Tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Vndirect: ... Ebook Giải pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Vndirect
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Vndirect, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục các chữ viết tắt
_TTCK : thị trường chứng khoán
_TTCKVN : thị trường chứng khoán Việt Nam
_MGCK : môi giới chứng khoán
_MG : môi giới
_CTCK : công ty chứng khoán
_NĐT : nhà đầu tư
_CNTT : công nghệ thông tin
_SGD : sở giao dịch
_TTGDCK : trung tâm giao dịch chứng khoán
Danh mục bảng biểu
Sơ đồ 1 : Quy trình thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng
Bảng 2.1 : Số lượng tài khoản giao dịch tại VNDS
Bảng 2.2 : Giá trị chứng khoán giao dịch tại VNDS
Bảng 2.3 : Doanh thu hoạt động MGCK của VNDS các năm
Bảng 2.4 : Tỷ trọng doanh thu môi giới so với tổng doanh thu tại VNDS
Biểu đồ 1 : Số lượng tài khoản giao dịch tại VNDS
Biểu đồ 2 : Thị phần giá trị chứng khoán giao dịch tại VNDS
Biểu đồ 3 : Cơ cấu kênh nhận lệnh của VNDS
LỜI MỞ ĐẦU
Ra đời cách đây hàng trăm năm, đến nay thị trường chứng khoán đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường và có thể nói TTCK gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Không có một nước nào có nền kinh tế phát triển mà không có sự hoạt động của thị trường chứng khoán. Qua một quá trình phát triển lâu dài và bền vững, TTCK ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của nó.
Một trong những đặc trưng của thị trường chứng khoán là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên thị trường chứng khoán bắt buộc phải được thực hiện qua các công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới chứng khoán. Do đặc thù của loại hình thị trường, hoạt động môi giới chứng khoán có vai trò rất quan trọng. Nghề môi giới chứng khoán vừa là sản phẩm tinh vi, phức tạp của một trình độ phát triển rất cao của thị trường, đồng thời lại là một hoạt động rất gần gũi với người dân bình thường. Đơn giản là vì họ chính là công chúng đầu tư - những đối tượng chủ yếu tiếp nhận các dịch vụ môi giới chứng khoán.
Cùng với sự ra đời cách đây chưa lâu của thị trường chứng khoán ở Việt Nam, nghề môi giới chứng khoán cũng đã hình thành dưới dạng sơ khai và đang phát triển. Đây là kết quả của nỗ lực nhằm rút ngắn khoảng thời gian cần thiết để tạo lập kênh huy động vốn trung và dài hạn cho công cuộc tăng trưởng kinh tế của đất nước. Vì lý do đó, việc tìm hiểu những đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán là rất cần thiết, không chỉ cho những ai mong muốn làm giàu chính đáng thông qua việc tham gia cung cấp hay sử dụng loại hình dịch vụ này mà còn cho tất cả những người muốn khám phá một lĩnh vực mới mẻ và thú vị của cuộc sống.
Mới ra đời cách đây hơn 2 năm nhưng công ty cổ phần chứng khoán Vndirect đã tạo được chỗ đứng cho riêng mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thành lập vào thời điểm thị trường không ổn định , Vndirect cũng gặp rất nhiều khó khăn như bao công ty chứng khoán khác. Một lượng lớn nhà đầu tư rời bỏ thị trường, các đợt IPO liên tục trì hoãn, thị trường thử thách các thành phần tham gia chưa biết đến khi nào kết thúc. Hiện nay các mảng khác gần khư không thu lợi được nhiều, mảng môi giới thì chỉ như “miếng bánh nhỏ chia cho nhiều người ăn”, cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán như là vấn đề sống còn. Vì vậy, vấn đề bức xúc hiện nay của các công ty chứng khoán nói riêng và công ty chứng khoán Vndirect nói riêng là làm thế nào để có thể tìm ra giải pháp phát triển hoạt động môi giới cho phù hợp với tình hình công ty nhằm cạnh tranh với các công ty khác. Chính vì lý do đó, trong quá trình thực tập tại đây, tôi đã chọn đề tài “Giái pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Vndirect” làm đối tượng nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Vì khả năng và thời gian có hạn nên bài chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn bè để bài viết được hoàn thiện và thiết thực hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo cùng ban lãnh đạo công ty và các anh chị trong phòng nghiệp vụ khách hàng công ty chứng khoán Vndirect đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài chuyên đề này.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI
CHỨNG KHOÁN (MGCK)
1.1 Hoạt động môi giới chứng khoán
Tính tất yếu khách quan hình thành nghề môi giới chứng khoán
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trong quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra trên quy mô ngày càng lớn, với chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, và phương thức trao đổi hàng hoá theo đó cũng ngày càng đa dạng. Đỉnh cao của nền kinh tế thị trường là sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Trên thị trường này, người ta mua bán những tài sản tài chính- một loại hàng hoá đặc biệt.
Được gọi là những tài sản tài chính vì những hàng hoá này vừa đem lại khoản thu nhập thường xuyên cho người sở hữu lại vừa có thể tự tích luỹ giá trị, khi cần người sở hữu có thể bán tài sản này đi để thu lời. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của cả bên góp vốn và cung cấp vốn, thị trường chứng khoán đã sáng tạo ra những hàng hoá hết sức đa dạng, được ứng dụng vào nhiều mục tiêu và chiến lược đầu tư (và cả đầu cơ).
Thị trường càng phát triển ở trình độ cao, sản phẩm và dịch vụ càng dồi dào về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng. Theo đó, đòi hỏi việc cung cấp cho người đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược, và giúp cho người đầu tư thực hiện các giao dịch theo cách có lợi nhất, đòi hỏi phải có hoạt động môi giới chứng khoán phát triển rmang tính chuyên nghiệp cao, hay nói cách khác trở thành một nghề.
Với tư cách là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, một trong những đặc trưng của thị trường chứng khoán là nó hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải được thực hiện qua các công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới chứng khoán. Thuật ngữ “nghề môi giới chứng khoán” ở đây được hiểu như là hoạt động của hai yếu tố này, trong sự tương quan chặt chẽ với nhau và với một đối tác chung là khách hàng - người đầu tư, để tác động tới sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, không chỉ trên thị trường chứng khoán mới có nghề môi giới. Với tư cách là khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá bằng cách rút ngắn khoảng thời gian tìm kiếm (và do đó giảm được chi phí) để gặp gỡ giữa người mua và người bán, nghề môi giới đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế hàng hoá, nhất là đối với những hàng hoá mà người mua và người bán không dễ gặp nhau. Song trên thị trường chứng khoán, nghề môi giới chứng khoán, không chỉ đơn thuần là khâu đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến người mua. Những đặc trưng riêng của một thị trường cao cấp, những sản phẩm và dịch vụ phức tạp và đa dạng ở đây đòi hỏi ở nghề môi giới chứng khoán, và cụ thể hơn là những công ty chứng khoán và những người môi giới chứng khoán, những đặc điểm về tổ chức và vận hành, những phẩm chất, kỹ năng chứng khoán được coi là sản phẩm của thị trường cao cấp trước hết là vì sản phẩm tài chính là những sản phẩm đặc biệt. Chúng không cho phép người mua trực tiếp thẩm định chất lượng bằng các giác quan của mình như hàng hoá trên tất cả những thị trường khác. Đầu tư vào chứng khoán có nghĩa là đầu tư vào giấy tờ có giá mà thu nhập do chúng mang lại được quyết định trước hết bởi khả năng thu lợi nhuận của công ty. Khả năng này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi vô số yếu tố, những xu hướng của nền kinh tế thế giới và trong nước, đến những đặc điểm riêng của ngành và đến những điều kiện cụ thể của công ty. Hơn nữa, nguồn thu đó còn phụ thuộc đáng kể vào sự đánh giá của cộng đồng tài chính đối với công ty đã phát hành sản phẩm tài chính đó. Sự đánh giá này có thể phù hợp với thực tế hoạt động của công ty, có thể tốt hơn hoặc không tốt bằng. Trong từng trường hợp, rủi ro hàm chứa trong mỗi tài sản là khác nhau. Như vậy, để đánh giá được chất lượng sản phẩm tài chính, tức là khả năng đem lại nguồn lợi tài chính ổn định và gia tăng, cần có một hệ thống thu thập và xử lý thông tin cũng như những kỹ năng cần thiết để làm việc đó, điều mà các nhà đầu tư cá nhân không thể có được. Họ phải đến với các chuyên gia nhà nghề, những người được trang bị đủ công cụ và kỹ năng để phân tích, đánh giá các sản phẩm tài chính, từ đó cung cấp những ý kiến tư vấn xác đáng cho khách hàng. Nếu ý kiến tư vấn của các nhà phân tích hay các nhà môi giới là rất khác nhau thì cộng đồng các nhà đầu tư cũng hết sức đa dạng. Có bao nhiêu nhà đầu tư thì cũng có bao nhiêu cách tổ hợp khác nhau giữa vô vàn mức độ của các yếu tố như năng lực tài chính, mục tiêu tài chính, khoảng thời gian đầu tư và mức độ chấp nhận rủi ro. Chẳng hạn, người giàu có mức độ chấp nhận rủi ro cao hơn nhiều so với người nghèo, mặt khác, giữa những người giàu và có thu nhập cao và ổn định với người người giàu nhờ một cơ hội duy nhất thì ngưỡng rủi ro cũng khác nhau. Nhưng tổ hợp rất khác biệt giữa các yếu tố như thế nào cho thấy người đầu tư có nhu cầu về nguồn tư vấn chuyên nghiệp, đáng tin cậy từ các nhà môi giới. Nói cách khác, nguyên tắc trung gian cho phép bảo vệ được người đầu tư, giúp họ lựa chọn các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng được những thông tin cá nhân đa dạng.
Lý do thứ hai giải thích vì sao nghề môi giới chứng khoán được coi là sản phẩm của thị trường cao cấp xuất phát từ chỗ thị trường chứng khoán là sân chơi của tất cả các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Nó chỉ duy trì được chức năng huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển chừng nào còn giữ được lòng tin của các nhà đầu tư về một thị trường liên tục, công bằng, công khai, giá cả được hình thành bởi sự tương tác giữa các lực lượng cung cầu. Muốn vậy, thị trường phải được tổ chức một cách khoa học, trật tự. Một trong những biện pháp để duy trì tính trật tự, khoa học đó là việc tập trung các lệnh giao dịch vào các đầu mối lớn là những công ty môi giới, từ đó các cơ quan quản lý sẽ thuận lợi hơn trong việc kiểm soát, quản lý các đầu mối và xử lý khi xảy ra những vi phạm. Nguyên tắc trung gian nhằm nâng cao năng lực quản lý để duy trì sự hoạt động lành mạnh của một thị trường tự do nhất trong tất cả các thị trường.
Khái niệm MGCK
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
Khi thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán nhà môi giới chứng khoán chỉ đơn thuần làm trung gian để hưởng hoa hồng còn khách hàng là người yêu cầu thực hiện và hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
1.1.3. Nội dung hoạt động môi giới chứng khoán.
Thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán không chỉ đảm nhận vai trò là trung gian giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng mà còn là nhà tư vấn, hướng dẫn đầu tư, chăm sóc khách hàng bằng các dịch vụ tiện ích và đa dạng. Nội dung cụ thể của hoạt động môi giới chứng khoán có thể được mô tả như sau:
1.1.3.1. Tiếp cận và thu hút khách hàng
Hoạt động môi giới chứng khoán bắt đầu từ việc nhân viên môi giới tìm kiếm và tiếp xúc với các khách hàng tiềm năng, sau đó bằng kỹ năng của mình sẽ thu hút và thuyết phục họ trở thành khách hàng của công ty. Trong bối cảnh số lượng các CTCK ngày càng lớn, tính cạnh tranh ngày càng cao thì việc các nhân viên môi giới phải chủ động tìm kiếm khách hàng, phát triển cơ sở khách hàng cho công ty là nội dung có ý nghĩa quan trọng. Để làm được điều đó, các nhân viên MG hay sử dụng các hình thức như tổ chức các buổi thuyết trình hay hội thảo giới thiệu về công ty và các sản phẩm của công ty, gửi thư trực tiếp, gọi điện làm quen… Để quá trình tìm kiếm khách hàng đạt được hiệu quả cao, nhân viên môi giới phải tiếp cận khách hàng bằng chính sự hiểu biết, sự trung thực, tận tụy và có trách nhiệm.
1.1.3.2. Chăm sóc khách hàng.
Không chỉ dừng lại ở việc thu hút khách hàng, các CTCK còn phải quan tâm tới việc chăm sóc khách hàng để duy trì mối quan hệ ngày càng mật thiết, giữ các khách hàng ở lại mà không chuyển sang các CTCK khác.
