LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: - Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
- Ban Chủ nhiệm Khoa Kế hoạch và Phát triển.
Tên sinh viên: NGUYỄN THÙY DƯƠNG
Sinh viên lớp: Kinh tế phát triển A
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Khoa: Kế hoạch và phát triển
Khóa: 48
Sau một thời gian thực tập tại phòng Kế hoạch của Tổng công ty Điện Lực I cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và sự giúp đỡ của các cán bộ phòng Kế hoạch, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài “Gi
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hệ thống lưới điện tới các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải pháp phát triển hệ thống lưới điện tới các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc”.
Em cam đoan :
Đây là đề tài do em lựa chọn sau một thời gian thực tập, được thực hiện dựa trên sự nghiên cứu, tìm tòi của bản thân, sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn và các cán bộ tại cơ sở thực tập.
Luận văn dựa trên sự nghiên cứu của bản thân và các số liệu được cung cấp bởi cơ quan thực tập. Các số liệu sử dụng trong luận văn là hoàn toàn đúng sự thật và không có sự sao chép từ bất cứ tài liệu và luận văn nào.
Em xin chịu trách nhiệm trước nhà trường và Ban Chủ nhiệm khoa về lời cam đoan này.
Sinh Viên
Nguyễn Thùy Dương
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập, thực hiện nghiên cứu chuyên đề và hoàn thiện luận văn, em đã được thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ phòng Kế hoạch của Tổng công ty Điện Lực I hướng dẫn cách tìm hiểu, thu thập thông tin, phân tích số liệu … để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp phát triển hệ thống lưới điện tới các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc”.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo hướng dẫn, các cán bộ phòng Kế hoạch của Tổng công ty Điện Lực I đã giúp đỡ em hoành thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Do đây là lần đầu tiên thực hiện nghiên cứu một vấn đề chuyên sâu, cộng thêm kinh nghiệm của bản thân chưa có nhiều, nên luận văn tốt nghiệp của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự ủng hộ và góp ý của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Hình 1.1. Trạm biến áp truyền tải. 7
Hình 1.2: Đường dây truyền tải điện. 8
Bảng 2.1: Tỷ lệ nghèo chung chia theo vùng tính theo chi tiêu 22
Bảng 1.1: Danh mục địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn 23
Bảng 2.3. Khối lượng trạm biến áp hiện có tại tỉnh Lai Châu 29
Bảng 2.4. Thống kê số hộ đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng điện tại
Bảng 2.5. Khối lượng trạm biến áp hiện có tại tỉnh Sơn La 31
Bảng 2.6. Thống kê khối lượng đường dây 35kV của Lạng Sơn 32
Bảng 2.7. Thống kê số hộ dân sử dụng điện tại tỉnh Yên Bái 33
Bảng 2.8. thống kê số hộ dân tộc thiểu số sử dụng điện tại tỉnh Sơn La 33
Bảng 2.9: Bảng thống kê số hộ đồng bào dân tộc thiểu số có điện 35
sử dụng điện tỉnh Lạng Sơn (Tính đến hết tháng 12/2008) 35
Bảng 2.10. Tổng hợp hiện trạng lưới điện tỉnh Điện Biên 36
Bảng 2.11. Tình trạng vận hành của trạm biến áp nguồn 110kV huyện Nà Hang 38
Bảng 2.12. Thông số kỹ thuật các lộ đường dây trung áp 39
Bảng 2.13. Khối lượng trạm biến áp hiện có huyện Nà Hang (12/2008)
Bảng 2.14. Khối lượng đường dây hiện có của huyện Na Hang 41
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Điện có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển văn hóa kinh tế,xã hội của mỗi quốc gia và vùng.
Đối với tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, điện năng được xem là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tại mỗi quốc gia việc xây dựng, quy hoạch phát triển hệ thống điện là một trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu và được đầu tư rất lớn. Ngay từ đầu thế kỷ trước, nhận thấy sự cần thiết của điện ông Lê nin đã đã đề ra chủ trương để đưa nước Liên Xô cũ ra khỏi đói nghèo là phải: Điện, điện khí hóa toàn quốc.
Ngày nay tại các nước phát triển hệ thống điện đã được xây dựng và phát triển với quy mô lớn, công nghệ hiện đại và hầu như lưới điện đã bao phủ tất cả các vùng lãnh thổ. Ở các nước nghèo, nước đang phát triển trên thế giới hệ thống điện tuy đã được đầu tư phát triển mạnh mẽ nhưng nhiều vùng rộng lớn thuộc vùng sâu vùng xa vẫn chưa có điện lưới quốc gia; do đó tại những khu vực này tình trạng chung là kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân còn nghèo nàn, lạc hậu, mức sống thấp, tiến bộ xã hội cách biệt hẳn so với những vùng đã có điện.
Chỉ tiêu tiếp cận các dịch vụ như điện, nước, y tế, giáo dục là những thông số cơ bản để đánh giá trình độ phát triển của một nước. Theo đánh giá của các tổ chức thế giới các chỉ số này của Việt nam là rất thấp. 35 năm sau chiến tranh nhiều khu vực miền núi của Việt Nam vẫn chưa có điện.
Nhận thấy lợi ích của điện, để thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, miền núi và đồng bằng, chính phủ Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đến hết năm 2015, phải đảm bảo cho 100% các xã, huyện, hải đảo trên toàn đất nước có điện.
Về cơ bản, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với trên 78 % dân số sống ở nông thôn và miên núi , nhiều người trong số họ là dân tộc thiểu số. Người nghèo ở Việt Nam tập trung phần lớn ở nông thôn và miền núi. Chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt với thực trạng: một là các dịch vụ cơ bản trên cần tới được người nghèo với chất lượng phù hợp và hai là những người nghèo cần có đủ khả năng để chi trả cho các dịch vụ này. Trong mấy năm gần đây nhà nước ta đã đầu tư một lượng vốn khá lớn để đưa điện lưới quốc gia đến cho các xã vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, có rất nhiều khu vực địa hình hiểm trở, dân cư thưa thớt, sống không tập trung chỉ có khoảng 20-30 người, dân trí thấp, tiêu thụ điện không đáng kể nên để đưa được điện từ lưới điện quốc gia đến cho họ, nhà nước phải tốn đến hàng chục tỷ đồng nhưng tổn hao điện trên hệ thống lại lớn hơn lượng điện dân sử dụng. Nhưng nếu không đầu tư, và để cho người dân chịu khổ, không có điện, thì nhà nước ta sẽ bị mất dân. Các tổ chức phản động ở ngoài biên giới cũng thường lợi dụng khai thác sự thiếu hiểu biết của bà con các dân tộc miền núi để kích động họ chống lại chính phủ Việt nam.
Nghiên cứu các giải pháp công nghệ thích hợp nhằm nhanh chóng điện khí hoá vùng ngoài lưới điện là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa kinh tế- chính trị-xã hội rất lớn.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của bài khóa luận này, tôi xin phép đưa ra những nghiên cứu của bản thân về thực trạng hệ thống lưới điện của các xã đặc biệt khó khăn ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Khu vực trên là vùng nghèo nhất trong cả nước, tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Thêm vào đó, một số tỉnh ở đây có xã còn chưa được biết đến ánh sáng của đèn điện, cuộc sống của người dân vô cùng cực khổ.
Tuy nhiên, để đánh giá được thực trạng lưới điện của từng xã là điều không thể thực hiện được trong phạm vi nhỏ của bài khóa luận này. Do đó, tôi chỉ đánh giá chung thực trạng lưới điện của các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, và đánh giá riêng hai huyện, huyện Nà Hang- Tuyên Quang và huyện đảo Cô Tô - Quảng Ninh để có thể thấy rõ thực trạng hệ thống lưới điện và tiêu thụ điện năng ở các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Bài khóa này được nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá thực trạng hệ thống lưới điện cũng như tình hình tiêu thụ điện năng tại các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và Miền núi phía Bắc. Và từ đó, tôi xin đưa ra các giải pháp thực tiễn để đưa điện về cho các hộ gia đình nghèo, vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số. Trong phạm vi nhỏ của bài, tôi muốn đóng góp một số ý kiến giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số có thể có điện để thắp sáng. Từ đó, tiếp cận được với các tiến bộ khoa học khác, giúp họ phát triển đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một đề tài mang tính ứng dụng cao, nên các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: Phương pháp phân tích, tổng hợp diễn giải, thống kê mô tả, hệ thống hóa…
5. Tính hiệu quả và đóng góp của đề tài
Đề tài sau khi nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng lưới điện và tiêu thụ điện năng ở các xã vùng sâu vùng xa. Đồng thời đưa ra được một số giải pháp thiết thực như sử dụng nguồn năng lượng tại chỗ để cấp điện cho các xã vùng sâu vùng xa. Ngoài ra còn có một số nguồn năng lượng khác có thể được sử dụng như các nguồn năng lượng gió, mặt trời. Hơn thế nữa, các nguồn năng lượng này không chỉ áp dụng cho các xã vùng sâu vùng xa, mà còn có thể vận dụng để sản xuất điện năng cho cả nước, giảm áp lực tiêu thụ điện cho các nhà máy điện hiện nay.
