc rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng đều có thể sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn có hiệu lực thanh toán séc được tính từ ngày ký phát hành séc đến ngày nộp séc vào ngân hàng. Theo quy định thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày. Nếu thời hạn kết thúc của séc vào ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn lùi vào ngày làm việc tiếp theo sau ngày nghỉ, ngày lễ đó. Trong trường hợp séc đã quá thời hạn thanh toán, người thụ hưởng phải yêu cầu người phát hành mới đổi tờ séc đã quá hạn, thời hạn để đổi séc quá hạn nói trên là 6 tháng kể từ ngày phát hành tờ séc đã quá hạn. Séc chỉ đủ điều kiện thanh toán khi nó đảm bảo các yếu tố sau: Tờ séc phải có đủ các yếu tố theo quy định, không được tẩy xoá, sửa chữa, số tiền bằng số và bằng chữ phải khớp nhau, ghi rõ ngày tháng năm lập séc và ký tên. Được nộp trong thời hạn hiệu lực thanh toán. Không có lệnh đình chỉ thanh toán. Chữ ký và dấu (nếu có) của người phát hành séc phải khớp đúng với mẫu đăng ký tại ngân hàng. Không ký phát hành séc vượt quá thẩm quyền quy định tại văn bản uỷ quyền. Các chữ ký chuyển nhượng (đối với séc ký danh) phải liên tục. Tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản đủ số dư để thanh toán. Séc được hạch toán theo nguyên tắc “Nợ trước, có sau”. Các tờ séc sau khi kiểm tra tính hợp lệ, có đủ tiền trên tài khoản tiền gửi thì ngân hàng phải ghi nợ vào tài khoản người phát hành trước, ghi có vào tài khoản người thụ hưởng sau. 3) Trách nhiệm của các bên tham gia sử dụng séc. Tham gia sử dụng séc gồm 3 bên: người phát hành séc, ngân hàng thanh toán séc, người thụ hưởng. Đối với người phát hàng séc: Phải có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng (nơi thanh toán hộ mình). Người phát hành không được ký khống trên tờ séc và chỉ được phát hành trong số dư tài khoản tiển gửi của mình hoặc số dư của sổ séc định mức đã lưu ký tại ngân hàng. Nếu phát hành séc quá số dư lần một thì nhắc nhở và phạt tiền, lần hai thì phạt tiền đình chỉ phát hành séc trong vòng 6 tháng, lần ba thì sẽ tước quyền phát hành séc. Mức phạt tiền như sau: Người phát hành séc phải phạt tiền bằng 30% số tiền phát hành quá số dư. Số tiền phạt chậm trả (kể từ ngày tờ séc quay về ngân hàng phục vụ người phát hành séc cho đến ngày có đủ tiền thanh toán) bằng số tiền quá số dư lãi suất nợ quá hạn loại cho vay cao nhất tại ngân hàng phục vụ người phát hành nhân với số ngày chậm trả. Tiền phạt chậm trả được chuyển cho người thụ hưởng, tiển phạt séc phát hành quá số dư ghi vào thu nghiệp vụ ngân hàng. Đối với ngân hàng thanh toán: Khi ngân hàng nhận được tờ séc, ngân hàng phải kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc và thanh toán kịp thời cho những tờ séc đủ điều kiện thanh toán. Khi chủ tài khoản đã có thông báo về tờ séc bị mất thì ngân hàng không được phép thanh toán, nếu ngân hàng thanh toán những tờ séc đã mất thì ngân hàng phải đền bù thiệt hại cho người mất séc. Đối với người thụ hưởng: Người thụ hưởng là người có tên trên séc để lĩnh tiền hoặc người được chuyển nhượng quyền sử dụng séc. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày phát séc người thụ hưởng sẽ mang tờ séc đến ngân hàng để thanh toán. Trong trường hợp người thụ hưởng bị từ chối thanh toán thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu đơn vị thanh toán xác nhận bằng văn bản, nếu người thụ hưởng làm mất séc phải báo ngay đến đơn vị thanh toán và người phát hành séc. Người thông báo phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của việc thông báo mất séc vì thông báo mất séc được coi là lệnh đình chỉ thanh toán. 1.2.1.2. Các hình thức thanh toán bằng séc. 1) Séc bảo chi Séc bảo chi là loại séc mà ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng tiền của người mua. Hay séc bảo chi do chủ tài khoản phát hành được ngân hàng đảm bảo chi trả, lập theo mẫu chuyển khoản hoặc séc cá nhân. Người phát hành séc phải lưu ký trước số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng để ngân hàng làm thủ tục bảo chi trước khi giao cho khách hàng. Các bên khi thực hiện các giao dịch mua bán sử dụng hình thức thanh toán bằng séc bảo chi thường không tín nhiệm nhau về khả năng chi trả hoặc người trả tiền đã có quyết định xử phạt của ngân hàng về việc phát hành séc thanh toán chuyển khoản quá số dư thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu người trả tiền sử dụng séc bảo chi để thanh toán. Thời hạn có hiệu lực tối đa của séc bảo chi là 15 ngày kể từ ngày bảo chi séc. Phạm vi áp dụng séc bảo chi: Hai khách hàng có tiền gửi thanh toán tại cùng một chi nhánh ngân hàng thương mại. Hai khách hàng có tài khoản tiền gửi tại hai chi nhánh NHTM cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Hai khách hàng có tài khoản tiền gửi tại 2 chi nhánh NHTM cùng hệ thống, khác địa bàn. Quy trình thanh toán. Tuỳ thuộc vào phạm vi thanh toán giữa các ngân hàng