Việc đầu tiên của hoạt động chăm sóc khách hàng phải kể đến đó là hoạt động cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng. Có thể nói TTCK là thị trường của thông tin, kinh doanh chứng khoán là kinh doanh thông tin. Ai có thông tin chính xác, cập nhật và khả năng phân tích tốt thì hoạt động đầu tư sẽ có hiệu quả và ngược lại, nếu nhà đầu tư thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch thì dễ bị tổn thất khi đầu tư. Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán dù có minh bạch đến đâu thì nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân cũng khó nắm bắt được một cách đầy đủ, kịp thời. Hơn thế nữa, khả năng thẩm định và phân tích thông tin thì không phải nhà đầu tư nào cũng có. Nhờ lợi thế chuyên môn hóa, các công ty chứng khoán sở hữu nguồn thông tin phong phú và đáng tin cậy, đã được phân tích nhận định bởi các chuyên gia. Do đó, họ có thể thực hiện việc tư vấn cho nhà đầu tư, giúp việc ra quyết định trở nên đúng đắn hơn.
Công ty không chỉ cung cấp thông tin, tư vấn cho khách hàng mà họ còn giúp khách hàng trong việc quản lý tài khoản, thực hiện các quyền và lợi ích liên quan đến chứng khoán. Cụ thể, công ty cũng sẽ đảm nhận các công việc liên quan tới việc nhận gửi - rút chứng khoán (tiền), thực hiện các quyền liên quan tới cổ phiếu như: nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, mua chứng khoán mới phát hành… Ngoài ra CTCK còn cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như: cầm cố chứng khoán, repo, ứng trước tiền bán, thanh toán nhanh nếu có yêu cầu. Trong một số trường hợp, CTCK còn đại diện cho khách hàng dự đại hội cổ đông, thực hiện các quyền theo sự ủy thác của khách hàng đối với các công ty niêm yết. Nhân viên môi giới còn thường xuyên giữ liên lạc với khách hàng, tiếp tục tìm hiểu các thông tin liên quan tới khách hàng. Khi đã trở nên thân thiết và tin cậy, nhân viên môi giới còn là người chia sẻ những lo âu, căng thẳng của khách hàng khi đầu tư, đưa ra những lời khuyên kịp thời khắc phục trạng thái sợ hãi hoặc tham lam thường gặp trong kinh doanh chứng khoán. Từ đó giúp khách hàng đưa ra những quyết định kịp thời, tỉnh táo và đúng đắn.
1.1.3.3. Thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng.
Sau khi có quyết định đầu tư, khách hàng sẽ tiến hành đặt lệnh, lệnh đó sẽ được chuyển đến bộ phận môi giới giao dịch. Nhân viên môi giới có trách nhiệm giải thích và hướng dẫn cho khách hàng về các nguyên tắc, thủ tục khi đặt lệnh để tránh những sai sót dẫn đến thiệt hại không đáng có cho khách hàng. Khi nhận được lệnh của khách hàng, nhân viên môi giới sẽ kiểm tra tính chính xác của các thông tin trên lệnh cũng như tính hợp lệ của lệnh như: giá cả, số lượng, tên chứng khoán, tên khách hàng, mã số tài khoản, tiền và chứng khoán trên tài khoản của khách hàng… Sau đó nhân viên môi giới sẽ thực hiện nhập lệnh và truyền lệnh để giúp khách hàng thực hiện được giao dịch của mình. Cuối cùng nhân viên môi giới sẽ thông báo kết quả giao dịch cho khách hàng. Quá trình thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng được cụ thể hóa bởi quy trình sau:
Sơ đồ 1: Quy trình thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng
Khách hàng
Công ty
chứng khoán
- Sở giao dịch CK
- OTC
- Thị trường thứ 3
(2)
(1)
(4)
(5)
(3)
Bước 1: Mở tài khoản cho khách hàng.
Muốn giao dịch mua bán chứng khoán khách hàng phải mở tài khoản tại công ty chứng khoán. Mỗi khách hàng chỉ được phép mở một tài khoản tại một CTCK mà thôi. Tài khoản có chức năng như một bộ hồ sơ, trong đó công ty chứng khoán lưu lại các thông tin cần thiết về khách hàng. Các giao dịch mua bán của khách hàng cũng được thể hiện trên tài khoản. Mỗi một khách hàng có một mã số tài khoản riêng.
Bước 2: Nhận lệnh.
Nhân viên môi giới có nhiệm vụ nhận lệnh từ khách hàng. Nhờ công nghệ hiện đại, ngày nay các CTCK ngoài nhận lệnh trực tiếp bằng phiếu lệnh còn có thể nhận lệnh qua điện thoại, Internet, Fax… Khi nhận lệnh từ khách hàng nhân viên môi giới phải kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của lệnh như: số tài khoản, tên khách hàng, giá, số lượng chứng khoán… Đối với lệnh bán phải kiểm tra xem trong tài khoản có đủ chứng khoán ký quỹ không, đối với lệnh mua kiểm tra xem có đủ tiền ký quỹ không.
Bước 3: CTCT chuyển lệnh đến TTGDCK để thực hiện.
Lệnh của khách hàng sau khi đã kiểm tra tính hợp lệ sẽ được chuyển tới đại diện của công ty tại Sở giao dịch chứng khoán. Các nhân viên này có trách nhiệm nhập lệnh vào phiếu đăng ký theo mẫu của SGD và chuyển tới các nhà môi giới lập giá của sở hoặc nhập lệnh vào bằng máy tính của mình, từ đó truyền lệnh lên trung tâm khớp lệnh của sở.
Bước 4: Xác nhận giao dịch khách hàng.
Trung tâm khớp lệnh (gồm các nhà môi giới lập giá) tổng hợp các lệnh do các nhà môi giới gửi lên (bằng phiếu đăng ký giao dịch hay qua mạng vi tính) và tại từng thời điểm ấn định sẽ thông báo dừng tiếp nhận và thực hiện khớp lệnh. Việc khớp lệnh được thực hiện theo nguyên tắc đấu giá và được thực hiện theo từng chu kỳ do SGD quy định.
Sau khi giao dịch được thực hiện, đại diện của công ty tại sở sẽ nhận được báo cáo về giao dịch có thực hiện được hay không. Khi đó họ phải so sánh giữa báo cáo giao dịch và lệnh của khách hàng để đảm bảo mọi việc được tiến hành một cách chính xác. Nếu xảy ra sai sót họ phải báo cáo ngay cho cấp quản lý để có phương án xử lý kịp thời.
Bước 5: Thanh toán và giao hàng.
Ngày thanh toán được thực hiện theo T+x, nghĩa là sau x ngày kể từ ngày giao dịch mới tiến hành thanh toán. Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền qua ngân hàng chỉ định thanh toán và người bán sẽ chuyển giao chứng khoán qua hình thức chuyển khoản tại trung tâm lưu ký. Công ty sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua tài khoản của họ.
1.1.4 Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động MGCK
Hoạt động của các nhà môi giới chứng khoán đóng góp một phần quan trọng vào tính “sôi động của thị trường”. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể trở thành nhà môi giới chứng khoán và có những hoạt động môi giới chứng khoán thành công đem lại những khoản lợi nhuận lớn. Ngoài những kiến thức chuyên môn, một nhà môi giới chứng khoán chỉ có thể thực hiện thành công hoạt động môi giới của mình nếu biết và hình dung trước những rủi ro sẽ gặp phải cũng như có những biện pháp để quản lý rủi ro.
Trong quá trình thực hiện hoạt động môi giới mua bán chứng khoán, công ty chứng khoán sẽ phải đối mặt cũng như phải tìm cách phòng tránh nhiều loại rủi ro. Để có thể hình dung rõ hơn về những khó khăn trong quá trình kinh doanh môi giới, xin nói qua một số loại rủi ro và phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán.
1.1.4.1 Những loại rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán
* Rủi ro về luật pháp
Một nhà đầu tư của Mỹ lý kết hợp đồng mua bán cổ phiếu với một Công ty chứng khoán AZC. Trong Hợp đồng có không ghi thời hạn thanh toán. Hợp đồng đã ký kết giữa các bên, công ty chứng khoán AZC đã giao cổ phiếu cho nhà đầu tư, nhưng nhà đầu tư kia đã không trả tiền, và viện cớ là hợp đồng chưa có quy định thời hạn thanh toán do đó chưa có cơ sở để nhà đầu tư trả tiền ngay.
Công việc môi giới có liên quan đến khách hàng và các tổ chức liên quan như công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, ngân hàng chỉ định thanh toán... do vậy đòi hỏi sự chính xác trong việc tuân thủ luật pháp về chứng khoán, thị trường chứng khoán và các luật lệ liên quan khác. Những rủi ro này có thể phát sinh từ những văn bản như: Hợp đồng mua bán chứng khoán; Hồ sơ thanh toán tiền mua bán chứng khoán; Hồ sơ chuyển giao chứng khoán; Các giấy tờ cá nhân của khách hàng...
* Rủi ro về đối tác kinh doanh
Hai công ty chứng khoán của Anh là Kihas và Seca Lamas có hoạt động kinh doanh với nhau. Nhưng trong quá trình hoạt động kinh doanh khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên thì sẽ rất khó giải quyết bởi cả hai công ty không là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán, cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của Sở giao dịch chứng khoán sẽ không được áp dụng. Do đó, hai bên sẽ phải nhờ đến toà án với những thủ tục rất rắc rối và phức tạp. Rủi ro về thanh toán giữa 2 nhà môi giới với nhau sẽ được giảm thiểu nếu họ đều là thành viên của Sở Giao dịch chứng khoán.
Rủi ro về thanh toán giữa nhà môi giới và khách hàng cũng gần như bị loại trừ do quy định khách hàng khi muốn đặt lệnh mua bán phải ký quỹ trước 100% tiền hoặc chứng khoán.
* Rủi ro thị trường
Rủi ro về thị trường bao gồm rủi ro về giá cả lên xuống và rủi ro về tính thanh khoản trong giao dịch của chứng khoán.
Rủi ro về giá cả lên xuống có thể phát sinh khi khách hàng tiến hành mua chứng khoán và giá chứng khoán đó bị giảm xuống. Đối với khách hàng cá nhân, do đã có quy định ký quỹ nên không ảnh hưởng tới công ty chứng khoán, nhưng nếu họ thua lỗ nhiều, uy tín công ty bị ảnh hưởng. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi khách hàng thế chấp chứng khoán để mua chứng khoán khác. Khách hàng có thể sẽ không bán được chứng khoán thế chấp trong thời gian quy định hoặc sẽ không chịu thanh toán tiền cho số chứng khoán đã mua.
* Rủi ro về hoạt động
Rủi ro về hoạt động là những sai sót trong quá trình tác nghiệp hàng ngày của công ty liên quan đến công việt mua bán như thực hiện lệnh thanh toán, ký quỹ.
1.1.4.2 Quản lý rủi ro
Những nhà môi giới chứng khoán giỏi luôn lường trước những rủi ro để từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu hạn chế rủi ro. Chỉ có như vậy họ mới tránh phải mất những khoản tiền không đáng mất.
* Quản lý rủi ro về luật pháp
+ Kiểm tra lại tính đúng đắn, hoàn chỉnh của các văn bản trước khi đem ra áp dụng. Việc này tốt nhất là thông qua một tổ chức tư vấn pháp luật có uy tín. + Các giấy tờ cá nhân của khách hàng phải được khách hàng xác nhận tính chính xác và đầy đủ.
+Hồ sơ phải chính xác và cập nhật thường xuyên.
* Quản lý rủi ro đối tác kinh doanh
+ Tiến hành phân cấp xét duyệt hạn ngạch giao dịch một cách cụ thể. + Xây dựng quy trình rõ ràng, chặt chẽ cho các bước mở tài khoản giao dịch như kiểm tra hồ sơ, xin ý kiến cấp có trách nhiệm, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
+ Theo dõi giám sát việc sử dụng hạn ngạch giao dịch đã được duyệt. + Hàng năm đánh giá và quy định lại hạn ngạch giao dịch.
* Quản lý rủi ro thị trường
+ Có các quy định phù hợp về tổng số hạn ngạch giao dịch, hạn chế mức thua lỗ cụ thể.
+ Đặt mức an toàn cho mỗi loại cổ phiếu.
+ Quy định về phương pháp giám sát, đặt ra các quy định về ngưỡng rủi ro phải thông báo hoặc qua xét duyệt.
* Quản lý rủi ro về hoạt động
+ Quy định về hệ thống tác nghiệp rõ ràng, trong đó nêu rõ những nghiệp vụ nào phải tuyệt đối tuân thủ theo các bước đã đề ra. + Thiết lập quy trình luân chuyển, giải quyết hồ sơ, tài liệu chứng từ một cách chặt chẽ, nhất là trong khâu thanh toán tiền và nhận chuyển giao chứng khoán.
+ Có hệ thống kiểm tra lại tính chính xác của việc truyền lệnh mua bán và hệ thống phân cấp thẩm quyền rõ ràng, hợp lý.