6. Bố cục
Luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Sự cần thiết phải phát triển hệ thống lưới điện cho các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
Chương II: Thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung Du và miền núi phía Bắc.
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển hệ thống lưới điện đến các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG LƯỚI ĐIỆN CHO CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
1.1. Đặc điểm, vai trò năng lượng điện
1.1.1. Đặc điểm của điện thương phẩm
Quá trình sản xuất điện năng: Năng lượng điện là một nguồn năng lượng sạch và có tính hữu hạn. Điện năng không phải là một nguồn tài nguyên có sẵn trong tự nhiên mà là sự biến đổi các dạng năng lượng khác sang như từ năng lượng nước (thuỷ điện), năng lượng nhiệt (nhiệt điện): năng lượng chuyển hoá từ các dạng nhiên liệu rắn (than đá), lỏng (dầu mỏ) và khí (khí đốt thiên nhiên) và các dạng năng lượng khác: năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, năng lượng từ gió, năng lượng từ thuỷ triều)... Hiện nay, nguồn sản xuất điện năng lớn nhất ở nước ta là thủy điện và nhiệt điện. Điện năng được sản xuất từ các dạng năng lượng khác đòi hỏi kỹ thuật phức tạp nên chưa được ứng dụng rộng rãi trong đời sống.
Ngành công nghiệp sản xuất điện có một đặc điểm khác đặc trưng so với các ngành công nghiệp khác là thành phẩm được sản xuất ra phải được tiêu thụ luôn. Ngành công nghiệp điện không thể lưu kho, tích trữ, và không có phế phẩm. Các nhà máy điện sau khi sản xuất điện, sẽ đưa điện hòa vào mạng lưới điện quốc gia, và từ đó, điện đi theo hệ thống các đường dây tải điện và các trạm biến áp phân phối, đến các hộ tiêu thụ. Hiện tại, thuỷ điện chiếm một tỷ trọng lớn trong sản lượng sản xuất điện của nước ta. Tuy nhiên, sản lượng điện từ thuỷ điện lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thời tiết và thiên nhiên. Vào mùa khô, sông ngòi cạn nước dẫn đến việc giảm sản lượng điện. Việc quy hoạch lưới điện chưa hợp lý, bố trí các nhà máy sản xuất điện xa trung tâm tiêu thụ gây tổn thất điện năng lớn và ý thức của các hộ sử dụng điện gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng điện năng. Do đó, rất dễ xảy ra tình trạng lãng phí hoặc thiếu hụt điện năng.
Hệ thống kênh phân phối chính là hệ thống lưới điện đưa điện đến từng hộ phụ tải, thông qua các đường dây truyền tải, các trạm biến áp cao thế, trung thế, hạ thế. Khác với các ngành công nghiệp khác, ngành điện phải cung cấp sản phẩm đến từng hộ phụ tải, các cá nhân tiêu dùng điện, chứ các khách hàng không thể đến tận nơi, mua điện và mang về sử dụng được.
Ngành công nghiệp điện là một trong những ngành hiện nay vẫn được coi là độc quyền của nhà nước do đặc thù ngành đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn, thời gian đầu tư kéo dài gây ngưng đọng vốn lớn. Quá trình thu hồi vốn diễn ra trong thời gian dài. Để đảm bảo sản xuất điện tốt, cần có quy mô hoạt động lớn. Các doanh nghiệp tư nhân khó có đủ tiềm lực tài chính cũng như nhân lực, ... để có thể tham gia vào ngành công nghiệp này. Lợi nhuận tài chính thấp, tuy nhiên việc cung cấp điện mang lại lợi ích xã hội lớn. Do đó, cho đến hiện nay, nhà nước vẫn là nhà cung cấp điện.
1.1.2. Vai trò của điện
Từ cách đây rất lâu, con người đã phát hiện ra trong thiên nhiên có một nguồn năng lượng vô hình có sức mạnh rất lớn, đó chính là năng lượng điện. Từ đó, người ta tìm cách để sản xuất, chế ngự và sử dụng nguồn năng lượng đó phục vụ sản xuất, đời sống . Điện đã giúp chúng ta bước một bước tiến dài trong quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Ngày nay, điện đã chiếm một vai trò vô cùng quan trọng, là nguồn động lực và nguồn năng lượng cho đời sống và sản xuất. Tính riêng trong một hộ gia đình đã có từ 60- 70% vật dụng hoạt động phải dựa vào nguồn điện năng.
Có thể thấy, công nghiệp là ngành sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất rất lớn cho xã hội. Tuy nhiên, không có điện thì không thể có công nghiệp. Ngành công nghiệp điện còn giúp thúc đẩy các ngành khác như nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, an ninh quốc phòng…. Điện giúp chạy các thiết bị máy móc… Không một ngành nào lại không dùng đến điện. Điện được coi là một yếu tố đầu vào không thể thay thế được.
Giả sử chúng ta không có điện, chúng ta phải quay về thắp sáng bằng dầu, không có internet, không có các sản phẩm sản xuất từ các ngành công nghiệp khác… Một trong những điều kiện đánh giá mức độ phát triển của một nước là tỷ lệ phần trăm người dân nước đó được sử dụng điện. Điện góp phần phát triển nền kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của toàn xã hội.
Cải tạo kỹ thuật công nghiệp tức là đưa nền sản xuất nông nghiệp tiến dần tới cơ khí hóa, điện khí hóa và hóa học hóa. Do đó điện khí hóa, cơ khí hóa càng được đẩy mạnh thì trình độ văn hóa , tri thức khoa học của nông dân cũng theo đó mà tăng không ngừng, khiến cho lao động có tính chất nông nghiệp chuyển dần sang công nghiệp, tiêu diệt sự phân biệt công nhân – nông dân, thành thị - nông thôn. Từ đó thay đổi bộ mặt nông thôn, cổ vũ lòng tin cho nông dân vào Đảng , chính quyền xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh và phát triển.
Qua những phân tích ở trên đã thấy rõ được vai trò của điện trong phát triển kinh tế, như vậy rõ ràng là nhu cầu điện là cần thiết và phải được đáp ứng ở tất cả mọi nơi. Tuy nhiên ở nước ta còn rất nhiều xã vẫn chưa có điện, lưới điện quốc gia vẫn chưa thể đến được tất cả các xã để thúc đẩy nhanh quá trình này ta cần tìm hiểu về hệ thống lưới điện và tìm ra hướng đi thích hợp cho vấn đề này.
1.2. Phân loại các loại hệ thống lưới điện
Việc phân loại hiệu điện thế phụ thuộc vào ứng dụng cụ thể và quy ước của từng quốc gia.
Trong truyền tải điện công nghiệp ở Việt Nam, EVN quy ước:
Nguồn điện lưới nhỏ hơn 1 kV là hạ thế.
Từ 1kV đến 35 kV là trung thế.
Lớn hơn hoặc bằng 110 kV là cao thế.
Trong mục tiêu đồng bộ lưới điện đến năm 2010, tại Việt Nam sẽ có:
Cao thế có 2 mức: 110 kV, 220 kV và 500 kV.
Trung thế có 4 mức: 6kV, 10 kV, 15 kV, 22kV và 35 kV.
Hạ thế có 1 mức: 0,4kV.
Mạng lưới điện cao thế hay còn gọi là hệ thống lưới điện truyền tải. Mạng lưới điện trung thế và hạ thế là hệ thống lưới điện phân phối.
Nguồn điện- Trạm phát điện: Nguồn điện là thiết bị phát ra điện năng. Về nguyên lý, nguồn điện là thiết bị biến đổi các dạng năng lượng như cơ năng, hóa năng, nhiệt năng thành điện năng.
Phụ tải: Phụ tải là các thiết bị tiêu thụ điện năng và biến đổi điện năng thành các dạng năng lượng khác như cơ năng, nhiệt năng, quang năng.
Dây dẫn: Dây dẫn làm bằng kim loại (đồng, nhôm, lưỡng kim) dùng để truyền tải điện năng từ nguồn đến các hộ phụ tải, cũng chính là dẫn điện từ trạm phát điện đến các nơi tiêu thụ.
1.2.1. Hệ thống lưới điện truyền tải
Thực tế, khoảng cách từ các trạm phát điện - nguồn điện đến nơi tiêu thụ điện - tải thường cách nhau rất xa. Nếu sử dụng đường dây với điện áp thấp, thì sẽ dẫn đến tình trạng tổn thất điện năng. Nếu điện áp được tăng cao thì dòng điện chạy trên đường dây sẽ giảm, tiết diện dây dẫn chọn sẽ nhỏ, chi phí dây dẫn sẽ giảm, giảm tổn thất công suất và tổn thất điện áp.
Do đó, để truyền tải điện năng đi xa mà ít tổn hao và tiết kiệm kim loại màu, trên đường dây người ta phải dùng điện áp cao (110 kV, 220 kV, 500 kV và hơn nữa). Đường dây truyền tải được xây dựng nhằm mục đích đưa điện từ các trạm phát điện, các nhà máy điện đến các hộ tiêu thụ, từ nơi này đến nơi khác.