mà việc thanh toán sẽ được thực hiện theo những quy trình nhất định. Sơ đồ thanh toán séc bảo chi (3) Người ký phát séc (Người mua) Người thụ hưởng (Người bán) Ngân hàng phục vụ người mua Ngân hàng phục vụ người bán (1) (7) (2) (6) (4) (5) - Trường hợp thanh toán séc bảo chi giữa các khách hàng có tài khoản trong cùng một chi nhánh ngân hàng. Để có tờ séc bảo chi đi mua hàng, người mua (người ký phát) phải đến ngân hàng xin bảo chi séc. Người bán giao hàng hoá, dịch vụ cho người mua. Người mua giao tờ séc đã được bảo chi cho người bán. Người bán lập bảng kê nộp Séc (BKNS) kèm tờ séc bảo chi đến tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình (đồng thời là đơn vị thanh toán) xin thụ hưởng số tiền trên tờ Séc. Sau khi kiểm soát chứng từ và hạch toán, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ghi nợ cho người ký phát séc. Báo có cho người thụ hưởng. - Trường hợp thanh toán séc bảo chi tại các chi nhánh NHTM cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ. (1), (2), (3) tương tự như trên. (4) Người bán lập Bảng kê nộp Séc kèm tờ séc bảo chi đến tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình nhờ thu hộ số tiền trên tờ séc. (5) Sau khi kiểm soát, đơn vị thu hộ ứng vốn thanh toán ngay cho người thụ hưởng và gửi lệnh chuyển nợ tới đơn vị thanh toán cùng hệ thống. (6) Báo có cho người thụ hưởng. (7) Đơn vị thanh toán ghi Nợ và báo Nợ cho người ký phát séc. - Trường hợp thanh toán séc bảo chi giữa các khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh NHTM cùng hệ thống, khác địa bàn. Đơn vị mua làm thủ tục bảo chi séc. Ngân hàng đồng ý bảo chi séc, giao cho người mua tờ séc và giấy báo nợ. Người mua giao séc cho người bán. Người bán mang tờ séc và BKNS tới ngân hàng của mình. Ngân hàng phục vụ người bán lập giấy báo liên hàng, hạch toán và chuyển một liên giấy báo liên hàng + Séc sang ngân hàng phục vụ người mua. Ngân hàng phục vụ người mua lập một liên BKNS báo nợ cho đơn vị mua, sau khi ghi nợ vào tài khoản tiền gửi của đơn vị mua. Ngân hàng phục vụ người bán báo có cho đơn vị bán. 2) Séc định mức. Về bản chất thì séc định mức chính là séc bảo chi, giữa hai loại séc này có sự khác biệt sau: séc bảo chi là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho từng tờ séc, còn séc địng mức (séc trong sổ định mức) là loại séc được ngân hàng bảo đảm khả năng chi trả cho cả một quyển séc. Khi phát hành séc định mức sẽ có thuận lợi hơn cho người phát séc là tiết kiệm được thời gian và chi phí giao dịch séc, người phát séc có độ tín nhiệm cao hơn. Tuy nhiên séc định mức có nhiều tờ séc nên ngân hàng không thể kiểm soát chính xác về số dư trên cả quyển séc. Mặt khác sổ séc định mức chỉ được thanh toán cho cùng một người bán, với những hạn chế này thì hiện nay hầu hết các ngân hàng không phát hành séc định mức. Các quy định riêng của séc định mức khác với séc bảo chi: Mức tối thiểu để mở sổ séc định mức là 20 triệu đồng. Sổ séc định mức có thời hạn hiệu lực tối đa là 30 ngày kể từ ngày mở sổ séc định mức. Thời hạn hiệu lực của từng tờ séc trong sổ séc định mức phụ thuộc vào thời hạn chung của sổ séc định mức. Người thụ hưởng phải có trách nhiệm kiểm tra số dư của sổ séc định mức mỗi lần nhận séc, nếu đảm bảo đủ tiền thanh toán cho tờ séc thì mới thu nhận. Phạm vi thanh toán và quy trình thanh toán séc định mức tương tự như séc bảo chi. 3) Séc chuyển khoản Séc chuyển khoản là một chứng từ thanh toán do chủ tài khoản phát hành để trả cho người thụ hưởng. Người phát hành séc trực tiếp giao tờ séc cho người thụ hưởng. Người phát hành séc trực tiếp giao tờ séc cho người thụ hưởng. Séc chuyển khoản được sử dụng rộng rãi, có giá trị thanh toán như tiền, do đó trên tờ séc phải có đầy đủ những yếu tố theo quy định. Séc chuyển khoản được in theo mẫu đặc biệt của ngân hàng, người phát hành séc chỉ phải điền vào những chỗ quy định bằng loại mực không phai. Nguyên tắc hạch toán séc là ghi nợ trước, ghi có sau. Các chứng từ kèm theo tờ séc để hạch toán là bảng kê nộp séc. Thời hạn hiệu lực của séc chuyển khoản tối đa là 10 ngày kể từ ngày ký phát hành séc. Séc chuyển khoản chỉ được thanh toán trong phạm vi giữa các khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng hoặc có tài khoản tại các ngân hàng trong cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. + Quy trình thanh toán séc chuyển k._.hoản. Sơ đồ thanh toán Người ký phát séc (Người mua) Người thụ hưởng (Người bán) Ngân hàng phục vụ người mua Ngân hàng phục vụ người bán (2) (6) (4) (5) (3) (2’) Giao hh, dịch vụ (1) Trường hợp các khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh NHTM. Người mua giao séc cho người bán Người bán mang tờ séc cùng BKNS đến ngân hàng yêu cầu thanh toán (ngân hàng người bán, ngân hàng người mua cùng một chi nhánh). Ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc, số dư tài khoản của khách hàng trích chuyển sang tài khoản của đơn vị bán. Ngân hàng ký vào liên 3 BKNS trả lại người bán để làm biên lai nộp séc. Trường hợp các khách hàng có tài khoản ở các chi nhánh ngân hàng khách nhau trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Đơn vị mua ký phát séc cho đơn vị bán. Người bán nộp séc và bảng kê nộp séc vào ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng phục vụ người bán chuyển liên 1, liên 2, BKNS và tờ séc cho ngân hàng phục vụ người mua, ký vào liên 3 BKNS gửi cho người bán. Ngân hàng phục vụ người mua tiến hành kiểm tra tờ séc, số dư tài khoản sau đó ghi nợ và báo nợ cho người mua. Ngân hàng phục vụ người mua chuyển BKNS kèm bảng kê thanh toán bù trừ cho ngân hàng người bán thông qua thanh toán bù trừ. Ngân hàng người báo chuyển giấy báo có cho người thụ hưởng. (2’) Người bán có thể nộp trực tiếp séc vào ngân hàng phục vụ người mua. 4) Séc chuyển tiền. Séc chuyển tiền hay séc chuyển tiền cầm tay là một loại séc do ngân hàng phát hành theo yêu cầu của khách hàng. Bản chất của séc chuyển tiền là bộ UNC. Séc chuyển tiền được sử dụng chủ yếu để chuyển tiền đi địa phương khác, người thụ hưởng có thể có tài khoản tiển gửi tại ngân hàng nơi có tiền chuyển đến. Việc chuyển tiền mặt giữa các tỉnh, thành phố qua ngân hàng được thực hiện bằng phương thức chuyển tiền nhanh bằng điện đến địa chỉ người lĩnh tiền, hoặc cấp séc chuyển tiền cho khách hàng. Thời hạn hiệu lực tối đa của séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ séc. Séc chuyển tiền được áp dụng giữa các ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống do ngân hàng lập và trao cho khách hàng sau khi lưu ý vào tài khoản. Quy trình thanh toán séc chuyển tiền. Trường hợp các khách hàng có tài khoản tại các ngân hàng trong cùng hệ thống nhưng không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Khách hàng nộp tiền hoặc trích tài khoản tiền gửi yêu cầu sử dụng séc chuyển tiền, đồng thời người xin phát hành chỉ định người thụ hưởng. Ngân hàng đồng ý giao séc chuyển tiền cho khách hàng. Người phát séc giao séc cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng phục vụ mình yêu cầu thanh toán. Ngân hàng phục vụ người bán lập giấy báo liên hàng hạch toán, gửi một liên giấy báo liên hàng sang ngân hàng phục vụ người mua. Ngân hàng phục vụ người bán hạch toán cho người thụ hưởng. Trường hợp các khách hàng mở tài khoản ở các chi nhánh ngân hàng khác nhau, khác hệ thống và khác địa bàn thì việc chuyển tiền giữa hai ngân hàng được thực hiện thông qua NHNN. Trong trường hợp này NHNN đóng vai trò trung gian thanh toán giữa các NHTM. 5) Séc cá nhân. Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác. Séc cá nhân được thanh toán trong các phạm vi sau: Các khách hàng có tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng. Các khách hàng có tài khoản tại 2 chi nhánh ngân hàng khác nhau, các chi nhánh này có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Hiện nay theo quy định của ngân hàng, séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu đồng, người phát séc phải đến ngân hàng nơi mở tài khoản để làm thủ tục bảo chi séc. Thời hạn hiệu lực tối đa của séc cá nhân là 10 ngày kể từ ngày phát hành séc. Quy trình, thủ tục thanh toán séc cá nhân được tiến hành giống như séc chuyển khoản. 1.2.2. Thanh toán bằng UNC. UNC là một lệnh yêu cầu của chủ tài khoản uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình trích tiền trên tài khoản tiền gửi của mình để thanh toán cho người thụ hưởng. UNC được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền. Nó được áp dụng rộng rãi trong thanh toán, khi sử dụng hình thức thanh toán bằng UNC, người bán hoàn toàn tín nhiệm người mua về thanh toán tiền hàng. Người bán cho phép người mua nhận được hàng rồi sau đó mới thanh toán cho người bán, sự tin tưởng được thể hiện ở cả số tiền và thời hạn thanh toán. Theo quy định, trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng bên trả tiền phải hoàn tất lệnh chi đó, hoặc từ chối thực hiện. Nếu tài khoản của khách hàng không đủ tiền, hoặc lệnh chi không hợp lệ. Ngân hàng bên thụ hưởng khi nhận được chứng từ hợp lệ phải ghi có ngay vào tài khoản và báo có cho khách hàng biết. Phạm vi thanh toán của UNC. + Khách hàng có tài khoản tại cùng một chi nhánh NHTM. + Khách hàng có tài khoản ở 2 chi nhánh NHTM khác nhau, nhưng các chi nhánh này có tham gia thanh toán. + Khách hàng có tài khoản tại 2 chi nhánh thuộc cùng hệ thống. Các chi nhánh đó không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. + Khách hàng có tài khoản tại 2 chi nhánh NHTM khác hệ thống, các chi nhánh đó không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Quy trình thanh toán UNC. Sơ đồ thanh toán Đơn vị mua Đơn vị bán NH phục vụ người mua NH phục vụ người bán Thanh toán giữa các ngân hàng (1) (2) (3) (4) (5) Giao hh, dịch vụ Trường hợp khách hàng có tài khoản tại cùng một chi nhánh NHTM. Người bán giao hàng hoá cho người mua. Sau khi nhận hàng về, người mua lập bộ UNC. Ngân