+ Có hệ thống báo cáo tốt.
1.1.5. Các loại môi giới chứng khoán
Thị trường chứng khoán phát triển kéo theo đó là sự ra đời hàng loạt các công ty môi giới chứng khoán cùng với nhiều sản phẩm dịch vụ đa dạng. Có thể phân loại hoạt động môi giới chứng khoán thành các dạng như sau:
1.1.5.1. Môi giới chứng khoán toàn phần, môi giới trọn gói ( Full – Service Broker).
Môi giới toàn phần hay môi giới trọn gói là loại hình môi giới mà ngoài việc xử lý các lệnh mua, bán chứng khoán cho khách hàng, họ còn cung cấp hàng loạt các dịch vụ khác như: nghiên cứu đầu tư, xây dựng mục tiêu đầu tư trong ngắn hạn và dài hạn, quản lý danh mục đầu tư … với mục đích “bảo vệ” và tạo giá trị tăng thêm cho khoản tiền của khách hàng. Chính vì tính đa dạng của nó, nên loại hình môi giới này có phí dịch vụ khá cao.
Khách hàng sử dụng loại hình môi giới này thường là những cá nhân, tổ chức có tiềm lực tài chính tương đối lớn, họ muốn tham gia thị trường để đầu tư chứ không phải đầu cơ, nhưng lại hạn chế về kiến thức chuyên ngành. Do vậy, họ tìm đến với môi giới toàn phần để nhờ cố vấn.
1.1.5.2. Môi giới chứng khoán bán phần – môi giới chiết khấu (Discount Broker)
Môi giới bán phần hay môi giới chiết khấu là loại môi giới chỉ thực hiện các giao dịch mua bán cho khách hàng và thêm một số loại dịch vụ gia tăng hạn chế khác.
Đối tượng khách hàng chủ yếu sử dụng loại hình môi giới này là những nhà đầu tư có kiến thức khá vững và muốn tự mình quyết định đầu tư và họ chỉ cần nhà môi giới với đúng nghĩa đen của từ “môi giới”. Họ sẽ không nhận được lời tư vấn từ nhà môi giới mà phải “tự lo” một mình tự chịu trách nhiệm dù kết quả đầu tư có ra sao. Chính vì vậy, trách nhiệm của môi giới bán phần sẽ không cao như môi giới toàn phần cho nên khoản tiền hoa hồng họ nhận được cũng thấp hơn nhiều so với môi giới toàn phần.
Một đặc điểm nữa của môi giới bán phần đó là công cụ mà họ sử dụng chủ yếu đó là Internet. Họ tìm kiếm khách hàng quan hệ với khách hàng hay thực hiện giao dịch cho khách hàng, cũng đều thông qua Internet. Chính vì vậy, sự phát triển của loại hình môi giới bán phần gắn liền với sự phát triển của Internet.
1.1.5.3. Môi giới độc lập hay “hai đô la”
Môi giới hai đô la (two - dollar broker) hay còn gọi là các nhà môi giới độc lập (independent broker) chính là các nhà môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng (thù lao) theo dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở giao dịch (sàn giao dịch), giống như các công ty chứng khoán thành viên. Họ chuyển quyền thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của sở giao dịch. Sở dĩ có điều này là vì tại các sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của một công ty chứng khoán gửi tới lắm khi quá nhiều, mà các nhân viên môi giới cơ hữu của các công ty này (các commission brokers) không thể làm xuể, hoặc vì lý do nào đó họ vắng mặt. Lúc đó các công ty chứng khoán sẽ “hợp đồng” với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình, và trả cho loại môi giới này một khoản tiền nhất định.
Khởi thuỷ, các nhà môi giới độc lập được trả cứ hai đô la cho một lô tròn chứng khoản (100 cổ phần), nên người ta gọi quen thành “môi giới hai đô la”. Môi giới độc lập cũng được gọi chung là môi giới trên sàn (floor broker). Họ đóng vai trò không khác gì chức năng của một môi giới thừa hành, ngoại trừ tư cách độc lập của họ, có nghĩa họ không phải là nhân viên đại diện cho bất kỳ một công ty chứng khoán nào cả.
1.1.6. Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán.
Với tư cách là hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty môi giới - nơi cung cấp phương tiện vật chất tổ chức và pháp lý, và nhân viên bán hàng - người trực tiếp tiếp thị và giao dịch với khách hàng, nghề môi giới chứng khoán có hai chức năng chính:
1.1.6.1. Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng:
Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển cùng với sự hiện đại của CNTT, vô vàn thông tin kinh tế - xã hội trong nước và nước ngoài được cập nhật liên tục thêm vào đó không phải NĐT nào cũng có sẵn thời gian, kiến thức để có thể tiếp nhận và sàng lọc tất cả các thông tin cùng một lúc. Chính vì thế, các NĐT lại càng cần tới vai trò của các nhà môi giới trên thị trường chứng khoán. Công ty môi giới chứng khoán thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư.
Hàng tuần, bộ phận nghiên cứu của các công ty môi giới lớn cung cấp cho các nhà môi giới một khối lượng thông tin nghiên cứu khổng lồ là kết quả tổng hợp và phân tích của công ty cùng những thông tin đặt mua của các hãng khác nữa, kèm theo đó là những khuyến nghị cụ thể về loại chứng khoán cần mua, bán. Nhân viên bán hàng (người môi giới) sẽ sử dụng những thông tin này để cung cấp cho khách hàng của mình theo những yêu cầu cụ thể.
Không chỉ đưa ra lời khuyên về cách thức phân bổ tài sản như thế nào để đáp ứng mục tiêu tài chính của khách hàng. Tuỳ từng lúc, người môi giới còn có thể trở thành người bạn tin cẩn, thậm chí là nhà trị liệu hay nhà tâm lý học, lắng nghe tất cả những câu hỏi liên quan tới tình trạng tài chính của khách hàng và, trong chừng mực có thể, đưa ra những giải pháp thích đáng. Đối với khách hàng, ngoài nhu cầu được tư vấn về tài chính, những nhu cầu tâm lý có liên quan tới các vấn đề tài chính chắc chắn cũng quan trọng không kém, đôi khi họ gọi điện cho người môi giới của mình không chỉ để tìm kiếm một giải pháp mà chỉ để chia sẻ và giải toả những căng thẳng tâm lý. Tìm được người môi giới giỏi nghề và tâm huyết cũng quan trọng và cần thiết như tìm một bác sĩ riêng, một luật sư hay một kế toán riêng.
1.1.6.2. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ.
Người môi giới nhận các đơn đặt hàng từ khách hàng và thực hiện giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm một loạt công việc: hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Không chỉ có vậy, sau khi giao dịch đã được thực hiện, người môi giới còn phải tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đưa ra những khuyến cáo và cung cấp thông tin, theo dõi để nắm bắt những thay đổi trong đời sống, công việc.. mà có thể dẫn tới thay đổi trong tình trạng tài chính và thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng, từ đó đề xuất những giải pháp hay chiến lược mới thích hợp.
Công ty môi giới là nơi bảo đảm những điều kiện vật chất - bao gồm địa điểm, hệ thống máy móc, thiết bị nối mạng với sở giao dịch - nhân lực (đội ngũ nhân viên tác nghiệp) và pháp lý để cho quá trình này được thực hiện nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, đồng thời khi xảy ra tranh chấp thì có thể xử lý được một cách thoả đáng. Để làm được chức năng này, công ty được tổ chức theo những phòng ban chức năng phù hợp với những quy trình hoạt động chặt chẽ, khoa học.
Thêm vào đó, ngày nay khi TTCK đã khá phát triển, các công ty chứng khoán còn cung cấp rất nhiều các sản phẩm, dịch vụ tài chính giúp cho việc giao dịch của nhà đầu tư trở nên dễ dàng và linh hoạt hơn như: cho vay, cầm cố chứng khoán - bào chứng, ký quỹ, cho vay ứng trước tiền bán….
1.1.7. Vai trò của nghề môi giới chứng khoán
Nghề môi giới chứng khoán không chỉ là kết quả của quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường mà đồng th._.ời nó còn có vai trò ngược lại là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Vai trò này của nghề môi giới chứng khoán được nhìn nhận trên những khía cạnh sau:
1.1.7.1. Giảm chi phí giao dịch.
Cũng như trên tất các các thị trường khác, để tiến hành giao dịch thì người bán và người mua phải có cơ hội để gặp được nhau, thẩm định chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán với tư cách là một thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lượng và giá cả của hàng hoá, người ta cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một hệ thống thị trường đấu giá, tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải do được hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn. Mặt khác, sự hiện diện của một tổ chức trung gian và chuyên nghiệp như thế làm cầu nối cho các bên mua, bán gặp nhau sẽ làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Như thế, vai trò của nghề môi giới chứng khoán là tiết kiệm được chi phí giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thể thị trường, nhờ đó giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường.
1.1.7.2. Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Công ty môi giới chứng khoán và các nhân viên bán hàng của nó, khi thực hiện vai trò trung gian giữa người bán (nhà phát hành) và người mua (nhà đầu tư) có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Có thể nói hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó, xét trong dài hạn, là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm và dịch vụ, nhờ đó đa dạng hoá được cơ cấu khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng.
Có thể nhận thấy kết quả này không chỉ trong những hàng hoá đơn lẻ như cổ phiếu, trái phiếu, hay bất kỳ một công cụ tài chính nào khác, mà còn trong cả những ý tưởng về danh mục đầu tư, về sự phối hợp các sản phẩm nhằm vào những lợi ích nhất định… Chẳng hạn, ngày nay hàng hoá trái phiếu đã được đa dạng hoá tới mức không có một trái phiếu nào chỉ có những đặc trưng cơ bản của loại công cụ này (thời hạn, mệnh giá và lãi xuất cuống phiếu) mà không được kèm theo những đặc tính bổ sung, như trái phiếu có lãi xuất thả nổi, trái phiếucó thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông, trái phiếu kèm theo quyền mua lại hoặc bán lại, trái phiếu có bảo đảm hoặc không có bảo đảm… tuỳ theo nhu cầu cụ thể của các bên tham gia vào từng giao dịch.
Trong những thị trường mới nổi hàng hoá và dịch vụ còn nghèo nàn, đơn điệu, nếu được tổ chức, phát triển tốt nghề môi giới chứng khoán có thể góp phần cải thiện được môi trường này. Môi trường đầu tư đa dạng về sản phẩm với phí dịch vụ thấp và có lợi nhuận thoả đáng sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi cho tăng trưởng.
1.1.7.3. Cải thiện môi trường kinh doanh.
* Góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư
Hoạt động của công ty môi giới và nhân viên môi giới chứng khoán là một khi đã thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên cái gọi là một nền văn hoá đầu tư. Những đặc trưng chủ yếu của một nền văn hoá đầu tư là:
- Ý thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng. Trong những nền kinh tế mà môi trường đầu tư còn thô sơ thì thu nhập được tạo ra trong các hộ gia đình sau khi đã trang trải cho những nhu cầu cơ bản của cuộc sống thường được chỉ tiêu cho những mục đích phi sản xuất với tỷ lệ khá cao. Trong khi vốn tăng trưởng trong nền kinh tế lại thiếu trầm trọng. Khi nhân viên môi giới tiếp cận tới những khách hàng tiềm năng, họ mang theo những sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng, họ giải thích về những lợi ích mà sản phẩm đem lại, và sau khi khách hàng chấp thuận mở tài khoản nhân viên môi giới sẽ thường xuyên quan tâm chăm sóc tài khoản theo cách có lợi nhất cho khách hàng. Hoạt động này lâu dần sẽ hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính. Thay vì sử dụng tiền dư thừa một cách lãng phí (hiện tượng phổ biến trong một nền kinh tế mà thị trường tài chính kém phát triển), người có tiền sẽ ưu tiên đầu tư vào tài sản tài chính. Để làm việc đó, người đầu tư phải trang bị những hiểu biết về đặc tính của sản phẩm, biết xác định mục tiêu tài chính cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của bản thân mình. Từ đó lựa chọn được sản phẩm hay dịch vụ phù hợp. Cao hơn nữa, qua quá trình tham gia vào thị trường tài chính, họ hình thành được kỹ năng dự đoán, lựa chọn và phối hợp với các sản phẩm với nhau để giảm thiểu rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận. Khi đã trở thành nếp suy nghĩ và hành xử của cả cộng đồng, đây sẽ là một khía cạnh quan trọng của nền văn hoá đầu tư - yếu tố không thể thiếu cho một nền kinh tế thị trường.