Tuy nhiên, các trạm phát điện chỉ có thể sản xuất ra điện năng có điện áp từ 3kV đến 6,3 kV, cần phải đưa điện áp lên. Đồng thời, tại các nơi tiêu thụ, phụ tải thường yêu cầu điện áp thấp, từ 0,4 đến 6 kV, và do đó cũng lại cần phải hạ điện áp xuống. Muốn tăng giảm điện áp như vậy, cần sử dụng đến các trạm biến áp. Để truyền tải được điện từ các nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, để giảm các thất thoát, thường thì cần qua từ ba đến bốn lần tăng và giảm áp. Máy biến áp dùng trong hệ thống điện lực để truyển tải và phân phối điện năng gọi là máy biến áp điện lực.
Ngoài hệ thống đường dây và các trạm biến áp, hệ thống lưới điện truyền tải còn có nhiều thiết bị khác như thiết bị đo lường, bảo vệ, thiết bị đóng cắt, điều khiển và các phụ kiện khác.
Hình 1.1. Trạm biến áp truyền tải.
Hình 1.2: Đường dây truyền tải điện.
1.2.2. Hệ thống lưới điện phân phối
Mục đích cuối cùng của việc sản xuất điện là đưa điện đến cho người tiêu dùng. Hệ thống lưới điện phân phối điện của hệ thống điện giúp đưa điện năng trực tiếp đến người tiêu dùng. Khác với hệ thống lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối có các đặc điểm về thiết kế phân bố trên diện rộng, thường vận hành không đối xứng và có tổn thất lớn hơn.
Mạng lưới điện trung thế và hạ thế là hệ thống lưới điện phân phối có nhiều cấp điện áp từ 6 kV, 10 kV, 15 kV, 22kV và 35 kV với điện trung thế và 0,4kV với điện hạ thế. Hệ thống điện phân phối cũng có các trạm biến áp giúp hạ điện áp từ các đường dây cao thế xuống và đưa vào các hộ tiêu dùng.
Điện sau khi sản xuất sẽ thông qua các trạm biến áp để nâng điện áp lên, đi qua lưới điện truyền tải, qua dây dẫn rồi qua các trạm hạ thế xuống 0,4 kV rồi tiếp tục theo các dây dẫn, dẫn điện từ các trạm hạ thế đến hộ tiêu dùng điện như nhà máy, trường học, bệnh viện, cơ quan và nhà dân… Điện được sử dụng trong các ngành công nghiệp khác như trong các nhà máy còn có những trạm biến áp riêng để thay đổi điện áp phù hợp với mục đích sử dụng. Mạng điện phân phối thường là mạng điện ba pha, bốn dây.
Thực tế hiện nay hệ thống lưới điện phân phối ở nước ta được xây dựng chắp vá, tổn thất điện năng lớn, không đáp ứng được nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng của người dân.
Hình 1.3: Trạm biến áp phân phối
Hình 1. 4: Đường dây tải điện trung thế
1.2.3. Nội dung phát triển hệ thống lưới điện
* Về phát triển nguồn điện:
Đảm bảo thực hiện tiến độ xây dựng các nhà máy thủy điện có các lợi ích tổng hợp như: phân lũ, chống lũ, tích nước, cấp nước, sản xuất điện; phát triển hợp lý có hiệu quả các nguồn nhiệt điện khí; đẩy mạnh xây dựng nhiệt điện than; phát triển thủy điện nhỏ, năng lượng mới và tái tạo cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; chủ động trao đổi điện năng có hiệu quả với các nước trong khu vực; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững. Hoàn thành giai đoạn chuẩn bị đầu tư Dự án nhà máy điện hạt nhân, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện theo hướng hiện đại. Phát triển thuỷ điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện nguyên tử..., kết hợp trao đổi, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực. Tổng công ty Điện lực Việt Nam chỉ đầu tư những công trình phát điện có công suất từ 100 MW trở lên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác đầu tư các công trình có công suất nhỏ hơn. Phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại hệ thống truyền tải, phân phối nhằm nâng cao độ tin cậy, an toàn cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng.
* Về phát triển lưới điện:
Phát triển lưới điện truyền tải và phân phối một cách đồng bộ với chương trình phát triển nguồn điện. Thực hiện việc hiện đại hóa và từng bước ngầm hóa lưới điện các thành phố, thị xã hạn chế tác động xấu đến cảnh quan, môi trường. Áp dụng các biện pháp giảm tổn thất điện năng theo quy định.
Phát triển phù hợp các trung tâm điện lực ở các khu vực trong cả nước nhằm đảm bảo tin cậy cung cấp điện tại chỗ và giảm tổn thất kỹ thuật trên hệ thống điện quốc gia cũng như đảm bảo tính kinh tế của các dự án, góp phần phát triển kinh tế - xã hội cho từng vùng và cả nước.
Phát triển nhanh hệ thống truyền tải 220, 500 kV nhằm nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng trên lưới truyền tải, bảo đảm khai thác kinh tế các nguồn điện; phát triển lưới 110 kV thành lưới điện phân phối cung cấp trực tiếp cho phụ tải.
Nghiên cứu giảm bớt cấp điện áp trung thế của lưới điện phân phối. Nhanh chóng mở rộng lưới điện phân phối đến vùng sâu, vùng xa. Tập trung đầu tư cải tạo lưới điện phân phối để giảm tổn thất điện năng, giảm sự cố và nâng cao độ tin cậy cung cấp điện.
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Phấn đấu đến năm 2005 đạt sản lượng khoảng 53 tỷ kWh; năm 2010 đạt sản lượng từ khoảng 88 đến 93 tỷ kWh và năm 2020 đạt sản lượng từ 201 đến 250 tỷ kWh.
* Về vốn:
Nhà nước có các cơ chế tài chính thích hợp để Tổng công ty Điện lực Việt Nam đảm bảo được vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành điện Việt Nam.
Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai một số công trình đầu tư theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, liên doanh để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, đồng thời tăng khả năng trả nợ cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam.
Xây dựng các biện pháp huy động vốn trong dân để đầu tư phát triển điện.
* Năng lượng mới và tái tạo:
Khai thác năng lượng mới và năng lượng tái tạo theo định hướng chiến lược phát triển ngành điện và chiến lược phát triển năng lượng mới và tái tạo quốc gia, nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu điện cho phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo ổn định chính trị và an ninh vùng biên giới phía Bắc, đồng thời cải thiện đời sống nhân dân, cán bộ và chiến sỹ biên phòng.
Tập trung khai thác tiền năng thủy điện nhỏ có thể nối lưới quốc gia. Lựa chọn khai thác một các hợp lý năng lượng mới và tái tạo để cấp hỗ trợ hoặc cấp điện độc lập tại các địa bàn xa lưới hoặc địa hình phức tạp.
Nhà nước cấp kinh phí các dự án cấp điện từ năng lượng mới và tái tọa cho các khu vực dân cư tại các xã, thôn, bản… đặc biệt khó khăn, dự án định canh định cư mà lưới điện không thể kéo đến được. Nhà nước hỗ trợ thông qua các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực năng lượng mới và tái tạo để nhanh chóng nâng cao tỷ lệ sử dụng năng lượng mới và tái tạo trên địa bàn.
* Mục tiêu phát triển hệ thống lưới điện:
- Đẩy nhanh chương trình đưa điện về nông thôn, miền núi, phấn đấu đến năm 2010 đạt 90% số hộ dân nông thôn có điện, đến năm 2020 đạt 100% số hộ dân nông thôn có điện.
- Đảm bảo cân bằng tài chính bền vững.
- Đa dạng hoá phương thức đầu tư phát triển ngành và chuẩn bị các phương án nhập khẩu điện của các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành Điện.
- Thực hiện cơ chế hoạt động đa dạng hoá sản phẩm, bao gồm nhiều Công ty có tư cách pháp nhân theo mô hình Liên kết tài chính - Công nghiệp - Thương mại - Dịch vụ - Tư vấn.
- Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động điện lực.
Mục tiêu chính và quan trọng nhất của các dự án phát triển hệ thống lưới điện là để đưa điện đến cho các xã vùng sâu vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn. Các dự án như dự án ADB, dự án năng lượng nông thôn (RE I và RE II) đều nhằm mục tiêu cải tạo và xây dựng lưới điện trung thế và lưới điện hạ thế 0,4 kV đến những nơi chưa có điện, ở những nơi có nhu cầu sử dụng điện tăng nhanh nhằm tăng cường năng lực của lưới phân phối, đáp ứng nhu cầu phát triển phụ tải và đảm bảo chất lượng cung cấp điện.
Đến năm 2015, phấn đấu khai thác năng lượng từ các dạng năng lượng mới và tái tạo tương đương 7,1 triệu MWh.năm. Trong đó cấp điện ngoài lưới đạt 96 ngàn MWh.năm, cấp năng lượng dưới dạng khác tương đương 20 ngàn MWh.năm. Đến năm 2025, nâng khả năng khai thác năng lượng từ dạng năng lượng mới và tái tạo tương đương 10 triệu MWh.năm. Điện năng lượng mới và tái tạo được khai thác có thể đáp ứng khoảng 35% tổng nhu cầu điện dự báo cho vùng, 20% số hộ nông thôn sử dụng điện năng lượng tái tạo.
