Tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân: ... Ebook Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 đánh dấu 20 năm đổi mới của Đảng và Nhà nước và kết quả là thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại là vô cùng lớn. Đồng thời bước sang thế kỷ mới, thế kỷ 21 – một thế kỷ đánh dấu sự phát triển của toàn nhân loại. Hoà nhịp cùng xu thế phát triển ấy, Việt Nam cũng đang có những bước đi vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận định rằng trong những năm qua, nền kinh tế thị trường Việt Nam đã đạt được những thành tựu khả quan, từng bước tạo điều kiện cho nước ta tham gia, hoà nhập vào nền kinh tế rộng lớn của thế giới đang diễn ra một cách năng động, đa dạng và sâu sắc. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá đem lại rất nhiều có hội nhưng cũng không ít thách thức và rủi ro cho hoạt động kinh tế của Việt Nam nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng.
Ngành ngân hàng với nhiều hoạt động truyền thống như hoạt động huy động vốn, hoạt động đầu tư cho vay thì một số hoạt động mới cũng ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh cũng là một hoạt động ra đời theo yêu cầu đó - yêu cầu khách quan và chủ quan hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nhằm phòng ngừa rủi ro, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh thông qua việc đảm bảo cho khách hàng bằng uy tín của ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh không những tạo điều kiện cho khách hàng nắm bắt được các cơ hội kinh doanh mà còn nâng cao uy tín cũng như vị thế của ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nghiệp vụ bảo lãnh quan trọng như vậy nhưng so với các nghiệp vụ truyền thống khác thì nghiệp vụ bảo lãnh còn khá mới mẻ. Do đó, nghiệp vụ bảo lãnh chưa được hoàn thiện về mặt quy trình, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, một số loại hình bảo lãnh và các sản phẩm từ hoạt động bảo lãnh vẫn chưa được thực hiện. Đôi khi, rủi ro phát sinh ngay từ chính bản thân doanh nghiệp. Xuất phát từ những lý do đó, việc phát triển hoạt động bảo lãnh theo chiều rộng và theo chiều sâu là vô cùng cần thiết để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế
Từ những lý do đó, đồng thời được thực tập tại Phòng Khách hàng doanh nghiệp trong Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân và tìm hiểu về nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân” làm chuyên đề thực tập. Chuyên đề được trình bày ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, bao gồm ba chương chính:
Chương 1: Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Dưới sự giúp đỡ của các cán bộ phòng Khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng, đồng thời việc hoàn thành chuyên đề của em là được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của PGS – TS Nguyễn Thị Thu Thảo. Em xin chân thành cảm ơn!
Sau đây là những nội dung trong chuyên đề thực tập của em:
CHƯƠNG 1
NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Với quá trình hình thành và phát triển lâu đời, cho đến nay các ngân hàng đã trở thành một hệ thống lớn mạnh trên toàn cầu góp phần chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Trong đó, ngân hàng thương mại chiếm ưu thế bởi sự đa dạng về chức năng, linh hoạt trong cung cấp dịch vụ, ưu thế về qui mô tài sản cũng như số lượng của các ngân hàng thương mại.
Các tổ chức tài chính quốc tế định nghĩa ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.” Luật pháp cũng quy định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán ”.
Xuất phát từ mục tiêu hoạt động được quy định, ngân hàng thương mại đóng vai trò là một trung gian tài chính đắc lực của nền kinh tế. Ngân hàng khắc phục mâu thuẫn vốn có giữa người cho vay và người đi vay, chuyển tiết kiệm thành đầu tư, làm cầu nối giữa hai bộ phận thặng dư chi tiêu và thâm hụt chi tiêu trong nền kinh tế. Nhờ có sự đa dạng hoá, sự chuyên nghiệp của ngân hàng thương mại mà sự cho vay, đầu tư được giảm thiểu và phân tán rủi ro. Mặt khác, khả năng thẩm định thông tin tốt đã giúp ngân hàng vượt qua được tình trạng “ thông tin không đỗi xứng “ trên thị trường tạo ra khả năng sinh lợi cho ngân hàng.
Ngoài chức năng làm trung gian tài chính, ngân hàng thương mại còn là thủ quỹ của doanh nghiệp. Với những nghịêp vụ như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, chuyển khoản…, ngân hàng có vị trí quan trọng trong việc cất trữ tiền của doanh nghiệp cũng như phục vụ doanh nghiệp thanh sử dụng số tiền đó.NNgân hàng thương mại tạo ra tiền dựa trên lượng tiền cơ sở ngân hàng trung ương phát hành. Thông qua các nghiệp vụ của mình, qui mô vốn tín dụng mà ngân hàng thương mại tạo ra là rất lớn. Do đó, hệ số tạo tiền cao và khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có thể vượt qua sự kiểm soát của ngân hàng Nhà nước nếu ngân hàng Nhà nước không có các quy định chặt chẽ về hoạt động của ngân hàng thương mại.
Hiện nay, ngân hàng đã trở thành những trung gian thanh toán lớn nhất tại hầu hết các quốc gia. Thay cho khách hàng, ngân hàng thương mại thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ với những phương thức thanh toán không dùng tiền mặt hết sức thuận lợi. Các ngân hàng còn tiến hành thanh toán bù trừ lẫn nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán bằng những công nghệ thanh toán hiện đại, đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, nhờ sự chuyên môn hoá và công nghệ hiện đại, ngân hàng ngày một trở thành công cụ đắc lực phục vụ cho nền kinh tế. Thành công của các ngân hàng thương mại còn đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng và nghề cho vay nặng lãi. Trải qua hàng trăm năm phát triển, ngày nay ngân hàng thương mại đã có bốn nghiệp vụ cơ bản như huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán và hoạt động khác. Trong đó, nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng là hai nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ huy động vốn thuở sơ khai xuất phát từ nhu cầu cất trữ hộ tiền của những người giàu có. Thực hiện cất trữ hộ đã làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Huy động vốn thông qua cất trữ hộ tiền là một điều kiện để nghiệp vụ thanh toán ra đời. Dần dân, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, huy động vốn không chỉ là giữ hộ tiền mà còn là đi vay từ những người có vốn nhàn rỗi. Đến nay, trong thời kỳ hiện đại, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ huy động thông qua các hoạt động chủ yếu sau: huy động tiền gửi gồm có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi của các ngân hàng khác. Ngân hàng cũng huy động vốn thông qua tiền vay gồm tiền vay Ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường vốn…
Song song với nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Chính vì vậy, hoạt động tín dụng là động lực thúc đẩy hoạt động huy động vốn để tìm kiếm những nguồn vốn mới. Ngân hàng thương mại cung cấp các hình thức tín dụng đa dạng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn cho đến cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án, bảo lãnh, leasing (thuê mua). Nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng đã giúp ngân hàng thực hiện được chức năng trung gian tài chính, đáp ứng nhu cầu luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng ra đời không những tiện lợi cho khách hàng truyền thống mà còn khuyến khích các khách hàng mới tăng tiền gửi vào ngân hàng để sử dụng dịch vụ. Cùng với sự phát triển của công nghệ hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt thông qua ngân hàng đã mang lại lợi ích cao, tiết kiệm thời gian và chi phí. Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt gồm có séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, LC (letter of credit), hối phiếu, tín dụng chứng từ…
Ngoài những nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện nhiều nghiệp vụ mới nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như dịch vụ môi giới mua bán chứng khoán, mua bán tài sản, đầu tư, dịch vụ tư vấn: cung cấp các tiện ích như dịch vụ hỗ trợ sau cho vay, home – banking, dịch vụ uỷ thác… Lợi nhuận mà những loại hình này đem lại đang dần thay đổi tỷ trọng doanh thu trong các ngân hàng hiện đại trên thế giới.
Trong ngân hàng, nghiệp vụ bảo lãnh cũng được coi là một nghiệp vụ tín dụng được phân theo hình thức cấp tín dụng . Tuy nhiên, nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ mới được hình thành dựa trên nhu cầu của khách hàng về bảo đảm sự tin cậy trong quan hệ kinh tế. Do đó, nghiệp vụ bảo lãnh có những đặc điểm và tính chất riêng biệt so với nghiệp vụ tín dụng. Có thể nhận định rằng, nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ có tiềm năng mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
1.2. Nghiệp vụ bảo lãnh tai Ngân hàng thương mại
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự giao lưu buôn bán trong một quốc gia và giữa các quốc gia trở nên phổ biến. Mặc dù thông tin kinh tế rất đa dạng nhưng không phải lúc nào các doanh nhân cũng có đầy đủ thông tin về đối tác kinh doanh. Sự cần thiết của chữ tín trong quan hệ kinh tế là rất quan trọng nhưng không thể được xác lập ngay lần đầu. Trong khi đó, ngân hàng với vị trí là một tổ chức tài chính trung gian lại có đầy đủ uy tín và thông tin về khách hàng. Xuất phát từ nhu cầu bảo đảm uy tín cho khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng, nghiệp vụ bảo lãnh ra đời đã giải quyết nhu cầu cấp bách trong nền kinh tế.
1.2.1. Khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh
Ở mỗi nước khác nhau lại có một định nghĩa về nghiệp vụ bảo lãnh, tuy nhiên bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh là không thay đổi. Theo luật các tổ chức tín dụng và quyết định 283/QĐ - NHNN nước ngày 25/03/2000:
- B ảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã đước trả thay.
- B ên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng đã được quy định tại điều 3 của Quy chế bảo lãnh ngân hàng theo quyết định 283/2000 của NHNN gồm có:
+ Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Viêt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật tổ chức tín dụng được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng theo quy định của pháp luật có liên quan và quy định tại Quy chế này.
+ Các ngân hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
+ Tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
- B ên được bảo lãnh là các khách hàng được quy định tại điều 4 của Quy chế bảo lãnh ngân hàng theo Quyết định 283/2000 của Ngân hàng Nhà nước gôm có:
+ Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân.
+ Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
+ Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 của Bộ luật dân sự.
+ Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.
+ Hộ kinh doanh cá thể.
Theo bản sửa đổi số 112 ngày 11/02/2003, những đối tượng không được bảo đảm bao gồm:
+ Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc của tổ chức tín dụng.
+ Cán bộ nhân viên đang thực hiện thẩm định bảo lãnh.
+ Bố mẹ, vợ chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc. Tuy nhiên, bố mẹ, vợ chồng, con của tổng giám đốc, phó tổng giám đốc nếu có nhu cầu bảo lãnh sẽ được hội sở chính của tổ chức tín dụng quyết định.
- Bên nhận bảo lãnh là các cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Nhờ nguồn tài trợ này khách hàng có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi và nhanh chóng. Tuy nhiên, bảo lãnh ngân hàng phải có những yếu tố phân biệt với các loại bảo lãnh khác như:
- Bảo lãnh ngân hàng là cam kết về nghĩa vụ tài chính.
- Bảo lãnh ngân hàng chỉ được thực hiện khi có sự vi phạm hợp đồng của khách hàng.
- Bảo lãnh ngân hàng không phải phương tiện thanh toán mà là phương tiện bảo đảm.
Bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng và được theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán. Khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ tài chính cam kết thì ngân hàng sẽ phải chịu trách nhiệm chi trả hoặc bồi thường cho người được bảo lãnh. Trong trường hợp đó, ngân hàng sẽ hạch toán ghi nợ khách hàng. Nếu khách hàng không có khả năng trả thì khoản nợ đó sẽ đưa vào nợ xấu, nợ quá hạn và áp dụng lãi phạt.
Chính vì trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ cam kết hoàn toàn có thể xảy ra nên bảo lãnh chính là một cách để san sẻ rủi ro đồng thời tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính giữa ngân hàng với khách hàng. Qua hoạt động bảo lãnh, ngân hàng và khách hàng cùng có lợi. Khách hàng nhờ có sự đảm bảo của ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh mà không gặp trở ngại. Về phía ngân hàng, bảo lãnh đem lại khoản thu, chủ yếu là phí bảo lãnh và các phí khác có
liên quan đến hoạt động bảo lãnh.