- Thói quen và kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư, mà phổ biến là dịch vụ môi giới chứng khoán. Theo thời gian, người đầu tư sẽ dần dần hình thành được sự tin cậy và uỷ thác cho người môi giới chứng khoán. Người đầu tư ý thức việc trả tiền được hưởng những lợi ích đó, như được cung cấp những ý kiến phân tích, cho lời khuyên về mua, bán sản phẩm nào, lúc nào, thường xuyên chăm sóc tài khoản hộ để người đầu tư có thể dành thời gian cho việc khác, hay đơn giản hơn đó là nơi chia sẻ và giải toả những băn khoan trong lĩnh vực tài chính. Không những thế, người đầu tư còn biết lựa chọn người môi giới phù hợp với mình, biết phòng ngừa và phát hiện những hành vi lạm dụng của người môi giới và khi cần có thể loại bỏ người môi giới này để đến với người môi giới khác, công ty khác. Hơn nữa, những người đầutư am hiểu còn đánh giá được đâu là những rủi ro, không tránh khỏi, đâu là sai lầm của bản thân họ, chứ không quy mọi thất bại của đầu tư cho trách nuhiệm của người môi giới. Yếu tố quan trọng này của môi giới đầu tư một mặt là điều kiện để cho nghề môi giới phát triển lành mạnh song đồng thời cũng là kết quả của quá trình hoạt động lâu dài của nghề môi giới.
- Môi trường pháp lý, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật. Chính hoạt động của các Công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới là yếu tố góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh chứng khoán, bởi lĩnh vực này là nơi phát sinh và bộc lộ rõ những xung đột lợi ích giữa các đối tượng tham gia thị trường. Nếu môi trường pháp lý không đủ chặt chẽ và hiệu lực thì những mâu thuẫn phát sinh, phát triển sẽ dẫn đến những đổ vỡ trên thị trường. Hoạt động môi giới sẽ đưa pháp luật đến với người đầu tư, giúp cho họ luôn có ý thức tìm hiều và tuân thủ pháp luật trong quá trình theo đuổi lợi ích của mình, đồng thời cũng phản ánh những bất cập trong điều chỉnh của khuôn khổ pháp lý tới các nhà làm luật để kịp thời chỉnh sửa. Đó là một đặc trưng quan trọng của nền văn hoá đầu tư.
* Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh.
Để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, điều quan trọng là từng Công ty môi giới và từng người môi giới phải thu hút được nhiều khách hàng tìm đến, giữ chân được những khách hàng đã có, và ngày càng gia tăng được khối lượng tài sản mà khách hàng uỷ thác cho họ quản lý. Các kết quả nghiên cứu cho thấy ở những thị trường phát triển 20% trong tổng số các nhà môi giới - những người thành công nhất - đã tạo ra tới 80% nguồn thu từ hoa hồng cho công ty hoặc cho ngành, và tính trung bình thì một nhà môi giới hàng đầu điển hình tạo ra khoản thu từ hoa hồng nhiều gấp 16 lần mức thu mà một người môi giới trung bình mang lại. Nguyên nhân tạo ra sự khác biệt này chính là quá trình cạnh tranh giữa những người hành nghề môi giới khiến họ phải không ngừng trau dồi nghiệp vụ, nâng cao đạo đức và kỹ năng hành nghề, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và những qui định của Công ty. Quá trình này đã nâng cao được chất lượng và hiệu quả của hoạt động môi giới chứng khoán xét trên toàn cục.
* Hình thành những dịch vụ trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và phong phú thêm cho môi trường đầu tư.
Với phương thức hoạt động là chủ động tìm đến khách hàng, đặc biệt là những khách hàng cá nhân, và đem đến cho họ những dịch vụ tài chính tốt nhất, nên công ty chứng khoán nào cũng có lực lượng người bán hàng rất đông đảo. Ở Thái Lan - một thị trường mới, một công ty chứng khoán cỡ lớn thường có tới 200 nhân viên bán hàng. Ở thị trường Mỹ, những hãng cực lớn như Merrill Lynch có tới 13.000 nhân viên môi giới, những công ty nhỏ cũng có không dưới 1000 nhân viên. Đấy là chưa kể bộ máy xử lý thông tin và cung cấp các báo cáo nghiên cứu cũng như đội ngũ nhân viên tác nghiệp trong hệ thống giao dịch, lưu ký, thanh toán…. tất nhiên không phải ai đã bước vào nghề cũng đều trụ lại được trong nghề, nhất là đối với nghề đòi hỏi cường độ làm việc cao và những phẩm chất và kỹ năng rất đặc biệt như nghề môi giới chứng khoán, song nhìn toàn cục đây là một lĩnh vực hoạt động thu hút nhiều nhân lực. Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho việc xây dựng cơ sở khách hàng của người môi giới, trong xã hội sẽ xuất hiện các dịch vụ khác như cung cấp các danh sách khách hàng tiềm năng được phân loại theo những tiêu chí đề ra bởi người môi giới.
Có thể nói, phát triển nghề môi giới chứng khoán là tạo ra được một lĩnh vực thu hút nhiều lao động có kỹ năng làm phong phú thêm môi trường kinh doanh.
1.1.8 Nguyên tắc hoạt động MGCK
Một trong những nguyên tắc căn bản vận hành thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian, thể hiện rõ nét nhất với vai trò và hoạt động của các nhà môi giới. Các nhà môi giới là những đại diện thu xếp giao dịch cho khách hàng và hưởng hoa hồng. Người môi giới không mua bán chứng khoán cho mình, họ chỉ là người nối kết và giúp thực hiện yêu cầu của người mua, kẻ bán. Chứng khoán và tiền được chuyển dịch qua lại từ khách bán sang khách mua. Trong quá trình đó nhà môi giới không đứng tên chứng khoán. Quần chúng đầu tư thì gọi họ bằng "customer’s man" hay "stockbroker".
Khi cung cấp những lời hướng dẫn hoặc tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư chứng khoán hoặc liên quan đến việc mua bán cổ phiếu niêm yết, vai trò của một nhà môi giới là rất quan trọng. Vậy đâu là những nguyên tắc bắt buộc mà mọi stockbroker phải tuyệt đối chấp hành
- Có những chỉ dẫn phù hợp
Tại phố Wall, Hồng Kông cũng như nhiều thị trường chứng khoán khác, các broker phải cung cấp những lời chỉ dẫn phù hợp với khách hàng trên nguyên tắc:
Lời chỉ dẫn phải phù hợp với mục tiêu đầu tư của khách hàng. Mỗi khách hàng đều có tính cách và mức độ chịu rủi ro khác nhau, vì vậy, khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng, nhân viên môi giới phải làm cho khách hàng hiểu quy luật của việc đầu tư, rủi ro có thể gánh chịu.
Lời hướng dẫn phải tính đến việc phân bổ rủi ro trong đầu tư cho khách hàng, nhất là những rủi ro có thể làm cho khách hàng không đạt được lợi nhuận như mong muốn.
Lời hướng dẫn phải là những số liệu thông tin công khai trước công chúng, không nên dùng những số liệu thông tin là tin đồn hoặc không có cơ sở thực tế. Trường hợp thông tin là ý kiến nhận xét của bản thân thì các broker phải nói rõ cho khách hàng biết đó là ý kiến nhận xét của mình không phải là các số liệu thông tin phân tích thực tế, đồng thời phải để cho khách hàng tự quyết định đầu tư.
Lời hướng dẫn liên quan đến quy mô đầu tư và tần số mua bán phải phù hợp với từng khách hàng và phải tính đến địa vị tài chính và mục đích đầu tư của khách hàng là chính. Không được đưa ra những lời hướng dẫn mua bán chỉ vì mục đích thu phí hoa hồng.
Các broker không được đảm bảo hoặc hứa về lợi ích mà khách hàng sẽ thu được từ việc mua bán chứng khoán, kể cả lời nói hay bằng văn bản. Một broker giỏi sẽ không bao giờ thúc giục khách hàng mua bán mà phải tạo điều kiện cho khách hàng tham khảo thông tin cho đầy đủ trước khi quyết định đầu tư.
- Thực hiện lệnh theo yêu cầu của khách hàng
Thông thường, một broker phải thực hiện lệnh mua bán theo nhu cầu của khách theo thứ tự các bước được quy định sẵn. Việc chuyển lệnh phải đúng theo lệnh đặt của khách hàng và phải cố gắng thực hiện lệnh với giá tốt nhất trong thời điểm đó.
Các broker không được chuyển lệnh giao dịch khi biết khách hàng quyết định mua bán thông qua việc sử dụng thông tin nội gián. Trường hợp biết loại chứng khoán mà khách hàng sẽ mua hoặc bán, hoặc sẽ hướng dẫn cho khách hàng mua bán, các broker không được mua hoặc bán loại chứng khoán đó cho bản thân hoặc cho công ty trước khi mua bán cho khách hàng, dẫn đến việc làm cho khách hàng bị thua thiệt. Một trong những quy tắc của broker trên thị trường là không được quyết định mua bán thay cho khách hàng. - Cư xử công bằng với khách hàng
Một nhân viên broker chứng khoán giỏi bao giờ cũng cư xử với khách hàng một cách công bằng. Họ sẽ thường xuyên hướng dẫn và thực hiện lệnh cho khách hàng một cách bình đẳng và không phân biệt đối xử.
Việc công bố báo cáo phân tích hoặc bất kỳ thông tin số liệu nào có thể tác động đến giá cả chứng khoán, nhân viên broker phải cố gắng thực hiện sao cho khách hàng biết một cách đồng đều để khách hàng có thể sử dụng lợi ích từ các báo cáo, thông tin số liệu trên như nhau.
- Yêu tố tôn trọng và bất khả xâm phạm được đặt lên hàng đầu Một trong những nguyên tắc xuyên suốt tại phố Wall và nhiều thị trường chứng khoán khác là các broker không bao giờ lợi dụng tài sản hay tài khoản giao dịch của khách hàng và phải nghiêm chỉnh thực các hoạt động môi giới theo đúng chức năng của mình.
Các broker trung thực luôn từ chối và tránh xa những lợi ích gì liên quan đến lỗ lãi của khách hàng mặc dù có những trường hợp làm vì mục đích giúp đỡ khách hàng.
- Công bố những xung đột về lợi ích
Trong việc hướng dẫn khách hàng đầu tư, nếu có xung đột về lợi ích giữa công ty với khách hàng hoặc giữa broker với khách hàng mà có thể tác động đến kết quả đầu tư của khách, các broker phải công bố rõ những thông tin liên quan đến xung đột trên cho khách hàng để họ đánh giá, xem xét đầu tư. Các broker giỏi cần phân biệt đâu là trường hợp được coi là xung đột về lợi ích. Đó là trường hợp công ty nắm giữ, tổ chức phân phối hoặc bảo lãnh phát hành một loại chứng khoán nào đó; công ty hay lãnh đạo công ty có mối quan hệ hoặc có lợi ích với một loại chứng khoán nào đó. Trong những trường hợp này, các broker phải thông báo rõ cho khách hàng biết những ý kiến hướng dẫn về loại chứng khoán đó. Ngoài ra, trường hợp công ty hoặc nhân viên broker sẽ mua loại chứng khoán mà khách đặt lệnh bán cho chính mình, các broker phải thông báo tin trên cho khách hàng biết để khách hàng xem xét lại, xem giá mà khách hàng đề nghị bán đã là giá tốt nhất trong thời điểm đó chưa.
- Giữ bí mật cho khách hàng
Một điều tối cần thiết trong hoạt động của các broker là giữ bí mật, không được công bố những thông tin cá nhân, thông tin về mua bán chứng khoán hoặc thông tin liên quan đến tài chính của khách hàng cho người khác biết. Theo quan niệm chung, hành động trên của các broker có thể tác động đến lợi ích hoặc hình ảnh của khách hàng, trừ trường hợp có sự chấp thuận của chính khách hàng hoặc việc công bố theo quy định pháp luật về chứng khoán.
1.2. Phát triển hoạt động MGCK
1.2.1. Khái niệm phát triển hoạt động MGCK
Phát triển hoạt động MGCK bao gồm các hoạt động nhằm thúc đẩy và tăng cường hơn nữa vai trò của trung gian môi giới chứng khoán - một tác nhân không thể thiếu trên thị trường, như đẩy mạnh việc kết nối giữa NĐT mua với NĐT bán chứng khoán,nâng cao chất lượng tư vấn, chăm sóc khách hàng...Từ đó tác động đến sự phát triển chung của TTCK
1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường sự phát triển của hoạt động MGCK.
Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển kéo theo nhu cầu của các nhà đầu tư ngày càng tăng cao, đòi hỏi sự phát triển tương xứng của các loại hình dịch vụ. Trải qua một thời gian dài phát triển của thị trường chứng khoán, dịch vụ MGCK cũng đã thay đổi rất nhiều so với thời kỳ sơ khai. Sự phát triển của hoạt động MGCK được đánh giá bởi rất nhiều chỉ tiêu, cả định tính lẫn định lượng, tuỳ thuộc từng đối tượng, góc độ khác nhau. Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến vấn đề này dưới góc độ một công ty chứng khoán. Do vậy, các chỉ tiêu dùng để đánh giá sự phát triển của hoạt động MGCK có thể được sử dụng như: khả năng thu hút khách hàng thể hiện qua số lượng tài khoản giao dịch và giá trị chứng khoán giao dịch, đóng góp về thu nhập do hoạt động MGCK mang lại thông qua doanh thu môi giới của công ty và cuối cùng là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng được thể hiện qua sự phát triển các sản phẩm dịch vụ mà công ty cung ứng.