90% hộ dân nông thôn được hưởng điện lưới quốc gia là mục tiêu đến năm 2011 của Dự án Năng lượng nông thôn II (RE II). Đây là dự án kế tục của Dự án Năng lượng nông thôn I.
* Khối lượng lưới điện phân phối:
Khối lượng lưới điện phân phối dự kiến xây dựng đến năm 2020 sẽ bao gồm hơn 120.000 km đường dây trung áp, trạm phân phối dung lượng gần 85.000 MVA và gần 93.000 km đường dây hạ áp. Khối lượng dự kiến cải tạo và xây dựng sẽ tương đương với khối lượng lưới phân phối hiện hữu.
Nhà nước chủ trương tiếp tục thực hiện các chương trình đầu tư phát triển điện nông thôn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phấn đấu đến năm 2010 có 95% và năm 2015 có 100% các xã có điện.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển hệ thống lưới điện đến xã đặc biệt khó khăn.
1.3.1. Các xã đặc biệt khó khăn và những đặc điểm.
1.3.1.1. Tiêu chí xác định các thôn, xã đặc biệt khó khăn.
(Thôn được xác định theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNN ngày 06/12/2002 của Bộ Nội Vụ ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố).
Thôn đặc biệt khó khăn là thôn còn tồn tại cả 3 tiêu chí sau:
Tiêu chí 1: Về đời sống và xã hội:
Thôn đó có tỷ lệ hộ nghèo từ 70% trở lên. Và bên cạnh đó, còn tồn tại ít nhất 3 trong 4 chỉ tiêu. Cụ thể là trên 25% số hộ có nhà ở còn tạm bợ, tranh, tre, nứa lá.; trên 10% số hộ còn du canh du cư hoặc định cư du canh; trên 50% số hộ thiếu nước sinh hoạt; hoặc trên 50% số hộ chưa có điện sinh hoạt.
Tiêu chí 2: Về điều kiện sản xuất:
Thôn được xét còn tồn tại ít nhất 2 trong 3 chỉ tiêu. Cụ thể là trên 20% số hộ thiếu đất sản xuất theo mức bình quân quy định của địa phương. Trên 50% diện tích canh tác cây hàng năm của các hộ gia đình trong thôn chưa có hệ thống thuỷ lợi. Tập quán sản xuất còn lạc hậu, chưa có cộng tác viên khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chưa phát triển sản xuất hàng hoá.
Tiêu chí 3: Về điều kiện kết cấu hạ tầng:
Trong thôn, chưa có đường giao thông nông thôn loại B từ thôn đến trung tâm xã.
Và đồng thời, thôn còn tồn tại ít nhất 2/3 chỉ tiêu: Chưa đủ phòng học cho các lớp tiểu học hoặc có nhưng còn tạm bợ. Chưa có hệ thống truyền thanh từ xã đến thôn. Chưa có nhà văn hoá thôn phục vụ sinh hoạt cộng đồng.
1.3.1.2. Tiêu chí phân định khu vực
Các thôn, xã, bản được chia thành 3 khu vực. Khu vực loại III là nghèo nhất, sau đó đến khu vực loại II, và cuối cùng là loại I.
* Các xã khu vực III:
Các xã khu vực III có từ 1/3 số thôn đặc biệt khó khăn trở lên, hoặc có tỷ lệ hộ nghèo từ 55% trở lên. Các xã đó có công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu, thiếu hoặc có nhưng còn tạm bợ từ 6/10 loại công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu trở lên. Xét về các yếu tố xã hội, các xã đó có ít nhất 3 trong 4 yếu tố sau:
+ Chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ Chưa đủ điều kiện khám chữa bệnh thông thường. Trên 50% số thôn chưa có y tế thôn.
+ Trên 50% số hộ chưa được hưởng thụ và tiếp cận với hệ thống thông tin đại chúng.
+ Trên 50% cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở chưa có trình độ từ sơ cấp trở lên.
Bên cạnh đó, điều kiện sản xuất của xã rất khó khăn, tập quán sản xuất lạc hậu, còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, chưa phát triển sản xuất hàng hoá. Địa bàn cư trú thuộc địa bàn Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, điều kiện địa hình chia cắt hoặc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhưng không thuộc địa bàn các thành phố, thị xã, thị trấn, trung tâm huyện lỵ, các khu công nghiệp, các cửa khẩu phát triển.
* Xã thuộc khu vực II:
Các xã thuộc khu vực II không có hoặc có dưới 1/3 số thôn đặc biệt khó khăn. Các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 30% đến dưới 55%.
Kết cấu hạ tầng thiết yếu của xã thiếu hoặc có nhưng còn tạm bợ từ 3/10 loại công trình KCHT thiết yếu trở lên.
Xét về các yếu tố xã hội thì xã có ít nhất 3 trong 4 yếu tố sau:
+ Chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ Từ 10 đến 50% số thôn chưa có y tế thôn nhưng đã cơ bản đảm bảo các điều kiện khám chữa bệnh thông thường.
+ Trên 80% số hộ thường xuyên được hưởng thụ và tiếp cận với hệ thống thông tin đại chúng.
+ Từ 30% cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở chưa có trình độ từ sơ cấp trở lên.
Ngoài ra. Điều kiện sản xuất của xã đã bắt đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, hầu hết đồng bào đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đã có hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đến thôn.
Đây là các xã liền kề hoặc thuộc các thành phố, thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp, các trung tâm huyện lỵ, cửa khẩu phát triển, các xã có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển sản xuất và đời sống.
* Xã thuộc khu vực I là xã:
Đây là các xã không có thôn đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo dưới 30%. Kết cấu hạ tầng đã hình thành và đáp ứng cơ bản các yêu cầu cấp thiết, phục vụ tốt điều kiện sản xuất vào đời sống của đồng bào.
Đánh giá các yếu tố xã hội: Có ít nhất 3 trong 4 yếu tố sau:
+ Đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ 100% số thôn đã có y tế thôn và đảm bảo các điều kiện khám chữa bệnh thông thường.
+ 100% số hộ thường xuyên được hưởng thụ và tiếp cận với hệ thống thông tin đại chúng;
+ Trên 70% cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở có trình độ từ sơ cấp trở lên.
Bên cạnh đó, đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, tiếp cận được với nền kinh tế thị trường. Đây là các xã liền kề hoặc thuộc địa bàn của thành phố, thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp, các trung tâm huyện lỵ, các cửa khẩu phát triển hoặc thuộc địa bàn có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển sản xuất và đời sống.
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển hệ thống lưới điện
1.3.2.1. Những nhân tố khách quan:
a) Điều kiện tự nhiên:
Nguyên nhân cốt yếu và khó khăn nhất là do các xã, thôn bản vùng sâu vùng xa có địa hình phức tạp, hiểm trở, bị chia cắt bởi các dãy núi, rừng rậm, đèo dốc… Địa hình đã vô cùng phức tạp như vậy, thêm vào đó, dân cư trong vùng lại phân bố rộng, nhiều vùng vẫn còn giữ tập tục du canh du cư, không sống tập trung tại một khu vực nào cả. Thêm vào đó là giao thông đi lại rất khó khăn. Để đến được nhà một người dân, có thể phải đi bộ từ hai đến ba ngày đường. Sản lượng điện tiêu thụ thấp. Điều đó dẫn đến muốn đưa điện được đến cho bà con, các công ty điện gặp khó khăn rất lớn trong việc xây dựng các nhà máy điện, các trạm biến áp và hệ thống lưới điện phân phối. Giá chi phí xây dựng công trình rất cao, rất khó khăn để vận chuyển nguyên vật liệu, thời gian thi công lại kéo dài, địa hình đồi núi, sông suối, rừng rú hiểm trở nên gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt và điều kiện thi công các công trình cấp điện, các đơn vị thi công phải san lấp, tạo đường đi để đưa các nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị đến địa điểm thi công. Một số tính toán ch._.o thấy nhiều thôn, bản xa xôi, định mức đầu tư công trình điện lên tới hơn 20 triệu đồng/hộ. Thêm vào đó là rất khó để duy tu bảo dưỡng khi có hỏng hóc hoặc sự cố. Các hộ dân nếu muốn có điện thường tự kéo điện từ các trạm biến áp về để sử dụng, nhưng chất lượng điện kém, tổn thất điện năng lớn, chi phí chi trả cao.
b) Kỹ thuật công nghệ:
Trình độ kỹ thuật công nghệ ở nước ta còn rất yếu kém so với thế giới. Để xây dựng được một kilomet đường dây từ dưới xuôi lên các khu vực vùng núi cao, do trình độ kỹ thuật yếu kém, nên mất nhiều công sức và tiền của hơn rất nhiều.
Khoa học công nghệ luôn luôn chiếm hàng đầu trong việc thúc đẩy quá trình triển khai hệ thống lưới điện, do vậy mà khi công nghệ càng cao thì chất lượng điện được truyền tải càng tốt, đi kèm với nó là dịch vụ điện cũng được tăng cường và sẽ giảm được thời gian điện bị ngắt đột ngột… Ngoài ra quá trình lắp đặt lưới điện mới cũng nhận được sự hỗ trợ tốt nhất, giúp cho các dự án được triển khai nhanh đúng tiến độ, đảm bảo điện cho quá trình phát triển nhanh chóng của đất nước.