hàng hạch toán và gửi giấy báo nợ cho người mua. Ngân hàng gửi giấy báo có cho đơn vị bán. Trường hợp UNC được dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản tại các chi nhánh ngân hàng khác nhau cùng hoặc khác hệ thống ngân hàng. Người mua lập UNC nộp vào NH phục vụ mình. Ngân hàng phục vụ người mua gửi một liên báo nợ cho người mua sau khi hạch toán, ghi nợ cho đơn vị mua. (3), (4) Tuỳ theo 2 ngân hàng cùng hệ thống hay khác hệ thống mà ngân hàng phục vụ người mua áp dụng một trong hai trường hợp sau: + Lập chứng từ thanh toán bù trừ với ngân hàng phục vụ người bán có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố hoặc lập chứng từ thanh toán liên hàng với ngân hàng trong cùng hệ thống để ngân hàng này ghi có vào tài khoản người bán. + Lập chứng từ thanh toán qua tài khoản tại ngân hàng nhà nước. Ngân hàng phục vụ người bán ghi có cho tài khoản người bán và báo có. 1.2.3. Thanh toán bằng UNT. UNT là giấy tờ thanh toán do người bán lập để uỷ thác cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thu hộ một số tiền ở người mua tương ứng với giá trị hàng hoá, dịch vụ đã cung ứng. UNT được áp dụng trong giao dịch thanh toán giữa những người sử dụng dịch vụ thanh toán có mở tài khoản trong nội bộ tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trên cơ sở có thoả thuận hoặc hợp đồng về điều kiện thu hộ giữa bên trả tiền và bên thụ hưởng. UNT được sử dụng trong trường hợp 2 bên bán và mua tin tưởng nhau về quan hệ thanh toán. Sự tin tưởng này thể hiện người bán tín nhiệm người mua: Khi người bán lập UNT mong muốn rằng người mua sẽ trả tiền cho người bán; người mua tín nhiệm người bán ở chỗ người bán sẽ trao đủ số hàng và đúng thời gian giao hẹn. Mức độ tín nhiệm của khách hàng khi sử dụng UNT thấp hơn trường hợp sử dụng UNC. Khi nhận được giấy UNT, trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng phục vụ người mua trích tài khoản của người mua cho bên bán để hoàn tất việc thanh toán. Nếu tài khoản của người mua không đủ tiền để trả thì bên mua sẽ phải chịu phạt một khoản tiền chậm trả. Phạm vi áp dụng UNT. + Các khách hàng có tài khoản tại cùng một chi nhánh NHTM. + Các khách hàng có tài khoản ở 2 chi nhánh NHTM khác nhau có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. + Các khách hàng có tài khoản ở 2 chi nhánh NHTM khác nhau cùng hệ thống, các chi nhánh này không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. + Các khách hàng có tài khoản ở 2 chi nhánh NHTM khác nhau khác hệ thống và không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Quy trình thanh toán UNT Sơ đồ thanh toán Đơn vị mua Đơn vị bán NH phục vụ người mua NH phục vụ người bán (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) NHNN phục vụ người mua NHNN phục vụ người bán Thanh toán UNT giữa các khách hàng có tài khoản tại cùng một NHTM. Người bán giao hàng hoá cho người mua. Người bán lập UNT kèm theo hoá đơn bán hàng gửi vào ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng hạch toán gửi giấy báo nợ gồm một liên UNT và hoá đơn gửi cho bên mua. Ngân hàng gửi một liên UNT làm giấy báo có cho bên bán. Trường hợp tài khoản của người mua không đủ tiền để thanh toán thì lưu vào hồ sơ giấy UNT chưa thanh toán và báo cho bên mua biết để có biện pháp thanh toán. Khi tài khoản của bên mua đủ tiền thì ngày thanh toán trên UNT để thực hiện thanh toán và tính tiền trả chậm đối với bên mua. Thanh toán bằng UNT giữa các khách hàng có tài khoản ở 2 chi nhánh ngân hàng khác nhau có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Người bán giao hàng hoá cho người mua. Người bán lập một bộ UNT gồm 4 liên kèm theo hoá đơn bán hàng gửi cho ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng người bán giữ lại liên 4 của UNT và chuyển các liên còn lại sang cho ngân hàng phục vụ người mua. Ngân hàng người mua lập bảng kê thanh toán bù trừ gồm 3 liên, gửi 1 liên bảng kê + 1 liên UNT sang cho ngân hàng người bán. Ngân hàng người mua sau khi hạch toán gửi 1 liên UNT báo nợ cho người mua. Ngân hàng người bán gửi 1 liên UNT báo có cho đơn vị bán. Trường hợp khách hàng có tài khoản tại 2 chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống NHTM nhưng không tham gia thanh toán bù trừ thì quy trình hạch toán tương tự như trên, chỉ khác NHTM phục vụ người mua lập giấy báo liên hàng và chuyển một giấy báo liên hàng kèm theo 1 liên UNT sang ngân hàng phục vụ người bán. Trường hợp thanh toán bằng UNT giữa các khách hàng có tài khoản tại 2 chi nhánh NHTM khác hệ thống, các ngân hàng này không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. (1), (2),(3) như trên sơ đồ. (4) Ngân hàng người mua lập bảng kê chứng từ thanh toán với NHNN, gửi 1 liên bảng kê chứng từ thanh toán cùng với một liên UNT sang NHNN. (5) NHNN người mua chuyển một giấy báo liên hàng + 1 liên UNT sang NHNN phục vụ người bán. (6) NHNN người bán lập bảng kê chứng từ thanh toán với NHTM kèm theo 1 liên UNT sang NH người bán. (7) Ngân hàng người mua báo nợ cho đơn vị mua bằng 1 liên UNT. (8) Ngân hàng người bán hạch toán và báo có bằng 1 liên UNT cho người bán. 1.2.4. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C). Thư tín dụng là một văn bản cam kết pháp lý của ngân hàng mở L/C với người bán về việc thanh toán tiền hàng. L/C dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán hàng đòi hỏi phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký. L/C được dùng trong thanh toán xuất nhập khẩu, khi người mua và người bán không biết rõ về nhau, khoảng cách không gian lớn nên sự tin tưởng giữa người mua và người bán là rất thấp. Mặt khác trong thanh toán xuất nhập khẩu giá trị hàng hoá lớn, phức tạp, gặp nhiều rủi ro, do đó phải có ngân hàng đứng ra đảm bảo thanh toán, người mở L/C không nhất thiết phải có tài khoản tại ngân hàng L/C. Những ngân hàng mở L/C thường là những ngân hàng lớn, có uy tín nên khách hàng có thể chọn được ngân hàng tốt để việc thanh toán diễn ra thuận lợi. Khi có nhu cầu người mua lập giấy mở thư tín dụng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi ( hoặc nộp tiền vào ngân hàng) một số tiền bằng tổng giá trị hàng đặt mua để lưu ký vào tài khoản đảm bảo thanh toán bằng L/C. Ngân hàng bên trả tiền gửi ngay L/C cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng, thời hạn hiệu lực thanh toán của một L/C là 3 tháng kể từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở L/C. Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được giấy báo mở L/C. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn hoặc chứng từ giao nhận hàng có chữ ký của người trả tiền kèm theo giấy uỷ nhiệm của người trả tiền do người thụ hưởng xuất trình phù hợp với các điều khoản quy định thống nhất giữa hai bên mua, bán được ghi trên L/C. Sau khi trả tiền cho người thụ hưởng, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ ngay cho ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán L/C. L/C được áp dụng trong các phạm vi sau: Các khách hàng mở tài khoản tại 2 chi nhánh NHTM khác nhau trong cùng một hệ thống nhưng không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Các khách hàng mở tài khoản tại 2 chi nhánh NHTM khác nhau, khác hệ thống và không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp. Quy trình thanh toán L/C. Sơ đồ thanh toán Đơn vị mua (1) (2) (3) (4) Đơn vị bán (6) NH phục vụ bên mua NH phục vụ bên bán (5) (7) (8) Đơn xin mở L/C gồm 5 liên do người mua lập vào ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng bên mua hạch toán, gửi một liên L/C báo nợ cho đơn vị mua. Ngân hàng bên mua gửi liên 3 L/C đến ngân hàng bên bán. Ngân hàng bên bán sẽ gửi một liên L/C thông báo cho người bán về L/C đã được mở để người bán giao hàng. Người bán giao hàng cho người mua. Sau khi giao hàng xong, người bán lập 4 liên bảng kê các chứng từ thanh toán L/C nộp vào NH bên bán. NH bên bán lập lện thanh toán, gửi giấy báo nợ liên hàng cho NH bên mua. NH bên bán gửi giấy báo có cho đơn vị bán. Trường hợp các khách hàng có tài khoản ở 2 NH khác nhau, khác hệ thống, không thanh toán bù trừ trực tiếp được thực hiện thông qua tài khoản tiền gửi của các NHTM ở NHNN tương ứng với hệ thống ngân hàng tham gia thanh toán. 1.2.5. Thanh toán bằng thẻ. Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại do ngân hàng phát hành cung cấp cho người sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ và để lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền tự động. Khi sử dụng thẻ thanh toán sẽ đem lại những ưu điểm sau: Kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông, đem lại sự an toàn cho chủ thẻ, giảm được chi phí in, bảo quản, huỷ tiền, vận chuyển. Đối với ngân hàng cũng huy động được nguồn vốn từ các tổ chức, cá nhân sử dụng thẻ. Nội dung trong mỗi thẻ như sau: Mặt trước bao gồm các thông tin nổi: Biểu tượng của ngân hàng phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, họ tên của chủ thẻ, số mật mã đợt phát hành (số này không bắt buộc). Mặt sau của thẻ gồm: Dãy băng từ chứa các thông tin: số thẻ, ngày có hiệu lực của thẻ, tên chủ thẻ, tên ngân hàng phát hành, mã số bí mật cá nhân (số PIN), số tiền. Phân loại thẻ Thẻ thanh toán không phải ký quỹ Người sử dụng thẻ loại này không phải lưu ký tiền vào tài khoản để đảm bảo thanh toán. Căn cứ để thanh toán là số dư trên tài khoản tiền gửi của người chủ sở hữu thẻ mở tại ngân hàng với hạn mức tối đa của thẻ do ngân hàng quy định. Ở Việt Nam quy định thẻ thanh toán không phải ký quỹ là loại thẻ A, nó được áp dụng đối với khách hàng có mối quan hệ thường xuyên, tín nhiệm với ngân hàng và có khả năng thanh toán tốt. Các khách hàng sử dụng thẻ loại A thường do giám đốc ngân hàng quyết định. - Thẻ thanh toán phải ký quỹ trước tại ngân hàng Người sử dụng thẻ loại này phải lưu ký trước một số tiền nhất định vào tài khoản để đảm bảo thanh toán (số tiền lưu ký vào tài khoản có thể là tiền