1.2.2.1. Số lượng tài khoản giao dịch
Số lượng tài khoản được mở và giao dịch tại công ty chứng khoán là chỉ tiêu phản ánh được mức độ thành công trong việc thu hút khách hàng của nhân viên môi giới. Nó cũng thể hiện được uy tín, vị trí của công ty trên thị trường chứng khoán. Khi khách hàng đến mở tài khoản tại công ty có nghĩa là họ đã tin tưởng vào chất lượng cũng như độ tin cậy của công ty đó. Do vậy, nếu như số lượng tài khoản giao dịch mở tại CTCK tăng lên liên trục trong điều kiện thị trường ổn định chứng tỏ hoạt động thu hút khách hàng là tốt. Không chỉ thế, việc thu hút được một lượng lớn NĐT tham gia giao dịch tại công ty còn đóng góp rất nhiều vào doanh thu môi giới - mục đích chủ yếu của hoạt động môi giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, các CTCK không ngừng có những biện pháp nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng, gây dựng lòng tin bằng chất lượng dịch vụ và sự đa dạng của các tiện ích giúp NĐT đạt được hiệu quả cao nhất.
Tuy nhiên, số lượng tài khoản giao dịch không quyết định hoàn toàn đến doanh thu từ hoạt động MG. Do nhiều khách hàng mở tài khoản nhưng không tiến hành giao dịch mua hay bán hoặc có giao dịch nhưng rất ít. Chính vì thế không đóng góp được nhiều vào doanh thu môi giới.
1.2.2.2. Giá trị chứng khoán giao dịch
Giá trị chứng khoán giao dịch bao gồm cả giá trị chứng khoán mua và bán. Giá trị chứng khoán giao dịch được tính bằng tổng lượng chứng khoán giao dịch mua hay bán nhân với giá giao dịch của từng loại chứng khoán.
Giá trị chứng khoán giao dịch thay đổi qua từng phiên và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường kinh tế, biến động thị trường, tâm lí của nhà đầu tư, tình hình hoạt động của công ty. Chỉ tiêu này phản ánh tần suất giao dịch của một NĐT và cũng từ đó có thể tính được phí môi giới mà công ty thu được. Giá trị chứng khoán giao dịch càng lớn thì chi phí thu được càng cao.
1.2.2.3. Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động môi giới.
Doanh thu và lợi nhuận là các chỉ tiêu định lượng không thể thiếu trong quá trình đánh giá bất cứ một hoạt động kinh doanh nào. Và hoạt động MGCK cũng không là ngoại lệ. Doanh thu môi giới là khoản thu của CTCK từ phí môi giới. Phí môi giới lại bằng giá trị chứng khoán giao dịch nhân với biểu phí môi giới. Mức phí môi giới tại mỗi thị trường, mỗi công ty chứng khoán là khác nhau phụ thuộc vào quy định của mỗi thị trường và chính sách (của mỗi công ty). Mức phí môi giới ảnh hưởng trực tiếp đến việc chuyển khả nhượng của chứng khoán. Mức phí môi giới cao sẽ hạn chế khả năng sinh lời của NĐT do đó hạn chế việc nhà đầu tư mở tài khoản và giao dịch. Mức phí môi giới thấp sẽ thu hút nhà đầu tư đến mở tài khoản và tiến hành giao dịch chứng khoán.
Trong môi trường cạnh tranh, một xu hướng tất yếu là phí môi giới ngày càng hạ thấp. Nhưng chưa hẳn hầu hết các NĐT sẽ bị thu hút bởi một mức phí rẻ, hấp dẫn của một công ty chứng khoán nào đó. Mà nó còn phụ thuộc vào chất lượng cùng các tiện ích mà công ty đó cung cấp. Một công ty có chất lượng dịch vụ tốt, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng sẽ thắng lợi trong cạnh tranh cho dù mức phí môi giới của họ đưa ra cao hơn các công ty khác.
1.2.2.4. Thị phần trong hoạt động MGCK
Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động MG là những chỉ tiêu tốt nhưng không nói lên tất cả sự phát triển hoạt động MGCK của công ty đó. Khi thị trường đi lên, thu hút được nhà đầu tư, việc doanh thu và lợi nhuận tăng lên cũng như bao công ty chứng khoán khác là điều hoàn toàn dễ hiểu. Thế nhưng sự tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty đó lại không bằng các công ty khác thì không thể nói là phát triển tốt được. Ngược lại khi thị trường ảm đạm, đi xuống, nguồn tiền ra khỏi thị trường nhiều, doanh thu và lợi nhuận của các công ty chứng khoán đều giảm nhưng thị phần của công ty đó trên thị trường lại tăng thì chứng tỏ, công ty vẫn rất thu hút được sự quan tâm và tin tưởng của các NĐT, thị phần lớn cũng đồng nghĩa với vị thế cao hơn thể hiện uy tín của công ty trên thị trường. Do đó, thị phần môi giới cũng là một trong các yếu tố không thể thiếu khi đánh giá mức độ phát triển hoạt động môi giới của một công ty chứng khoán.
1.2.2.5 Sự phát triển các sản phẩm dịch vụ
Đánh giá sự phát triển của hoạt động MGCK không chỉ qua các chỉ tiêu trên mà nó còn được phản ánh qua việc hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ nhằm mang đến cho khách hàng những tiện ích tốt nhất, hiệu quả nhất. Thông qua quá trình tiếp xúc, chăm sóc khách hàng và phân tích nhu cầu thị trường, nắm bắt được các yêu cầu của khách hàng, công ty chứng khoán sẽ tạo ra nhiều và ngày càng nhiều hơn nữa các sản phẩm, tiện ích sao cho phù hợp với từng nhóm khách hàng khác nhau. Khách hàng sẽ có được nhiều sự lựa chọn khác nhau để phù hợp nhất với mình. Hiểu để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng sẽ giúp cho mối quan hệ của khách hàng với công ty ngày càng trở nên mật thiết hơn. Qua đó, giữ chân được khách hàng gắn bó lâu dài, lại thu hút được thêm nhiều khách hàng mới, từng bước nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thương trường.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động MGCK.
1.2.3.1. Nhân tố khách quan
Đó là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động môi giới, khó có thể kiểm soát được. Nó tác động chung đến tất cả các công ty chứng khoán dù nhiều hay ít.
* Sự phát triển chung của thị trường chứng khoán.
Hoạt động MGCK chịu ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát triển của thị trường chứng khoán. Hay nói rõ hơn sự phát triển của TTCK và hoạt động MGCK tỉ lệ thuận với nhau. Hoạt động MGCK khó có thể phát triển khi mà thị trường kém hấp dẫn của NĐT. Và ngược lại, hoạt động MGCK không thể không tăng trưởng nhanh trong thời kỳ thị trường tạo ra nhiều lợi nhuận. Khi thị trường phát triển, đây sẽ là một kênh đầu tư hấp dẫn, lãi nhiều khiến cho các NĐT không ngừng tham gia, kéo theo nâng cao nhu cầu MGCK. Thêm vào đó, các hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú, đa dạng. Việc lựa chọn đầu tư vào loại chứng khoán nào không phải là điều dễ dàng. Bên cạnh sự đa dạng của hàng hoá thì cũng có sự xuất hiện của nhiều loại rủi ro mới mà không phải ai cũng lường trước được. Do vậy, vai trò của nhà MGCK càng được khẳng định hơn. Mặt khác, trước sự cạnh tranh của các công ty chứng khoán bắt buộc mỗi công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm tiện ích mới phù hợp với nhu cầu đầu tư, từ đó nâng cao uy tín của công ty cũng như tác động tích cực đến chất lượng hoạt động MGCK.
* Thu nhập và thói quen đầu tư
Nhân tố này ảnh hưởng khá nhiều đến sự phát triển hoạt động MGCK. Đơn giản thế này, những quốc gia phát triển, dân cư thu nhập cao, các kênh đầu tư đa dạng, khi có thu nhập, người dân thường không có thói quen dùng tiền để cất trữ tại nhà mà sẽ dùng để đầu tư sinh lời. TTCK là một kênh đầu tư sinh lời cao, thu hút được rất nhiều người tham gia. Do vậy, công việc của nhà môi giới cũng sẽ tất bật hơn. Với số lượng khách hàng nhiều, doanh số giao dịch lớn thì hoạt động môi giới chứng khoán ngày càng phát triển.
Ngược lại là đối với các nước kém phát triển, thu nhập phần lớn được sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Vì vậy lượng tiền nhàn rỗi rất ít. Họ thường có thói quen giữ tiền bên mình hoặc gửi tiền vào ngân hàng thay vì đầu tư mạo hiểm. Tại những nước này thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, các kỹ năng tiếp cận khách hàng của nhân viên môi giới còn kém do đó chưa thể thay đổi tâm lý cố hữu trong dân thường lo sợ mất tiền hơn là kiếm được tiền. Sự hiểu biết của dân cư đối với TTCK còn hạn chế, người đầu tư chưa có chiến lược cụ thể khi tham gia thị trường mà chủ yếu hành động theo phong trào. Bởi vậy, hoạt động môi giới tại những quốc gia này chắc chắn là không có điều kiện phát triển như ở những nước mà dân chúng có mức thu nhập cao.
* Luật pháp và môi trường đầu tư:
Một quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội ổn định, vững mạnh sẽ tạo được lòng tin đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi tham gia vào thị trường, các công ty cũng sẵn sàng mở rộng quy mô hoạt động. Chính điều đó buộc các CTCK phải hoạt động có hiệu quả nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường, trong đó hoạt động MGCK cần được ưu tiên hàng đầu vì môi giới là người đầu tiên trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Ngược lại, ở những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội không ổn định với sự hoạt động kém hiệu quả của thị trường tài chính sẽ làm các nhà đầu tư e dè khi tham gia vào thị trường. Từ đó tác động tiêu cực đến hoạt động của các CTCK nói chung và hoạt động MGCK nói riêng.
Ngoài ra, khi tham gia vào thị trường, các nhà đầu tư quan tâm rất nhiều đến chính sách quản lý của nhà nước. Tuỳ vào đặc điểm, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà mỗi quốc gia có chính sách quản lý riêng về CK và TTCK. Một chính sách quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ có tác dụng to lớn tới việc thúc đẩy hoạt động MGCK của các CTCK. Trái lại, một chính sách cứng nhắc, thiếu hợp lý sẽ gây nhiều hạn chế cho hoạt động MGCK, từ đó ảnh hưởng không tốt đến các CTCK. Hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng tác động rất lớn đến sự tham gia của nhiều chủ thể nói chung và nhà đầu tư nói riêng. Một hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, có hiệu lực và luôn đảm bảo sự công bằng, bảo vệ quyền lợi người đầu tư sẽ là nhân tố thúc đẩy khuôn khổ các quy định của luật pháp. Vì vậy, hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước sẽ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng.
1.2.3.2. Nhân tố chủ quan
Đó là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động môi giới của CTCK. Những nhân tố này xuất phát từ chính bản thân công ty, vì thế có thể cải thiện và nâng cao được.
* Chất lượng nhân viên môi giới chứng khoán
Chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định hàng đầu của mọi công ty nói chung và công ty chứng khoán nói riêng. Một công ty không thể hoạt động hiệu quả khi nó mang trong mình một đội ngũ nhân viên yếu kém, thiếu năng lực. Đối với công ty chứng khoán cũng vậy, hoạt động môi giới khó có thể phát triển tốt nếu như đội ngũ nhân viên môi giới kém năng động. Thành công của nhân viên môi giới cũng là thành công của công ty chứng khoán. Với một đội ngũ nhân viên môi giới giỏi, với sự tinh thông nghiệp vụ cá nhân có thể đem lại những khoản lợi nhuận đáng kể cho công ty.
Còn ngược lại, sự mất uy tín của một nhân viên môi giới nào đó sẽ là thiệt hại lớn cho chính công ty đó. Nhà môi giới được coi như bộ mặt của công ty chứng khoán. Trong một thị trường đầy tính cạnh tranh, uy tín là điều quan trọng nhất. Nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm đến MGCK nhưng cũng không khó để loại họ ra. Thị trường sẽ tự đào thải những nhân viên MG yếu kém về năng lực và tư cách đạo đức. Vì vậy, các CTCK muốn giành thắng lợi trong cạnh tranh thì trước tiên phải xây dựng được một đội ngũ nhân viên MG mạnh về nghiệp vụ, giỏi về chuyên môn và nhất thiết phải có đạo đức nghề nghiệp để chiếm được lòng tin của khách hàng, nâng cao uy tín cho công ty và từng bước phát triển hoạt động môi giới.