Chất lượng điện sản xuất trong nước chưa cao, không ổn định. Tình trạng thất thoát, tổn thất điện trên đường dây rất lớn.
1.3.2.2. Những nhân tố chủ quan
a) Trình độ quản lý
Mặc dù đồng bào dân tộc thiểu số đang rất khát điện, song đề án điện nông thôn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ. Rất nhiều xã được đầu tư chưa hoàn thành phần kiểm định công tơ và đầu tư công trình bằng nguồn vốn nhân dân đóng góp.
Các dự án được nhà nước cấp kinh phí thực hiện nên sinh ra tâm lý ỷ lại, làm quấy quá, chất lượng tư vấn lập dự án và thiết kế kỹ thuật còn thấp, công trình chậm tiến độ. Nhiều nơi còn xảy ra tình trạng bòn rút tiền, vật tư làm giàu túi riêng. Các đơn vị tư vấn, Ban quản lý dự án chưa phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương từ khâu khảo sát lập dự án, thiết kế kỹ thuật và giám sát thi công. Trình độ dân trí của người dân và cán bộ địa phương còn thấp nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng gặp khó khăn, tăng chi phí đầu tư, kéo dài thời gian thi công. Các dự án đều chưa tận dụng triệt để vật tư thiết bị trên lưới điện hiện có, dẫn đến vốn đầu tư cho dự án còn cao.
Công tác quản lý bán điện đến hộ dân thực chất nhiều nơi vẫn là hình thức cai thầu. Điện nông thôn trước khi có Thông tư 05 của Bộ Công Thương phần nhiều do các cai thầu (HTX dịch vụ hoặc tư nhân) đứng ra thầu điện rồi bán lại cho người dân. Để có thể được ký hợp đồng mua bán điện với Ngành điện, nhiều hợp tác xã đã được thành lập. Tuy nhiên họ chỉ có đủ tư cách pháp nhân để cung cấp điện, họ chỉ khai thác lưới điện hiện có còn việc đầu tư để cải tạo, nâng cấp lưới điện thì hoàn toàn không có.
Ngành điện lực Việt Nam hoạt động dưới sự quản lý của tổng tập đoàn điện lưc EVN, dưới sự kiểm soát của bộ công thương và định hướng của chính phủ.Trong quá trình phát triển hệ thống lưới điện ngành dựa trên định hướng của chính phủ thông qua Quy hoạch tổng thể ngành điện, từ đó đầu tư nâng cấp sửa chữa cũng như xây mới các hệ thống đường dây điện đưa điện tới các xã, các khu công nghiệp , khu dân cư trong cả nước.
Việc hạch toán giá điện vẫn chưa có công tư, văn bản nào hướng dẫn, dẫn đến tình trạng cả người nộp tiền điện và người thu tiền điện đều lúng túng. Nhiều cai thầu đã lợi dụng tình trạng đó thực hiện bán giá điện theo giá bậc thang cho người dân. Nhiều HTX chỉ bán điện trực tiếp đến các hộ dân bám trên các đường trục chính của lưới điện, khu vực dân ở xa đường trục điện chính.
b) Trình độ dân trí
Các xã vùng sâu vùng xa đa phần là người dân tộc thiểu số sinh sống.
Tỷ lệ mù chữ của bà con dân tộc thiểu số rất cao. Có nhiều nơi, người dân còn không biết tiếng kinh. Tỷ lệ biết chữ tính theo vùng thì Tây Bắc là vùng có tỷ lệ mù chữ cao nhất. Theo báo cáo của World Bank, thì có một sự chênh lệch nhất định đối với việc đi học của trẻ em của các nhóm dân tộc so với người kinh. Đối với các nhóm dân tộc thiểu số, việc chương trình giáo dục không được dạy bằng tiếng mẹ đẻ, cộng thêm giao thông đi lại khó khăn, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trẻ em dù đã được đi học, nhưng tỷ lệ bỏ học rất lớn.
Người dân vẫn còn giữ nhiều tập quán cổ hủ. Nhiều nơi họ không cho con cái được đến trường. Tục tảo hôn vẫn còn duy trì. Nặng nề nhất là tư tưởng trọng nam kinh nữ. Bên cạnh đó, mặc dù nghề nông là nghề chủ đạo, song cây trồng lại là ngô và lúa địa phương cho năng suất rất thấp.
c) Năng lực tài chính
Đi kèm với trình độ dân trí thấp là cái nghèo dai dẳng đeo bám đồng bào dân tộc thiểu số từ xưa đến nay. Mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước.
Ở nhiều xã hiện nay, hoạt động kinh tế chủ yếu vẫn là làm nương phát rẫy. Nông cụ chủ yếu là rìu, dao quắm, gậy chỉa… Có một số nơi đã sử bắt đầu sử dụng trâu bò lấy sức kéo.
Lúa nương là nguồn lương thực chủ lực. Bên cạnh đó, người dân còn trồng xen các loại hoa màu khác như ngô, khoai, sắn… Cây ăn quả chủ yếu là các loại cây phù hợp với địa hình núi cao, thời tiết lạnh như chuối, mít,...
Rừng là nguồn cung cấp thực phẩm và mang lại nguồn thu nhập quan trọng như khai thác gỗ, trồng rừng, khai thác các nguồn lâm sản như măng, thịt thú rừng…)
Chăn nuôi chủ yếu là lợn, bò, dê…
Sự phát triển kinh tế có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, giữa các nhóm dân tộc, và ngay trong cùng một nhóm dân tộc. Cộng đồng dân cư nào sống gần các đường giao thông hơn ở những vùng thấp thì sẽ có sự phát triển kinh tế cũng như thay đổi phương thức sản xuất, giúp cải thiện điều kiện sống tốt hơn.
1.4. Sự cần thiết phải phát triển hệ thống lưới điện và đưa điện về cho các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung Du và Miền núi phía Bắc
1.4.1. Phát triển lưới điện để thúc đẩy phát triên kinh tế- xã hội, xóa đói giảm nghèo
Tình trạng đói nghèo kéo dài dai dẳng đối với cộng đồng miền núi và vùng biệt lập có mối liên hệ chặt chẽ với sự thiếu phát triển về cơ sở hạ tầng gồm cả tình trạng thiếu điện. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2006 - 2010 của Chính phủ đặc biệt nhấn mạnh tới điều khoản cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng điện đã tăng 15% trong năm 1996 lên 91% năm 2007, trong đó tỷ lệ sử dụng điện ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên lần lượt là 36%, 56%. Mức tiêu thụ đầu người và mật độ dân số thấp trong những vùng xa xôi hẻo lánh làm việc mở rộng lưới điện để cung cấp điện cho các cộng đồng dân cư vô cùng khó khăn, tạo sự không cân đối cuối cùng đối với việc sử dụng điện.
Các dân tộc thiểu số chiếm phần lớn tại các tỉnh Lai Châu: 88% và Điện Biên: 80% (so với dân số trong tỉnh) .Tuy nhiên con số này cao hơn một cách đáng kể đối với những xã vùng sâu, vùng xa trong tỉnh. Sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội nhằm mục đích chung dẫn đến xoá đói giảm nghèo và cải thiện mức sống trong nước đã diễn ra ở nhiều khu vực. Đa số các hộ gia đình sống trong tình trạng đói nghèo triền miên với mức sống rất thấp và thiếu các giải pháp để tạo thu nhập ổn định phát triển bền vững. Trong đó ‘ánh sáng’ điện là một trong những điều kiện tiên quyết, quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại các xã dân tộc thiểu số ở miền núi xa xôi hẻo lánh. Rất nhiều dự án đã tập trung đặc biệt vào việc xoá đói giảm nghèo và chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt tại hai tỉnh Lai Châu, Điện Biên và cũng như 6 tỉnh còn lại là Lạng Sơn, Phú Thọ, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang.
1.4.2. Phát triển lưới điện đảm bảo công bằng xã hội
Công bằng xã hội là mục tiêu cốt lõi của chính sách xã hội, nhằm hướng tới ổn định xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng mọi mặt của đời sống nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Điều kiện xã hội cụ thể của nước ta hiện nay đang mở ra những khả năng cho các cá nhân, các tầng lớp xã hội phát huy năng lực và nguồn lực để vừa mưu cầu lợi ích của mình, vừa tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng dân giàu, nước mạnh, đưa đất nước từng bước tiến tới trình độ hiện đại văn minh.
Tỷ lệ người dân sử dụng điện trong một nước là một trong những chỉ tiêu để đánh giá mức độ phát triển của nước đó. Vậy mà ở nước ta hiện nay, vẫn còn rất nhiều người dân, đặc biệt là bà con dân tộc thiểu số, vẫn chưa có điện.
