Giải pháp phát triển hoạt động của Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV)

Mục lục lời nói đầu Cho đến nay thị trường chứng khoán không phải là hiện tượng xa lạ đối với các nước có nền kinh tế thị trường. Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán có hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường chứng khoán h

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động của Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của các công ty chứng khoán. Điều này đặc biệt đúng với Việt Nam khi mà thị trường chứng khoán đã ra đời và hoạt động trong bối cảnh hết sức khó khăn: lượng hàng hoá còn quá ít, trình độ hiểu biết của công chúng về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn hạn chế,… Vì vậy, trong thời gian thực tập tại công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển, em đã chọn đề tài : “Giải pháp phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển” nhằm vận dụng những kiến thức đã học ở trường vào thực tế. Nội dung của luận văn được trình bày như sau: Chương I: Tổng quan về công ty chứng khoán Chương II: Thực trạng hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Ts. Trần Đăng Khâm và các anh chị phòng phân tích công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2003 Sinh viên Phạm Thị Lệ Thi Chương I: Tổng quan về công ty chứng khoán Khái niệm Mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán Hoạt động của công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì công ty chứng khoán là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vậy, vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán cũng có nhiều đặc điểm khác và vận dụng cho các khối thị trường có mức độ phát triển khác (thị trường cổ điển, thị trường mới nổi, thị trường các nước chuyển đổi). Tuy nhiên có thể khái quát mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán theo hai nhóm sau: Mô hình ngân hàng đa năng Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức: Loại đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con hoạt động độc lập. Mô hình này còn gọi là mô hình kiểu Anh. Các công ty con sẽ có được sự hỗ trợ rất lớn từ ngân hàng mẹ đặc biệt là về vốn và nhân sự. Bên cạnh đó, công ty con còn tận dụng được uy tín, khách hàng, mạng lưới kinh doanh, trang thiết bị kỹ thuật của ngân hàng mẹ. Điều này rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của công ty chứng khoán. Loại đa năng hoàn toàn: các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác (mô hình này còn gọi là mô hình kiểu Đức). Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động của thị trường tài chính. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện hoạt động cấp tín dụng và tài trợ dự án. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế đó là do vừa là tổ chức tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán nên khả năng chuyên môn không sâu như các công ty chứng khoán chuyên doanh khác. Điều này sẽ làm cho thị trường chứng khoán kém phát triển vì các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ và vì lợi ích của các ngân hàng là dùng vốn huy động được để cho vay lấy lãi nên họ thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các hoạt động của thị trường chứng khoán như bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Đồng thời, do khó tách bạch được hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp lý không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường và khi đó các biến động trên thị trường chứng khoán sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Bên cạnh đó, do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, chứng khoán, và khi thị trường chứng khoán biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Do những hạn chế như vậy, nên sau khi khủng hoảng thị trường tài chính 1929-1933, các nước đã chuyển sang mô hình chuyên doanh, chỉ có một số thị trường (như Đức) vẫn còn áp dụng mô hình này. Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách; các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán đi vào chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Mô hình này được áp dụng khá phổ biến ở các thị trường Mỹ, Nhật, và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan… Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành các công ty mẹ, công ty con và có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc lập với nhau. Khái niệm và phân loại công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán, có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép của ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. ở Việt Nam, theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN, công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Các công ty chứng khoán thường được phân loại theo hình thức kinh doanh mà công ty tiến hành: Công ty môi giới chứng khoán: Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là một thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu của công ty môi giới là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên sở giao dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên. Công ty đầu tư ngân hàng: Loại công ty này phân phối những chứng khoán mới được phát hành cho công chúng qua việc mua chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy, công ty này còn gọi là nhà bảo lãnh phát hành. Công ty chứng khoán không tập trung là các công ty chứng khoán hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC. Hiện nay nhiều công ty chứng khoán có vốn lớn được luật pháp cho phép hoạt động trên cả ba lĩnh vực trên. Công ty dịch vụ đa năng: Những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài ba dịch vụ trên, họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán, ủy nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên thị trường OTC. Sự kết hợp giữa sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết định cơ sở những dịch vụ mà họ có thể cung cấp cho khách hàng. Công ty buôn bán chứng khoán: Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty tự chịu. Công ty phải cố gắng bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Vì vậy, loại công ty này hoạt động với tư cách là người uỷ thác chứ không phải là đại lý nhận ủy thác. Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: Loại công ty này nhận chênh lệch giá qua việc buôn bán chứng khoán, do đó họ còn được gọi là nhà tạo thị trường, nhất là trên thị trường giao dịch OTC. Hình thức pháp lý của công ty chứng khoán Hiện nay có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng khoán, đó là công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Công ty hợp danh: Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên. Thành viên tham gia vào quá trình đưa ra quyết định quản lý và có quyền nhân danh công ty để tiến hành các hoạt động kinh doanh được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty, nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại, thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. Thông thường khả năng huy động vốn của công ty không lớn, nó chỉ giới hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp. Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Về phương diện huy động vốn, nó đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh vì nó được phép phát hành trái phiếu. Đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh. Công ty cổ phần Là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty (là các cổ đông). Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành. Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện món nợ của công ty mà thể hiện quyền lợi của chủ sở hữu đối với các tài sản của công ty. Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty bị thay đổi. So với hai loại hình trên, công ty cổ phần có các ưu điểm cơ bản: Nó tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông. Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được giới hạn ở mức độ nhất định. Nếu công ty thua lỗ, phá sản, cổ đông chỉ chịu thiệt hại ở mức vốn đã đóng góp. Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu. Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì danh tiếng của họ được công chúng biết đến nhiều hơn, và như vậy, hoạt động kinh doanh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và thông tin cũng tốt hơn hai loại hình trên. Vai trò Hoạt động của thị trường chứng khoán trước hết cần những người môi giới trung gian, đó là các công ty chứng khoán – một định chế tài chính trên thị trường chứng khoán, có hoạt động chuyên môn, đội ngũ nhân viên lành nghề và bộ máy tổ chức phù hợp để thực hiện vai trò trung gian môi giới mua - bán chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư lẫn tổ chức phát hành. Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới người đầu tư, qua đó vốn được huy động từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi sử dụng có hiệu quả. Công ty chứng khoán có vai trò quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên thị trường chứng khoán. Đối với tổ chức phát hành: Mục tiêu khi tham gia thị trường chứng khoán của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này, công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán. Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến đổi thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách có hiệu quả. Đối với thị trường chứng khoán: Đối với thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính: Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Các công ty chứng khoán là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán cùng với nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường. Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hóa, các công ty chứng khoán đã huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt một cách ít thiệt hại nhất và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính. Đối với cơ quan quản lý thị trường: Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là các thông tin cần phải được công khai hóa dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua, bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư… Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với thị trường chứng khoán nói chung. Những vai trò này được thể hiện thông qua các hoạt động của công ty chứng khoán. Nguyên tắc hoạt động Công ty chứng khoán hoạt động theo hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc đạo đức và nhóm nguyên tắc tài chính Nhóm nguyên tắc đạo đức: - Công ty chứng khoán phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng - Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy, có tinh thần trách nhiệm - Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty - Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các thông tin về tài khoản khách hàng khi chưa được khách hàng đồng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý Nhà nước - Công ty chứng khoán khi thực hiện hoạt động tư vấn phải cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận các khoản đầu tư mà họ tư vấn - Công ty chứng khoán không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình - ở nhiều nước, các công ty chứng khoán phải đóng góp tiền vào quỹ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích khách hàng trong trường hợp công ty chứng khoán mất khả năng thanh toán - Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các công ty chứng khoán không được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng - Các công ty chứng khoán không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng Nhóm nguyên tắc tài chính - Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo quy định của UBCK Nhà nước. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng - Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ cho giao dịch của khách hàng - Công ty chứng khoán phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình. Công ty chứng khoán không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản Điều kiện thành lập công ty chứng khoán Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định được quy định cụ thể cho từng loại hoạt động. Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động thì yêu cầu về vốn càng nhiều. Mức vốn quy định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều, trong khi đó hoạt động tự doanh hay bảo lãnh phát hành đòi hỏi mức vốn pháp định tương đối cao. ở Việt Nam, điều 30 Nghị định 48/1998 quy định mức vốn pháp định cho từng loại hình kinh doanh như sau: Môi giới: 3 tỷ đồng Tự doanh: 12 tỷ đồng Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ đồng Tư vấn đầu tư chứng khoán : 3 tỷ đồng Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ đồng Trường hợp công ty chứng khoán xin cấp phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của từng loại hình riêng lẻ. ở Nhật Bản, đối với các công ty tham gia 3 loại hình kinh doanh là môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành phải có vốn điều lệ là: 10 tỷ yên. ở Trung Quốc, đối với các công ty chứng khoán đa năng vốn điều lệ là 500 triệu NDT, các công ty môi giới chứng khoán là 50 triệu NDT. Điều kiện về nhân sự: Những người quản lý hay nhân viên của công ty chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số quy định như tuổi tác, trình độ học vấn, lý lịch tốt phải trải qua những kỳ thi kiến thức chuyên môn chứng khoán. Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán có tính điều kiện và tính đương nhiên. Tính điều kiện có nghĩa là giấy phép thực hiện hoạt động này có thể lại chính là điều kiện xin cấp giấy phép cho hoạt động kia. Chẳng hạn muốn thực hiện hoạt động bảo lãnh thì bắt buộc phải có giấy phép hoạt động tự doanh. Tính đương nhiên nghĩa là được thực hiện hoạt động này thì đương nhiên được thực hiện hoạt động kia. Ví dụ nếu đã có giấy phép quản lý quỹ đầu tư thì đương nhiên được thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư. Riêng đối với hoạt động quản lý quỹ đầu tư ở một số nước trên thế giới có những điểm khác biệt. Chẳng hạn một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc cho phép công ty chứng khoán thành lập và quản lý quỹ đầu tư trong khi điều này không được chấp nhận ở Indonêxia. Điều kiện về sơ sở vật chất: Các tổ chức và cá nhân sáng lập công ty chứng khoán phải đảm bảo yêu cầu cơ sở vật chất tối thiểu cho công ty chứng khoán. ở Việt Nam, theo điều 30, NĐ 48/1998 của chính phủ quy định bên cạnh nhu cầu về vốn pháp định như trên, các công ty chứng khoán muốn được cấp giấy phép phải đáp ứng thêm các điều kiện sau đây: Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển ngành chứng khoán. Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán. Giám đốc, các nhân viên kinh doanh (không kể nhân viên kế toán, văn thư hành chính, thủ quỹ) của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề chứng khoán do UBCK Nhà nước cấp. Sau khi đã đáp ứng được các điều kiện, các nhà sáng lập công ty chứng khoán phải lập hồ sơ xin cấp phép lên UBCK Nhà nước. Hồ sơ thông thường bao gồm các loại tài liệu sau: Đơn xin cấp phép Giấy phép thành lập doanh nghiệp Phương án nhân sự Phương án hoạt động Điều lệ công ty chứng khoán Các tài liệu minh chứng về vốn, tình hình sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của đội ngũ Hoạt động của công ty chứng khoán Hoạt động môi giới và tư vấn Hoạt động môi giới Khái niệm: môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng Đặc điểm: Quyết định mua bán là do khách hàng đưa ra và công ty chứng khoán phải thực hiện theo lệnh đó Công ty chứng khoán đứng tên mình thực hiện các giao dịch theo lệnh của khách hàng Độ rủi ro của hoạt động này thấp do khách hàng phải chịu mọi trách nhiệm đối với kết quả mà giao dịch đem lại. Rủi ro mà nhà môi giới thường gặp chỉ là khách hàng hoặc nhà môi giới khác không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn. Tuy nhiên, các qui định về ký quỹ cũng giới hạn phần nào rủi ro này. Thu nhập từ hoạt động môi giới khá ổn định. Với tư cách đại lý, công ty chứng khoán hưởng một tỷ lệ phần trăm hoa hồng tính trên tổng giá trị giao dịch. Thông thường giá trị giao dịch càng thấp thì tỷ lệ này càng cao. Hoa hồng sau khi trừ đi các chi phí sẽ trở thành thu nhập của công ty. Nhìn chung, thu nhập này ít biến động mạnh và chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng thu nhập của công ty, ở một số thị trường chứng khoán phát triển, tỷ lệ hoa hồng do công ty tự ấn định, do vậy làm tăng tính cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán. Quy trình thực hiện: Mở tài khoản cho khách hàng: Khách hàng muốn giao dịch thông qua công ty chứng khoán được yêu cầu mở tài khoản tại công ty đó. Tài khoản đó có thể là tài khoản giao dịch hoặc tài khoản ký quỹ. Tài khoản giao dịch dùng cho các giao dịch thông thường, qua đó khách hàng khi mua chứng khoán được yêu cầu trả đủ tiền trước thời hạn thanh toán do sở giao dịch quy định. Tài khoản ký quỹ là tài khoản mà qua đó khách hàng có thể vay tiền công ty để mua chứng khoán. Với giao dịch ký quỹ công ty chứng khoán không chỉ hưởng hoa hồng mua bán hộ chứng khoán mà còn thu được lãi trên số tiền cho khách hàng vay. Nhận lệnh từ khách hàng: Sau khi tài khoản đã mở, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch trên tài khoản của mình bằng cách gửi lệnh mua bán chứng khoán đến công ty. Hình thức đặt lệnh có thể bằng điện thoại, bằng telex hay bằng phiếu lệnh. Nếu là lệnh bán, công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện lệnh hoặc đề nghị phải ký quỹ một phần số chứng khoán cần bán theo một tỷ lệ do UBCK quy định. Nếu là lệnh đặt mua, công ty phải đề nghị khách hàng mức tiền ký quỹ nhất định trên tài khoản khách hàng ở công ty. Thực hiện lệnh: Người đại diện có giấy phép của công ty chứng khoán hoạt động với vai trò trung gian giữa khách hàng với công ty. Trước đây, người đại diện gửi tất cả các lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng tới bộ phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của công ty. ở đây, một người thư ký sẽ kiểm tra xem chứng khoán đó được mua bán trên thị trường nào (tập trung hay phi tập trung) sau đó gửi lệnh này đến thị trường phù hợp để thực hiện. Ngày nay, các công ty chứng khoán có mạng lưới thông tin trực tiếp từ trụ sở chính và các phòng giao dịch. Vì vậy, các lệnh mua bán chứng khoán không còn được chuyển đến phòng thực hiện lệnh nữa mà được chuyển trực tiếp đến phòng giao dịch của sở giao dịch chứng khoán. Xác nhận kết quả: Sau khi lệnh đã được thực hiện xong, công ty chứng khoán gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận các kết quả giao dịch, bao gồm giá, số lượng chứng khoán đã thực hiện, mức phí phải trả, ngày thanh toán và ngày giao nhận, lãi vay tiền mua chứng khoán (nếu có) Xác nhận này có tính pháp lý rất cao, nó đóng vai trò hóa đơn của giao dịch giữa công ty và khách hàng. Những sai sót trong xác nhận kết quả có thể dẫn đến sự không hài lòng và khiếu nại của khách hàng. Thanh toán và giao nhận chứng khoán: Đến ngày thanh toán, các thủ tục chuyển tiền và giao nhận chứng khoán phải được hoàn tất. Nếu chứng khoán là chứng chỉ thì người bán phải chuyển chứng khoán cho người môi giới thực hiện lệnh bán, người mua chuyển tiền vào tài khoản người môi giới thực hiện lệnh mua. Tuy nhiên, ngày nay chứng khoán được lưu giữ tập trung tại Trung tâm lưu ký, từ đó mọi giao dịch thanh toán và chuyển giao chứng khoán được thực hiện bằng chuyển khoản. Trung tâm này kinh doanh như một “kho” tập trung các chứng khoán, nó giúp việc thực hiện các giao dịch trên cơ sở hoạt động kế toán chứ không cần chuyển giao bằng hiện vật. Khi thanh toán, khách hàng phải nộp cho công ty một khoản phí giao dịch. Phí giao dịch bao gồm phí môi giới và phí môi giới lập giá. Phí môi giới của công ty chứng khoán do công ty thỏa thuận với khách hàng trong khung do pháp luật quy định và theo từng chủng loại chứng khoán. Trong phí giao dịch gồm chi