1.2.2. Đặc điểm của nghiệp vụ bảo lãnh.
- B ảo lãnh là một nghiệp vụ được hình thành dựa trên sự thoả thuận của các bên tham gia. Trong nghiệp vụ bảo lãnh có ba tài liệu cơ sở gồm hợp đồng ban đầu giữa bên được bảo lãnh, thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh. Sau khi thẩm định các vấn đề liên quan, ngân hàng chấp nhận bảo lãnh cho khách hàng (bên được bảo lãnh). Ngân hàng và khách hàng sẽ tự thoả thuận với nhau về hình thức bảo lãnh, điều kiện trả tiền và các điều kiện khác. Trong trường hợp ký hợp đồng bảo lãnh, điều khoản trong đó cũng phải được hình thành từ sự thoả thuận của ngân hàng và khách hàng. Thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành vẫn phải dựa trên hợp đồng ban đầu và bất cứ sự thay đổi nào đều phải có sự đồng ý của các bên liên quan.
- Bảo lãnh là một cam kết bằng văn bản do đó tất cả các hoạt động có liên quan đến bảo lãnh đều phải được lập trên cơ sở chứng từ. Hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cơ sở ban đầu, thư bảo lãnh đều được lập bằng văn bản. Tất cả các chứng từ, tài liệu đều phải đầy đủ thông tin theo quy định và được theo dõi bảo quản.
- B ảo lãnh có tính độc lập đối với các văn bản khác. Mặc dù có trích thông tin từ các văn bản đó nhưng hợp đồng bảo lãnh độc lập với các bên nhận bảo lãnh, thư bảo lãnh độc lập với bên được bảo lãnh, hợp đồng ban đầu độc lập với ngân hàng. Cụ thể, người đứng ra cam kết phải chịu trách nhiệm trả tiền ngày lần đầu tiên người thụ hưởng có yêu cầu cho dù có sự nghi ngờ và điều tra giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Theo UCP 845 của ICC, “ về bản chất bảo lãnh là giao dịch tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay các điều kiện dự thầu mà bảo lãnh lấy làm căn cứ và bên nhận bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng buộc bởi hợp đồng và các điều kiện dự thầu đó, dù có trích tham chiếu đến chúng trong bảo lãnh”.
- B ảo lãnh có hiệu lực mạnh vì nó là một cam kết không huỷ ngang và vô điều kiện với người thụ hưởng. Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình thay cho khách hàng, bất kể khách hàng đó trong thực tế có thật sự vi phạm hợp đồng ban đầu hay không, ngân hàng vẫn phải chi trả cho bên nhận bảo lãnh một cách vô điều kiện.
1.2.3. Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh.
Nghiệp vụ bảo lãnh rất có ý nghĩa không chỉ đối với bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh mà còn đối với ngân hàng và nền kinh tế. Bên nhận bảo lãnh là bên yều cầu đối tác của mình phải có thư bảo lãnh của ngân hàng. Thư bảo lãnh của ngân hàng chính là một sự đảm bảo để bên nhận bảo lãnh tin tưởng hợp tác với bên được bảo lãnh. Bảo lãnh mang chức năng pháp lý vì thông qua thư bảo lãnh, bên được bảo lãnh phải thừa nhận nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của mình. Nhờ vậy, bên thụ hưởng có thể tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh một cách suôn sẻ và thuận lợi. Bảo lãnh thực chất đã tạo lòng tin cho bên nhận bảo lãnh trong giao dịch với đối tác.
Ngược lại đối với bên được bảo lãnh, khoản bảo lãnh giúp bên được bảo lãnh chiếm dụng vốn của người thụ hưởng trong một thời gian dưới nhiều hình thức. Nhờ đó, rút ngắn được vòng quay của vốn và đẩy nhanh được quá trình sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá. Bên được bảo lãnh chỉ phải trả một khoản phí cho ngân hàng bảo lãnh và được đảm bảo đầy đủ quyền lợi theo hợp đồng kinh doanh ban đầu. Mặt khác, bảo lãnh đã thực hiện một chức năng thúc đẩy đối với khách hàng. Vì khi vi phạm hợp đồng, bên được bảo lãnh phải chi phí bồi thường và những chi phí này thường lớn nên buộc bên được bảo lãnh phải thực hiện đúng hợp đồng ký kết.
Nói chung, đối với cả hai nghiệp vụ, bảo lãnh đã góp phần bỏ hình thức đặt cọc trong giao dịch giữa bên mua và bên bán, giúp bên mua có thể sử dụng số tiền đặt cọc đó vào mục đích khác có lợi hơn. Đồng thời bảo lãnh ngân hàng giúp các bên rút ngắn thời gian tìm hiểu đối tác, rút ngắn khoảng cách địa lý và tiết kiệm chi phí. Những đối tác ở vùng châu á hoàn toàn có thể yên tâm giao dịch với các đối tác từ khắp nơi trên thế giới vì đã có sự bảo lãnh của các ngân hàng có quan hệ địa lý với các ngân hàng đặt tại nước mình.
Bảo lãnh là một trong những cách khắc phục hậu qủa khi xảy ra tổn thất nhằm giảm thiểu thiệt hại cho các bên tham gia đặc biệt là với bên nhận bảo lãnh. Đây chính là chức năng đền bù của bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh sẽ được ngân hàng bù đắp thiệt hại nếu có sự vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh hiện nay, cơ hội kinh doanh rất quý giá đối với tất cả các thành phần kinh tế. Chính vì vậy, bảo lãnh là một công cụ đắc lực để các khách hàng của ngân hàng kịp thời nắm bắt được các cơ hội kinh doanh.
Đối với bản thân ngân hàng, bảo lãnh góp phần huy động những nguồn vốn lớn thông qua hoạt động ký quỹ cho bảo lãnh. Ngân hàng chỉ phải trả lãi không ky hạn cho những khoản ký quỹ đặc biệt là những khoản ký quỹ lớn và có thời hạn bảo lãnh tương đối dài. Không phải nguồn vốn nào cũng có điều kiện thuận lợi cho ngân hàng khi huy động đặc biệt về lãi áp dụng như các khoản bảo lãnh.
Trong nền kinh tế, khi các đơn vị kinh tế được tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất kinh doanh thì bộ máy của nền kinh tế cũng được vận hành có hiệu quả. Nhờ có nghiệp vụ bảo lãnh làm thông suốt hoạt động kinh doanh, mô hình luân chuyển H-T được đẩy nhanh, rút ngắn vòng quay của vốn trong nền kinh tế thị trường. Đây là một đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
1.2.4. Phân loại
1.2.4.1. Theo phương thức phát hành.
- B ảo lãnh trực tiếp là loại hình bảo lãnh ngân hàng mà trong đó ngân hàng phát hành cam kết thanh toán không huỷ ngang trực tiếp với bên nhận bảo lãnh. Đồng thời bên được bảo lãnh cũng phải thực hiện nghĩa vụ trực tiếp với ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thường được sử dụng trong phạm vi một quốc gia và chịu sự chi phối của pháp luật trong nước. Ngân hàng bảo lãnh sẽ trực tiếp gửi thư bảo lãnh đến bên thụ hưởng và khi hết hạn có thể trực tiếp tất toán với người hưởng mà không cần sự hoàn trả thư gốc. Tuy nhiên, đối với trường hợp ngân hàng phát hành có ngân hàng đại lý tại nước ngoài nơi bên nhận bảo lãnh đóng trụ sở, ngân hàng đại lý đó sẽ đóng vai trò là ngân hàng thông báo thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng. Ngân hàng thông báo không chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Sơ đồ 1: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếpS
Ngân hàng b¶o lãnh
Bên được b ¶o lãnh
Bên nhận b ¶o lãnh
((2)(9((22)
(1)
(3)
Trường hợp đặc biệt của phương thức bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh phát hành trái phiếu. Ngân hàng phát hành cũng có nghĩa vụ trực tiếp với công ty thực hiện phát hành trái phiếu nhưng người yêu cầu bảo lãnh và người thụ hưởng là một. Ngân hàng và công ty phát hành trái phiếu sẽ ký hợp đồng bảo lãnh thanh toán qua trái phiếu đối với người mua. Nếu công ty không thu đủ số tiền cần huy động trong lần phát hành trái phiếu, ngân hàng sẽ bù đắp.
- Bảo lãnh gián tiếp là loại hình bảo lãnh mà ngân hàng phát hành đã phát hành bảo lãnh thay cho một ngân hàng khác phục vụ bên được bảo lãnh. Ngân hàng phục vụ bên được bảo lãnh phải có quan hệ đại lý với ngân hàng phát hành bảo lãnh và được gọi là ngân hàng chỉ dẫn. Hai ngân hàng liên hệ với nhau bằng văn bản. Khi tổn thất xảy ra, trước hết ngân hàng phát hành sẽ chịu trách nhiệm bồi thường trực tiếp với bên thụ hưởng, sau đó yêu cầu ngân hàng chỉ thị thanh toán. Tiếp theo, ngân hàng chỉ thị sẽ buộc bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho mình. Quan hệ pháp lý ở đây là quan hệ thực thi nghiệp vụ bảo lãnh cùng với việc làm rõ trách nhiệm giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước người được bảo lãnh.
Hình 2: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng chỉ dẫn
Bên được bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh
(3)
(4)
(1)
(2)
(1) Bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh ký kết hợp đồng kinh tế.
Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng chỉ dẫn chỉ định một ngân hàng tại nước của bên nhận bảo lãnh để phát hành thư bảo lãnh.
Ngân hàng chỉ dẫn yêu cầu ngân hàng phát hành phát hành thư bảo lãnh cùng thư bảo lãnh đối ứng cho bên nhận bảo lãnh.
Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh.
- Đồng bảo lãnh là loại hình bảo lãnh được áp dụng cho những khoản bảo lãnh lớn, vượt quá khả năng của một ngân hàng làm được. Để giảm thiểu rủi ro do những khoản bảo lãnh lớn gây ra, nhiều ngân hàng cùng đứng ra thực hiện bảo lãnh. Một ngân hàng sẽ được chọn làm ngân hàng phát hành, các ngân hàng còn lại đóng vai trò thành viên. Ngân hàng phát hành sẽ chịu trách nhiệm thu phí và chịu trách nhiệm thanh toán nếu phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Sau đó, dựa vào tỷ lệ đóng góp của các thành viên để chia số phí thu được hoặc truy đòi trách nhiệm.
Hình 3: Sơ đồ đồng bảo lãnh.
Ngân hàngN thành viên
Ngân hàngNthành viên
Ngân hàngN thành viên
Ngân hàng thành viên
Bên được b ¶o lãnh
Bên nhận b ¶o lãnh
(2)
(3)
(1)
Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng kinh tế.
Bên được bảo lãnh yêu cầu các ngân hàng xem xét phát hành thư bảo lãnh.
Ngân hàng phát hành gửi thư bảo lãnh đến bên nhận bảo lãnh.
1.2.4.2.Theo phương thức đòi tiền.
- Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh trong trường hợp ngân hàng phải thanh toán chỉ khi bên nhận bảo lãnh xuất trình đầy đủ các giấy tờ được quy định từ trước như bằng chứng vi phạm có thể xác nhận của bên được bảo lãnh, các vận đơn, hoá đơn thương mại…
Bảo lãnh có điều kiện bảo vệ quyền lợi của bên được bảo lãnh nhằm tránh mọi sự lợi dụng hoạt động bảo lãnh của bên thụ hưởng để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, bảo lãnh có điều kiện lại gây cản trở cho bên nhận bảo lãnh khi nhận bồi thường.
- Bảo lãnh vô điều kiện là loại hình bảo lãnh mà ngân hàng sẽ thanh toán ngay cho bên thụ hưởng khi có sự vi phạm hợp đồng xảy ra. Ngân hàng chỉ yêu cầu bên nhận bảo lãnh gửi công văn ghi rõ sự vi phạm kèm theo bản gốc hợp đồng ban đầu.