Đối với bà con người dân tộc thiểu số sống ở những vùng sâu vùng xa, mong ước có điện đã có từ bao năm nay. Do địa hình hiểm trở, cách núi ngăn sông mà cho đến tận bây giờ, khi điện đã vô cùng phổ biến trong đời sống của người kinh, thì bà con dân tộc thiểu số vẫn phải dùng đèn dầu để thắp sáng. Họ chưa từng được nhìn thấy cái ti vi, cái đèn điện. Đây chính là một bất công bằng trong xã hội, và được xếp vào loại bất công tự nhiên. Tính từ "tự nhiên" ở đây bao hàm cả những khả năng, những năng lực khác nhau về mặt tự nhiên (có những nguồn gốc sinh học chẳng hạn) cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử lâu đời để lại và ở đây chính là sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi. Đối với loại bất công này, hướng lâu dài là dựa trên sự phát triển ngày càng cao của xã hội để thu hẹp dần khoảng cách, và trước mắt, cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do những bất công này gây ra, không để trở thành những căng thẳng xã hội và xung đột có hại cho sự phát triển chung
Thiếu điện là rào cản lớn trong việc đưa khoa học công nghệ đến với người dân. Có điện, đời sống văn hoá tinh thần, vật chất của người dân mới được nâng lên, sẽ giúp cho bà con các dân tộc xóa đói, giảm nghèo và làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Để đạt mục tiêu giảm nghèo, điện khí hóa nông thôn là một phần quan trọng trong chương trình của Chính phủ nhằm xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề phát triển không đồng đều và tăng phúc lợi xã hội thông qua nguồn chiếu sáng tin cậy, cải thiện điều kiện sống, sức khỏe và các dịch vụ khác tốt hơn cho vùng nông thôn, đồng thời là điều kiện tối cần thiết để thực hiện chiến lược CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Đưa điện về cho các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn sẽ góp phần giúp người dân tiếp cận được với các khoa học công nghệ tiên tiến hơn. Đời sống của người dân do đó sẽ tốt hơn, giúp giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng. Có thể nói, điện góp phần thực hiện công bằng xã hội.
1.4.3. Phát triển lưới điện giúp đảm bảo trật tự an ninh quốc gia, xã hội
Nội dung của an ninh quốc gia bao gồm hai bộ phận. Phần thứ nhất là về độc lập thống nhất chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Bộ phận thứ hai là an ninh thể chế, là đảm bảo một thể chế chính trị ổn định, một xã hội bình yên. Sự phát triển của khoa học công nghệ tác động đến toàn cầu hóa và toàn cầu hóa tác động trở lại phát triển khoa học công nghệ. Đây là hai nhân tố quan trọng bậc nhất làm cho biên giới trở nên mềm hơn.
Xét về phạm trù vĩ mô, đưa điện về cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa, giúp người dân nâng cao mức sống còn giúp ổn định nền chính trị trong nước, thể hiện đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG LƯỚI ĐIỆN Ở CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
2.1. Tổng quan về các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung Du và miền núi phía Bắc
2.1.1. Tổng quan về các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Vùng trung du miền núi phía Bắc có diện tích rộng lớn (102,9 nghìn km2) chiếm trên 30% diện tích cả nước. Đây là vùng có địa bàn vô cùng quan trọng cả về kinh tế- xã hội cũng như môi trường và an ninh quốc phòng. Vùng miền núi phía Bắc Việt Nam bao gồm 15 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình). Vùng này có vị trí địa lý đặc biệt, giáp với Thượng Lào và Trung Quốc, có thể giao lưu thuận lợi bằng đường sắt và đường ô tô với các tỉnh phía Nam Trung Quốc qua cửa khẩu Lạng Sơn, Lào Cai, và Móng Cái, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu.
Đây là vùng miền núi và trung du bao gồm nhiều dãy núi, khối núi, cao nguyên và đồi. Những đợt gió mùa đông bắc dễ dàng vượt qua các vành đồi núi thấp, nhưng bị chặn lại ở phía Đông Bắc của dãy Hoàng Liên Sơn, do đó ở đây có nền nhiệt độ thấp nhất cả nước.
Xét về khoáng sản, thì đây lại là khu vực có nhiều khoáng sản nhất cả nước. Đây là khu vực có nhiều khoảng rừng nguyên sinh với đa dạng sinh vật học, có nhiều loại gỗ quý và nhiều loài sinh vật quý hiếm nằm trong sách đỏ cần bảo vệ. Vùng cũng có tiềm năng tương đối lớn về thủy điện.
Vùng năm trong đới gió mùa. Mỗi năm có bốn mùa, nhưng rõ rệt nhất là mùa hè và mùa đông. Đây là vùng có sông ngòi chằng chịt. Có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Kỳ Cùng… Địa hình phức tạp, có độ dốc lớn, núi cao, rất ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp và bảo vệ nguồn nước đầu nguồn.
Có thể nói, điều kiện tự nhiên của vùng trung du và miền núi phía Bắc khá khắc nghiệt, tuy nhiên cũng có nhiều ưu đãi. Khí hậu và địa hình đa dạng giúp nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú. Vùng có tiềm năng về đất đai để phát triển các cây công nghiệp, nông sản phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến… Có tài nguyên khoáng sản, nhiều loại đã và đang trở thành thế mạnh của địa phương.
2.1.1.2. Đặc điểm dân tộc
Trong vùng có 43 dân tộc anh em cùng chung sống, dân số trên 11 triệu người, chiếm 28,8% diện tích với dân số chiếm 14,3% tổng dân số cả nước, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 50%.
Dân số giữa các dân tộc không đều nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái… Nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như Pu Péo, Rơ- măm, Brâu… Các dân tộc thiểu số đông dân nhất là Tày, Thái, Mường, Hoa, Nùng, Hmông, Dao, Sán Dìu… Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc. Người Mường sống chủ yếu ở vùng đồi núi phía Tây đồng bằng sông Hồng, tập trung ở Hòa Bình và Thanh Hóa. Người Thái định cư ở bờ phải sông Hồng (Sơn La, Lai Châu). Người Tày sống ở bờ trái sông Hồng (Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên). Các nhóm dân tộc thiểu số khác không có các lãnh thổ riêng biệt, nhiều nhóm sống hòa trộn với nhau.
Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán, ngôn ngữ, văn hóa tinh thần… riêng, tạo ra một nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Theo ngôn ngữ văn hóa, các dân tộc Việt Nam được xếp vào 8 nhóm ngôn ngữ tộc người khác nhau. Các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc có tập quán làm ruộng bậc thang.
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn có đời sống kinh tế chậm phát triển hơn so với nhóm người Kinh và giữa các nhóm dân tộc thiểu số cũng có sự khác biệt trong trình độ phát triển kinh tế. Tỷ lệ nghèo đói cao nhất là vùng Tây Bắc của Việt Nam, tốc độ giảm nghèo của vùng cũng là chậm nhất. Theo số liệu phân bố nghèo đói, bắc Trung Bộ là nơi có nhiều người nghèo nhất. Báo cáo cũng cho rằng vị trí địa lý ảnh hưởng đến sự thay đổi về tình trạng nghèo của các hộ gia đình.
2.1.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội
Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng là toàn diện, nhanh và đáng kể, tuy nhiên so với cả nước thì vùng miền núi và trung du phía Bắc, nhất là vùng Tây Bắc (gồm các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái và phía Tây tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An) còn nghèo so với cả nước.
Khoảng cách nghèo của các dân tộc thiểu số so với nhóm người Kinh và người Hoa cũng đang có xu hướng ngày càng giãn rộng. Nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số khác có tốc độ giảm nghèo chậm hơn so với nhóm người Kinh và người Hoa, ngay cả khi họ sống cùng một địa bàn nhỏ như trong một xã.
Bảng 2.1: Tỷ lệ nghèo chung chia theo vùng tính theo chi tiêu
Vùng
2002
2004
2006
2008
Đồng bằng sông Hồng
22,4%
12,1%
8,8%
6,4%
Đông Bắc
38,4%
29,4%
25,0%
23,3%
Tây Bắc
68,0%
58,6%
49,0%
45,2%
Bắc Trung Bộ
43,9%
31,9%
29,1%
24,6%
Duyên hải Nam Trung Bộ
25,2%
19,0%
12,6%
10,3%
Tây Nguyên
51,8%
33,1%
28,6%
23,1%
Đông Nam Bộ
10,6%
5,4%
5,8%
4,9%
Đồng bằng sông Cửu Long
23,4%
19,5%
10,3%
9,2%
(Nguồn: Khảo sát mức sống hộ gia đình 2008)
Để giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các dân tộc và các vùng, chính phủ Việt Nam đã có hàng loạt chương trình, dự án phát triển chú trọng thúc đẩy sự phát triển của các dân tộc thiểu số cũng như của các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn.
2.1.1.4. Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng
Vùng trung du và miền núi phía Bắc có địa hình chia cắt mạnh, hạ tầng cơ sở yếu kém, giao thông đi lại khó khăn, hệ thống thủy nông còn thấp kém, hạn chế tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các dịch vụ chuyển giao kỹ thuật tiến bộ và khuyến nông.
Cơ sở vật chất kỹ thuật đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên ở vùng núi, cơ sở kỹ thuật vẫn còn nghèo nàn, dễ bị xuống cấp. Hầu hết các khu vực vùng sâu vùng xa đã có đường giao thông liên tỉnh - huyện - xã. Đến nay đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm xã, tạo nên sự giao lưu kinh tế, hàng hóa thuận lợi hơn.