mặt, tiền vay ngân hàng, hoặc trích từ tài khoản khác chuyển sang). Giá trị của thẻ trong số tiền mà họ ký quỹ. Loại thẻ này được quy định là thẻ loại B, nó được áp dụng đối với mọi khách hàng. - Thẻ tín dụng Thẻ tín dụng là loại thẻ không phải ký quỹ, được áp dụng đối với khách hàng có đủ điều kiện được ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được vay tiền trong hạn mức tín dụng được ngân hàng chấp nhận bằng văn bản. Người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để rút tiền tại các quầy trả tiền tự động hay tại các ngân hàng đại lý thanh toán, mỗi lần rút không quá 5 triệu đồng và mỗi ngày một thẻ chỉ được rút tiền mặt một lần. Ngân hàng phát hành thẻ là ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền cho chủ thẻ, cho người thụ hưởng. Ngân hàng đại lý thanh toán là các chi nhánh ngân hàng do ngân hàng phát hành quy định. Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán. Quy trình phát hành và thanh toán thẻ. (4) Sơ đồ thanh toán Chủ sở hữu thẻ (bên mua) Bên thụ hưởng (bên bán) NH bên phát hành thẻ Ngân hàng đại lý thanh toán (1) (2) (8) (3) (5) (6) (7) Khách hàng nộp chứng từ xin phát hành thẻ gồm 3 liên tới ngân hàng bên phát hành thẻ. Ngân hàng phát hành thẻ ra thẻ cho chủ sở hữu. Chủ thẻ trao thẻ cho người bán khi mua hàng. Bên bán giao hàng cho bên mua. Bên bán gửi biên lai thanh toán cho ngân hàng đại lý. Ngân hàng đại lý thanh toán cho đơn vị bán. Ngân hàng đại lý thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ. Ngân hàng phát hành thanh toán tài khoản tiền gửi thẻ thanh toán của bên mua. 1.3. Phát triển hoạt động TTKDTM tại các NHTM. 1.3.1. Khái niệm về phát triển TTKDTM Phát triển hoạt động TTKDTM không chỉ được hiểu là sự tăng lên về doanh số thanh toán, về khối lượng khách hàng, về các phương thức, hình thức thanh toán được sử dụng mà còn là sự thay đổi trong quy trình, công nghệ thanh toán sao cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại phát triển của ngân hàng. Như vậy thì hoạt động TTKDTM là một tập hợp các chỉ tiêu, phản ánh sự thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện được sự cạnh tranh của NHTM trong quá trình hội nhập. Phát triển hoạt động TTKDTM được thể hiện qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, an toàn, nhanh chóng, phí suất thấp… Phát triển hoạt động TTKDTM là một quá trình nỗ lực, là sự phối kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động TTKDTM. Sự phát triển của hoạt động TTKDTM được đánh giá qua một số chỉ tiêu định lượng và định tính như sau: Các chỉ tiêu định lượng: Chỉ tiêu về doanh số Chỉ tiêu về phí Các chỉ tiêu định tính: Đánh giá qua số lượng các hình thức và phương thức thanh toán được sử dụng Đánh giá qua sự hài lòng của khách hàng 1.3.2.1. Chỉ tiêu về doanh số Doanh số TTKDTM được đề cập đánh giá sự phát triển hoạt động TTKDTM là số tuyệt đối, phản ánh tổng giá trị thanh toán trong một kỳ (thường là 1 năm). Khi xem xét chỉ tiêu này chúng ta không xem xét trong từng thời kỳ riêng rẽ mà xem xét trong một quá trình, xem xét so sánh với các ngân hàng khác, trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất thực tế sự phát triển của hoạt động TTKDTM. Nếu doanh số TTKDTM thấp cho thấy hoạt động của TTKDTM của ngân hàng không phát triển và chỉ ra rằng ngân hàng ít có khả năng phát triển hoạt động TTKDTM và ngược lại. Số món thanh toán: đây cũng là một chỉ tiêu để phản ánh sự phát triển của hoạt động TTKDTM, nó phần nào phản ánh được số lượng khách hàng TTKDTM của ngân hàng. Số món thanh toán nhiều thì tốt nhưng nếu nhiều mà giá trị thanh toán trên một món nhỏ thì cũng không phản ánh được sự phát triển. Tỷ trọng TTKDTM = Chỉ tiêu này là chỉ tiêu quan trọng nhất khi xem xét sự phát triển hoạt động TTKHTM của ngân hàng. Chỉ tiêu phản ánh được khách hàng của ngân hàng thực hiện TTKDTM ở mức độ nào. Khi tỷ trọng này thấp chứng tỏ khách hàng của ngân hàng ít sử dụng TTKDTM của ngân hàng. Do đó ngân hàng cần có những biện pháp để nâng cao tỷ trọng này, khi tỷ trọng này cao thì tổng số phí thu được sẽ lớn, lượng khách hàng tham gia lớn ngân hàng lại có điều kiện đầu tư công nghệ, trang thiết bị hiện đại để phát triển hoạt động TTKDTM lên một mức cao hơn nữa. Mục tiêu của các NHTM là làm sao cho tỷ trọng này càng cao thì càng tốt, ở các nước phát triển thì tỷ trọng này khoảng 95%, còn ở các NHTM Việt Nam hiện nay tỷ lệ này từ 55% đến 75%. Chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng nhiều của chính sách ngân hàng, nếu các ngân hàng đầu tư phát triển dịch vụ trở thành ngân hàng đa năng hiện đại thì tỷ trọng này cao, ngược lại ngân hàng chỉ hoạt động như ngân hàng truyền thống thì tỷ trọng này thấp. 1.3.2.2. Chỉ tiêu về phí Ngân hàng hoạt động với mục tiêu quan trọng là tối đa hoá lợi nhuận nhưng đối với hoạt động dịch vụ thì đó là tối đa hóa tổng số phí thu được. Tổng số phí thu được cũng phản ánh sự phát triển của hoạt động TTKDTM, số món