Bảo lãnh vô điều kiện lại đảm bảo quyền lợi cho bên nhận bảo lãnh. Tuy bảo lãnh vô điều kiện bất lợi cho bên được bảo lãnh khi bên thụ hưởng gian dối nhưng lại được sử dụng phổ biến hiện nay vì tính thuận tiện trong giao dịch.
1.2.4.3. Theo mục tiêu bảo lãnh.
- B ảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho chủ thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Giá trị bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu thường chiếm từ 1 đến 5% giá trị hợp đồng kinh tế giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh sẽ hết hiệu lực khi người tham gia dự thầu không trúng thầu hoặc đã trúng thầu và ký kết hợp đồng với chủ thầ. Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu tránh cho chủ thầu bị thiệt hại khi người tham gia dự thầu rút lui hoặc thay đổi không ký hợp đồng khi đã trúng thầu.
- B ảo lãnh thực hiện hợp đồng l à một bảo lãnh của ngân hàng cho bên nhận bảo lãnh nhằm bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh thường được phát hành cho người bán. Giá trị bảo lãnh từ 5 đến 10% giá trị hợp đồng theo thoả thuận của các bên. Trong trường hợp đặc biệt, giá trị bảo lãnh có thể lên đến 15% hoặc giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng.
- B ảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước hay bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng đảm bảo cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
- B ảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh của ngân hàng đảm bảo khách hàng của mình thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
- B ảo lãnh vay vốn là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, cá nhân…) về việc trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được. Bảo lãnh vay vốn rất phức tạp trong khâu thẩm định khách hàng và tài sản đảm bảo. Những khoản vay có thể lớn, rủi ro cao trong khả năng trả nợ có thể khiến ngân hàng từ chối bảo lãnh.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng cho bên nhận bảo lãnh rằng ngân hàng cam kết sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. Giá trị bảo lãnh có thể là 100% hoặc 110% trị giá hợp đồng tuỳ theo các bên thoả thuận. Loại hình bảo lãnh nay đảm bảo cho nhà cung cấp được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sau khi đã giao hàng hoá cho bên mua.
- B ảo lãnh bảo hành là cam kết của ngân hàng về việc bồi thường giá trị bảo lãnh cho bên nhần bảo lãnh (người có chứng nhận bảo hành) không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ bảo hành như đã quy định.
- B ảo lãnh phát hành là một bảo lãnh ngân hàng cho công ty phát hành trái phiếu rằng ngân hàng cam kết thanh toán tiền mua trái phiếu cho người hưởng nếu công ty không có khả năng trả hoặc trả không đủ vốn vay cho người mua trái phiếu khi đến hạn.
1.2.4.4. Theo tính chất
- Bảo lãnh có thể chuyển nhượng và bảo lãnh không thể chuyển nhượng:
Bảo lãnh có thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh có thể chuyển quyền thụ hưởng cho một đối tượng khác không giới hạn, miễn là quyền chuyển nhượng đó được ghi rõ từ khi bảo lãnh được phát hành.
Ngược lại, bảo lãnh không thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh không được chuyển quyền thụ hưởng cho đối tượng khác. Điều này cũng phải được ghi rõ ngay khi phát hành bảo lãnh.
- Bảo lãnh tuần hoàn là một bảo lãnh ngân hàng mà giá trị bảo lãnh được lập lại như cũ sau thời hạn một năm.
- Bảo lãnh xác nhận là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng (bên nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh để đảm bảo cho khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh). Trong trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết đối với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
1.2.4.5. Theo tài sản đảm bảo.
- B ảo lãnh có tài sản đảm bảo là loại hình bảo lãnh có áp dụng các hình thức bảo lãnh như: ký quỹ, cầm cố tài sản, thế chấp tài sản. Ký quỹ một phần hoặc toàn bộ giá trị bảo lãnh. Sau khi bảo lãnh kết thúc, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng sẽ xử lý tài sản đảm bảo này hoặc trả cho bên được bảo lãnh.
- B ảo lãnh không có tài sản đảm bảo là loại hình bảo lãnh chỉ cần đảm bảo bằng uy tín như bảo lãnh của bên thứ ba. Sau khi kết thúc, nếu phải thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh thứ ba sẽ thực hiện trước tiên. Nếu không phải thực hiện nghĩa vụ, ngân hàng không phải xử lý về tài sản đảm bảo.
1.2.5. Quy trình bảo lãnh.
Quy trình bảo lãnh nói chung gồm những bước sau:
Bước 1: Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng ghi rõ số tiền, điều kiện bảo lãnh. Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Qua đó, ngân hàng xác định rủi ro và các biện pháp phòng ngừa.
Bước 2: Ký hợp đồng bảo lãnh với khác._.h hàng.
Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và ngân hàng thể hiện ràng buộc tài chính giữa ngân hàng và bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng:
- Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng.
- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả cuả ngân hàng .
- Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh.
- Hình thức bảo lãnh.
- Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách hàng phải thực hiện đối với ngân hàng.
- Trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba.
Bước 3: H ình thức bảo lãnh.
Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh dưới các hình thức sau:
- Phát hành thư bảo lãnh: hình thức áp dụng cho mọi loại bảo lãnh.
- Mở thư tín dụng: áp dụng cho bảo lãnh thanh toán.
- Ký hối phiếu nhận nợ: áp dụng cho bảo lãnh vay vốn.
- Khách hàng sẽ thoả thuận hoặc trực tiếp yêu cầu ngân hàng hình thức bảo lãnh.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại đang ngày càng đóng vai trò tích cực trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh không ngừng mang lại lợi nhuận mà còn nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường đầy biến động và cạnh tranh. Để có thể làm tốt công tác bảo lãnh, sau một thời gian hoạt động, ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá hoạt động bảo lãnh trong một thời kỳ đó nhằm rút kinh nghiệm. Kết quả hoạt động của phòng bảo lãnh không chỉ ghi nhận những thành tựu các cán bộ ngân hàng đã làm được mà còn chỉ ra những hạn chế cần được khắc phục.
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hoạt động bảo lãnh tại một ngân hàng khác nhau thì khác nhau. Tuy nhiên, về bản chất, các chỉ tiêu vẫn bao gồm chỉ tiêu mang tính chất định lượng và chỉ tiêu mang tính định tính. Sau khi tổng hợp các số liệu, cán bộ phòng bảo lãnh sẽ tiến hành phân tích và lập báo cáo thường niên của bộ phận bảo lãnh.
1.3.1. Các chỉ tiêu định lượng.
- Trong số những chỉ tiêu định lượng, chỉ tiêu có tính chất đánh giá và bao trùm hơn cả là chỉ tiêu doanh thu từ hoạt động bảo lãnh. Chỉ tiêu doan thu cho biết số tiền mà khách hàng trả ngân hàng cho dịch vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác đi kèm. Doanh thu bảo lãnh được tính từ tổng số phí mà bảo lãnh đã thu được từ khách hàng.
Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh ngoài số liệu tuyệt đối còn phải được xem xét trong mối tương quan với doanh thu từ các hoạt động khác của ngân hàng. Đó là tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh trong tổng doanh thu của ngân hàng. Chỉ tiêu cho biết khả năng sinh lời và vị trí của hoạt động bảo lãnh trong ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh (%)
=
Doanh thu tõ hoạt động bảo lãnh
Tổng doanh thu của ngân hàng
x
100
- Chỉ tiêu chi phí từ hoạt động bảo lãnh phản ánh các khoản tiền mà ngân hàng bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các nghĩa vụ khác có liên quan đến hoạt động bảo lãnh. Chi phí từ hoạt động bảo lãnh bao gồm khoản tiền thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, các khoản phí và thuế khác. Chi phí này được đưa vào chi phí ngoài lãi để hạch toán.
Chi phí từ hoạt động bảo lãnh không những phản ánh số tiền ngân hàng đã chi trả trong hoạt động bảo lãnh mà còn cho thấy mức độ hiệu qủa của công tác bảo lãnh trong thời gian đó. Nếu chi phí bảo lãnh quá lớn và liên quan đến việc thực hiện bồi thường cho người hưởng chứng tỏ hoạt động bảo lãnh không thành công, quá trình thẩm định có sai sót hoặc công tác quản lý, phòng ngừa rủi ro chưa tốt. Giảm chi phí một cách tương đối trong hoạt động bảo lãnh chính là một cách để tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
- Bên cạnh doanh thu và chi phí, lãi từ hoạt động bảo lãnh cũng là một chỉ tiêu hết sức quan cho biết khả năng sinh lời của hoạt động bảo lãnh. Lãi từ hoạt động bảo lãnh chính là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí đã bỏ ra trong hoạt động bảo lãnh để đạt được doanh thu đó.
Lãi từ hoạt động bảo lãnh= Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh – Chi phí từ hoạt động bảo lãnh
Lãi từ hoạt động bảo lãnh cũng góp phần tạo nguồn để ngân hàng tái đầu tư mở rộng hoạt động nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Lãi năm nay tăng trong tương quan so sánh với chi phí, doanh thu và lãi của năm trước sẽ phản ánh sự gia tăng về chất lượng và giá trị của khoản bảo lãnh.
- Doanh số bảo lãnh trong năm là một chỉ tiêu cho thấy số lượng bảo lãnh được thực hiện trong năm. Chỉ tiêu thường được xem xét cùng với các chỉ tiêu khác để đánh giá mức độ hiệu quả của công tác bảo lãnh. Số lượng bảo lãnh được thực hiện trong năm nay tăng so với năm trước chưa chắc đã thể hiện chất lượng hoạt động bảo lãnh tăng và doanh thu từ hoạt động bảo lãnh tăng.
- Ngoài các chỉ tiêu trên, ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh quá hạn để phân tích. Sau khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết thay cho bên được bảo lãnh, ngân hàng sẽ đưa số tiền trả thay đó vào khoản nợ của khách hàng. Đến kỳ hạn trả nợ, nếu khách hàng không có khả năng thanh toán và không được gia hạn nợ thì khoản tiền đó sẽ được đưa vào nợ quá hạn và áp dụng lãi phạt. Tuy nhiên, nếu khoản nợ quá hạn phát sinh từ một khoản bảo lãnh có thời hạn trên một năm thì tính chính xác của chỉ tiêu này không cao. Có thể các khoản nợ quá hạn từ hoạt động bảo lãnh phát sinh trong năm không lớn nhưng nợ quá hạn từ năm trước còn đọng lại thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự nhìn nhận đúng đắn về tính hiệu quả của hoạt động bảo lãnh trong năm.
Ngân hàng cũng sẽ xem xét chỉ tiêu nay trong mối quan hệ với doanh số bảo lãnh trong năm.
Các khoản nợ quá hạn từ hoạt động bảo lãnh sẽ được xử lý như nợ quá hạn từ hoạt động tín dụng khác. Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm là nợ quá hạn khê đọng. Nợ quá hạn từ một năm trở lên là nợ quá hạn khó đòi.
- Kết hợp phân tích cùng với các chỉ tiêu trên, ngân hàng sử dụng hệ thống các chỉ tiêu tổng hợp về tài đảm bảo, tính đa dạng của sản phẩm bảo lãnh và mức phí cạnh tranh so với các ngân hàng khác…
1.3.2. Các chỉ tiêu định tính.
Không kém phần quan trọng, các chỉ tiêu định tính cung cấp cho ngân hàng sự đánh giá từ những góc độ khác nhau. Bản thân ngân hàng không thể tự hoàn thiện mình nếu như không có sự phản hồi của nền kinh tế và khách hàng.
Xét trrên góc độ tổng thể của nền kinh tế, hoạt động bảo lãnh sẽ đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nếu chiến lược phát triển hoạt động bảo lãnh của ngân hàng phù hợp với chiến lược phát triển chung của toàn xã hội. Chỉ tiêu mức độ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế được phân tích dựa trên cơ cấu của hoạt động bảo lãnh so với cơ cấu của nền kinh tế. Nếu những hoạt động bảo lãnh của ngân hàng phục vụ những ngành nghề, những hoạt động kinh doanh được ưu tiên phát triển thì chắc chắn hoạt động bảo lãnh góp không nhỏ cho nền kinh tế.