* Chiến lược kinh doanh của công ty
Mỗi chính sách chiến lược khác nhau sẽ tạo ra được những hiệu quả khác nhau. Nhận thức của ban lãnh đạo công ty về tầm quan trọng của hoạt động môi giới đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của một CTCK. Một CTCK mà hoạt động môi giới không mạnh thì công ty đó sẽ khó tạo được chỗ đứng, danh tiếng và uy tín trên thị trường cho dù công ty kinh doanh có lãi từ nhiều mảng khác. Chính vì vậy, cần xác định hoạt động môi giới là hoạt động trọng tâm, cần được đầu tư thích đáng. Từ đó, ban lãnh đạo công ty sẽ đề ra những chiến lược định hướng phát triển, để tạo ra được các chính sách phù hợp với yêu cầu của NĐT, xây dựng các chính sách khách hàng, chính sách đào tạo, tuyển dụng cán bộ, chính sách đãi ngộ, lương thưởng cho nhân viên hay tăng cường hoạt động kiểm soát…
* Biểu phí dịch vụ môi giới
Một mức phí môi giới rẻ sẽ tạo được sức hút lớn đối với nhà đầu tư tham gia mở tài khoản và tiến hành giao dịch. Từ đó mở rộng được mạng lưới khách hàng, nâng cao doanh số, thị phần, góp một phần lớn vào sự phát triển của hoạt động môi giới.
Nhưng bên cạnh biểu phí hợp lý thì công ty chứng khoán cũng cần chú trọng đến việc nâng cao chất lượng các sản phẩm tiện ích sao cho phù hợp với từng loại nhà đầu tư.
*Uy tín và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán
Uy tín là một điều không thể thiếu được trong kinh doanh. Và trên thị trường chứng khoán mang đầy rẫy những rủi ro thì nó lại càng quan trọng hơn. Một công ty chứng khoán khi đã mất uy tín, không có độ tin cậy thì sẽ không thể tồn tại được. Khi mới tham gia đầu tư hay đã đầu tư, khách hàng đều muốn tìm đến những nhà cung cấp dịch vụ tốt nhất, có uy tín nhất để thay mặt họ thực hiện các quyết định đầu tư.
Qui mô hoạt động của công ty chứng khoán cũng là một yếu tố góp phần lớn trong việc thu hút nhà đầu tư đến với họ. Một công ty có vốn lớn, được đầu tư trang thiết bị hiện đại, tiện dụng mặt bằng ở một vị trí đẹp dễ quan sát, website quảng bá được đầu tư nhiều sẽ giúp cho hình ảnh của công ty dễ dàng đến với nhà đầu tư hơn.
Một công ty chứng khoán có uy tín và qui mô hoạt động rộng lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với mình, do đó số lượng tài khoản sẽ không ngừng tăng lên, ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển hoạt động MGCK.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MGCK TẠI CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN VNDIRECT
2.1 Giới thiệu chung về VNDS
2.1.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
VNDirect là công ty thành viên của tập đoàn đầu tư IPA, một tập đoàn hoạt động trong lĩn._.:
- Trở thành một công ty thuộc Top đầu trong việc cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán.
- Mở rộng thị trường ra các chi nhánh ở các tỉnh thành trên cả nước
- Đạt mức tăng trưởng cao và ổn định.
- Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tiện ích tốt nhất, giúp khách hàng đạt hiệu quả đầu tư cao nhất có thể.
Để đạt được những mục tiêu trên nếu không có sự nỗ lực hết mình thì khó có thể thành công được. VNDS đã được những nhiệm vụ trước mắt cần phải thực hiện:
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyển dụng thu hút nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ mạnh về chuyên môn, vững về nghiệp vụ, có tâm huyết, giúp công ty nắm bắt kịp thời những cơ hội thời cơ kinh doanh cũng như vượt qua các khó khăn thử thách tiềm ẩn trên thị trường.
- Ổn định tổ chức, cơ cấu các phòng ban trong công ty làm sao cho hệ thống hoạt động hiệu quả nhất, đảm bảo thích ứng nhạy bén với thị trường, nội bộ vững mạnh tạo một khối đoàn kết, hết lóng cho sự phát triển của công ty.
- Thúc đẩy hoạt động quảng bá hình ảnh của công ty, từng bước nâng cao uy tín và mở rộng thị phần trên cơ sở lấy chất lượng làm trọng.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản làm khung pháp lý cho mọi hoạt động của công ty từ điều hành đến nghiệp vụ đảm bảo mọi hoạt động đều phù hợp với quy định của pháp luật.
3.2. Các giải pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại VNDS
Từ việc phân tích những hạn chế và nguyên nhân tồn tại những hạn chế đó đến việc đặt ra các nhiệm vụ, mục tiêu và phương hướng hoạt động cụ thể ở trên, để có thể phát triển hơn nữa hoạt động môi giới chứng khoán tại VNDS, tôi xin được đưa ra một vài giải pháp như sau
3.2.1. Xây dựng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp cả về chất và lượng gắn liền với chế độ lương thưởng hợp lý.
Từ thực tế hoạt động kinh doanh, có thể nói nguồn nhân lực luôn là nhân tố tiên quyết góp phần mang lại thành công trong mọi lĩnh vực cho các công ty. Vì vậy, để đem lại hiệu quả hoạt động ngày càng cao, trước hết VNDS cần xây dựng cho mình một chính sách phát triển nguồn nhân lực hợp lý, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Để thực hiện tốt điều đó, cần xem xét một số giải pháp sau:
* Đặt ra các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp riêng cho đội ngũ nhân viên môi giới của công ty.
Để thu hút được khách hàng, đối với bất kỳ một công ty nào, vấn đề đặt ra là phải tạo được sự tin cậy, sự tin cậy là tiêu chí đầu tiên để khách hàng đến với một nhà cung cấp dịch vụ môi giới. Điều mà khách hàng kỳ vọng nhất ở nhà môi giới đó cảm nhận rằng nhà mô giới này luôn đặt lợi ích của họ lên hàng đầu. Do vậy một yêu cầu bắt buộc đối với mội nhân viên mô giới là phải luôn đặt đạo đức nghề nghiệp lên cao nhất, luôn tư vấn và thực hiện lệnh cho khách hàng với tinh thần trách nhiệm cao nhất, công bằng nhất. Về phía công ty cần xây dựng các chuẩn mực đạo đức của nhà mô giới để tự họ và chính khách hàng đánh giá. Đạo đức của nhân viên hình thành nên uy tín của công ty không để tình trạng “con sâu làm giàu nồi canh”, cần có những hình phạt nghiêm khắc đối với những người vi phạm.
* Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của nhân viên môi giới.
Một nhân viên có đạo đức thôi chưa đủ nếu không có trình độ. Năng lực của nhân viên cũng là thước đo sự thành công của nhà đầu tư. Chính vì vậy một đội ngũ nhân viên lành nghề chuyên nghiệp là một tài sản quý báu của bất cứ một công ty nào, quyết định sự thành bại của công ty đó. Cần có sự lựa chọn kỹ càng những nhân viên đủ phẩm chất năng lực phù hợp với mọi vị trí khác nhau trong công ty. Điều này cần phải được chú trọng ngay từ công tác tuyển dụng nhân sự. Bên cạnh những người có trình độ học vấn thì cũng cần có những người có kinh nghiệm, nhất là trong lĩnh vực tài chính.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt công ty cũng cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Liên tục cập nhật cho nhân viên những kiến thức kĩ năng mới nhất. Với thực trạng như hiện nay nguồn nhân lực tuy không thiếu nhưng có chất lượng thì không nhiều. Vì vậy công ty cần xây dựng các phương án đào tạo chuyên nghiệp, xây dựng đội ngũ cán bộ môi giới có chuyên môn sâu.
* Xây dựng chế độ lương thưởng hợp lý, tạo hưng phấn làm việc cho nhân viên.
Bên cạnh vấn đề môi trường làm việc và sở thích của mỗi người chế độ lương thưởng cũng là một trong những yếu tố quan trọng để giữ chân nhân tài. Công ty không thể chỉ muốn mất một chi phí trả lương thấp trong khi lại muốn có một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp. Điều đó là không bao giờ có. Dễ dàng nhận thấy một thực tế tại Việt Nam là công ty nước ngoài luôn thu hút được rất nhiều nhân viên giỏi. Vì sao? Không chỉ bởi một môi trường làm việc hiện đại chuyên nghiệp mà còn vì họ được trả lương cao, cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy để tránh tình trạng chảy máu chất xám các công ty nói chung và VNDS nói riêng, cần xây dựng một chế độ đãi ngộ thưởng phạt hợp lý. Đặc biệt là đối với hoạt động môi giới chứng khoán thu nhập nên gắn với doanh số hoạt động có như vậy nhân viên mới cố gắng hết mình cho sự phát triển của công ty. Ngoài ra công ty cần đặc biệt chú trọng đến môi trường làm việc và văn hoá doanh nghiệp cũng là những điều kiện tiên quyết tạo ra tâm lý hứng khởi, an toàn và gắn bó với công việc. Có như vậy VNDS mới tạo được lòng say mê nghề nghiệp và kích thích sự nhiệt tình ở những nhân viên của mình.
3.2.2. Từng bước hoàn thiện chất lượng nghiệp vụ.
Chất lượng dịch vụ là một trong những nhân tố quan trọng nhất để giữ chân khách hàng. Chất lượng dịch vụ thể hiện một phần ở chất lượng nghiệp vụ của nhân viên môi giới. Vì vậy cần có sự chú trọng thích đáng đến vấn đề này trong việc đầu tư phát triển.
* Chuyên m«n hoá nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên môi giới chứng khoán.
Hoạt động môi giới chứng khoán bao gồm rất nhiều các hoạt động nhỏ khác: tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng,tư vấn nhận lệnh, đọc lệnh, chăm sóc khách hàng… vì vậy thật khó để một nhân viên có thể cáng đáng toàn bộ các công việc này. Nếu có thể thì hiệu quả làm việc cũng không cao. Việc chuyên môn hoá từng giúp cho hiệu quả được nâng lên mức cao nhất, sắp xếp nhân viên phù hợp với từng công việc cụ thể.
Ngay trong việc đọc lệnh cũng lên tiến hành thử để tạo ra các cặp đọc nhập lệnh sao cho ăn ý nhất để lệnh được nhập nhanh nhất. Những nhân viên khéo ăn nói quan hệ rộng nên phân cho nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng và chăm sóc. Làm được việc đó năng lực ngày càng được nâng cao đồng thời hiệu quả mang lại cũng ngày càng lớn.
* Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu phân tích thị trường
Mặc dù các nghiệp vụ của công ty được tách riêng và được cấu trúc thành các phòng ban khác nhau nhứng hoạt động của chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau mà trong đó, hoạt động nghiên cứu, phân tích thị trường là hoạt động có liên quan khá trực tiếp và có ý nghĩa rất lớn tới sự phát triển của hoạt động mô giới chứng khoán. Điều này thể hiện ở hai khí cạnh sau:
Thứ nhất: Hoạt động nghiên cứu, phân tích thi trường phát triển sẽ cung cấp thông tin một cách chính xác và cập nhật cho nhân viên môi giới, giúp họ nắm bắt được nhanh chóng diễn biến của thị trường, từ đó dự đoán chính xác hơn về xu thế giá cả chứng khoán trong tương lại. Điều này giúp các nhân viên môi giới có thể tư vấn một cách chính xác hơn, tăng lợi nhuận và giảm rủi ro cho khách hàng. Qua đó, nhân viên môi giới chứng minh được tính chuyên nghiệp của mình và nâng cao uy tín của bản thân cũng như của công ty.
Thứ hai: Đầu tư chứng khoán rất cần thông tin. Mong muốn khách hàng khi đến với CTCK không chỉ là được thực hiện lệnh một cách đầy đủ, kịp thời mà còn được cung cấp thông tin một cách cập nhật, chính xác, giúp ích cho những quyết định đầu tư. Do đó, công ty nào có bộ phận nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp, cung cấp cho khách hàng các bản tin thị trường nhanh chóng, chính xác, công ty đó sẽ thu hút được đông đảo người đầu tư đến với mình.
* Phát triển hoạt động thu hút khách hàng, giành thị phần.