thanh toán lớn cao thì số phí thu được sẽ nhiều. Đó là về phía ngân hàng còn đối với khách hàng sẽ sử dụng chỉ tiêu phí suất: là số tiền mà khách hàng phải trả trên mỗi món thanh toán. Để thu hút khách hàng thì phí suất thanh toán phải thấp. Khi mà điều kiện thanh toán của các ngân hàng là như nhau thì mức phí ở ngân hàng nào thấp thì sẽ thu hút được khách hàng đến thanh toán. 1.3.2.3. Đánh giá qua quá trình thanh toán. Tính an toàn và chính xác: Đó là hai yêu cầu đối với hoạt động TTKDTM. Do đặc thù của nghiệp vụ này là hoạt động trong môi trường có độ rủi ro cao, đối tượng chính của nó là tiền tệ, một hàng hoá được coi như là sự nhạy cảm lớn đối với sự biến động của môi trường. Rủi ro xuất phát từ nhiều nguyên nhân: có thể là do cán bộ ngân hàng, do sự không hiểu biết tình hình tài chính của khách hàng…Khách hàng đến với ngân hàng là mong muốn giảm đi những rủi ro của thanh toán dùng tiền mặt, tăng độ an toàn trong thanh toán. Giảm thiểu rủi ro trong thanh toán: Các rủi ro trong hoạt động thanh toán có thể xảy ra như rủi ro về mặt pháp lý, rủi ro hoạt động, rủi ro an toàn và rủi ro thanh khoản, các rủi ro khác về kinh tế xảy ra khi người thanh toán không có khả năng trả nợ do hoạt động kinh doanh kém hiệu quả hoặc bị phá sản trước khi kết thúc quá trình thanh toán. Để đảm bảo cho sự ổn đinh và phát triển của hoạt động thanh toán, đảm bảo cho các ngân hàng mà quan trọng nhất đảm bảo cho người tham gia thanh toán, việc giảm rủi ro liên quan đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng là điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Đảm bảo nhanh chóng và kịp thời: Thời gian thực hiện một món thanh toán và chuyển tiền là khoảng thời gian kể từ khi chỉ định thanh toán được khách hàng trả tiền đưa ra cho đến khi khách hàng được nhận đủ tiền trên tài khoản. Thời gian thanh toán được các chủ thể tham gia thanh toán đặc biệt quan tâm vì nó tác động trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khả năng quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp, tổ chức, dân cư. 1.3.2.4. Đánh giá qua sự hài lòng của khách hàng. Khách hàng là đối tượng chủ yếu tạo doanh thu cho mọi hoạt động củ ngân hàng. Khó có thể đánh giá được chính xác mức độ hài lòng của khách hàng vì mức độ hài lòng ở mỗi khách hàng là khác nhau. Tuy nhiên, trong khả năng có thể mỗi ngân hàng phải nỗ lực hết sức để thoả mãn nhu cầu ngầy càng cao của tất cả các khách hàng. Nếu mức thoả mãn của khách hàng cao, khách hàng sẽ tín nhiệm ngân hàng và tiếp tụ hợp tác với ngân hàng. Khi đó uy tín của ngân hàng sẽ tăng và ngân hàng sẽ thu hút thêm được khách hàng mới. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TTKDTM tại các NHTM. 1.4.1. Môi trường kinh tế. Sự phát triển của nền sản xuất lưu thông hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời và phát triển hoạt động TTKDTM. Khi nến kinh tế càng phát triển thì các giao dịch hàng hoá càng tăng, việc thanh toán bằng tiền mặt không thể đáp ứng nhu cầu thanh toán mà đòi hỏi phải có nhiều hình thức thanh toán khác nhau. Ngược lại nền kinh tế lạc hậu, sản xuất lưu thông trì trệ thì các hình thức TTKDTM có đa dạng phong phú đến đâu cũng khó phát triển. Đối với ngân hàng thì nghiệp vụ TTKDTM đem lại thu nhập cho ngân hàng thông qua việc ngân hàng thu phí từ các khách hàng sử dụng hình thức thanh toán tại ngân hàng. Chính vì vậy khi tiến hành thanh toán nếu không thực sự đem lại lợi ích cho ngân hàng thì hình thức thanh toán đó cũng không được phát triển. Hiện nay có những hình thức thanh toán hiện đại nhưng do chi phí vận hành lớn nên ngân hàng phải cân nhắc trước khi đưa vào sử dụng. Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại, phát triển các doanh nghiệp đều cố gắng giảm thiểu chi phí. Các hình thức TTKDTM đa dạng có thể giúp các doanh nghiệp có thể lựa chọn được hình thức chi trả tiền hàng hóa dịch vụ ít tốn kém nhất. Tuy nhiên lựa chọn hình thức nào còn tuỳ thuộc vào mức phí phải trả khi sử dụng. Ở những nước có nền kinh tế chậm phát triển, thu nhập của dân cư thấp thì một số hình thức TTKDTM như thẻ thanh toán là rất ít. 1.4.2. Môi trường pháp lý Ngân hàng là một tổ chức kinh tế hoạt động trong môi trường pháp luật khắt khe và bị quản lý chặt chẽ do vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế và đặc điểm kinh doanh của ngân hàng. TTKDTM vốn là dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Ngân hàng thực hiện thanh toán hộ khách hàng nên ngân hàng phải đảm bảo an toàn, chính xác, kịp thời. Do đó công tác TTKDTM phải tuân theo các chế độ, quy định, thể lệ đặt ra trong thanh toán. Mỗi hình thức TTKDTM đều ban hành các chế độ thông tư hướng dẫn nếu không sát thực sẽ gây nhiều trở ngại cho ngân hàng và khách hàng khi thanh toán. Hoạt động TTKDTM thuận lợi, nhanh chóng, chính xác, lệ phí phải chăng nhưng thủ tục rườm rà, phức tạp, thòi gian thanh toán lâu, cán bộ gây khó khăn thì khách hàng cũng không lựa chọn. 