Mặt khác, hiệu quả của hoạt động bảo lãnh còn thể hiện ở tổng giá trị gia tăng mà hoạt động bảo lãnh tạo ra cho xã hội. Bất cứ một hoạt động dịch vụ nào trong ngân hàng cũng tạo ra giá trị gia tăng. Tuy nhiên, để tính được một cách chính xác lượng giá trị gia tăng từ hoạt động bảo lãnh phải thông qua giá trị gia tăng từ hoạt động tín dụng nói chung. Ngân hàng sẽ dựa vào doanh số hoạt động bảo lãnh so với tổng số lượng các khoản tín dụng để tính toán chỉ tiêu này.
Sự phản hồi của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh. Khách hàng tìm đến những dịch vụ ngân hàng bởi sự thuận tiện trong sử dụng giúp khách hàng nắm bắt được cơ hội kinh doanh. Khách hàng không chỉ yêu cầu sự đảm bảo của ngân hàng mà còn yêu cầu sự nhanh chóng về thời gian xem xét, sự đơn giản về thủ tục tiến hành, sự thuận lợi trong các điều khoản mà ngân hàng cung cấp. Mức ký quỹ thấp cùng một mức phí phù hợp trong hoàn cảnh cạnh tranh khắc nghiệt giữa các ngân hàng sẽ càng hấp dẫn khách hàng. Chất lượng dịch vụ sẽ được phản ánh đầy đủ khi khách hàng sử dụng dịch vụ và phản hồi kết quả điều tra từ phía khách hàng.
1.3.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo lãnh.
Bất cứ một đơn vị nào khi tham gia vào hoạt động kinh tế đều chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố trong nền kinh tế và ngân hàng cũng không phải là một ngoại tệ. Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Những nhân tố này quyết định đến hoạt động bảo lãnh từ nhiều khía cạnh, tác động trực tiếp đến hướng phát triển của hoạt động này trong hiện tại và tương lai.
Một trong các yếu tố đầu tiên mang tính chất khách quan có tầm ảnh hưởng quan trọng là môi trường. Môi trường ở đây như một chiếc kiềng ba chân bao gồm ba yếu tố môi trường chính trị, môi trường pháp luật, môi trường kinh tế.
Môi trường chính trị xã hội là một tác nhân vĩ mô tác động một cách tổng hợp đến mọi hoạt động kinh tế xã hội. Môi trường chính trị xã hội có ổn định thì mọi hoạt động kinh tế mới có thể diễn ra thuận lợi. Ngược lại, nếu một xã hội bất ổn thì chắc chăn kèm theo đó là một nền kinh tế phát triển không lành mạnh. Hoạt động bảo lãnh cũng không nằm ngoài quy luật chung ấy. Với một thể chế chính trị bền vững và phù hợp với xu thế thời đại, các ngân hàng mới được tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh của mình trong nhiều quan hệ kinh tế khác nhau khi hoạt động đầu tư và hoạt động thương mại gia tăng. Các nhà đầu tư rất quan tâm đến sự ổn định về mặt chính trị và các ngân hàng coi đó là một tiền đề tất yếu để hoạt động bảo lãnh được ra đời và phát triển.
Bên cạnh môi trường chính trị xã hội, môi trường pháp luật cũng tác động không nhỏ đến bất cứ hoạt động kinh tế nào trong một quốc gia. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả đối tượng trong đó có các ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Hệ thống pháp luật có đầy đủ, đồng bộ thì ngân hàng mới có thể xây dựng những chiến lược kinh doanh hiệu quả bao gồm cả chiến lược kinh doanh phát triển hoạt động bảo lãnh. Với mỗi quốc gia khác nhau, hệ thống văn bản pháp lý quy định hoạt động bảo lãnh có thể khác nhau nhưng bản chất hoạt động bảo lãnh là không đổi. Điều các ngân hàng lưu ý khi thực hiện các hoạt động bảo lãnh là chấp hành pháp luật, giữ nguyên bản chất và ý nghĩa kinh tế đúng đắn của hoạt động đó. Tuy nhiên, trong khi chấp hành các hoạt động bảo lãnh, ngân hàng vấp phải những khó khăn xuất phát từ các văn bản và các yêu cầu thực tế phát sinh cần được điều chỉnh. Vì vậy, hoàn thiện các văn bản pháp quy cho hoạt động bảo lãnh đang ngày càng trở nên cần thiết.
Sẽ là thiếu cân đối nếu không kể đến yếu tố môi trường kinh tế – một chân trong chiếc kiềng ba chân vững chãi. Môi trường kinh tế chính trị là nơi phát sinh đòi hỏi phải có sự ra đời của hoạt động bảo lãnh. Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế khiến cho môi trường kinh tế vừa hứa hẹn nhiều cơ hội thuận lợi vừa chứa đựng những yếu tố cạnh tranh khắc nghiệt và rủi ro không thể ngờ tới đối với tất cả các nhà đầu tư. Sự biến đổi của môi trường kinh tế sẽ tác động đến xu hướng của hoạt động bảo lãnh. Môi trường kinh tế thuận lợi có thể làm gia tăng các hoạt động thương mại từ đó làm gia tăng quy mô cũng như chất lượng của hoạt động bảo lãnh. Mặt khác, môi trường kinh tế biến động theo chiều hướng bất lợi sẽ làm giảm khả năng phát triển của hoạt động bảo lãnh.
Nhân tố khách quan thứ hai tác động đến hoạt động bảo lãnh là khách hàng. Khách hàng chính là chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động bảo lãnh. Khách hàng bao gồm cá nhân và doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện hoạt động bảo lãnh, tính đa năng và mức độ hoàn thiện trong hoạt động bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh chỉ có thể được tiến hành khi khách hàng có đủ điều kiện được bảo lãnh. Điều kiện được bảo lãnh sẽ xét trên góc độ năng lực tài chính và khả năng tài chính đảm bảo cho khoản bảo lãnh là chủ yếu. Khách hàng có một khả năng tài chính tốt cùng với những khoản đảm bảo chắc chắn cho ngân hàng sẽ góp phần tạo hiệu quả trong hoạt động bảo lãnh.
Tính đa dạng trong sản phẩm bảo lãnh xuất phát từ chính nhu cầu của khách hàng. Khách hàng luôn muốn có các sản phẩm bảo lãnh phù hợp với từng hoạt động giao dịch đồng thời có các yếu tố thuận lợi cho công việc kinh doanh của họ. Chính vì vậy, để cạnh tranh với các đối thủ khác, ngân hàng không những phải cung cấp được nhiều sản phẩm bảo lãnh mà còn hoàn thiện những sản phẩm đó theo đòi hỏi của khách hàng và bản thân ngân hàng.
Ngoài các yếu tố khách quan trên, ngân hàng với các yếu tố chủ quan cũng ảnh hưởng đến hoạt động của chính ngân hàng đó. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng là yếu tố chủ quan đầu tiên. Chiến lược kinh doanh có tầm ảnh hưởng bao trùm lên toàn bộ hoạt động của ngân hàng gồm cả hoạt động bảo lãnh. Một chiến lược hiệu quả, có tầm nhìn xa, có mục tiêu cụ thể và rõ ràng sẽ làm cho hoạt động bảo lãnh được tiến hành một cách có phương hướng và có kết quả. Chiến lược kinh doanh làm cho hoạt động bảo lãnh tập trung vào các vấn đề thị trường, khách hàng và sản phẩm phù hợp với từng thời kì, từng giai đoạn cụ thể sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động bảo lãnh.
Ngoài chiến lược kinh doanh, hoạt động bảo lãnh còn chịu sự chi phối của các chính sách và các quy định của ngân hàng cho hoạt động bảo lãnh. Bên cạnh việc chấp hành pháp luật, mỗi ngân hàng đều có một quy tắc hoạt động riêng. Thực hiện hoạt động bảo lãnh đúng quy tắc là một phần tất yếu để hoạt động kinh doanh của ngân hàng được tiến hành trôi chảy và hạn chế gặp phải các rủi ro. Chính sách của ngân hàng trong hoạt động bảo lãnh sẽ đề ra các mục tiêu cần phấn đấu và các hướng phát triển cho hoạt động bảo lãnh. Yếu tố định hướng này chỉ là sợi chỉ xuyên suốt quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng.
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Quy trình bảo lãnh với những phần quan trọng như công tác thẩm định, xây dựng hợp đồng bảo lãnh và quy trách nhiệm khi kết thúc bảo lãnh có tác động trực tiếp đến hoạt động bảo lãnh. Công tác thẩm định tốt sẽ giảm thiểu các bất trắc khi tiến hành bảo lãnh, đảm bảo một khoản bảo lãnh lành mạnh, mang lợi nhuận đến cho ngân hàng. Mặt khác, nếu công tác thẩm định không đạt hiệu quả thì rủi ro trong hoạt động bảo lãnh là rất cao đặc biệt khi khách hàng có mục đích sử dụng bảo lãnh để thực hiện các hành vi phi pháp hay khách hàng không có khả năng trả nợ. Song song với công tác thẩm định, xây dựng một hợp đồng bảo lãnh với những điều khoản chặt chẽ phù hợp với yêu cầu của khách hàng và có lợi cho ngân hàng sẽ là một điều kiện đảm bảo cho hoạt động bảo lãnh được tiến hành suôn sẻ. Khi kết thúc bảo lãnh, trách nhiệm của các bên liên quan được quy định rõ ràng sẽ tránh các tranh chấp và các tổn thất không đáng có đồng thời nâng cao tính ưu việt trong hoạt động bảo lãnh.
Yếu tố mang tính chất chủ quan cuối cùng không kém phần quan trọng là yếu tố con người. Các cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh là những mắt xích trực tiếp tham gia và kết nối các khâu trong hoạt động bảo lãnh. Rủi ro từ yếu tố con người cũng rất cao nếu cán bộ nghiệp vụ không có đầy đủ phẩm chất đạo đức và nghề nghiệp. Cán bộ có trình độ chuyên môn cao sẽ hạn chế những sai lầm mắc phải khi thực hiện nghiệp vụ. Mặt khác, một cán bộ có đạo đức nghề nghiệp sẽ không lợi dụng công tác bảo lãnh để tiếp tay cho hoạt động trái pháp luật hay trục lợi cá nhân.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
2.1. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.1.1. Giới thiệu vài nét về Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Những năm 60 của thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triên mới trong lịch sử. Miền Bắc bắt đầu thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội trong khi miền Nam vẫn đang đấu tranh cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Để phục vụ cho quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đồng thời là hậu thuẫn cho miền Nam chiến đấu thì vấn đề định chế tài chính về nghiệp vụ ngân hàng được đặt ra một cách hết sức cấp thiết. Trước tình hình đó Ngân hàng Công thương đã ra đời kéo theo sự hình thành các chi nhánh ngân hàng, cũng không phải là một thời gian ngắn
Vì vậy trước nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế về sử dụng vốn và các dịch vụ ngân hàng trong chiến lược phát triển của NHCT Việt Nam, tháng 04/1997 Chi nhánh NHCT Thanh Xuân được thành lập trên cơ sở nâng cấp phòng giao dịch Thượng Đình( trực thuộc NHCT Đống Đa), theo quyết định số 17/HĐQT-QĐ ngày 08/03/1997 của chủ tịch HĐQT-NHCT Việt Nam với số lượng cán bộ ban đầu là 52 cán bộ nhân viên với 4 phòng: Phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán tài chính, phòng tiện tệ kho quỹ, phòng kinh doanh. Đến năm 1998, ngay 1 năm đi vào hoạt động đã thành lập thêm 2 tổ: tổ kiểm tra và tổ kinh doanh đối ngoại.