Bên cạnh đó, mặc dù có địa hình khó khăn, hiểm trở, nhưng hiện nay lưới điện quốc gia đã cung cấp điện đếu hầu khắp các xã. Có khoảng 64% số hộ vùng sâu vùng xa đã có điện sử dụng, nhờ đó năng suất lao động được tăng lên và nhiều ngành nghề thủ công nghiệp ở miền núi phát triển.
Mạng lưới cơ sở vật chất cho giáo dục và y tế có nhiều bước tiến so với các năm trước, tuy nhiên tỷ lệ các cơ sở đó vẫn còn thấp so với mức chung của cả nước. Trên 5000 trường học đã được xây dựng và đưa vào sử dụng.
2.1.2. Các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Bảng 2.2: Danh mục địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn
(Ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/ 9/ 2006 của CP)
STT
Tỉnh
Địa bàn có các xã đặc biệt khó khăn
1
Bắc Kạn
Toàn bộ các huyện và thị xã
2
Cao Bằng
Toàn bộ các huyện và thị xã
3
Hà Giang
Toàn bộ các huyện và thị xã
4
Lai Châu
Toàn bộ các huyện và thị xã
5
Sơn La
Toàn bộ các huyện và thị xã
6
Điện Biên
Toàn bộ các huyện và thành phố Điện Biên
7
Lào Cai
Toàn bộ các huyện
8
Tuyên Quang
Các huyện Na Hang, Chiêm Hóa
9
Bắc Giang
Huyện Sơn Động
10
Hoà Bình
Các huyện Đà Bắc, Mai Châu
11
Lạng Sơn
Huyện Bình Gia, Đình Lập, Cao Lộc, Lộc Bình, Tràng Định, Văn Lãng, Văn Quan
12
Phú Thọ
Các huyện Thanh Sơn, Yên Lập
13
Thái Nguyên
Các huyện Võ Nhai, Định Hóa
14
Yên Bái
Các huyện Lục Yên, Mù Căng Chải, Trạm Tấu
(Nguồn: Trang web của Ủy Ban dân tộc)
2.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên:
Các xã đặc biệt khó khăn đều nằm rải rác tại các khu vực phía Tây Bắc với núi non hiểm trở và vùng Đông Bắc với các núi thấp và đồi, các dãy núi hình cánh cung. Đây là những vùng giàu tài nguyên để phát triển nông nghiệp (trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi gia súc lớn), công nghiệp (tài nguyên năng lượng, kim loại và không kim loại), du lịch, kinh tế biển và phần nào là lâm nghiệp (vì tài nguyên rừng đã bị suy thoái nhiều).
Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện địa hình vùng núi. Vùng núi và trung du Đông Bắc địa hình tuy không cao, nhưng lại là nơi chịu ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa đông bắc, là khu vực có mùa đông lạnh nhất nước ta. Vùng núi Tây Bắc tuy chịu ảnh hưởng yếu hơn của gió lạnh mùa đông, nhưng do nền địa hình cao nên mùa đông cũng vẫn lạnh.
2.1.2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
Các xã đặc biệt khó khăn vùng sâu vùng xa có dân cư sinh sống đa phần là bà con dân tộc thiểu số. Dân tộc thiểu số là nhóm người có thu nhập thấp và bị hạn chế nhận được các quyền lợi từ sự phát triển của xã hội, do vậy, họ rất dễ bị tổn thương khi có sự tác động từ bên ngoài. Có khoảng 75% người dân tộc thiểu số sống ở vùng núi phía Bắc và một phần ở Tây Nguyên. Số còn lại sinh sống tại các tỉnh miền Nam và các đô thị.
Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Mông…). Các xã nằm trong phạm vi nghiên cứu có dân số chủ yếu là người dân tộc thiểu số. Họ sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất. Mỗi dân tộc thiểu số có một nền văn hóa riêng biệt. Nơi đây có Việt Bắc, cái nôi của cách mạng, có Điện Biên Phủ lịch sử. Do vậy, việc phát huy các thế mạnh của vùng không chỉ có ý nghĩa kinh tế lớn, mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Sự phân bố của các nhóm dân tộc tùy thuộc vào phương thức sản xuất cũng như phong tục tập quán của họ. Người H’mông thường sống tại các khu vực cao nhất so với mực nước biển, thường khoảng 1.000m trở lên. Nhóm dân tộc Dao là nhóm có địa bàn dân định cư cao thứ hai sau người H’mông và người Mường là nhóm dân tộc sống thất nhất. Một vài nhóm dân tộc sống cách biệt như người Dao, người Mông, còn lại hầu hết đã có sự cư trú đan xen giữa các dân tộc, và do đó trải qua quá trình sinh sống cộng cư, các nhóm dân tộc đều đã có ít nhiều sự ảnh hưởng văn hóa của nhau.
Một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc phát triển hệ thống lưới điện đến khu vực vùng sâu vùng xa là do mức sống của dân cư quá thấp.
2.1.2.3. Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng
Các xã đặc biệt khó khăn đều có kết cấu hạ tầng giao thông vận tải chưa phát triển có địa hình chia cắt mạnh, hạ tầng cơ sở còn yếu, giao thông đi lại khó khăn. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng đói nghèo dai dẳng ở các xã này là do địa bàn cách biệt. Nhiều nơi, để đi từ một nhà dân đến trung tâm xã, phải đi bộ mất mấy ngày đường. Nhiều nơi, đường xá đi lại vô cùng khó khăn.
Đi kèm với việc đường xá đi lại khó khăn là các cơ sở trường học, trạm y tế đều vô cùng hiếm hoi. Chỉ có một vài nơi có trường tiểu học, rất hiếm có trường cấp hai, còn trường cấp ba hoàn toàn không có. Các trạm y tế xã nếu có thì cơ sở cũng vô cùng xập xệ. Lượng thuốc men, bác sỹ, y sỹ có trình độ cũng vô cùng thiếu thốn.
Nơi nào cơ sở hạ tầng yếu kém thì nơi đó tỷ lệ đói nghèo cao. Cơ sở hạ tầng giữ vai trò đặc biệt trong đời sống xã hội của bà con nơi đây. Nó không chỉ góp phần vào việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội; tác động mạnh tới đói nghèo.
2.1.2.4. Đặc điểm chính trị của các tỉnh biên giới
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn được gọi là biên giới phía Bắc ở Việt Nam. Những tỉnh trên còn được gọi là các tỉnh biên giới phía Bắc. Các địa phương của Trung Quốc tiếp giáp với đường biên giới này là tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.
Các xã biên giới là:
- Mường Nhé - Điện Biên (giáp với Vân Nam)
- Mường Tè, Sìn Hồ, Phong Thổ - Lai Châu (giáp Vân Nam)
- Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương, Si Ma Cai, thành phố Lào Cai - Lào Cai (giáp Vân Nam)
- Xín Mần, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc - Hà Giang (từ Tây sang Đông: Vân Nam, Quảng Tây)
- Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Lang - Cao Bằng (giáp Quảng Tây)
- Cao Lộc, Lộc Bình, Tràng Định, Văn Lãng - Lạng Sơn (giáp Quảng Tây)
- Bình Liêu, Hải Hà, Móng Cái - Quảng Ninh (giáp Quảng Tây)
Quy hoạch phát triển hệ thống lưới điện để đưa điện cho các xã biên giới là một chiến lược quan trọng, góp phần phát triển toàn diện kinh tế - xã hội các tỉnh, giúp củng cố vững chắc hơn đường biên lãnh thổ Việt Nam.
Các tỉnh biên giới có một vị trí chiến lược rất quan trọng đối với khu vực và cũng như cả nước. Đây là một khu vực rất nhạy cảm và luôn cần sự quan tâm của Đảng và nhà nước. Các tỉnh biên giới có vai trò quan trọng của quốc gia: xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng và củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Dọc tuyến biên giới hiện nay, hệ thống đồn trạm biên phòng có hơn 70 đồn với gần 200 trạm/tổ công tác, đơn vị cơ động. Trên địa bàn các xã biên giới có tiềm năng tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại, quy mô trữ lượng và tài nguyên dự báo, nhiều chủng loại động vật, thực vật phong phú, đa dạng với nhiều loại nông lâm sản quý. Nhưng do xa các trung tâm, địa hình phần lớn là núi cao, giao thông chưa thuận tiện, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu. Nhân dân trong vùng phần lớn lại là đồng bào dân tộc ít người, trình độ văn hóa thấp, lao động có kỹ năng hầu như không có, quen với cuộc sống tự cấp tự túc, tồn tại tập quán du canh du cư.
Nhằm đưa vùng biên giới vượt ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, Đảng và Nhà nước đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, về phát triển kinh tế- xã hội tuyến biên giới Việt Trung là thực hiện xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc, hoàn thành cơ bản việc đưa dân trở lại biên giới theo quy hoạch và kế hoạch đã đề ra.
2.2. Thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung Du và Miền núi phía Bắc
2.2.1. Đánh giá về hiện trạng nguồn và lưới điện, thực trạng sử dụng điện của các xã đặc biệt khó khăn
Chỉ còn chưa đầy 200 xã thuộc khu vực các tỉnh miền núi phía bắc phải dùng nguồn năng lượng khác do chưa có điện lưới quốc gia. Song, việc xoá vùng trắng điện lại không dễ dàng, do suất đầu tư lớn và một loạt khó khăn trong quản lý.