Làm thế nào để thu hút được khách hàng? Làm thế nào để giành được thị phần? Đó luôn là những câu hỏi hốc búa nhất đối với các nhà quản lý. Hoạt động thu hút khách hàng luôn là hoạt động trọng tâm của các nhà cung cấp dịch vụ sản phẩm. Có kéo được khách hàng về với mình thì mới nâng cao được lợi nhuận. Chính vị vậy, VNDS cÇn thóc đẩy hơn nữa hoạt động này thông qua đội ngũ môi giới. Gắn trách nhiệm lợi ích của nhân viên với công việc. Thêm vào đó là các biện pháp nhằm tiếp thị, quảng cáo mang hinhd ảnh công ty đến với tộng rãi công chúng như việc đầu tư marrketing, phát triển website. Cũng có thể tiến hành tiếp thị trên các trang báo điện tử, các phương tiện truyền hình, thông tin đại chúng như báo chứng khoán Việt Nam, bản tin thị trường chứng khoán, báo đầu tư chứng khoán thời báo ngàn hàng và các báo kinh tế khác. Công ty ở một vị trí đẹp, đông đúc, dễ quan sát cũng dễ thu hút được khách hàng. Ngoài ra có thể tặng quà cho khách hàng vào những dịp đặc biệt…. Dù chỉ là những món quà nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất lớn, cảm giác gần gũi hơn giữa công ty và khách hàng.
* Hoàn thiện đa dạng hoá các sản phẩm tiện ích phục vụ khách hàng.
Trong sự khó khăn chung của nền kinh tê, sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán ngày càng trở nên gay gắn quyết liệt hơn. Cái mà các công ty mang đến trực tiếp cho khách hàng là các sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm có tốt, dịch vụ có đa dạng mới thu hút và giữ chân được khách hàng. Việc hàng loạt các công ty chứng khoán ra đời kéo theo sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt sự sáng tạo các sản phẩm mới phù hợp với từng nhóm khách hàng là rất cần thiết.
Một trong những hoạt động dịch vụ mà VNDS nên nâng cao chất lượng trước mắt chính là hoạt động tư vấn cho khách hàng. Xuất phát từ thực tế là vẫn có rất nhiều nhà đầu tư chưa có hiểu biết nhiều về chứng khoán cũng như đầu tư về chứng khoán khả năng đánh giá phân tích còn nhiều hạn chế do vậy họ rất cần những lời tư vấn chuyên nghiệp từ phía nhà mô giới. Vì thế, công ty nào thực hiện hoạt động tư vẫn một cách chuyên nghiệp hiệu qaur tận tình chu đáo công ty đó sẽ là điểm đến của khách hàng.
Hiện tại năng lực tư vấn của VNDS là khá tốt nhưng vẫn cần phải đẩy mạnh hơn nữa. Nâng cao năng lực tư vẫn cũng là một phương thức để nâng cao chất lượng của dịch vụ môi giới chứng khoán nhằm đưa ra những lời khuyên hợp lý và có chất lượng từ đó tạo sự thu hút, hấp dẫn khách hàng.
Bên cạnh đó cũng cần phát triển đồng bộ các mảng khác như cung cấp dịch vụ uỷ thác đầu tư, quản lý danh mục đầu tư…. nhằm thoả mãn tối đa các nhu cầu của khách hàng, từ đó giữ chân được các khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới và cũng tạo thêm doanh thu cho công ty.
* Tăng cường mối quan hệ với khách hàng, tìm hiểu thêm thông tin cá nhân để có những lời tư vấn phù hợp.
Hoạt động môi gới giúp gắn chặt nhà đầu tư với công ty chứng khoán, cả về trách nhiệm và lợi ích. Vì vậy việc hiểu rõ về khách hàng sẽ giúp công ty phục vụ và mnag đến những sản phẩm với tư vấn phù hợp nhất, nâng cao hiệu quả đầu tư, hạn chế rủi ro cho khách hàng và chính công ty chứng khoán.
Hiện nay mẫu hợp đồng mở tài khoản được quy định thống nhất trong văn bản pháp lý và trong đó một số thông tin về khách hàng là không bắt buộc phải kê khai. Thế nhưng công ty nên khuyến khích khách hàng cho biết những thông tin đó nhằm mang lại lợi ích tốt hơn cho khách hàng. Một trong những thông tin quan trọng nữa khách hàng nên cung cấp đó là mục tiêu đầu tư của khách hàng. Đây là thông tin giúp nhân viên môi giới đưa ra những khuyến nghị phù hợp cho từng đối tượng khách hàng.
* Xây dựng một biểu phí hợp lý.
Phí môi giới là 1 trong những nhân tố quan trọng trong việc thu hút khách hàng. Với chất lượng dịch vụ không hơn nhau là mấy, công ty nào có phí môi giới rẻ hơn sẽ hấp dẫn được khách hàng đến với mình.
Hiện tại mức phí môi giới tại VNDS là 0,1% với giao dịch tại sàn và 0,2% với giao dịch qua điện thoại hay online. So với các công ty chứng khoán khác, VNDS là một trong những công ty có mức phí giao dịch rẻ nhất. Đây thực sự là một trong những lợi thể của VNDS, công ty nên tiếp tục phát huy lợi thế này.
Ngoài ra công ty cũng lên thường xuyên có những ưu đãi cho nhóm khách hàng lớn khách hàng mới mở tài khoản…như tặng thêm tiền vào tài khoản mở mới và tài khoản của người giới thiệu, miễn phí giao dịch 1 tháng đầu của tài khoản mới… Trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, những yếu tố này là hết sức quan trọng.
3.2.3. Các giải pháp về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Ngày nay, dưới sự phát triển của khoa học kĩ thuật CNTT, cơ sở vật chất kĩ thuật là một phần không thể thiếu góp phần nâng cao năng lực phục vụ, giảm chi phí và tăng cường hình ảnh, uy tín cho tất cả các công ty. Chính vì vậy, việc chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật một mặt sẽ nâng cao chất lượng nghiệp vụ, giảm thiểu được lỗi xảy ra, một mặt nâng cao uy tín và mang hình ảnh của công ty đến rộng rãi công chúng đầu tư. Một số giải pháp được đưa ra gồm :
* Nâng cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, hiện đại hoá hệ thống IT.
Công ty chứng khoán Vndirect sử dụng hệ thống IT do chính công ty thiết lập khác hẳn với các hệ thống mua từ nước ngoài của các công ty chứng khoán khác. Chính vì vậy cũng có những ưu và nhược điểm hơn. Công ty cần đầu tư và nâng cấp hơn nữa nhằm hoàn thiện hệ thống này, tối thiểu các lỗi xảy đến với khách hàng. Ngoài ra, cần chuẩn bị sẵn các chương trình dự phòng, kế hoạch ứng phó sẵn sàng với tình trạng bị xâm phạm bất hợp pháp, bị mất liên lạc mất thông tin trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp.
* Mở rộng mạng lưới và phạm vi hoạt động.
Hiện nay ở nước ta với lượng dân số rất đông nhưng lượng tài khoản giao dịch chứng khoán thì khá khiêm tốn. Một phần do thị trường mới được thành lập. Hai nữa là do tầm hiểu biết thói quen đầu tư trong dân chúng còn ít. Vì vậy đây thực sự là một thị trường tiềm năng cho các công ty chứng khoán. Lấy một ví dụ đơn giản như trong thời kỳ thị trường lên đỉnh, trên 1000 điểm, sàn giao dịch của các công ty chứng khoán liên tục trong tình trạng đông nghẹt người, nhà đầu tư chen lẫn xô đẩy, tranh nhau đặt lệnh. Có thể thấy là quy mô cuả các công ty chứng khoán chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu của nhà đầu tư vào những thời điểm thích hợp công ty cần đầu tư mạnh hơn nữa về cơ sở vật chất, mở rộng mạng lưới chi nhánh, đại lý nhận lệnh không chỉ tại các thành phố lớn mà còn ở các tỉnh lẻ, nơi cũng có không ít những người quan tâm đến đầu tư. Có như thế mới nâng cao được thị phần, tăng doanh thu cho công ty.
3.3. Kiến nghị.
3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ.
Mặc dù đã hoạt động được hơn 9 năm, nhưng thực sự thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ ở thời kỳ sơ khai, không chỉ yếu về mặt quy mô mà còn kém cả về chất lượng. Yêu cầu phát triển thị trường thành một kênh dẫn vốn hiệu quả vừa đáp ứng nhu cầu đầu tư của công chúng vừa giúp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đã và đang là một đòi hỏi cấp bách. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ từ phía chính phủ, rất cần những biện pháp, hoạt động thực tế tác động tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung và hoạt động MGCK nói riêng.
* Hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và TTCK, thể chế và chính sách.
Để thị trường chứng khoán hoạt động một cách có quy củ, rất cần có một hệ thống pháp luật chặt chẽ và đồng bộ. Việc luật chứng khoán có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2007 được coi là một trong những sự kiện tiêu biểu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy vậy việc thực thi luật vẫn còn rất nhiều vướng mắc, không thể giải quyết ngay một sớm một chiều mà cần có thời gian để đúc rút kinh nghiệm từ đó sửa đổi sao cho phù hợp nhất. Ngoài ra cũng cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn việc thực thi luật một cách cụ thể để luật nhanh chóng được áp dụng và đi vào thực tế một cách hiệu quả nhất.
Như đã nói ở trên đạo đức nghề nghiệp đối với một nhân viên môi giới là một điều tối quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thị trường. Vì vậy, việc đảm bảo nghiêm ngặt các nguyên tắc và chuẩn mực điều chỉnh mối quan hệ giữa người môi giới và khách hàng, giữa những nhà môi giới với nhau, với CTCK, là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo một thị trường công bằng, minh bạch và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Ngoài ra, Chính phủ nên nới lỏng một số hạn chế trong hoạt động của CTCK, vừa để các công ty này độc lập phát triển vừa hỗ trợ bên ngoài.
* Hỗ trợ thị trường phát triển bằng việc tăng cung chứng khoán cả về lượng và chất.
Thị trường chứng khoán cần phải phát triển một cách đồng bộ cả cung và cầu. Lấy ví dụ ngay trong năm 2006, việc chênh lệch lớn giữa cung và cầu đầu tư dẫn đến việc lượng vốn vào TTCK quá nhiều gây ra “bong bóng tài chính”. Không chỉ có các nhà đầu tư cá nhân trong nước mang tâm lý phong trào,chủ yếu đầu tư ngắn hạn mà còn có cả luồng vốn của các ngân hàng. Tuy lượng vốn đổ vào TTCK rất lớn nhưng các công ty lớn trong nước được cổ phần hoá và lên sàn giao dịch chưa nhiều, chất lượng công bố thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của tính minh bạch và bình đẳng. Vì vậy, thiết nghĩ Chính phủ cần thực hiện một số hoạt động như:
_Sớm tăng cung cho TTCK thông qua đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng gắn cổ phần hoá với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đưa thêm nhiều tổng công ty, công ty lớn vào cổ phần hoá nhằm thu hút vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng của đất nước.Song song với việc đưa các công ty lớn lên sàn giao dịch chính thức cần tăng cường tính công khai minh bạch của TTCK, nhất là TTCK tự do. Bắt buộc các công ty cổ phần khi bán cổ phiếu ra công chúng phải được kiểm toán và minh bạch tài chính, không được xảy ra hiện tượng đầu cơ, lừa đảo khi bán cổ phiếu ra thị trường.
- Phát triển cả các loại chứng khoán khác như: quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro, tăng sự lựa chọn cho nhà đầu tư.
Việc tăng cung cho thị trường chứng khoán cần đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Có như vậy mới có thể củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, từ đó thu hút được lượng lớn tiền nhàn rỗi vào phát triển kinh tế.
3.3.2. Đối với UBCK nhà nước và các cơ quan chức năng.
* Tăng cường đào tạo phổ biến kiến thức về chứng khoán và đầu tư cho rộng rãi công chúng.
Do mới hoạt động được vài năm, nên TTCK còn khá là mới mẻ đối với dân chúng. Trong khi đó, họ mới là đối tượng quan trọng, có tiềm năng to lớn về vốn đầu tư và mới thực sự là nguồn vốn nhàn rỗi cần thu hút. Muốn thu hút được lực lượng này đến với thị trường cần phải nâng cao hiểu biết cho họ để họ thấy rằng đầy thực sự là một kênh đầu tư hiệu quả, an toàn . UBCKNN cần phối hợp với các ban ngành liên quan để tổ chức đào tạo kiến thức về chứng khoán cho cả cán bộ nhân viên, sinh viên và mọi tầng lớp dân cư khác thông qua các hoạt động:
- Khai giảng các lớp học phổ biến kiến thức chứng khoán cơ bản miễn phí.
- Thực hiện các chương trình tìm hiểu về chứng khoán và TTCK trên truyền hình, truyền thanh.
- Tổ chức các sàn chứng khoán ảo, vừa thu hút tham gia có giải thưởng nhỏ, vừa tạo cơ hội tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm.
- Phát hành các tài liệu về chứng khoán phục vụ nhu cầu tìm hiểu của nhà đầu tư và sinh viên chuyên ngành cũng như các đối tượng quan tâm.
- Tổ chức các buổi nói chuyện về chứng khoán mở cửa tự do miễn phí để khuyến khích đông đảo các thành phần tham gia.
* Tăng cường năng lực quản lý giám sát các thành phần tham gia thị trường.