Sau 2 năm hoạt động, trưởng thành về mọi mặt, chi nhánh đã tách khỏi NHCT Đống Đa và có trụ sở tại 275 Nguyễn Trãi, hạch toán trực thuộc NHCT Việt Nam theo quyết định số 13/QĐ/HĐQT/NHCT1 ngày 20/2/1999 của Chủ tịch HĐQT-NHCT Việt Nam. Năm 1999, chi nhánh NHCT Thanh Xuân có 127 cán bộ công nhân viên hoạt động trong tất cả 7 phòng ban và các quỹ tiết kiệm, đến năm 2003 chi nhánh đã có 169 cán bộ công nhân viên và đến năm 2005 tăng đến 197 cán bộ nhân viên( bao gồm: 3 thạc sỹ, 86 người trình độ đại học, còn lại là cao đẳng và trung học). Sự ra đời này là một tất yếu khách quan của nền kinh tế trong giai đoạn đổi mới với ý nghĩ huy động được tối đa nguồn vốn trong nền kinh tế và đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ phát triển kinh tế thông qua các dịch vụ ngân hàng tại các quận mới được thành lập như quận Thanh Xuân Hà Nội trong quá trình đô thị hoá. Mặt khác đây cũng là kết quả ghi nhận sự nỗ lực của các cán bộ công nhân viên NHCT Thanh Xuân khi ra đời trong bối cảnh cả nứơc đang gặp khó khăn về kinh tế cũng như việc chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực Đông Nam á ở giai đoạn này.
2.1.2. Kết quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương trong năm vừa qua.
2.1.2.1. C ôn g tác huy động vốn.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004Năm 2004
Huy động vốn
1.108.593
2.740.174
2.767.958
Trong đó: - VND
778.569
1.318.670
2.459.803
- Ngoại tệ
330.531
281.505
308.155
Nguồn: Một số chỉ tiêu kinh tế của NHCT Thanh Xuân
Năm 2005 là năm vô cùng khó khăn trong việc huy động vốn đối với các NHTM nói chung cũng như NHCT Thanh Xuân nói riêng. Trước sức ép về nhu cầu vốn, các NHTM trên địa bàn liên tục mở rộng quy mô cũng như mạng lưới hoạt động cùng với việc tăng lãi suất huy động, kết hợp với nhiều chính sách khuyến mại chăm sóc hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, chênh lệch lãi suất huy động giữa các NHTM Cổ Phần và NHTM Nhà Nước luôn ở mức rất cao từ 0,5% đến 0,9% đã gây rất nhiều khó khăn đối với các NHTM Nhà Nước trong đó có NHCT Thanh Xuân.
Đặc biệt tại địa bàn quận Thanh Xuân - địa bàn hoạt động chính của Chi nhánh. Tuy là một quận tập trung chủ yếu là dân lao động có thu nhập thấp, các công ty có quy mô nhỏ và trong năm qua đã có rất nhiều NHTM Nhà Nước cũng như NHTM Cổ Phần mở các điểm giao dịch nhằm khai thác địa bàn, đã gây ra một áp lực lớn đối với Chi nhánh trong việc huy động vốn từ khu vực dân cư, cũng như các đơn vị đóng trên địa bàn của Chi nhánh.
Do hoạt động kinh doanh ngày càng khó khăn nên các doanh nghiệp đã tận dụng được tối đa nguồn tài chính của mình đã làm cho nguồn tiền gửi của doanh nghiệp trong thời gian qua giảm đi rõ rệt, ảnh hưởng đến chỉ tiêu huy động vốn của Chi nhánh. Tuy vậy, bằng những biện pháp cụ thể, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, chi nhánh đã thực hiện tốt công tác huy động vốn trong thời gian qua.
Tổng nguồn vốn huy động và đi vay (bao gồm VNĐ và ngoại tệ quy đổi) đến ngày 31/12/2005 đạt 3100 tỷ đồng bằng 106,4% so với năm 2004 bằng 99% chỉ tiêu kế hoạch năm 2005.
Trong đó ngoại tệ quy đổi đạt 370 tỷ đồng tăng 12% so với cùng kỳ năm trước và bằng 101,3% so với kế hoạch năm 2005.
Có được những thành tích đáng khích lệ đối với công tác huy động vốn trong thời gian qua là do ban lãnh đạo Chi nhánh đã kịp thời đưa ra nhiều biện pháp phù hợp có hiệu quả như: Quán triệt toàn thể cán bộ công nhân viên nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấn chỉnh tác phong giao dịch văn minh, lịch sự nhằm nâng cao uy tín, tạo niềm tin cho khách hàng. Đồng thời mở rộng mạng lưới các giao dịch hoạt động rộng khắp, nhằm khai thác địa bàn. Điều chỉnh lại các điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm theo hướng tập trung vào những khu vực có tiềm năng, đông dân cư. Mở rộng chỉnh trang lại các điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm, trang bị máy móc thiết bị tạo sự khang trang hiện đại. Đặc biệt trong thời gian qua, chi nhánh đã triển khai chương trình hiện đại hoá tới từng điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm đã tạo ra một nét mới trong hoạt động ngân hàng, văn minh, hiện đại, nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng, làm tăng sự cạnh tranh cũng như tăng uy tín đối với khách hàng cụ thể trong năm 2005:
+ Chi nhánh đã mở lại quỹ tiết kiệm 81.
+ Điều chỉnh quỹ tiết kiệm 40 và quỹ tiết kiệm 79.
+ Chỉnh trang lại toàn bộ các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch của Chi nhánh.
Ngoài ra, nhằm tăng cường quảng bá hình ảnh của mình, trong năm 2005 Chi nhánh đã không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá thường xuyên bằng nhiều hình thức đa dạng thông qua các hệ thống thông tin báo chí, truyền thanh, phát tờ rơi. Tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền địa phương các cấp như Quận, Phường, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ và các khách hàng của Chi nhánh để tuyên truyền, quảng bá.
Xác định rõ tầm quan trọng trong công tác huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, trong thời gian qua ban lãnh đạo Chi nhánh luôn chỉ đạo sát sao và có những chính sách cụ thể, nhằm thu hút khách hàng tăng nguồn vốn huy động. Trong năm 2005 ngoài bám sát thị trường để có những điều chỉnh lãi suất phù hợp, ban lãnh đạo Chi nhánh đã chỉ đạo các phòng nghiệp vụ làm tốt công tác chăm sóc khách hàng như thực hiện các chương trình tặng quà khuyến mại đối với khách hàng gửi tiền tiết kiệm cũng như gửi quà tặng, thư chúc mừng đối với những khách hàng truyền thống có số dư lớn của ngân hàng trong dịp lễ tết. Thực hiện dịch vụ hỗ trợ nhằm đa dạng các hình thức huy động tạo thuận lợi cho khách hàng, nâng cao tính cạnh tranh như dịch vụ thu nhận tiền gửi tại nhà đối với khách hàng có số tiền gửi lớn.
Để đáp ứng nhu cầu chi trả do có sự điều chỉnh tăng lương của Chính phủ, Bảo hiểm xã hội phải rút về 300 tỷ đồng, đã dẫn đến tổng nguồn tiền vay của Chi nhánh giảm đi đáng kể. Để bù đắp vào phần giảm sút trên, Chi nhánh đã nỗ lực khai thác nhiều biện pháp cụ thể như tăng cường mối quan hệ với những tổ chức có nguồn tiền nhàn rỗi lớn như: Tổng công ty xăng dầu, Công ty tài chính công nghiệp tàu thuỷ, Cục tần số Việt Nam.
Đặc biệt chú trọng khai thác nguồn tiền gửi dân cư, do đây là một kênh huy động vốn có tính chiến lược, ổn định, bền vững, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Với các chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp kết hợp với các chương trình khuyến mại hấp dẫn của NHCT Việt Nam cũng như của Ngân hàng cùng với sự phục vụ tận tình chu đáo của các cán bộ giao dịch. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các ban quản lý dự án, bám sát chặt chẽ tiến hành triển khai các dự án khi thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng để có kế hoạch khai thác nguồn tiền gửi.
Nhờ có sự quan tâm kịp thời của ban lãnh đạo Chi nhánh, bằng những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình thực tế nên công tác huy động vốn tiền gửi dân cư thời gian qua đã có nhiều chuyển biến rõ rệt.
Tính đến ngày 31/12/2005, tổng nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư đạt 1060 tỷ tăng 214 tỷ, đạt mức tăng 25,1% so với đầu năm chiếm 66% tổng nguồn huy động.
2.1.2.2. Công tác đầu tư và cho vay.
Đơn vị: Triêu đồng
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Đầu tư & cho vay
983.176
1.099.279
1.250.450
Trong đó: - VND
910.664
977.886
1.097.178
- Ngoại tệ
72.511
121.393
153.272
Nguồn: Một số chỉ tiêu kinh tế của NHCT Thanh Xuân
Bám sát sự chỉ đạo của NHCT Việt Nam trong năm qua, Chi nhánh đã đề ra mục tiêu cho công tác đầu tư cho vay. Ban lãnh đạo Ngân hàng đã chỉ đạo phòng nghiệp vụ tập trung rà soát, xếp loại doanh nghiệp thông qua phân tích tình hình tài chính, tiềm năng của từng doanh nghiệp để qua đó có kế hoạch xác định hạn mức tín dụng cho từng doanh nghiệp, giảm dần dư nợ đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu, sản phẩm thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời tích cực bám sát thị trường, mở rộng quan hệ đối với những khách hàng có tiềm năng, tình hình tài chính ổn định có kết quả kinh doanh tốt như: Tổng công ty lương thực Miền Bắc, Tổng công ty Điện lực Việt Nam… Bên cạnh đó Ngân hàng đã chú trọng quan tâm đến các đối tượng khách hàng vừa và nhỏ nhằm đa dạng hóa các đối tượng khách hàng.
Mặt khác, Chi nhánh luôn bám sát tình hình lãi suất huy động vốn trên thị trường đặc biệt trong thời gian qua đã có nhiều biến động để có biện pháp điều chỉnh lãi suất cho vay nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả mang lại lợi nhuận cho Chi nhánh.
Tổng các khoản đầu tư cho vay đến 31/12/2005 đạt 1700 tỷ đồng tốc độ tăng 29,1% so với năm 2004 đạt 97,81% kế hoạch năm.
* Về cơ cấu đầu tư:
+ Cho vay ngắn hạn là 700 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 41,3% dư nợ cho vay nền kinh tế.
+ Cho vay trung dài hạn là 933 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 58,7% dư nợ cho vay nền kinh tế.
+ Cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm 78% tổng dư nợ cho vay, vượt 4% so với chỉ tiêu kế hoạch.
- Doanh số cho vay đạt 2.794 tỷ đồng
- Doanh số thu nợ đạt 2439 tỷ đồng
* Về chất lượng tín dụng:*
Năm 2005 là năm vô cùng khó khăn đối với các doanh nghiệp cũng như đối với các NHTM trong đó có NHCT Thanh Xuân. Nguyên nhân ở đây xuất phát từ việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ. Việc hạn chế đăng ký xe máy tại các thành phố lớn đã dẫn đến khó khăn trong việc tiêu thụ xe máy của các doanh nghiệp có dư nợ cho vay lớn tại chi nhánh như: Công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất và Công ty thiết bị giao thông vận tải. Mặt khác, khách hàng của Chi nhánh chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công trình giao thông, kinh doanh bất động sản như: Công ty xây dựng số 19, Công ty kỹ thuật nền móng và xây dựng số 20, Tổng công ty LICOGI... Và trong khi tình hình kinh tế đang ở giai đoạn rất khó khăn, thị trường bất động sản đóng bâng kéo dài, nợ Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản lên hàng chục ngàn tỷ đồng, việc thanh quyết toán các công trình gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này đều là các doanh nghiệp Nhà nước có vốn chủ sở hữu thấp, chủ yếu hoạt động kinh doanh dựa vào vốn vay ngân hàng trong khi Ngân sách Nhà nước chưa thể thanh toán, dẫn đến các doanh nghiệp không thu hồi được nợ để trả ngân hàng. Vì thế, năm 2005 Ngân hàng đã phát sinh nợ ra hạn là 130 tỷ tăng 18 tỷ so với năm 2004, nợ quá hạn 101 tỷ đồng.