1.4.3. Khoa học, công nghệ Nước ta trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu nên nó chưa thực sự thúc đẩy công tác TTKDTM phát triển. Gần đây vói việc đưa vào sử dụng rộng rãi mạng máy tính và thanh toán thẻ đã tạo ra bộ mặt mới cho hoạt động TTKDTM. Ở nước ta chưa thật sự xuất hiện tiền điện tử đến điểm bán mà chỉ luân chuyển thanh toán trong hệ thống ngân hàng. Khoa học công nghệ là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của công tác TTKDTM. Với một nền kinh tế mở giao dịch thanh toán trong và ngoài nước ngày càng tăng với khối lượng hàng hoá lớn, đòi hỏi toàn hệ thống ngân hàng trong giai đoạn hiện nay là tiếp tục hoàn thiện công nghệ ngân hàng nói chung và công nghệ thanh toán qua ngân hàng nói riêng tiến tới một hệ thống thanh toán điện tử hiện đại. 1.4.4. Trình độ dân trí Khi trình độ dân trí của một nước lạc hậu thấp kém, người dân sẽ khó nắm bắt được các lợi ích của TTKDTM, họ chỉ thanh toán bằng tiền mặt là chủ yếu. Với các hình thức thanh toán hiện đại, phức tạp với trình độ thấp không có người hướng dẫn tận tình thì khách hàng sợ sai sót, nhầm lẫn rồi mất tiền. Ở nước ta, nền kinh tế còn nghèo nàn, đời sống khó khăn nên công tác TTKDTM đa số chỉ áp dụng giữa các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp mà chưa phổ biến trong dân cư. Về phía ngân hàng, đội ngũ cán bộ, nhân viên trực tiếp thực hiện nghiệp vụ TTKDTM có trình độ năng lực chuyên môn sâu, phẩm chất đạo đức tốt, nhanh nhẹ sẽ tạo cảm tình với khách hàng, từ đó khách hàng sẽ giao dịch nhiều hơn. Ngược lại đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ không tốt sẽ gây khó khăn cho khách hàng khi đó khách hàng không muốn giao dịch tại ngân hàng. 1.4.5. Yếu tố tâm lý Tâm lý của người dân từ trước đến nay vẫn quen thanh toán bằng tiền mặt làm hạn chế đáng kể đến hoạt động TTKDTM. Qua những năm dài bao cấp, kinh tế trì trệ, lạm phát cao đồng tiền mất giá nhanh nên người dân có tâm lý giữ tiền mặt, hoặc có gửi ngân hàng thì gửi ngắn hạn gây khó khăn cho việc tận dụng tiền gửi thanh toán để đầu tư dài hạn. Vì vậy mà ngân hàng luôn phải nâng cao chất lượng cán bộ về mọi mặt, thực hiện tuyên truyền quảng cáo các tiện ích của TTKDTM cho người dân, có như vậy mới xoá dần tâm lý ưa chuộng tiền mặt và thúc đẩy hoạt động TTKDTM. 1.5. Những quy định trong hoạt động TTKDTM ở nước ta hiện nay. 1.5.1. Những quy định chung. Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Việc thực hiện thanh toán tại ngân hàng, Kho bạc Nhà nước được thực hiện thanh toán qua tài khoản ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp mở tài khoản và thanh toán bằng ngoại tệ, phải thực hiện theo đúng quy chế quản lý ngoại hối của Chính phủ Việt Nam ban hành. 1.5.2. Quy định đối với bên mua. Để đảm bảo thanh toán kịp thời, đầy đủ, các chủ tài khoản phải có đủ tiền trên tài khoản, mọi trường thanh toán vượt quá số dư tiền gửi tại ngân hàng là phạm pháp và xử lý theo pháp luật. Theo quy định để thực hiện chi trả, trước hết người phải trả phải có đủ khả năng thanh toán, tức là có đủ số tiền trên tài khoản trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi. Tuỳ theo yêu cầu chi trả, chủ tài khoản có thể thực hiện thanh toán qua ngân hàng hoặc rút tiền mặt để sử dụng. Chủ tài khoản chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt quá số dư tài khoản tiền gửi, phải chịu phạt theo quy định hiện hành. Riêng trường hợp thanh toán bằng Séc chủ tài khoản không được ký tên, hoặc đóng dấu vào các tờ Séc chưa ghi đầy đủ nội dung. Ngân hàng phát hiện chủ tài khoản vi phạm ngân hàng sẽ được thu hồi các tờ séc chưa sử dụng còn lại của khách hàng. 1.5.3. Quy định đối bên bán. Bên bán phải đảm bảo cung ứng dịch vụ hoặc vật tư hàng hoá cho bên mua đúng thời hạn, đúng quy cách phẩm chất đã ghi trong hợp đồng kinh tế. Người bán khi nhận được các giấy tờ thanh toán từ người mua phải kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ như: chữ ký, con dấu, các yếu tố trên chứng từ có đầy đủ theo đúng quy định không. Nếu thiếu một trong các quy định, chứng từ đó sẽ không hợp lệ và sẽ không được thanh toán. Sau khi nhận được các chứng từ đã kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp, bên bán phải mang đến ngân hàng thanh toán trong thời gian quy định. 1.5.4. Quy định đối với ngân hàng. Ngân hàng có trách nhiệm thực hiện các uỷ nhiệm của chủ tài khoản đảm bảo chính xác, an toàn, thuận tiện. Các ngân hàng có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản. Ngân hàng kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đầy đủ. Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng, ngân hàng phải bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể xử lý theo pháp luật. Ngân hàng chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản của khách hàng cho các cơ quan ngoài ngân hàng khi có văn bản của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27113.doc
Tài liệu liên quan