Thị trường chứng khoán phát triển luôn tiềm ẩn nhiều lỗ hỏng mà khó có thể loại bỏ hết được, chỉ có thể hạn chế được nhiều hay ít mà thôi. Vì vậy vai trò của các cơ quan chủ quản trong việc giám sát quản lý là hết sức quan trọng, các cơ quan chức năng cần thay mặt chính phủ giám sát và hỗ trợ các công ty thực hiện tốt về quản trị công ty, thực hiện nghiêm túc các chế độ kế toán, kiểm toán. Tăng cường quản lý việc công bố thông tin và nghĩa vụ của các công ty niêm yết đối với nhà đầu tư. Đặt ra những hình phạt nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp cố tính vi phạm, gây mất lòng tin trong giới đầu tư. Bên cạnh đó, UBCK cũng cần phải nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho thị trường, hỗ trợ cho các nhà đầu tư thông qua website của mình.
* Nâng cấp hệ thống đào tạo hành nghề cho NVMG.
Sự phát triển của thị trường chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào lực lượng MGCK. Vì vậy việc tăng cường đội ngũ này là rất cần thiết. Thế nhưng cũng không thể tăng một cách ồ ạt mà phải có chất lượng. MGCK có thể giúp thị trường chứng khoán tăng trưởng nhưng cũng có thể phá hỏng hết cả thị trường .Thế nên cần định hướng lâu dài cho công tác đào tạo để có được đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho các CTCK nói riêng và cho TTCK nói chung. Cần nhanh chóng đưa ra các giải pháp đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này như: xây dựng và soạn thảo các chương trình đào tạo chuyên sâu về MGCK, củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đặc biệt chú trọng việc mời các chuyên gia nước ngoài đã tham gia hoạt động thực tiễn trên TTCK tham gia giảng dạy.
Mặt khác tổ chức nhiều đợt thi lấy chứng chỉ hành nghề môi giới, chứng chỉ bắt buộc với mọi nhà môi giới. Cần nâng cao điều kiện cấp chứng chỉ, đòi hỏi nhân viên môi giới phải tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn nữa. UBCKNN cần có chương trình đào tạo riêng cho nhân viên môi giới. Hơn nữa có thể đưa thêm điều kiện về tài chính cho chế tài xử phạt nhân viên môi giới khi nhân viên đó vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp. Qua đó nâng cao ý thức học hỏi và trách nhiệm của nhân viên môi giới đối với CTCK và với khách hàng.
3.3.3.Kiến nghị đối với công ty chứng khoán Vndirect.
* Nâng cấp hơn nữa hệ thống IT, phát triển cơ sở vật chất.
Tuy chỉ mới ra đời được hơn 2 năm, nhưng những thành tựu mà VNDS đạt được là rất đáng khen. Một trong những thành tựu riêng có đó là công ty đã thiết lập một hệ thống IT riêng do 30 chuyên viên về công nghệ thông tin điều hành trong đó có 15 người chuyên về phần mềm. Gần đây, Vndirect vừa mới được chọn là 1 trong 10 công ty chứng khoán đầu tiên giao dịch không sàn với HOSE, và 1 trong 5 công ty chứng khoán đạt tiêu chuẩn kĩ thuật về kết nối giao dịch trực tuyến qua Internet, Vndirect là đơn vị có tốc độ xử lý lệnh nhanh nhất. Tuy nhiên do thị trường mới còn sơ khai, lượng tài khoản và lệnh giao dịch nhỏ nên lỗi hệ thống vẫn còn ít. Khi thị thường phát triển hơn nữa, lệnh nhập vào hệ thống nhiều thì rất có thẻ xảy ra tình trạng “ thắt nút cổ chai”. Vì vậy công ty cần phải liên tục cập nhật hoàn thiện hơn nữa, giảm thiểu tối đa lỗi xảy đến khi thị trường nóng, đem lại hiệu quả cao nhất có thể cho nhà đầu tư.
Cần thúc đẩy hoạt động mở rộng thị trường hoạt động thông qua các chi nhánh, đại lý nhận lệnh trên toàn quốc nhằm thu hút thêm khách hàng. Nhưng việc đầu tư mở đại lý cần được nghiên cứư kỹ lưỡng về nhu cầu cũng như vị trí hoạt động, tránh tình trạng dàn trải, nhiểu nhưng không hiệu quả. Công ty có thể tìm một đối tác đã hoạt động lâu dài, có kinh nghiệm ở địa phương đó để hợp tác phát triển, đôi bên cùng có lợi. Việc mở đại lý nhận lệnh nên đi kèm với việc nâng cao trình độ cho đôi ngũ nhân viên ở đây. Ngoài ra cũng nên tổ chức các buổi thuyết trình giới thiệu về TTCK tại các chi nhánh, đại lý nhận lệnh.
* Tăng chi cho vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng chuyên nghiệp luôn là vấn đề cấp thiết. Hiện nay thị trường vẫn trong giai đoạn ảm đạm nên công việc của đội ngũ nhân viên môi giới chưa đến mức dồn dập. Nhưng nếu thị trường bất ngờ nóng lên thì thực sự với đội ngũ nhân viên hiện nay, công ty khó có thể đáp ứng hết nhu cầu của nhà đầu tư. Vndirect nên có những phương án dự trù, chuẩn bị sẵn sàng bất cứ khi nào cần thiết. Đồng thời, cập nhật kiến thức liên tục cho nhân viên cũ để họ có thể hoàn thành công việc với hiệu quả cao nhất. Nên có những chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý, gắn chặt với hiệu quả hoạt động của từng nhân viên. Có như vậy, nhân viên mới cố gắng, nỗ lực hết mình vì sự phát triển của công ty.
Vndirect cũng nên đầu tư nhiểu hơn nữa cho hoạt động nghiên cứu thị truờng và cử nhân viên đi sang nước ngoài, sang các thị trường khác hay đơn giản chỉ là đi tìm hiểu ở các công ty chứng khoán khác để học hỏi kinh nghiệm, phát triển những ưu điểm và loại dần các điểm tiêu cực nhằm ngày càng hoàn thiện hơn nữa chất lượng dịch vụ mang tới cho khách hàng. Mở rộng quan hệ, liên doanh liên kết với các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, không chỉ phát triển hình ảnh của công ty ở trong nước mà còn ra cả nước ngoài.
kết luận
Mặc dù chưa có được một lịch sử lâu dài nhưng thị trường chứng khoán đang tiến những bước tiến vững chắc trên con đường của nó.TTCKVN ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong một nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Vì vậy,việc đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán không chỉ là nhiệm vụ của riêng ai mà cần có sự hỗ trợ của tất cả các thành phần tham gia trên thị trường.Trong đó không thể không kể đến vai trò của nhà môi giới chứng khoán, một nhân tố quan trọng đóng góp một phần không nhỏ cho sự lớn mạnh như ngày nay của TTCKVN.
Để làm được điều này, trước hết cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa của nhà nước, các cơ quan chủ quản và sau đó là các công ty chứng khoán.TTCKVN ra đời trong nhiều thuận lợi của bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước, nhưng cũng luôn tiềm ẩn trong mình rất nhiều rủi ro. Phát triển hoạt động môi giới là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất giúp cho thị trường bền vững và ổn định,phát huy hết những ưu điểm của nó.
Tuy mới đi vào hoạt động vỏn vẹn hơn 2 năm nhưng Vndirect đã tạo được cho mình những dấu ấn riêng trong con mắt các nhà đầu tư. Làm được như vậy, VNDS đã phải đầu tư rất nhiều cho hoạt động môi giới. Là một thị trường tiềm năng, cơ hội cho Vndirect và mọi công ty chứng khoán còn rất lớn.Vì vậy,những con số hiện tại chưa thể nói lên được nhiều điều, VNDS không được ngừng nỗ lực để ngày càng củng cố hơn nữa uy tín và thị phần trên thị trường .
Bài chuyên đề tốt nghiệp này chỉ là một bài nghiên cứu nhỏ về hoạt động môi giới của công ty chứng khoán Vndirect, từ đó đưa ra một vài giải pháp cũng như có một vài kiến nghị nhằm phát triển hơn nữa hoạt động này.Do chưa có điều kiện đi sâu hơn nữa để nghiên cứu chi tiết, nên bài chuyên đề còn khá sơ sài.Rất mong nhận được nhiều ý kiến từ bạn đọc để có được một cái nhìn rộng hơn và thấu đáo hơn, cùng vì sự phát triển cho thị trường chứng khoán nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình thị trường chứng khoán - ĐH Kinh Tế Quốc Dân.
2.Giáo trình thị trường chứng khoán – HV Tài Chính
3.Sách Nghề môi giới chứng khoán – PGS.TS Trần Thị Thái Hà
4.Sách Phân tích và đầu tư chứng khoán – Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
5.Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam 2007,2008
6.Tạp chí Đầu tư chứng khoán- Bộ kế hoạch và đầu tư
7.Tạp chí chứng khoán- Uỷ ban chứng khoán NN
8.Thời báo Tài chinh – Bộ Tài chính
9.Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ – Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam
10.Thông tin chứng khoán – Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh
11.Các website điện tử: _chungkhoan84.com
_vneconomy.vn
_cafe.vn
_infotv.vn
Và rất nhiều các bài đánh giá, nhận định của các chuyên gia trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động môi giới chứng khoán(MGCK) 3
1.1 Hoạt động môi giới chứng khoán 3
1.1.1. Tính tất yếu khách quan hình thành nghề môi giới chứng khoán 3
1.1.2. Khái niệm MGCK 6
1.1.3. Nội dung hoạt động môi giới chứng khoán. 6
1.1.3.1. Tiếp cận và thu hút khách hàng 6
1.1.3.2. Chăm sóc khách hàng. 7
1.1.3.3. Thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng. 8
1.1.4 Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động MGCK 10
1.1.4.1 Những loại rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán 10
1.1.4.2 Quản lý rủi ro 12
1.1.5. Các loại môi giới chứng khoán 13
1.1.5.1. Môi giới chứng khoán toàn phần, môi giới trọn gói ( Full – Service Broker). 13
1.1.5.2. Môi giới chứng khoán bán phần – môi giới chiết khấu (Discount Broker) 14
1.1.5.3. Môi giới độc lập hay “hai đô la” 14
1.1.6. Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán. 15
1.1.6.1. Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng: 15
1.1.6.2. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ. 16
1.1.7. Vai trò của nghề môi giới chứng khoán 17
1.1.7.1. Giảm chi phí giao dịch. 17
1.1.7.2. Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. 17
1.1.7.3. Cải thiện môi trường kinh doanh. 18
1.1.8 Nguyên tắc hoạt động MGCK 21
1.2. Phát triển hoạt động MGCK 24
1.2.1 Khái niệm phát triển hoạt động MGCK
1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường sự phát triển của hoạt động MGCK. 24
1.2.2.1. Số lượng tài khoản giao dịch 25
1.2.2.2. Giá trị chứng khoán giao dịch 26
1.2.2.3. Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động môi giới. 26
1.2.2.4. Thị phần trong hoạt động MGCK 27
1.2.2.5 Sự phát triển các sản phẩm dịch vụ
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động MGCK. 27
1.2.3.1. Nhân tố khách quan 27
1.2.3.2. Nhân tố chủ quan 29
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MGCK TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VNDIRECT 32
2.1 Giới thiệu chung về VNDS 32
2.1.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển 32
2.1.2Cơ cấu tổ chức 34
2.1.3 Các sản phẩm, dịch vụ 35
2.2. Thùc tr¹ng ho¹t ®éng m«i giíi chøng kho¸n t¹i VNDS 35
2.2.1. Sè lîng tµi kho¶n 36
2.2.2. Gi¸ trÞ chøng kho¸n giao dÞch. 38
2.2.3. Doanh thu m«i giíi. 39
2.2.4. Sù ph¸t triÓn c¸c s¶n phÈm dÞch vô. 41
2.3. Đánh giá hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán Vndirect 42
2.3.1. Kết quả: 42
2.3.1.1. Kết quả đạt được: 42
2.3.1.2. Nguyên nhân 43
2.3.2. Hạn chế 45
2.3.2.1. Hạn chế: 45
2.3.2.2. Nguyên nhân: 45
Chương III: Giải pháp phát triển Hoạt động MGCK tại công ty chứng khoán Vndirect 48
3.1. Định hướng phát triển của VNDS 48
3.2. Các giải pháp triển hoạt động môi giới chứng khoán tại VNDS 49
3.2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp 49
3.2.2. Từng bước hoàn thiện chất lượng nghiệp vụ. 51
3.2.3. Các giải pháp về cơ sở vật chất kỹ thuật. 54
3.3. Kiến nghị. 55
3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ. 55
3.3.2. Đối với UBCK nhà nước và các cơ quan chức năng. 57
3.3.3.Kiến nghị đối với công ty chứng khoán Vndirect. 58
Kết luận 60
Danh mục tài liệu tham khảo 61
tài liệu tham khảo 62
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2116.doc