Đây là một thách thức rất lớn đối với Chi nhánh đó là xác định được những khó khăn trước mắt, Ban lãnh đạo đã quán triệt toàn thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh, một mặt nổ lực cùng với doanh nghiệp tìm mọi biện pháp tháo gỡ khó khăn, mặt khác thường xuyên bám sát doanh nghiệp, bám sát từng công trình , hạng mục, kiểm soát nguồn tài chính của doanh nghiệp để có kế hoạch thu nợ, có biện pháp tăng cường bổ sung tài sản đảm bảo nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với Ngân hàng. Chính vì vậy, đến ngày 31/12/2005 tỷ lệ đầu tư cho vay có tài sản đảm bảo của Chi nhánh đạt 68% tăng 31% so với cùng kỳ năm 2004.
Công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng trong thời gian qua đã được nâng lên rõ rệt như: Đi sâu kiểm tra từng công trình, dự án vay vốn, giám sát giải ngân tiền lương thi công từng công trình, từng hạng mục đảm bảo doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích, công tác bảo lãnh chỉ phát hành khi đã xác định nguồn gốc vốn của chủ đầu tư.
Năm 2005 Chi nhánh đã ký hợp đồng bảo lãnh với số lượng 228 món, tăng 69 món tương ứng với tổng số tiền bảo lãnh tăng là 104 tỷ đồng- tăng 20% so với năm trước, giải toả 251 món với tổng số tiền tương ứng là 933 tỷ đồng và toàn bộ số dư bảo lãnh trên đều nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng. Trong năm 2005 chưa có trường hợp nào Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ trả thay.
2.1.2.3. Công tác kinh doanh đối ngoại – Tài trợ thương mại.
Việc các NHTM Cổ phần tăng cường đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng với những chính sách “thoáng” đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ vốn, mở L/C… đã làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh đối ngoại và tài trợ thương mại của Chi nhánh.
Nhu cầu ngoại tệ cung ứng rất lớn, trong khi việc huy động ngoại tệ từ nguồn tiền gửi của các tổ chức, cá nhân gặp rất nhiều khó khăn do vậy Chi nhánh chủ yếu phải mua lại từ các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn ngoại tệ của mình. Doanh số mua bán ngoại tệ đến ngày 31/12/2005 đạt 73,8 triệu USD, tăng so với năm 2004 là 9 triệu USD tăng 14%, thu lãi mua bán ngoại tệ đạt trên 467 triệu đồng. Trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, 100 giao dịch được thực hiện an toàn chính xác và chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc gia, thông lệ, pháp luật quốc tế.N
Việc chi trả kiều hối, thanh toán Western Union chính xác, an toàn. Đến ngày 31/12/2005 đã thực hiện chi trả kiều hối và thanh toán Western Union là 379 món với giá trị quy đổi là 1.033.000 USD.
Trong năm 2005, Chi nhánh đã thực hiện phát hành 30 L/C nhập khẩu, giá trị trên 7,5 triệu USD. Thông báo 5 L/C xuất –Nhập khẩu với tổng giá trị trên 8,7 triệu USD.
Công tác phát hành bảo lãnh cũng phát triển rất mạnh, đây là nguồn thu phí dịch vụ rất lớn. Tổng số bảo lãnh phát hành đến ngày 31/12/2005 là 228 món với số dư là 104.787 triệu USD.CCác nghiệp vụ khác cũng được Chi nhánh rất quan tâm chú trọng như nghiệp vụ nhờ thu đến và đi, cụ thể là thực hiện thông báo 40 món với giá trị trên 1,1 triệu USD, thanh toán 47 món với giá trị trên 1,1 triệu USD.
Công tác thẻ tín dụng quốc tế cũng luôn được quan tâm phát triển, duy trì tốt tại các điểm chấp hành thẻ, đặc biệt là Công ty cổ phần quốc tế Hoàng Gia với doanh thu đạt 333.668 USD đã góp phần tăng nguồn thu phí dịch vụ của Chi nhánh.
Tổng thu phí dịch vụ từ dịch vụ kinh doanh ngoại hối đạt 1.724 triệu đồng.
2.1.2.4. C ông tác tiền tệ kho quỹ.
Năm 2005 công tác tiền tệ kho quỹ có rất nhiều thay đổi cả về quy mô và hình thức hoạt động vì vậy công tác tiền tệ kho quỹ đã được phân tách theo từng mảng nghiệp vụ. Việc thu c._.ơng thức và giải pháp thực hiện các mục tiêu đó.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch, công việc xác định quan điểm về sự phát triển hoạt động bảo lãnh có một vai trò trọng yếu vì mỗi kế hoạch phải chỉ ra được vị trí, tầm quan trọng cũng như cơ cấu của từng loại hình bảo lãnh. Quan điểm phát triển ở đây có thể hiểu là việc tiếp tục tăng trưởng hay tạm thời thu hẹp hoạt động bảo lãnh, tập trung phát triển loại hình bảo lãnh nào và phương châm phát triển như thế nào…Các kế hoạch phải chỉ ra được những mục tiêu rõ ràng cần đạt được trong giới hạn thời gian. Các mục tiêu phải sát với tình hình thực tế và nằm trong khả năng thực hiện của Ngân hàng. Có như vậy, tư tưởng về sự phát triển hoạt động bảo lãnh mới có thể được thực thi một cách có hiệu quả và huy động được mọi nguồn lực trong Ngân hàng.
Sau khi xác định được mục tiêu, kế hoạch phát triển phải có những biện pháp, những bước đi cụ thể để đạt được các mục tiêu đó. Giải pháp phải đáp ứng được nhu cầu về cân đối nguồn lực, phát huy thế mạnh của hoạt động bảo lãnh trong ngân hàng. Không những đưa ra hướng giải quyết cho những hạn chế, các giải pháp trong thực tế phải hợp lý và thực hiện được. Tuy không biện pháp nào là tuyệt đối hoàn hảo nhưng phải mang tính chất toàn diện, không được mang tính chất cục bộ vì như vậy, có thể sẽ không thích hợp với chiến lược chung.
3.2.2. Các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh.
* Đa dạng hoá các sản phẩm bảo lãnh.
Hiện nay, khi các mối quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp, nhu cầu bảo lãnh của doanh nghiệp ngày càng tăng về số lượng, phong phú về hình thức và loại hình. NHCT Thanh Xuân sớm nắm bắt được nhu cầu đó đã cung ứng rất nhiều loại hình bảo lãnh. Tuy nhiên, vẫn còn một số loại hình bảo lãnh Ngân hàng chưa đưa vào thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng doanh số không cao như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh phát hành chứng khoán và một số loại hình dịch vụ kèm theo… Do vây, để phát triển hoạt động bảo lãnh, thu hút thêm khách hàng mới và củng cố quan hệ với khách hàng truyền thống, ngân hàng cần chú trọng đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh.
Như đã biết, nhu cầu về bảo lãnh là yếu tố khách quan tác động tới sự phát triển của hoạt động bảo lãnh. Các loại hình bảo lãnh trên chưa thực hiện hoặc doanh số không cao thực chất không phải là khách hàng không có nhu cầu mà do ngân hàng chưa có biện pháp kích thích khách hàng hoặc chưa đủ khả năng để đáp ứng. Trong thực tế, NHCT Thanh Xuân chỉ thực hiện bảo lãnh vay vốn dưới hình thức tín dụng thương mại L/C trả chậm mặc dù các doanh nghiệp có nhu cầu rất lớn về vay vốn. Để vay vốn, doanh nghiệp chủ yếu dùng biện pháp cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bằng uy tín của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sở dĩ như vậy là vì NHCT Thanh Xuân còn e ngại về rủi ro gặp phải trong bảo lãnh vay vốn. Bảo lãnh có hiệu lực rất mạnh do đó nếu quá trình thẩm định không đạt tiêu chuẩn sẽ có thể gây ra những tổn thất không nhỏ cho Ngân hàng.
Bên cạnh các loại hình bảo lãnh đã biết, để tạo sự thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng cũng nên phát triển các sản phẩm mới có tính hỗn hợp. Trong thực tế, một quan hệ kinh tế có thể phát sinh nhiều quan hệ bảo lãnh. Vì vậy, Ngân hàng thực hiện cùng lúc nhiều hoạt động bảo lãnh cho một quan hệ kinh tế sẽ dẫn đến chồng chéo, khó có khả năng kiểm soát. Ngân hàng cần nghiên cứu để đưa ra một loại hình bảo lãnh hỗn hợp quy định cho một hoạt động kinh tế nhất định, trong đó các điều khoản quy định trách nhiệm của cả ba bên liên quan.
* Mở rộng thị trường cho hoạt động bảo lãnh.
Hiện nay, các khách hàng là doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, khách hàng cũng chỉ xin bảo lãnh những món nhỏ lẻ. Chính vì vậy, Ngân hàng cần phải tăng cường mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn bởi vì họ là những khách hàng thường yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho những dự án lớn nhưng đồng thời cũng không được bỏ qua thành phần kinh tế khác do tiềm năng của thành phần này đang được khơi dậy. Mặt khác, vi phạm bảo lãnh của Ngân hàng chủ yếu vẫn chỉ là lĩnh vực thương mại khi lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp còn nhiều triển vọng.
Đa dạng hoá thị trường không có nghĩa là bỏ quên thị trường truyền thống và phát triển một cách lan man không có trọng điểm mà ngược lại ngân hàng cần có một kế hoạch ưu đãi cho từng đối tượng khách hàng trong từng giai đoạn thích hợp. Đặc biệt, khi thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Ngân hàng nên linh hoạt trong khâu thẩm định và tài sản thế chấp, không nhất thiết yêu cầu các doanh nghiệp này phải ký quỹ 100%
* Thực hiện tốt công tác marketing, tăng cường thông tin đến khách hàng và mở rộng hoạt động bảo lãnh.
Trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh hiện nay, không chỉ riêng hệ thống NHCT Việt Nam mà hầu hết các ngân hàng thương mại muốn tồn tại và phát triển đều phải thực hiện thật tốt công tác marketing. Trước hết, Ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu kỹ thị trường với tất cả các yếu tố như đặc điểm khách hàng, tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường, khả năng cung ứng của bản thân ngân hàng trong tương quan so sánh với cá ngân hàng đối thủ khác… Từ đó, ngân hàng mới biết được ưu nhược điểm của mình và các ngân hàng khác để đưa ra một chiến lược phát triển lâu dài.
Sau khi nghiên cứu thi trường và phân tích các cơ hội kinh doanh, Ngân hàng sẽ tiến hành phân đoạn thị trường để từng đối tượng khách hàng có chính sách phù hợp. Các chính sách đối với khách hàng cần phải toàn diện, tổng thể trên cơ sở không ngừng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.NHCT Thanh Xuân cần phải tập trung vào việc củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống bằng các chính sách ưu đãi thích hợp, không nên áp dụng các quy định chung một cách quá cứng nhắc mà cần linh hoạt nhằm tăng mức độ thuận tiện cho đối tượng này. Với các doanh nghiệp làm ăn lâu dài và có uy tín với Ngân hàng, các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp đấu thầu công trình trọng điểm của Nhà nước, Ngân hàng nên ưu tiên xem xét nhu cầu và kết hợp các hình thức bảo đảm.Với khách hàng mới, Chi nhánh không nên yêu cầu 100% ký quỹ mà dựa vào kết quả thẩm định tài chính. Nếu khách hàng có khả năng bảo đảm, Ngân hàng nên cho phép khách hàng ký quỹ thấp hơn kết quả với thế chấp tài sản.