phí thanh toán chuyển khoản tiền và chứng khoán lưu ký (ví dụ: đối với trái phiếu 0,5% trên giá trị giao dịch, cổ phiếu 1% trên giá trị giao dịch), riêng trường hợp người mua yêu cầu chuyển giao chứng khoán vật chất thì công ty chứng khoán phải thu thêm phí vận chuyển chứng từ. Phí môi giới lập giá do sở giao dịch quy định, công ty phải trả cho sở và tái thu từ khách hàng. Hoạt động tư vấn Khái niệm: Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Đặc điểm: Vì tư vấn là hoạt động kinh doanh “chất xám” nên lượng vốn yêu cầu để duy trì hoạt động này không lớn, chủ yếu dùng để thuê văn phòng, trả lương nhân viên và các chi phí hành chính khác. Hoạt động tư vấn ít chịu rủi ro vì việc quyết định và chịu trách nhiệm trước các quyết định đó đều thuộc về khách hàng. Tuy nhiên, các nhân viên tư vấn phải có trách nhiệm đối với những thông tin mà mình đưa ra để giữ uy tín cho công ty, đồng thời tránh những phàn nàn hay phiền nhiễu từ phía khách hàng đem lại. Bên cạnh đó, tính chất nhạy cảm của thị trường chứng khoán cũng buộc các nhà tư vấn khi đưa ra thông tin, lời bình luận hay khuyên nhủ khách hàng phải có căn cứ, có khoa học và đặc biệt tránh chủ quan, khẳng định trong các phát biểu và dụ dỗ khách hàng. Điều này sẽ tránh tác động xấu tới thị trường cũng như đến hoạt động của công ty chứng khoán. Hoạt động tư vấn thường không trực tiếp tạo ra thu nhập cho công ty chứng khoán do chi phí thuê chuyên gia tư vấn rất cao trong khi đó thu từ phí tư vấn lại vừa phải, thậm chí nhiều khi tư vấn được coi như dịch vụ đi kèm với các hoạt động khác. Tuy nhiên, hoạt động này có tác động hỗ trợ thu nhập. Nhờ có tư vấn, công ty chứng khoán có thể thu hút, hiểu biết và giữ mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng, nâng cao uy tín và tạo doanh thu từ các hoạt động khác. Phân loại: Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Tư vấn trực tiếp: Tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax…để hỏi ý kiến. Tư vấn gián tiếp: là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông tin lên những phương tiện truyền thông như Internet để bất kỳ khách hàng nào cũng có thể tiếp cận được nếu muốn. Theo mức độ ủy quyền: Tư vấn gợi ý: ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng. Tư vấn ủy quyền: nhà tư vấn tư vấn và quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng. Theo đối tượng: Với tư cách là tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán có quan hệ hoạt động với các loại chủ thể trên thị trường, bao gồm cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Và nó cũng đồng thời thực hiện tư vấn với cả hai chủ thể này. Hoạt động tư vấn phát hành: Mục đích mảng hoạt động này là hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thông qua các hoạt động tài chính và tạo hàng hoá tốt cho thị trường chứng khoán. Mảng hoạt động này bao gồm các hoạt động chủ yếu sau: Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, thông qua đó giúp các doanh nghiệp nhận thức đúng chính mình để từ đó có những biện pháp cải thiện tình hình. Xác định chính xác giá trị doanh nghiệp, bao gồm các công việc định giá các tài sản hữu hình và vô hình, từ đó định giá chứng khoán trước khi phát hành, đặc biệt đối với những chứng khoán phát hành lần đầu ra công chúng. Cùng với định giá, công ty chứng khoán thăm dò tình hình trên thị trường, tìm hiểu quan điểm giá cả người mua tiềm năng đối với chứng khoán sắp được phát hành. Tư vấn về loại chứng khoán phát hành: tùy vào các điều kiện cụ thể của doanh nghiệp cũng như thái độ của các cổ đông hiện thời, mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp, triển vọng phát triển tương lai… mà công ty chứng khoán khuyên nên phát hành loại chứng khoán gì (trái phiếu, cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi). Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn: công ty chứng khoán giúp doanh nghiệp xây dựng cơ cấu vốn phù hợp với điều kiện hiện tại và điều kiện kinh doanh an toàn. Tư vấn hợp nhất doanh nghiệp: được thực hiện khi doanh nghiệp muốn thâu tóm hay hợp nhất với doanh nghiệp khác. Hoạt động tư vấn đầu tư: Mục đích là thông qua các lời khuyên, bài phân tích hoặc hợp đồng._. dịch vụ để giúp các nhà đầu tư có quyết định đúng đắn. Hoạt động tư vấn này thường diễn ra trên thị trường thứ cấp và thường bao gồm các hoạt động sau: Tư vấn trực tiếp về xu hướng giá cả: khuyên nhà đầu tư mức đặt giá hợp lý để có thể mua bán được. Loại tư vấn này thường diễn ra trước hoạt động môi giới. Cung cấp thông tin và đánh giá tình hình: công ty chứng khoán đưa ra các bản tin, trong đó có thể kèm theo lời phân tích đánh giá, miêu tả tình hình biến động giá cả, các báo cáo tài chính của công ty niêm yết. Tư vấn ủy quyền: Thực chất là hoạt động quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng. Thông qua hợp đồng ủy quyền, công ty chứng khoán được phép thay mặt cho khách hàng để thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán, quản lý vốn vì quyền lợi khách hàng. Hoạt động tự doanh và quản lý danh mục đầu tư Hoạt động tự doanh Khái niệm: Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung, hoặc trên thị trường OTC,…Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các công ty chứng khoán được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Trong hoạt động này, công ty chứng khoán đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá. Mục đích: Mục đích của hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán là nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán khi thực hiện hoạt động tự doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định. Đặc điểm: Đây là một hoạt động mà công ty chứng khoán đóng vai trò như một nhà đầu tư chứng khoán, do đó, công ty phải tự gánh chịu mọi rủi ro mà hoạt động này đem lại. Ví dụ như khi công ty đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó thì nó sẽ được xếp vào một khoản mục trên bảng cân đối, và việc tăng giảm giá của loại chứng khoán này trên thị trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của công ty. Chính vì vậy, các cơ quan cấp phép luôn đòi hỏi lượng vốn pháp định cao cho những công ty chứng khoán muốn tham gia tự doanh để có thể chống đỡ trước những biến động bất lợi của thị trường. Thực hiện hoạt động tự doanh, tức là các công ty chứng khoán cũng phải tìm cách thu lợi cho bản thân nên không tránh khỏi sự cạnh tranh với các nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, hầu hết các nước đều có quy định công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện tự doanh cho công ty nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán vừa mang lại lợi nhuận cho công ty vừa mang tính bình ổn thị trường. Luật các nước quy định các công ty chứng khoán phải dành một tỷ lệ phần trăm nhất định giao dịch của mình cho hoạt động bình ổn thị trường. ở Mỹ, tỷ lệ này lên đến 60%, các công ty có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán lên để kìm giá và phải bán ra khi giá chứng khoán giảm nhằm giữ giá chứng khoán. Quy trình thực hiện: Xây dựng chiến lược đầu tư: Trong giai đoạn này, công ty chứng khoán phải xác định được chiến lược trong hoạt động tự doanh của mình. Đó có thể là chiến lược đầu tư chủ động, thụ động hoặc đầu tư vào một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể nào đó. Khai thác, tìm kiếm các cơ hội đầu tư: Sau khi xây dựng chiến lược đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hàng hóa, cơ hội đầu tư trên thị trường theo mục tiêu đã định. Phân tích đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư: Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân tích trong công ty tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là những kết luận cụ thể về việc công ty có nên đầu tư hay không đầu tư với số lượng, giá cả bao nhiêu là hợp lý. Thực hiện đầu tư: Sau khi đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển khai thực hiện các hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành. Quản lý đầu tư và thu hồi vốn: ở giai đoạn này, bộ phận tự doanh có trách nhiệm theo dõi các khoản đầu tư, đánh giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp lý. Sau khi thu hồi vốn, bộ phận tự doanh sẽ tổng kết, đánh giá lại tình hình thực hiện và lại tiếp tục chu kỳ mới. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư Khái niệm: Quản lý danh mục đầu tư là việc quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ hộ tổ hợp chứng khoán cho khách hàng và vì lợi ích của khách hàng. Các bước thực hiện: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc để tìm hiểu khả năng của nhau. Công ty chứng khoán phải tìm hiểu rõ về khách hàng: là tổ chức hay cá nhân, số tiền và nguồn gốc tiền định đầu tư, mục đích đầu tư, thời hạn đầu tư…Đồng thời, công ty phải minh chứng cho khách hàng thấy được khả năng, đặc biệt là khả năng chuyên môn và khả năng kiểm soát nội bộ. Đây là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất của công ty khi tham gia hoạt động này. Khả năng chuyên môn của công ty chính là khả năng đầu tư vốn đem lại lợi nhuận cho khách hàng còn khả năng kiểm soát nội bộ là việc công ty có thể đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng, chống lại những thất thoát do sự vô ý hay cố ý của nhân viên công ty. Công ty và khách hàng tiến hành ký hợp đồng quản lý: Nội dung hợp đồng phải quy định rõ nhiều yếu tố như số tiền và thời hạn ủy thác, mục tiêu đầu tư, quy trình quyết định đầu tư, giới hạn quyền và giới hạn trách nhiệm của công ty, phí quản lý công ty được hưởng. Thực hiện hợp đồng quản lý: Trong khi thực hiện hợp đồng, công ty phải vận dụng hết những kỹ năng và kinh nghiệm của mình để đầu tư vốn của khách hàng, đồng thời phải tuân thủ triệt để những điều khoản quy định trong hợp đồng. Nếu có những phát sinh ngoài hợp đồng thì công ty phải xin ý kiến của khách hàng. Ngoài ra, công ty phải nghiêm ngặt tách rời hoạt động này với hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới để đảm bảo tránh mâu thuẫn lợi ích. Khi đến hạn kết thúc hợp đồng hay trong một số trường hợp công ty giải thể, phá sản, ngừng hoạt động…công ty phải cùng khách hàng bàn bạc và quyết định xem có thể tiếp tục gia hạn hay thanh lý hợp đồng. Trong trường hợp công ty chứng khoán phá sản, tài sản ủy thác của khách hàng phải được tách riêng và không được dùng để trả các nghĩa vụ nợ của công ty chứng khoán. Thực hiện hoạt động này cho khách hàng, công ty chứng khoán vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường, công ty chứng khoán nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm trên số lợi nhuận thu về cho khách hàng. Hoạt động bảo lãnh, đại lý phát hành Khái niệm: Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết. Các hình thức bảo lãnh phát hành: Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh trong đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Thông thường, trong phương thức này một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu và bán lại các chứng khoán theo giá chào bán ra công chúng (POP) và hưởng chênh lệch giá. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại và không phải chịu hình phạt nào. Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối hết sẽ hủy toàn bộ đợt phát hành. Tổ chức bảo lãnh phải trả lại tiền cho các nhà đầu tư đã mua chứng khoán. Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu- tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức sàn thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ. Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: Đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường và chào bán cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Tuy nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Vì vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ là người mua cuối cùng hoặc chào bán hộ số cổ phiếu của các quyền mua không được thực hiện. Đặc điểm: Đây là hoạt động công ty chứng khoán tiến hành trên thị trường sơ cấp, nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tạo hàng hoá trên thị trường và giúp các doanh nghiệp huy động vốn một cách nhanh chóng, hiệu quả. Đối với công ty chứng khoán, bảo lãnh phát hành là hoạt động đòi hỏi trình độ cao, trong đó công ty chứng khoán phải thực hiện một quy trình chặt chẽ, bao gồm việc kết hợp nhiều kỹ năng của ngành chứng khoán từ nghiên cứu tài chính công ty, nghiên cứu thị trường, tư vấn cho khách hàng, chào bán đến ổn định giá chứng khoán…Hoạt động bảo lãnh, do đó không phải công ty nào cũng có đủ tiềm lực tài chính và chuyên môn để tham gia. Khả năng bảo lãnh thành công các đợt phát hành sẽ đem lại cho công ty chứng khoán không chỉ nguồn thu lớn mà cả uy tín trên thương trường. Thù lao của tổ chức bảo lãnh: thù lao cho tổ chức bảo lãnh có thể là một khoản phí đối với hình thức bảo lãnh chắc chắn hoặc hoa hồng đối với các hình thức bảo lãnh khác. Hoa hồng là một tỷ lệ phần trăm trên số lượng chứng khoán cần bảo lãnh. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng cho các thành viên trong nghiệp đoàn là do các thành viên thương lượng với nhau. Phí bảo lãnh là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường cho người đầu tư và số tiền tổ chức phát hành nhận được. Mức phí bảo lãnh cao hay thấp tùy thuộc vào tính chất của đợt phát hành cùng điều kiện thị trường lúc phát hành, do hai bên thỏa thuận. Nói chung, nếu đó là đợt phát hành lần đầu thì mức phí và hoa hồng phải cao hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu, phí và hoa hồng bảo lãnh còn tùy thuộc vào lãi suất trái phiếu (nếu lãi suất cao thì dễ bán, chi phí sẽ thấp và ngược lại). Về rủi ro: rủi ro mà công ty chứng khoán gánh chịu trong một đợt phát hành khác nhau tùy thuộc vào phương thức bảo lãnh và vào tư cách của công ty trong đợt phát hành. Loại hình bảo lãnh chắc chắn có độ rủi ro cao hơn loại hình cố gắng tối đa, và tất nhiên mức hoa hồng mà nó được hưởng cũng sẽ cao hơn. Rủi ro trong bảo lãnh chắc chắn xảy ra khi lượng chứng khoán công ty bán quá ít không thể bù đắp được chi phí đợt phát hành. Đối với loại hình bảo lãnh tất cả hoặc không, rủi ro cũng có thể xảy ra khi công ty không bán được hết được chứng khoán, khiến đợt phát hành bị hủy bỏ, công ty sẽ bị mất công sức và chi phí, đồng thời giảm sút uy tín. Tư cách của công ty chứng khoán trong đợt phát hành- là nhà bảo lãnh chính hay nhóm bán cũng ảnh hưởng đến rủi ro mà công ty có thể gặp phải. Nhà bảo lãnh phải chịu trách nhiệm về sự thành công của đợt phát hành còn nhóm bán chỉ giúp bán chứng khoán chứ không chịu rủi ro nếu chứng khoán không bán được. Quy trình bảo lãnh phát hành: Lập nghiệp đoàn bảo lãnh: Nếu tổ chức phát hành là một công ty nhỏ, giá trị chứng khoán phát hành không lớn, thì có thể chỉ cần một công ty đứng ra bảo lãnh phát hành. Nhưng nếu đó là một công ty lớn, số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một công ty chứng khoán thì một nghiệp đoàn bao gồm một số công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập. Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức bảo lãnh chắc chắn. Trong nghiệp đoàn, sẽ có một công ty bảo lãnh chính hay còn gọi là người quản lý, thường là người khởi đầu cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các thủ tục giấy tờ với tổ chức phát hành. Nó cũng quyết định công ty chứng khoán nào sẽ được mời tham gia nghiệp đoàn cũng như sẽ chi trả phí bảo lãnh cho các công ty khác trong nghiệp đoàn. Trong những trường hợp cần thiết, nghiệp đoàn bảo lãnh có thể tổ chức thêm một “nhóm bán” để giải quyết việc bán chứng khoán nhanh hơn. Nhóm bán gồm những công ty chứng khoán không nằm trong nghiệp đoàn, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không chịu trách nhiệm về những chứng khoán không bán được. Vì thế, thường thù lao cho họ ít hơn so với các công ty chứng khoán là thành viên của nghiệp đoàn. Phân tích định giá chứng khoán: Định giá chứng khoán cho một đợt phát hành mới là một nghệ thuật, một khoa học. Giá của cổ phiếu cũng như lãi suất của trái phiếu không được định trước ngày chứng khoán được phép bán ra công chúng. Giá thị trường của chứng khoán rất bất thường, có thể hấp dẫn vào buổi sáng nhưng có thể không còn hấp dẫn vào buổi chiều nữa. Đối với trái phiếu, việc định giá có đơn giản hơn, vì trên thị trường đã có sẵn lãi suất chuẩn và giá yết của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái phiếu tương tự. Định giá cổ phiếu, ngược lại rất phức tạp. ở đây, người quản lý vấp phải một vấn đề nan giải: một mặt, người phát hành cổ phiếu muốn nhận càng nhiều tiền càng tốt từ đợt bán này, mặt khác, người quản lý lại muốn định giá sao cho có thể bán được, và bán càng nhanh càng tốt. Nếu giá quá cao, công chúng sẽ không muốn mua nữa. Nếu thấp quá thì người phát hành sẽ bị thiệt. Thông thường, việc định giá một cổ phiếu tùy thuộc vào việc định lượng nhiều yếu tố: lợi nhuận của công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỷ lệ giá cả- lợi tức so với những công ty tương tự và tình hình thị trường lúc chào bán. Ký hợp đồng bảo lãnh: Trong hợp đồng giữa tổ chức phát hành và nghiệp đoàn bảo lãnh phải xác định rõ phương thức bảo lãnh, phương thức thanh toán, khối lượng bảo lãnh phát hành, phí bảo lãnh… Đăng ký phát hành chứng khoán: Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh, nghiệp đoàn phải trình lên cơ quan quản lý đơn xin đăng ký phát hành cùng một bản cáo bạch thị trường, có đầy đủ chữ ký của đơn vị phát hành, công ty bảo lãnh, công ty luật. Bản cáo bạch là thông cáo của tổ chức phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành nhằm giúp công chúng đánh giá và đưa ra các quyết định mua chứng khoán. Thường thì cơ quan quản lý xem xét tính trung thực và hợp lệ của bản cáo bạch để chấp thuận cho phép phát hành hay từ chối trong thời hạn 30 ngày. Trong thời gian này, có thể tổ chức bảo lãnh cùng tổ chức phát hành sẽ phải cung cấp thêm tài liệu để giải trình các chi tiết chưa đủ, chưa rõ trong bản cáo bạch. Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng ký: Sau khi tiến hành tất cả các thủ tục cần thiết như phân phát bản cáo bạch và phiếu đăng ký mua chứng khoán và đợi khi đăng ký phát hành chứng khoán có hiệu lực, công ty chứng khoán hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối chứng khoán theo các hình thức: bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể (như các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí); bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành; bán ra công chúng. Thanh toán: Đến đúng ngày theo hợp đồng, tổ chức bảo lãnh phải giao tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải giao là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao cho tổ chức bảo lãnh là hoa hồng hoặc khoản phí như đã nói ở trên. Các hoạt động phụ trợ khác Lưu ký chứng khoán Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức) Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty thường không trực tiếp quản lý mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu giữ chứng khoán. Hoạt động tín dụng Đây là một hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát triển. Còn ở các thị trường mới nổi, hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Thậm chí một số nước còn không cho phép thực hiện cho vay ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn đã thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số chênh lệch cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty có quyền sở hữu số chứng khoán đã mua. Rủi ro xảy ra đối với công ty chứng khoán là chứng khoán thế chấp có thể bị giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ. Vì thế khi cấp khoản vay ký quỹ, công ty chứng khoán phải có những nguyên tắc riêng về đảm bảo thu hồi vốn và tránh tập trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán nhất định. Hoạt động này thường đi kèm với hoạt động môi giới trong một công ty chứng khoán, vì vậy quy trình giao dịch về căn bản là giống nhau. Có điểm khác là: nếu giao dịch môi giới thường sử dụng tài khoản tiền mặt thì giao dịch cho vay ký quỹ lại sử dụng tài khoản ký quỹ. Hoạt động quản lý quỹ ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về thị trường chứng khoán còn cho phép công ty chứng khoán được thực hiện hoạt động quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. Điều kiện để phát triển hoạt động của công ty chứng khoán Tùy từng hoạt động mà công ty chứng khoán cần có những điều kiện về vốn và nhân lực khác nhau. Đối với hoạt động môi giới, tư vấn: Một đặc trưng của hoạt động môi giới so với các hoạt động khác của công ty chứng khoán là việc thực hiện hoạt động có quan hệ mật thiết tới đội ngũ marketing trong công ty. Sự thành công của hoạt động chủ yếu dựa trên sự thành thạo, khéo léo và nhanh nhẹn của nhân viên môi giới trong công ty, những người này thường có sự độc lập tương đối trong cung cách làm việc. Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu biết nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng vốn với hoạt động này chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động của công ty như thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác…Với Việt Nam, theo Nghị định 48, vốn pháp định với hoạt động này là 3 tỷ. Với nhiều nước phát triển như Mỹ, do tính chất của hoạt động này, các công ty chuyên hoạt động tư vấn phải là các công ty trách nhiệm vô hạn, tức là được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp tư nhân hay phổ biến hơn là công ty hợp danh. Tuy nhiên, ở nhiều nước đang phát triển, các công ty này vẫn có thể là các công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy các điều kiện về vốn đối với một công ty môi giới, tư vấn không lớn nhưng những yêu cầu về nhân sự lại rất chặt chẽ. Những người làm công tác tư vấn, môi giới phải có kiến thức chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với ngành tư vấn chứng khoán, nhà tư vấn phải có giấy phép hành nghề với các yêu cầu cao hơn những người chỉ làm môi giới thông thường. Những yêu cầu này có thể bao gồm các loại bằng cấp như tối thiểu phải tốt nghiệp đại học và phải vượt qua một số kỳ thi do ngành chứng khoán tổ chức. Thường đó là kỳ kiểm tra của hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Riêng với Việt Nam, trong thời gian đầu, do chưa có hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán nên để xây dựng thị trường, ủy ban chứng khoán Nhà nước sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán thông qua Trung tâm đào tạo của mình. hoạt động tự doanh: Vốn và con người là 2 điều kiện cơ bản để thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện hoạt động tự doanh, các công ty chứng khoán phải có đủ số vốn theo quy định của pháp luật. Việc quy định mức vốn trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các công ty chứng khoán thực sự có vốn và dùng vốn của họ để kinh doanh. Tương tự như vậy, con người cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của hoạt động tự doanh. Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự chi phối rất lớn của nhân tố con người và thông tin. Nhân viên thực hiện hoạt động tự doanh của công ty phải có một trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là tính nhạy cảm trong công việc. Tại một số nước (như Thái Lan, Mỹ), nhân viên tự doanh của công ty chứng khoán phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm làm việc lâu năm trong ngành, phải có bằng thạc sỹ trở lên và phải có một số chứng chỉ chuyên môn nhất định. Bên cạnh điều kiện về vốn và con người, công ty chứng khoán phải có một cơ sở vật chất đầy đủ, được trang bị kỹ thuật hiện đại như bảng điện tử, hệ thống máy tính nội bộ, hệ thống cung cấp thông tin phải nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Ngoài các điều kiện chủ quan của công ty chứng khoán, muốn phát triển các hoạt động, cần có khung pháp lý hoàn thiện về chứng khoán và thị trường chứng khoán, sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán với các văn bản khác có liên quan để có một sự đồng nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Chương II Thực trạng hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển BSC 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có tên tiếng Anh: Bank for Investment and Development of Vietnam Sercurities Company Ltd. Tên viết tắt: BSC BSC chính thức khai trương hoạt động vào ngày 07 tháng 7 năm 2000, theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 02/ GP ĐKKD ngày 26 tháng 11 năm 1999 do Uỷ Ban chứng khoán Nhà nước cấp. Là một trong 2 công ty chứng khoán đầu tiên tại Việt nam và là công ty chứng khoán đầu tiên của toàn hệ thống Ngân hàng Việt nam. Trụ sở chính: F 701, Số 2 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà nội. Tel: 04.8262899 – 04.8262998 Fax: 048.262.188 Webside: www.bsc.com.vn Email: Service@bsc.com.vn Chi nhánh TP. HCM: 146 Nguyễn Công Trứ, Quận 1, TP. HCM Tel: 088.218.508 Fax: 088.218.510 Những năm 1994 -1995: Với tầm nhìn chiến lược về yêu cầu tất yếu của sự ra đời thị trường chứng khoán ở Việt nam, lãnh đạo Ngân hàng ĐT&PT Việt nam đã có những sự chuẩn bị đầu tiên về đội ngũ cán bộ của Ngân hàng trong lĩnh vực này. Với sự hợp tác, giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính, bạn bè Quốc tế, một lớp cán bộ trẻ, có năng lực từ những bộ phận liên quan đã được cử đi đào tạo và nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. Năm 1997 Phòng chứng khoán của Ngân hàng ĐT&PT VN được chính thức thành lập, nhằm đáp ứng được yêu cầu cho cán bộ nghiên cứu chuyên sâu, định hướng cho yêu cầu hoạt động chứng khoán chuyên nghiệp sau này. Tháng 7 năm 2000, Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam chính thức được khai trương, là một trong 2 công ty chứng khoán đầu tiên của Việt nam, và là công ty có số vốn điều lệ lớn nhất. 2.1.2. Lĩnh vực kinh doanh BSC thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh chứng khoán theo qui định. Môi giới mua bán chứng khoán: Là nhà trung gian mua và bán chứng khoán cho khách hàng. Tự doanh chứng khoán, đầu tư, tài trợ cho các dự án: BSC trực tiếp mua và bán chứng khoán cho chính mình và thực hiện việc đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần hoá, các dự án đầu tư vv... Thực hiện tư vấn, làm đại lý hoặc bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các tổ chức, doanh nghiệp và dự án: Giúp các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện việc phát hành chào bán chứng khoán ra công chúng; hoặc nhận mua, nhận làm đại lý phát hành cho tổ chức đó. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, quĩ đầu tư: Là việc quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào các loại chứng khoán khác nhau trên thị trường. Tư vấn đầu tư: Sẵn sàng cung cấp thông tin, phân tích đầy đủ, chính xác cho nhà đầu tư về doanh nghiệp và cổ phiếu, trái phiếu giao dịch trên thị trường, giúp cho việc ra quyết định đầu tư đạt hiệu quả cao nhất. Lưu ký, thanh toán và làm đại lý cho các cổ đông, trái chủ: Lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán. Ngoài ra BSC còn cung cấp các dịch vụ khác như: Cho vay ứng trước T+3 Chứng khoán ảo Website on line 2.1.3. Cơ cấu tổ chức Mô hình tổ chức công ty chứng khoán ngân hàng BSC Giám đốc Phòng Kinh doanh Phòng Kế toán Phòng Tổng hợp Phòng Kế toán Phòng Tổng hợp Phòng Kinh doanh Phó Giám đốc Trụ sở chính (Hà nội) Phó Giám đốc Chi nhánh TP. HCM BSC có đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn giỏi, có khả năng phân tích đầu tư cao và có tâm huyết với nghề. Tính tới hết tháng 6 năm 2002, toàn công ty có 58 cán bộ, trong đó có 1 tiến sỹ, 6 thạc sỹ, 41 cử nhân, 5 kỹ sư, 5 cao đẳng Trụ sở chính: 28 người Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh: 30 người 2.1.4. Môi trường cạnh tranh Sự góp mặt của công ty chứng khoán ngân hàng Vietcombank đã nâng tổng số công ty chứng khoán lên 9 công ty, trong đó có 3 công ty cổ phần (công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt BVSC; công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất FSC; công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn SSI) và 6 công ty TNHH (công ty TNHH chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam BSC; công ty TNHH chứng khoán Thăng Long TSC; công ty TNHH chứng khoán ngân hàng á châu ACBS; công ty TNHH chứng khoán ngân hàng công thương IBS; công ty TNHH chứng khoán ngân hàng NN&PTNT ARSC; công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương VCBS). Các công ty chứng khoán đều hoạt động ổn định tuân thủ các quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, các qui định của UBCKNN. Các kết quả kinh doanh có chiều hướng tốt lên hầu hết có lãi sớm hơn so với dự kiến. Các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính cho thấy tính đến hết ngày 31/12/02, các công ty chứng khoán đều có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được bảo đảm. Tính đến 11/2002, số tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng được mở tại các công ty chứng khoán là gần 13000, trong đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty chứng khoán đã mở rộng phạm vi hoạt động, chi nhánh và đại lý nhận lệnh tại 7 tỉnh thành phố là: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Cạnh tranh gay gắt trong một thị trường nhỏ, có tốc độ phát triển tương đối chậm (theo ước tính của TTGD, hiện có khoảng 14000 nhà đầu tư trên thị trường); dẫn đến nhiều hoạt động cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ, mặc dù đã có sự thỏa thuận giữa các công ty chứng khoán về việc không tiếp tục giảm phí môi giới, VCBS vẫn sử dụng các hình thức khuyến mại như dự đoán tỷ số bóng đá để miễn giảm phí giao dịch nhằm thu hút nhà đầu tư từ các công ty chứng khoán khác. Hiện nay cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của công ty chứng khoán và tiếp đến là các hoạt động tự doanh, môi giới thì đến hết quí I năm 2002 doanh thu từ hoạt động môi giới và tự doanh đã chiếm tỷ lệ đáng kể; tài sản dưới dạng tiền giảm, tỷ lệ tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng, khả năng thanh toán của các công ty được bảo đảm. Cụ thể, tính đến cuối tháng 12/ 2001, số lượng tài khoản của người đầu tư mở tại các công ty chứng khoán là 8774, trong đó tài khoản của các nhà đầu tư cá nhân là 8703 và tài khoản của nhà đầu tư có tổ chức là 71. Quý I năm 2002, số lượng tài khoản đã tăng lên đến 1020, trong đó tài khoản của nhà đầu tư cá nhân tăng 10114. Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu của các công ty chứng khoán đó là hoạt động môi giới. Đây là hoạt động chủ đạo của các công ty chứng khoán và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu trong thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bảng1: doanh thu từ hoạt động môi giới Tên công ty chứng khoán Doanh thu từ HĐ môi giới Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) 2,456 tỷ đồng Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) 2,285 tỷ đồng Công ty chứng khoán ngân hàng ACB 1,388 tỷ đồng Công ty chứng khoán ngân hàng ĐT&PTVN (BSC) 1,255 tỷ đồng Công ty chứng khoán ngân hàng công thương (IBS) 811,415 tr đồng (nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam tháng 8 năm 2002) Hoạt động tự doanh được các công ty chứng khoán triển khai ngay từ khi thị trường đi vào hoạt động. Đến nay hoạt động này tiếp tục được các công ty chứng khoán triển khai và phát triển. Tuy nhiên, do nhận định, đánh giá và chiến lược kinh doanh của từng công ty khác nhau nên mức độ và chủng loại chứng khoán được đầu tư giữa các công ty chứng khoán khác nhau. Công ty chứng khoán BSC và công ty chứng khoán IBS đã tập trung phần lớn trong tổng giá trị vốn tự doanh của mình vào trái phiếu c._.đến nhanh chóng và tránh được rủi ro khi có sự thay đổi bất thường của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, công ty nên tổ chức một bộ phận chuyên trách nghiên cứu và phân tích thị trường bởi hiện nay công ty đang thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm, có nghĩa là một nhân viên có thể vừa thực hiện hoạt động môi giới vừa thu thập thông tin, vừa đánh giá tình hình dẫn đến sự hạn chế và non kém trong năng lực phân tích thị trường và gây ảnh hưởng đến hoạt động chính. Phân tích thị trường là một nhiệm vụ rất quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. Khả năng mở rộng và phát triển của công ty phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và chất lượng dịch vụ cung cấp. Có thể nói, phân tích thị trường là một mũi nhọn cạnh tranh về dịch vụ giữa các công ty chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, khi các công ty chứng khoán mới đi vào hoạt động không lâu, các lợi thế cạnh tranh chưa có sự khác biệt rõ rệt thì yếu tố chủ yếu để thu hút khách hàng chính là chất lượng dịch vụ mà các công ty cung cấp. Hơn nữa, đối với bản thân công ty, các kết quả phân tích thị trường cũng là cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư nhằm đem lại lợi ích lớn nhất. Với những lý do đó, công ty cần quan tâm thích đáng đến việc phát triển năng lực phân tích thị trường của mình. Cơ sở để phân tích thị trường của các công ty chứng khoán bao gồm ba bộ phận chủ yếu là môi trường kinh doanh, hệ thống giao dịch tài sản-chứng khoán và các số liệu thống kê. Nguồn thu thập thông tin của công ty tương đối đa dạng: từ các báo cáo của doanh nghiệp, từ kết quả nghiên cứu trước đây, từ các phương tiện thông tin đại chúng và sau này có thể từ các tổ chức định mức tín nhiệm và trung tâm thông tin thương mại. Ngoài ra, công ty có thể tự tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát nghiên cứu tình hình doanh nghiệp và thị trường để có được những thông tin sát thực nhất. Trên cơ sở những thông tin đã tập hợp, công ty thực hiện chắt lọc, áp dụng các phương pháp , công cụ như đối chiếu, thống kê, lượng hóa để phân tích và tổng hợp dữ liệu, làm cơ sở để đưa ra các kết luận về doanh nghiệp- thị trường. Trong khi phân tích, cần quan tâm đến cả con số tương đối và tuyệt đối, so sánh với điều kiện ngành và môi trường kinh tế để thấy được sự tăng trưởng và đánh giá vị thế cạnh tranh. Những kết luận và dự đoán cuối cùng cần được đưa ra một cách chính xác để phục vụ cho quá trình ra quyết định và xây dựng chiến lược hoạt động cho thời gian tới. Một điều nữa cần lưu ý là trong quá trình thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin, công ty cần hết sức chú ý tới việc sàng lọc, phân biệt giữa những thông tin thật sự và thông tin giả mạo bởi các lý do cơ bản: chúng ta chưa có một môi trường công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, các doanh nghiệp của ta chưa có thói quen, đúng hơn là không muốn công bố nhiều thông tin về mình để giữ bí mật kinh doanh, bởi vậy mà những thông tin bị rò rỉ, những tin đồn không có sự chính xác cao vẫn còn môi trường tồn tại và nhiều khi gây ra những tác động không tốt tới thị trường. Nếu xây dựng được hệ thống chuyên trách phân tích thị trường, công ty sẽ tránh được sự trùng lặp lãng phí và tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí trong quá trình nghiên cứu, phân tích và sử dụng được thông tin một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay, công ty có 3 phòng phân tích với 9 nhân viên. Theo em, nên nhập vào một phòng phân tích với 6 người, 3 người còn lại chuyên về phân tích thị trường. 3.2.4 Hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh và hoàn thiện hệ thống tin học cho công ty. Cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và công nghệ phần mềm là những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của công ty diễn ra suôn sẻ, đạt hiệu quả cao. Vì vậy, công ty cần chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này. Sau đây là một số gợi ý đối với công ty về vấn đề này: Thường xuyên nâng cấp trang thiết bị hoạt động kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của công ty, đảm bảo cho mọi người có đủ điều kiện làm việc theo tác phong công nghiệp, phát huy tối đa khả năng làm việc của mình. Để phục vụ khách hàng tốt hơn, công ty cần có một màn hình tốt, chỗ ngồi dành cho khách hàng rộng rãi thoải mái. Bảng điện tử của công ty hiện nay chữ số còn nhòe, nhìn không rõ rất dễ nhầm lấn hay bị gián đoạn do lỗi kỹ thuật, gây phản ứng không tốt tới khách hàng. Công ty cần trang bị bảng điện tử mới, tốt hơn, chuẩn bị ghế phụ cho khách hàng những hôm đông, tránh tình trạng khách hàng phải đứng để theo dõi tình hình thị trường. Đặc biệt công ty nên cung cấp nhiều báo, tạp chí chuyên ngành như báo đầu tư chứng khoán, tạp chí chứng khoán Việt Nam, thời báo kinh tế. Thực hiện đặt lệnh trực tiếp qua internet giúp các nhà đầu tư không phải trực tiếp đến công ty để đặt lệnh, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, yêu cầu áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh là một tất yếu trong quá trình phát triển của công ty. Công ty cần triển khai nghiên cứu và ứng dụng công nghệ điện tử vào kinh doanh chứng khoán, đặc biệt là trong các hoạt động giao dịch và quản lý khách hàng. Tuy nhiên, đi kèm với những tiện ích của nó thì công nghệ thông tin cũng chứa đựng những mặt trái nhất định, đó là các loại vius có thể phá hủy dữ liệu, làm rối loạn hệ thống, nạn hacker- kẻ gian có thể đột nhập vào những thông tin bảo mật… do đó các nhân viên cũng phải có đủ chuyên môn kỹ thuật để nắm bắt, vận hành có hiệu quả. Về nguyên tắc, các giải pháp tin học cho việc hoạt động, quản lý và giám sát của công ty phải đáp ứng các yêu cầu sau: Tăng tốc độ, khối lượng và quy mô thực hiện các giao dịch chứng khoán Bảo đảm chi phí giao dịch chứng khoán cho khách hàng ở mức độ thấp nhất Bảo đảm thời gian thực hiện giao dịch chứng khoán là ngắn nhất Bảo đảm khả năng kiểm soát tốt nhất tài khoản khách hàng và tài khoản công ty, cũng như việc đăng ký, lưu giữ chứng khoán cho khách hàng. Giảm thiểu rủi ro trong việc thực hiện giao dịch chứng khoán và tăng khả năng thanh toán cho công ty. Bảo đảm khả năng kiểm soát nội bộ một cách hữu hiệu và quản lý tốt nhất việc phân cấp trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán. Cho phép các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán thực hiện quản lý giám sát việc chấp hành các tiêu chuẩn và hạn mức kinh doanh đối với công ty chứng khoán. Hiện nay, các công ty chứng khoán trên thế giới đang hết sức quan tâm và đầu tư mạnh mẽ cho việc tự động hóa hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm tăng tốc độ giao dịch, giảm chi phí giao dịch và tăng cường áp dụng các mô hình kinh doanh, quản lý được tự động hóa để quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, việc nhiều công ty chứng khoán trên toàn thế giới đã bắt đầu thực hiện giao dịch chứng khoán trên mạng Internet đã đặt ra yêu cầu mới đối với hệ thống tin học cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, BSC nên phối hợp với công ty chứng khoán khác thực hiện chương trình tự động hóa. Điều kiện tương đối thuận lợi là chi phí cho hệ thống tin học cho hoạt động kinh doanh và quản lý ngày càng có xu hướng giảm. Tuy nhiên trong thời gian đầu, do thị trường chứng khoán Việt Nam chưa sôi động, quy mô giao dịch còn nhỏ, công ty chưa có lãi nhiều nên để tiết kiệm có thể chỉ lắp đặt hệ thống tự động có công suất xử lý thông tin vừa phải, song phải là hệ thống mở để khi cần thiết có thể tăng ngay công suất. Cách làm này cho phép tiết kiệm được chi phí và hoạt động của công ty vẫn đảm bảo khả năng cấp và phát triển liên tục của hệ thống tin học của công ty khi thị trường phát triển. Tóm lại, giải pháp về công nghệ thông tin cần tập trung vào các mặt: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng bao gồm nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, phân loại thông tin để phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau. Thiết kế và cài đặt mạng cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. 3.2.5. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ đối ngoại Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của BSC, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các công ty chứng khoán nước ngoài: Củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có. Lựa chọn các công ty chứng khoán, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các diễn biến về tài chính, tiền tệ trên thế giới nhằm cập nhật thông tin, nắm bắt các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển quan hệ chặt chẽ với công ty chứng khoán các nước Asean, đặc biệt với công ty chứng khoán của các nước láng giềng như Thái Lan, Trung Quốc. 3.3. Một số kiến nghị Để công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển thực sự trở thành những định chế trung gian hoạt động có hiệu quả trên thị trường chứng khoán, phát huy tích cực vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và của nền kinh tế nói chung, chỉ với sự nỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có thẩm quyền liên quan. Dĩ nhiên, sự quan tâm của chính phủ cũng rất cần thiết. Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế, những nhu cầu chưa được đáp ứng của công ty trong quá trình hoạt động, bài viết xin được đưa ra một số kiến nghị đối với chính phủ, ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng như các bộ ngành, cơ quan liên quan nhằm tạo điều kiện cho công ty phát triển một cách toàn diện. 3.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán. ở Việt Nam, cũng như thị trường các yếu tố sản xuất khác (như thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ, chất xám…), thị trường chứng khoán còn rất mới mẻ. Do vậy, cơ sở hình thành mảng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong thị trường đặc thù này còn sơ khai và nói chung, còn rất manh mún. Cho đến nay, cơ sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và giám sát hoạt động của công ty chứng khoán là: Luật công ty (từ 1/1/2000 áp dụng luật doanh nghiệp) quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý công ty (công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty tư nhân), luật doanh nghiệp Nhà nước quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý doanh nghiệp Nhà nước; luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Các luật như luật dân sự, luật thương mại, luật phá sản, luật đầu tư nước ngoài, luật hợp đồng quy định quyền sở hữu về chứng khoán, phương thức chuyển giao quyền sở hữu này và vấn đề về phá sản công ty chứng khoán. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới những hình thức khác nhau (nghị định, thông tư, quyết định). Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình phát hành, kinh doanh và quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị dưới luật, trong đó văn bản điều chỉnh trực tiếp và quan trọng nhất là nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp lý về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có của nó, gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành. Điều kiện và thể thức kinh doanh. Quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã hình thành. Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế Hệ thống văn bản quy phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị pháp lý thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống còn manh mún, chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn mâu thuẫn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và các quan hệ trong thị trường chứng khoán chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh.Ví dụ: luật dân sự không cho phép bán tài sản không thuộc sở hữu của người bán, như vậy chúng ta không thể cho phép công ty chứng khoán thực hiện bán khống. Bộ luật hình sự còn chưa có quy định rõ ràng về tội danh mua trong hoạt động của thị trường chứng khoán. - Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm luật pháp, kinh nghiệm tổ chức thị trường chứng khoán của nước ngoài mà chưa được hay còn ít kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, em xin đề xuất một số ý kiến như sau: Về lâu dài chúng ta phải xây dựng luật chứng khoán và thị trường chứng khoán với hiệu lực pháp lý cao. Tuy nhiên, việc xây dựng sẽ tốn một thời gian dài để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thị trường chứng khoán theo từng thời kỳ. Theo kinh nghiệm của các nước có thị trường chứng khoán mới xây dựng, phần lớn họ đều ban hành các văn bản dưới hình thức quy định của chính phủ để linh hoạt và thuận tiện cho việc xử lý các vấn đề của thị trường ở giai đoạn đầu hoạt động, sau đó nâng dần lên thành luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hiện nay, hiệu lực của nghị định chính phủ chưa cao, chưa giải quyết được những điểm mâu thuẫn với các văn bản luật, pháp lệnh khác, phạm vi điều chỉnh cũng ở diện hẹp. Do đó, trước mắt, chúng ta nên xây dựng một pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán. ủy ban chứng khoán Nhà nước cần nhanh chóng kiến nghị với chính phủ có kế hoạch trình ủy ban thường vụ quốc hội, đưa việc xây dựng pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của quốc hội. Nếu pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành thì đây sẽ là văn bản pháp lý cao nhất của ngành chứng khoán trong thời gian trước mắt, tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo lòng tin cho các tổ chức và người đầu tư an tâm khi tham gia thị trường. Việc xây dựng pháp lệnh nên thực hiện trên nền những quy định pháp lý hiện có như quy định về phát hành chứng khoán, công ty chứng khoán, công khai thông tin… và sửa đổi bổ sung những phần cần thiết như điều kiện để chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung và những trường hợp chứng khoán bị hủy bỏ niêm yết. Các luật và nội dung khác cũng cần xem xét để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật điều chỉnh chứng khoán và thị trường chứng khoán, bao gồm: Luật doanh nghiệp ban hành ngày 12/6/1999, trong đó chú ý vấn đề về quy định phát hành chứng khoán , chế độ công bố thông tin, báo cáo của doanh nghiệp. Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi năm 2000), trong đó chú ý tới vấn đề hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp, về phát hành cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ luật hình sự: chú ý tới vấn đề về tội danh của thị trường chứng khoán như mua bán nội gián, phát hành chứng khoán ra công chúng mà chưa có giấy phép… Luật các tổ chức tín dụng ngày 26/12/1997, trong đó chú ý tới vấn đề về phát hành và chuyển nhượng chứng khoán của các tổ chức tự doanh. Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995, trong đó chú ý tới vấn đề về định nghĩa tài sản, về hợp đồng gửi giữ tài sản. Luật doanh nghiệp Nhà nước ngày 20/4/1995 trong đó chú ý tới vấn đề thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước khi phát hành cổ phiếu. 3.2.2 Công khai thông tin Thông tin về thị trường chứng khoán là cơ sở cho hoạt động của thị trường chứng khoán, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. Các thông tin sai lệch trên thị trường chứng khoán có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn trên thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của thị trường chứng khoán và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường chứng khoán. Ngay từ giai đoạn đầu xây dựng thị trường chứng khoán tại Việt Nam, ủy ban chứng khoán Nhà nước đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên thị trường chứng khoán. Nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời mà một công ty có thể tiếp nhận để cung cấp cho khách hàng là nguồn tin từ cơ quan quản lý thị trường, từ tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán tại sàn, từ tổ chức phát hành chứng khoán…Hiện nay, công ty đã cung cấp cho các khách hàng những bản tin liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán do công ty tự xử lý trên cơ sở những thông tin tập hợp được từ nhiều nguồn chính thức khác nhau như từ tổ chức phát hành, từ các chủ thể tham gia thị trường và từ chính điều tra của bản thân công ty. Những bản tin này không chỉ dừng lại ở việc nêu ra những con số sự kiện mà còn đưa ra những nhận định và phân tích mang tính chuyên nghiệp, do đó giúp ích rất nhiều cho các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định đầu tư của mình. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, có thể nói rằng công ty hiện vẫn chưa làm tốt được vai trò công bố thông tin của mình. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có những nguyên nhân từ phía chính công ty, có những nguyên nhân khách quan từ bên ngoài. Để công ty thực hiện được tốt chức năng này cần có sự phối hợp và giúp đỡ từ các phía có liên quan, cụ thể như sau: Về phía ủy ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán: ủy ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi, cụ thể hóa các quy định về công bố thông tin, đặc biệt liên quan đến các vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo… Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các công ty niêm yết thực hiện được tốt. ủy ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của ủy ban chứng khoán Nhà nước, bên cạnh tờ tin thị trường chứng khoán của trung tâm giao dịch chứng khoán cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của ủy ban chứng khoán Nhà nước về những vấn đề chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy. Một số vấn đề về công bố thông tin quy định trong quy chế thành viên niêm yết và công bố thông tin tại Thông tư 79/2000/ TT-UBCK còn chưa rõ ràng và chưa đầy đủ so với thực tế phát sinh, do vậy cần có sự điều chỉnh phù hợp và kịp thời hơn. Cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm chế độ công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, công khai các vi phạm và mức độ xử lý về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối tượng khác có liên quan trên các phương tiện thông tin đại chúng. Về phía công ty niêm yết: Mỗi