Bên cạnh chính sách khách hàng và chính sách phí, Chi nhánh vẫn phải tiếp tục nâng cao thanh thế của mình bằng những hoạt động tăng cường mối quan hệ tín nhiệm với khách hàng trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi. Trong quan hệ khách hàng, cán bộ nghiệp vụ cần thường xuyên hỗ trợ tư vấn cho khách hàng để khách hàng thực hiện đúng quy định đồng thời giúp khách hàng giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Ngân hàng cần tạo điều kiện cho khách hàng trong chất lượng dịch vụ như thái độ niềm nở, phong cách phục vụ nhiệt tình của mỗi cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh. Thông qua các buổi toạ đàm và các buổi làm việc với khách hàng, cán bộ cần thu thập ý kiến khách hàng về ưu nhược điểm trong quá trình cung cấp dịch vụ, những thắc mắc, những nhận xét cả những lời khen và chê để hoàn thiện các sản phẩm bảo lãnh.
* Nâng cao uy tín của ngân hàng trong mối quan hệ với các ngân hàng khác để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Đối với những khoản bảo lãnh vượt quá khả năng thực hiện của một ngân hàng thì các khoản đồng bảo lãnh là một giải pháp hợp lý cho các ngân hàng. Tuy nhiên, để có thể hợp tác với các ngân hàng lớn, NHCT Thanh Xuân cần phải khẳng định hơn nữa uy tín và vị thế trên thương trường.
Trước hết, xuất phát từ những mối quan hệ kinh tế phát sinh với khách hàng của các ngân hàng. Ngân hàng cần giữ được chữ tín đồng thời cộng tác kinh doanh cùng có lợi. Trên một cơ sở cạnh tranh lành mạnh, ngân hàng cần phát huy uy tín của minh thông qua một sức mạnh thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, ngân hàng ở thế chủ động, nắm bắt các cơ hội từ những dự án lớn trong quốc gia, trong khu vực và trên thế giới để đề nghị hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh. Muốn vậy, ngân hàng sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ và tốt đẹp với các ngân hàng bạn, mở rộng và duy trì quan hệ trên cơ sở phát huy thế mạnh, phục vụ đầu tư phát triển.
3.2.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
* Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trong công tác bảo lãnh.
Nghiệp vụ bảo lãnh thực chất là một hình thức nghiệp vụ tín dụng nhưng quan hệ vay mượn chỉ thực sự xảy ra khi ngân hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Khi khách hàng của ngân hàng vi phạm hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ đứng ra trả thay khoản tiền bồi thường. Lúc này món bảo lãnh sẽ trở thành một khoản nợ quá hạn và rủi ro không thu hồi được nợ là không nhỏ. Thẩm định tốt chính là nền tảng cơ bản để ngân hàng có sự an toàn trong kinh doanh và giảm thiểu rủi ro. Chính vì vậy, để có được một quyết định bảo lãnh đúng đắn, cán bộ nghiệp vụ tín dụng phải tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định theo đúng cơ chế tín dụng hiện hành của ngân hàng.
Trong quá trình thẩm định, trừ trường hợp ký quỹ 100% có thể được miễn một số điều kiện thẩm định, nhìn chung các điều kiện quan trọng mà cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh cần phân tích là:
- Tư cách pháp nhân
- Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
- Khả năng quản lý điều hành kinh doanh của chủ doanh nghiệp.
- Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp.
- Hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu hợp đồng.
Công tác thực hiện thẩm định của Chi nhánh thời gian qua có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số vướng mắc. Vì thế, khi tiến hành công tác này, để khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng, Chi nhánh nên sử dụng những nguồn số liệu đa chiều không những từ phía doanh nghiệp mà còn từ khách hàng của doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng, trung tâm ICC… Mặt khác, bằng khả năng phân tích môi trường kinh doanh, ngân hàng nên đánh giá những khó khăn thuận lợi của doanh nghiệp để có được một kết luận chính xác về vị trí và triển vọng của doanh nghiệp.
Về yếu tố khả năng quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp, thực tế ngân hàng ít khi coi trọng vấn đề này. Thực ra, chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới các quyết định kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, ngân hàng cần đánh giá toàn diện năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn và uy tín của chủ doanh nghiệp.
Vấn đề tài sản thế chấp cũng là một trong những vướng mắc khi xem xét các khoản bảo lãnh và cần phải xem xét một cách nghiêm túc và triệt để. Cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn cao trong việc xác định tài sản thế chấp vì nếu tài sản thế chấp là tài sản cố định thì sẽ có cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đồng thời đánh giá thông qua tình hình thị trường. Nếu như cán bộ phòng bảo lãnh không thể thẩm định được kỹ tài sản thế chấp hoặc thời gian thẩm định quá ít, có thể đưa sang bộ phận chuyên môn hơn như phòng thẩm định tín dụng khách hàng hoặc phải có riêng một nhóm chuyên thẩm định giá trị tài sản để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và kịp thời trả lời cho khách hàng.
Trong thực tế hiện nay, các ngân hàng thực sự gặp khó khăn khi đấu giá tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước vì cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó, trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy hiện thời về tài sản thế chấp để có phương hướng giải quyết phù hợp trong từng hoàn cảnh.
Đối với công tác thẩm định tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, cán bộ nghiệp vụ cần hết sức tránh tình trạng thẩm định mang tính chủ quan kinh nghiệm. Mỗi hợp đồng kinh tế, mỗi dự án lại thuộc rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau và chế độ hạch toán kế toán nước ta còn chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ nên ngân hàng cũng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh trong thực hiện hợp đồng hay dự án. Vì đây là khâu quan trọng góp phần không nhỏ ra quyết định bảo lãnh nên cán bộ thẩm định phải thực sự có năng lực, có kinh nghiệm, đánh giá phương án không những trên phương diện kỹ thuật, tài chính mà còn trên phương diện lợi ích xã hội. Có như vậy, cán bộ mới có thể đưa ra những quyết định phù hợp với bảo lãnh như giá trị bảo lãnh, phí bảo lãnh… Đồng thời, cán bộ cũng nên tư vấn cho khách hàng để nâng cao chất lượng dự án.
Ngoài những kinh nghiệm làm việc của bản thân, cán bộ bảo lãnh khi tiến hành thẩm định cũng nên phối hợp với các bộ phận liên quan hoặc các cơ quan chuyên môn, cơ quan có thẩm quyền để nâng cao chất lượng và tính pháp lý của quá trình thẩm định. Ngân hàng cũng nên cho phép luân chuyển hồ sơ giữa các cán bộ trước khi trình lên giám đốc để kiểm tra lại một cách khách quan. Đôi khi nhận xét chủ quan của một cá nhân chưa chắc đã giúp các cán bộ lãnh đạo ra được quyết định đúng đắn và những ý kiến đóng góp từ các cá nhân sẽ giúp hoàn thiện quá trình thẩm định một cách có hiệu quả.
* Bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ.
Con người là yếu tố quan trọng nhất tác động đến mọi hoạt động của ngân hàng. Cụ thể, con người ở đây là các cán bộ ngân hàng tham gia trực tiếp vào quá trình cung cấp dịch vụ, giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến ngân hàng. Chính vì vậy, năng lực nghiệp vụ, trình độ hiểu biết, thái độ phục vụ và tác phong làm việc của cán bộ ngân hàng sẽ là điều kiện để ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng của đội ngũ cán bộ sẽ giúp khách hàng thấy thuận tiện và tin tưởng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Do đó, công tác đào tạo đội ngũ nên tập trung vào các vấn đề sau:
- Đào tạo bài bản và có hệ thống các vấn đề cơ bản cho cán bộ đặc biệt là nhân viên mới để cán bộ hiểu đúng bản chất, vai trò và tính chất rủi ro của bảo lãnh. Ngân hàng nên tiến hành đào tạo chuyên sâu cho cán bộ nghiệp vụ, khuyến khích các cán bộ tiếp tục nâng cao bậc học trong ngành nghề đồng thời cam kết hoàn trả học phí sau khi kết thúc khoá học và có bằng hoặc chứng chỉ. Việc đào tạo cần tập trung theo trọng điểm một cách toàn diện để tránh đào tạo tràn lan, lãng phí.
- Phương thức đào tạo có thể là mở lớp học ngay tại Ngân hàng hoặc cử cán bộ đi học bên ngoài hoặc tổ chức phong trào thi đua, các buổi thảo luận hoặc hội thảo trong ngân hàng và giữa các ngân hàng bạn để cán bộ trao đổi thông tin với nhau và rút kinh nghiệm cho bản thân.
- Trước xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, ngân hàng cũng nên trao đổi kiến thức ngoại ngữ, tin học và cập nhật thông tin mới cho cán bộ bằng cách cung cấp cho cán bộ những công cụ đầy tiện ích để cán bộ tự nghiên cứu. Đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ khi thực hiện công tác của mình.
- Bên cạnh việc đào tạo, ngân hàng nên có một tổ chức, sắp xếp hợp lý, công việc và trách nhiệm phải phù hợp với trình độ và năng lực được giao, có như vậy cán bộ mới phát huy được hết khả năng làm việc hiệu quả. Đặc biệt, ngân hàng nên tuyển thêm và mạnh dạn sử dụng những cán bộ trẻ có năng lực, có trình độ thực sự trong công việc để bổ xung đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong thời gian này.
* Hoàn thiện quy trình.
Quy trình bảo lãnh của Chi nhánh cần được hoàn thiện theo hướng sau để đảm bảo quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh được đúng đắn, an toàn và nhanh:
- Tăng cường tim kiếm và tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các yêu cầu bảo lãnh nhằm chủ động thu hút khách hàng và công tác bảo lãnh được tiến triển thuận lợi.
- Nâng cao công tác thẩm định khách hàng trong quá trình thẩm định tư cách pháp nhân, khả năng tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh… nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng bảo lãnh.
- Ngân hàng nên đơn giản hoá các thủ tục, các quy trình để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Ngân hàng cũng phải hoàn thiện mẫu biểu để phục vụ công tác bảo lãnh. Đồng thời, khi tiến hành nếu có vướng mắc nào thì phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để trả lời cho khách hàng càng sớm càng tốt.
- Ngân hàng cần làm tốt việc theo dõi, giám sát và quản lý chặt chẽ khách hàng được bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Công tác đánh giá, tổng kết, đúc rút ra kinh nghiệm cần được coi trọng đặc biệt sau khi hoàn tất một món bảo lãnh từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện cho các món bảo lãnh tiếp theo
* Đưa công nghệ vào phục vụ cho hoạt động bảo lãnh, kiểm soát chặt chẽ hơn phân cấp, phân quyền cho Chi nhánh.
Ngân hàng nên đầu tư hơn nữa vào công nghệ để theo kịp trình độ tiên tiên của các ngân hàng khác. Đây cũng là một khoản đầu tư mang lại lợi nhuận cao vì công nghệ sẽ giúp các dịch vụ ngân hàng trở nên tiện ích hơn đối với khách hàng. Có như vậy, khách hàng sẽ ngày càng sử dụng dịch vụ bảo lãnh của Chi nhánh vì tính thuận tiện so với các ngân hàng khác.
Kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh là một nhiệm vụ quan trong không thể thiếu trong nghiệp vụ tín dụng ngân hàng . Để đảm bảo tính rủi ro xảy ra, cán bộ bảo lãnh phải quản lý, chỉ đạo, giám sát chặt chẽ khâu thẩm định khách hàng hay dự án được yêu cầu bảo lãnh. Cán bộ tín dụng cũng có thể xuống tận doanh nghiệp để kiểm tra xem doanh nghiệp có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Đồng thời, ban lãnh đạo Chi nhánh cần nắm bắt kịp thời các tình hình liên quan đến khoản bảo lãnh để có thể giải quyết những rủi ro phát sinh trong quá trình bảo lãnh.