công ty cần xây dựng quy trình công bố thông tin của mình trên cơ sở quy trình công bố thông tin mẫu của trung tâm giao dịch. Ngoài quy trình công bố thông tin, để nâng cao chất lượng công bố thông tin, các công ty cần lập ra một bộ phận chuyên trách theo dõi việc công bố thông tin. Tiến tới chuẩn mực hóa chức vụ, tiêu chuẩn của người chịu trách nhiệm công bố thông tin (như phải có hiểu biết về kinh tế- tài chính, luật pháp và công nghệ thông tin…) Cần phổ biến các vấn đề về công bố thông tin trong nội bộ công ty, đồng thời tăng cường giám sát để hạn chế việc rò rỉ thông tin ra bên ngoài hoặc ra báo chí trước khi báo cáo với ủy ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán và công khai ra thị trường. Về phía Nhà nước: Cần chỉnh sửa pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thống nhất quản lý Nhà nước về việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, khắc phục sự bất bình đẳng giữa các công ty niêm yết và không niêm yết trong nghĩa vụ công bố thông tin khi phát hành chứng khoán ra công chúng. áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế vào Việt Nam, đồng thời ban hành quy định bắt buộc các doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần có một mức vốn nhất định trở lên phải thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính hàng năm và công khai ra công chúng. Bên cạnh đó, cần tăng cường kỷ luật tài chính doanh nghiệp và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm. 3.3.3 Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng mình đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong “cuộc chơi” đó. Theo điều tra của ủy ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng: tuy thị trường chứng khoán còn là một lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không có ý định huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán nên nhu cầu về đào tạo là rất lớn. Ngoài ra, các thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà công chúng tiếp nhận được chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện chuyên đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế: chỉ mới nghe nói về hoạt động chứ chưa hiểu biết được thậm chí cả những nguyên tắc cơ bản của chứng khoán và thị trường chứng khoán. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Nhìn chung nhu cầu học hỏi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư là rất lớn và để cho công chúng bắt kịp được sự phát triển của chứng khoán và thị trường chứng khoán thì ủy ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả. ở cấp địa phương, ủy ban chứng khoán Nhà nước nên phối hợp với các ban ngành địa phương tổ chức các lớp phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó cần thức tỉnh cho các doanh nghiệp những ưu điểm và hạn chế khi tham gia huy động vốn trên thị trường này. Nếu việc làm này đạt kết quả tốt sẽ khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường, góp phần làm tăng nguồn cung cho thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành. ở quy mô lớn hơn, chúng ta phải có biện pháp đẩy mạnh quá trình phổ biến kiến thức vào đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nền kinh tế xã hội, đặc biệt phải khuyến khích các chương trình đào tạo về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cũng như các khóa huấn luyện nâng cao cho lớp cán bộ khoa học đi đào tạo tại nước ngoài, cấp vốn cho các trung tâm nghiên cứu kinh tế về chứng khoán, qua đó tạo ra những hạt nhân giỏi, phục vụ quá trình nghiên cứu, tham mưu các vấn đề về ngành công nghiệp chứng khoán. 3.3.4 Đẩy mạnh cổ phần hóa. Tăng cung cho thị trường chứng khoán chính là tạo điều kiện cho công ty chứng khoán phát triển, và cổ phần hóa sẽ tạo thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán cũng như công ty chứng khoán. Tuy nhiên, hiện nay công tác cổ phần hóa chưa thực sự đem lại cho thị trường chứng khoán nhiều loại hàng hoá mà chỉ dừng lại ở con số rất khiêm tốn: 21 cổ phiếu và 43 trái phiếu. Nguyên nhân gây ra sự ách tắc trong công tác cổ phần hóa là: Về tư tưởng: các doanh nghiệp Nhà nước từ giám đốc đến người lao động đều muốn duy trì hình thức doanh nghiệp Nhà nước, không muốn chuyển đổi chế độ sở hữu bởi các vấn đề liên quan đến quyền lợi. Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn được hưởng ưu đãi nhất định của Nhà nước, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ sẽ được Nhà nước trợ giúp về nhiều mặt. Bản thân các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước được bổ nhiệm đã quen với cơ chế cũ, ỷ lại Nhà nước. Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, các giám đốc không được thêm quyền lợi gì, thậm chí còn đứng trước nguy cơ bãi miễn do không đủ khả năng lãnh đạo. Hơn nữa, phải đối mặt với một môi trường kinh doanh mới, đầy rủi ro và cạnh tranh cao, một mô hình quản lý mới đòi hỏi tính công khai và cơ chế giám sát chặt chẽ, những giám đốc không năng động, ngại đổi mới thường tỏ ra thờ ơ với chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước có ít kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, phần lớn họ quan tâm đến lợi ích trước mắt hơn là những lợi ích sẽ thu được nếu doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. Tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, việc xác định nguồn gốc và cách tính các nguồn vốn (vốn của Nhà nước và vốn tự có của doanh nghiệp) thường gặp nhiều khó khăn, do đó, tình trạng cùng một doanh nghiệp nhưng các cơ quan khác nhau đưa ra những kết quả định giá khác nhau là không ít. Vì vậy, việc xác định giá trị doanh nghiệp đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Khó khăn trong việc lựa chọn các doanh nghiệp, các lĩnh vực cổ phần hóa cũng làm giảm tiến độ cổ phần hóa. Các bộ, ngành, địa phương nếu chọn các doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả để tiến hành cổ phần hóa thì sẽ ảnh hưởng tới chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước và nhiều lợi ích trực tiếp của họ. Thế nhưng, khi đưa ra các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, trang thiết bị lạc hậu, khả năng cạnh tranh kém để cổ phần hóa thì các nhà đầu tư lại không muốn mua cổ phần của các doanh nghiệp đó, làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang kinh doanh khá hiệu quả, có thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa ổn định, có công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến lại không được phép cổ phần hóa. Để tháo gỡ những khó khăn trên, đồng thời tạo thêm hàng hoá cho thị trường phát triển thì Nhà nước cần phải: Tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt doanh nghiệp quốc doanh hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp Nhà nước, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Coi cổ phần hóa là biện pháp bắt buộc trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, loại bớt các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, không những làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước mà còn tạo được lòng tin ở các nhà đầu tư. Sự bắt buộc này phải được thực hiện trên cơ sở đã xem xét và phân tích kỹ lưỡng thực trạng từng doanh nghiệp trước khi quyết định. Đề ra những nguyên tắc cơ bản, tiêu chuẩn và tiêu chí cụ thể, thống nhất làm cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp. Cố gắng rút ngắn thời gian xem xét, định giá doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo sự chính xác tương đối. Có thể thực hiện bán đấu giá doanh nghiệp ngay trên thị trường chứng khoán. Trong thời gian đầu, có thể tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động tương đối tốt, có tiềm năng và triển vọng sau khi cổ phần hóa. Cho phép cổ phần hóa một số doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp trong những ngành có nhịp độ tăng trưởng cao như: Tổng công ty đầu khí Việt Nam, tổng công ty điện lực Việt Nam, tổng công ty hàng không Việt Nam, tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam… Các công ty này có vị thế và quy mô lớn, hoạt động tương đối ổn định, hiệu quả cao có thể tạo ra được khối lượng chứng khoán lớn và có độ tin cậy cao trên thị trường Thực hiện thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần để có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, đây sẽ là những loại chứng khoán rất hấp dẫn các nhà đầu tư. Nếu thành công có thể nhân ra diện rộng. Kết luận ở Việt Nam, hiện tại các công ty chứng khoán đang còn trong giai đoạn đầu và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào thị trường chứng khoán. Cho dù gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình nhưng các công ty cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để có thể phát triển tốt trong tương lai không xa. Từ những buổi đầu thành lập cho tới nay công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và tạo được lòng tin nơi khách hàng cũng như lòng tin của công chúng đầu tư. Tuy nhiên, chặng đường trước mắt đối với công ty là rất khó khăn và đầy thử thách. Do đó, công ty cần phải có những bước đi cụ thể để tự mình vượt qua những khó khăn thử thách hướng tới sự phát triển vững mạnh. Qua thời gian nghiên cứu và thực tập tại công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em đã hiểu phần nào các hoạt động kinh doanh và mạnh dạn đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô, các cán bộ công ty để em có thể hoàn thiện đề tài của mình trong tương lại. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo Chứng khoán và thị trường chứng khoán- những kiến thức cơ bản-Tài liệu UBCKNN- Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng hoạt động Luật áp dụng trong ngành chứng khoán - Tài liệu UBCKNN- Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng hoạt động Tạp chí chứng khoán Việt Nam các số năm 2001, 2002, 2003 Tạp chí đầu tư chứng khoán các số năm 2001, 2002, 2003 Giáo trình thị trường chứng khoán- Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29729.doc
Tài liệu liên quan