Ngân hàng nên tổ chức kiểm tra một cách có hệ thống các món bảo lãnh hiện hành để hoàn chỉnh hồ sơ, đánh giá tiến độ thực hiện từ đó tăng cường biện pháp bảo đảm. Tổ chức giám sát chặt chẽ các khoản bảo lãnh vay vốn qua hình thức thanh toán L/C trả chậm để thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ và hạn chế những trường hợp ngân hàng thanh toán thay cho khách hàng trong khi khả năng thanh toán của khách hàng kém.
3.3. Kiến nghị.
* Kiến nghị đối với Chính phủ:
Một hiện thực tương đối khách quan là cho dù hoạt động của cả hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng có thay đổi như thế nào đi nữa cũng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì dù ngoài sự nỗ lực của bản thân với các giải pháp nghiệp vụ của mình thì cần phải có một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ.
Hiện nay, luật NHNN và luật các TCTD đang có hiệu lực trên thực tế nhưng trông từng lĩnh vực cụ thể vẫn thiếu các qui định chi tiết. Mặc dù các văn bản, qui định thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý và đôi khi là qúa chặt chẽ. Do đó, khi thực hiện các văn bản này, các ngân hàng đã gặp phải không ít những khó khăn.
Trong hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng, các TCTD Việt Nam mới chỉ được điều chỉnh chủ yếu bởi các văn bản pháp quy và các văn bản dưới luật của NHNN và các ngành có liên quan. Điều đó đã làm xuất hiện tình trạng nhiều khía cạnh của nghiệp vụ bảo lãnh không được quy định một cách đầy đủ. Mặt khác, hàng loạt các vấn đề phức tạp của nghiệp vụ bảo lãnh cũng không được các văn bản pháp quy hướng dẫn như: vấn đề tư cách chủ thể bảo lãnh của bên thứ ba, giải quyết khi tranh chấp, các mẫu biểu của bảo lãnh chưa thống nhất…
Chính vì vậy, nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ đồng bộ, thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể cần sớm ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản…
Ngoài ra, bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp, qui định trong một số ngành khác. Việc tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đỡ của các ngành này. Cụ thể như sau:
+ Trong thủ tục công chứng: Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn về các mẫu giấy tờ để công chứng thì đến nay vẫn chưa có mẫu về cầm cố thế chấp bảo lãnh. Trong khi đó, theo hướng dẫn của ngân hàng thì phòng công chứng không xác nhận. Hơn nữa, mức lệ phí công chứng 0,2% trên số tiền công chứng là chưa hợp lý vì trong khi công chứng phải chịu trách nhiệm về rủi ro và những sai phạm trong hợp đồng thế chấp thì ngân hàng phải gánh chịu mọi rủi ro mà mức phí tối đa của ngân hàng là 2% trên số tiền bảo lãnh.
Do vậy, Bộ tư pháp nên qui định mức lệ phí công chứng hợp lý và ban hành mẫu giấy tờ công chứng. Điều này sẽ làm giảm phiền toái cho doanh nghiệp và thuận tiện cho ngân hàng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.
+ Về thế chấp tài sản:
Hiện nay, Bộ tài chính đã chấp thuận cho các doanh nghiệp được sử dụng các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nếu doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản thì phần tài sản cũng được xử lý theo luật phá sản của doanh nghiệp Nhà nước hiện hành. Thế nhưng, việc thế chấp tài sản cuả các doanh nghiệp Nhà nước chỉ mang tính hình thức, thực tế ngân hàng không phát mại tài sản vì được Tổng cục quản lý vốn và tài sản không xác nhận “ chấp nhận cho các doanh nghiệp dùng tài sản này để thế chấp “ mà chỉ xác nhận “ tài sản này thuộc quyền quản lý và sử dụng “. Chính vì vậy, nếu rủi ro xảy ra, doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng không thể thu hồi được nợ thông qua việc phát mại tài sản trên, dẫn đến ngân hàng phải gánh chịu mọi hậu quả. Trước tình hình đó các cơ quan hữu quan cần xem xét và giải quyết theo các hướng dẫn sau:
Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mại tài sản trên để thu hồi nợ. Nếu không các cơ quan này phải có trách nhiệm đền bù thay cho các doanh nghiệp.
Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý ( các thủ tục hành chính để phát mại tài sản, giải quyết việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản ) tạo điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, nhanh chóng.
Mặt khác, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần từ nhiều năm nay song trong chính sách với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy không còn bị phân biệt đối xử nhưng vẫn chưa thực sự được bình đẳng, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, bảo lãnh. Vấn đề này Nhà nước nên tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và nhanh chóng hoàn thành qúa trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
+ Về môi trường kinh doanh.
Tiếp tục xây dựng một cơ chế thì trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tín dụng – tiền tệ và giá cả. Củng cố thị trường vốn và thị trường tài chính hiện có, đồng thời không ngừng đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Hơn nữa, cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Khẩn trương thực hiện môi trường đầu tư trong nước và ngoài nước, sớm tiến tới thống nhất cơ chế và chế độ đầu tư trong nước và ngoài nước.
+ Chính phủ cần sớm thành lập tổ chức xếp hạng định mức tín nhiệm, bởi khi tổ chức này ra đời nó không chỉ hỗ trợ cho ngân hàng mà còn hỗ trợ cho rất nhiều cho các ngành khác.
* Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
- Về đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh:
Cùng với việc cải tiến thủ tục bảo lãnh sao cho đơn giản, chặt chẽ và an toàn, thì cần phải từng bước đa dạng hoá hình thức bảo lãnh. Trong thời gian qua, doanh số bảo lãnh còn rất thấp so với tiềm năng của các ngân hàng. Vì truyền thống, mặt khác NHNN nên hướng dẫn cho các ngân hàng sử dụng hình thức bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài, bảo lãnh bằng việc lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ với nước ngoài. Đồng thời cần sớm chuẩn bị để ban hành các văn bản hướng dẫn một số loại hình bảo lãnh mới sẽ sử dụng trong thời gian tới như: bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh hối phiếu…
- Về phí bảo lãnh và quỹ bảo lãnh:
Theo qui định hiện hành, mức phí bảo lãnh là 2%/ năm trên số tiền được bảo lãnh. Theo mức phí này chưa chỉ ra được sự khác biệt về mức độ rủi ro của từng loại bảo lãnh, cũng như chưa thể hiện chính sách ưu đãi của ngân hàng đối với doanh nghiệp có uy tín với ngân hàng. Vì vậy, NHNN nên qui định cụ thể về mức phí bảo lãnh trong qui chế mà để các NHTM chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. NHNN chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, kiểm tra giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua qui định về quỹ bảo lãnh, ký quỹ bảo lãnh.
NHNN cần ban hành qui chế cụ thể về bảo lãnh và trích lập quỹ bảo lãnh đối với nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, quy định khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh, sử dụng quỹ bảo lãnh.
- Về điều kiện để các liên doanh được xem xét bảo lãnh:
Hiên nay trong thực tế, để có thể tham gia dự thầu, đã có nhiều nhà thầu liên doanh với nhau và yêu cầu các ngân hàng xem xét cấp bảo lãnh.
Tuy nhiên, trong quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN chưa có hướng dẫn loại hình bảo lãnh cho các liên doanh, điều kiện để các liên doanh được ngân hàng xem xét bảo lãnh, địa vị pháp lý của các liên doanh để xin ngân hàng bảo lãnh… Do đó rất khó cho ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu này. Vì vậy, NHNN cần phải ban hành văn bản, quy chế hướng dẫn để NHCT Việt Nam cũng như các ngân hàng khác thực hiện.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra để phòng ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm đối với người nhận bảo lãnh:
- Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp kịp thời, chính xác theo yêu cầu của các TCTD:
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới, các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và các quan hệ kinh tế nói riên của nước ta ngày càng trở nên phong phú, hoạt động ngày càng đầy đủ hơn, khẳng định vị trí và vai trò của nước ta trong cộng đồng thế giới. Việc mở ra các quan hệ kinh tế ngày càng rộng rãi đòi hỏi phải mở rộng và hoàn thiện không ngừng các hoạt động bảo lãnh nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế thông suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Ngày nay, chúng ta không thể không thừa nhận tầm quan trọng trong hoạt động bảo lãnh trong ngân hàng. Do đó, các nỗ lực phát triển hoạt động bảo lãnh là vô cùng cần thiết cho một nền kinh tế đang trên đà đi lên như nền kinh tế Việt Nam.
Sau khi đã nhận thức được vai trò của bảo lãnh ngân hàng, em đã để ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân. Với những phát hiện trong đề tài, hoạt động bảo lãnh được mở ra những hướng nghiên cứu mới về các vấn đề như hệ thống văn bản pháp lý, các sản phẩm bảo lãnh, quy trình thẩm định hay các biện pháp quản lý rủi ro…
Mặc dù chuyên đề nghiên cứu còn nhiều thiếu sót nhưng về cơ bản cũng chỉ ra được ưu điểm, khuyết điểm trong hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân và đóng góp cho Ngân hàng những giải pháp để tham khảo. Đối với trường Đại học kinh tế quốc dân, chuyên đề này cũng góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh và tăng cường kho kiến thức cho các bạn sinh viên trẻ. Riêng với bản thân em, chuyên đề này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu mốc học tập và nghiên cứu của một sinh viên.
Để hoàn thiện bản chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em đã được sự giúp đỡ rất tận tình của các thầy cô đặc biệt cô giáo hướng dẫn PGS – TS Nguyễn Thị Thu Thảo vàa các cán bộ làm việc tại Phòng Khách hàng doanh nghiệp – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1
1.1 Tổng quan về Ngân hàng Thương mại.
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng Thương mại.
1.1.2 Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
1.2 Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại.
1.2.1 Khái niệm, bản chất và ý nghĩa.
1.2.2 Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh.
1.2.3 Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh.
1.2.4 Phân loại.
1.2.4.1 Theo phương thức phát hành.
1.2.4.2 Theo phương thức đòi tiền.
1.2.4.3 Theo mục tiêu bảo lãnh.
1.2.4.4 Theo tính chất.
1.2.4.5 Theo tài sản đảm bảo.
1.2.5 Quy trình bảo lãnh.
1.3 Các chỉ tiều đánh giá hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại.
3.1 Các chỉ tiêu định lượng.
1.3.2 Các chỉ tiêu định tính.
1.3.3 Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo lãnh.
1.3.3.1 Yếu tố môi trường.
1.3.3.2 Yếu tố khách hàng.
1.3.3.3 Yếu tố chiến lược kinh doanh.
1.3.3.4 Yếu tố quy trình nghiệp vụ bảo lãnh.
1.3.3.5 Yếu tố con người.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.1.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân trong những năm gần đây.
2.2 Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.1 Quy tắc chung cho hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam.
2.2.2 Các loại hình bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.3 Quy trình bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.4 Kết quả hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân trong những năm gần đây.
2.3 Đánh giá hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.3.1 Kết quả đạt được.
2.3.1.1. Những kết quả đạt được.
2.3.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Hạn chế.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.
3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân giai đoạn 2006 – 2010.
3.1.1 Mục tiêu kinh doanh.
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương hanh Xuân.
3.2.1 Lập kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh trong từng giai đoạn.
3.2.2 Các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh.
3.2.3 Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
3.3 Kiến nghị.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
david cox–Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. NFredric s. miskin–Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. TGS –TS hỒ DIỆU ( chủ biên ) –Tín dụng ngân hàng –NXB Thống kê năm 2000.
Lê Nguyên–Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng –BNXB Thống kê năm 1997.
Luật NHNN, luật các TCTD.
Quyết định 283/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 về qui chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Quyết định 368/2001/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của Thống đốc NHNN sửa đổi một số điểm trong quyết định 283
Công văn số 112/QĐ-NHNN ngày 11/2/2003 của NHNNVN về sửa đổi một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng.
Văn bản số 2653/CV-NHCT5 ngày 30/10/2000 của TGĐ NHCT VN hướng dẫn thực hiện quy chế bảo lãnh ngân hàng
Tạp chí ngân hàng các năm 2003, 2004, 2005 và các số đầu n ¨m 2006.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5540.doc