Theo thống kê đến giữa năm 2009, trên địa bàn cấp điện 24 tỉnh phía bắc do Cty điện lực I (PCI) quản lý hiện vẫn còn 2 huyện, 199 xã với gần 390 nghìn hộ dân chưa được dùng điện lưới quốc gia. Hầu hết trong số này đều nằm trong các khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc ít người với địa hình và điều kiện đi lại gian khổ. Chính bởi những khó khăn này mà việc kéo lưới điện quốc gia về các khu vực trên gặp hàng loạt khó khăn về đầu tư, quản lý sau vận hàn
Do mỗi một tỉnh lại có nhiều huyện, mỗi huyện lại có nhiều xã đặc biệt khó khăn. Vì vậy, để đánh giá được thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã đặc biệt khó khăn, trong phần này, tôi xin được đánh giá thực trạng hệ thống lưới điện phân phối của các tỉnh, và sau đó, đánh giá xem thực tế, các xã đặc biệt khó khăn đã được tiêu thụ điện hay chưa.
2.2.1.1. Hệ thống lưới điện truyền tải
Ngành điện Việt Nam đã có những cố gắng rất lớn để mở rộng hệ thống lưới điện nhằm đáp ứng nhu cầu đang tăng rất nhanh của nước ta. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã hoàn thành đường dây 500kV Bắc Nam mạch hai để tăng cường năng lực truyền tải. Nếu tính cả đường dây 500kV để truyền tải điện từ các tổ hợp nguồn điện lớn mới xây dựng và các mạch đường dây cao thế khép kín xung quanh Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì tổng chiều dài đường dây 500kV là 3.533 km.
Tổng công suất đặt nguồn toàn hệ thống điện cả nước là 15.763 MW, trong đó, các nguồn điện thuộc EVN chiếm 68%, còn lại là các nguồn ngoài EVN. Tháng 8/2009 EVN đã sản xuất và mua từ các nhà máy bên ngoài ước đạt 7,804 tỷ kWh, tăng 18,03% so với tháng 8/2008. Theo tin từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), sản lượng điện thương phẩm tháng 8/2009 trên toàn hệ thống ước thực hiện 6,776 tỷ kWh, tăng 15,38% so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 8 tháng đầu năm 2009, điện thương phẩm ước thực hiện 47,948 tỷ kWh, tăng 9,95% so với cùng kỳ năm trước - trong đó điện cấp cho sản xuất tăng 6,75% so với cùng kỳ (chiếm tỷ trọng 49,05%); điện cấp cho quản lý và tiêu dùng dân cư tăng 12,72% so với cùng kỳ (chiếm tỷ trọng 41,07%).
Trong tháng 8/2009 EVN đã sản xuất và mua từ các nhà máy bên ngoài ước đạt 7,804 tỷ kWh, tăng 18,03% so với tháng 8/2008.
2.2.1.2. Hệ thống lưới điện phân phối
Trong những năm qua, vấn đề cung cấp điện cho nông thôn nói chung, đặc biệt là cung cấp điện cho vùng cao, vùng sâu, vùng xa luôn được Đảng và Chính phủ quan tâm. Theo thống kê của ngành điện lực đến thời điểm này cả nước đã có 100 % số huyện có điện lưới quốc gia , có tới trên 94% số hộ dân ở nông thôn và miền núi đã được sử dụng điện. Đem ánh sáng điện đến với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, nơi chỉ có trập trùng núi non, đèo dốc là một công việc khó khăn, ghập ghềnh vất vả.. Nằm trong các khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc ít người với địa hình và điều kiện đi lại gian khổ, chính vì lẽ đó mà việc kéo lưới điện quốc gia về các khu vực trên gặp hàng loạt khó khăn về đầu tư, quản lý, vận hành.
Trong những năm qua ngành điện bán điện trực tiếp khoảng 5.490 xã. Đã có 25 tỉnh, thành phố ngành điện đã tiếp nhận và bán điện trực tiếp đến hộ từ 98% đến 100%. Còn hơn 3.200 xã chưa hoàn thành việc bàn giao lưới điện hạ áp nông thôn cho ngành điện. Tổng công ty điện lực Việt Nam phấn đấu đến giữa năm 2010 sẽ cơ bản hoàn thành.
Ở khu vực phía Bắc, các địa phương thuộc Công ty Điện lực 1 quản lý có 4.432 xã với 5 triệu hộ sử dụng điện. Do địa bàn quản lý có nhiều tỉnh vùng sâu, vùng xa, nên tỉ lệ hộ dân có điện thuộc địa bàn Công ty điện lực 1 thấp. Đến giữa năm 2009, trên địa bàn cấp điện 24 tỉnh phía bắc do Cty điện lực I quản lý hiện vẫn còn 2 huyện, 199 xã với gần 390 nghìn hộ dân lưới điện lưới quốc gia chưa kéo đến.. Ngoài khó khăn trong thi công, địa hình miền núi hiểm trở cũng khiến suất đầu tư cho lưới điện nông thôn ở những khu vực trên tăng cao, làm ảnh hưởng rất nhiều đến mục tiêu đưa điện lưới đến người dân. Song, nếu mục tiêu đưa điện đến 100% xã ngày càng hiện thực hoá, 100% điện đến thôn bản - đó là bài toán khó cần sự đong đếm giữa hiệu quả kinh tế và ý nghĩa xã hội.
a) Nguồn điện
Nguồn cung cấp điện cho khu vực nông thôn các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc hiện nay là hệ thống các trạm biến áp phân phối: 35/0,4kV; 22/0,4kV… và hệ thống lưới điện trung áp do Tổng Công ty Điện lực Miền Bắc đầu tư, tiếp nhận, quản lý trong những năm qua. Tuy nhiên tỷ lệ nguồn điện đến với các xã đặc biệt khó khăn rất thấp.
Đặc điểm chung của hệ thống trung áp cung cấp điện nông thôn hiện nay là đã được xây dựng dải khắp trên địa bàn các xã, được xây dựng bổ sung hàng năm thông qua chương trình chống quá tải nên hầu như đã đáp ứng được nhu cầu công suất tiêu thụ điện của khu vực nông thôn. Tuy nhiên để đưa điện được đến các xã vùng sâu vùng xa rất khó khăn do điều kiện tự nhiên và yếu tố dân cư.
Thực trạng nguồn điện của các xã đặc biệt khó khăn của một số tỉnh như sau:
- Tỉnh Lai Châu: Trên địa bàn tỉnh Lai Châu hiện tại chỉ có duy nhất một trạm 110/35/22kV Phong Thổ - 16 MVA cấp điện cho toàn tỉnh. Trạm được cấp điện từ hệ thống lưới điện miền Bắc tuyến đường dây 110kV – AC 185: Lào Cai- Phong Thổ dài 70 km. Tuy nhiên nguồn điện này chỉ có thể cung cấp điện đến được thị xã Lai Châu, còn các xã vùng sâu vùng xa, tỷ lệ đưa được điện đến còn rất thấp.
Bảng 2.2. Thống kê số hộ dân sử dụng điện tại tỉnh Lai Châu (tháng 12/2008)
STT
Đơn vị ._..
- Sử dụng các nguồn năng lượng mới và tái tạo để cấp điện cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Xây dựng cơ chế quản lý để duy trì và phát triển các nguồn điện ở những khu vực này.
- Khuyến khích đa dạng hoá trong đầu tư và quản lý lưới điện nông thôn.
- Tăng cường kiểm soát giá điện nông thôn để đảm bảo thực hiện theo đúng giá trần do Chính phủ quy định.
* Chiến lược tài chính và huy động vốn:
- Có các cơ chế tài chính thích hợp để Tổng công ty Điện lực Việt Nam đảm bảo được vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành điện Việt Nam.
- Tiếp tục triển khai một số công trình đầu tư theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), liên doanh hoặc BOO để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, đồng thời tăng khả năng trả nợ cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam.
- Xây dựng các biện pháp huy động vốn trong xã hội dân để đầu tư phát triển điện.
- Tăng cường quan hệ với các ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế để vay vốn đầu tư, ưu tiên vay các nguồn vốn ODA có lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài (ODA chỉ giao cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam); sau đó đến các ngân hàng thương mại với phương châm khi các ngân hàng trong nước không đáp ứng được thì vay các ngân hàng thương mại nước ngoài.
- Nghiên cứu tham gia thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu trong và ngoài nước để đầu tư các công trình điện.
- Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách giá điện đã được duyệt theo hướng vừa tiến dần đến chi phí biên dài hạn vừa cải cách biểu giá điện, giảm bù chéo quá lớn giữa các nhóm khách hàng.
* Phát triển thị trường điện:
Từng bước hình thành thị trường điện trong nước, trong đó Nhà nước giữ độc quyền ở khâu truyền tải và chi phối trong khâu sản xuất và phân phối điện. Trước mắt, hình thành thị trường mua bán điện trong nội bộ Tổng công ty Điện lực Việt Nam. Nghiên cứu xây dựng đầy đủ các khuôn khổ pháp lý, các điều kiện để sớm hình thành thị trường điện độc lập.
3.2.2. Định hướng phát triển mạng lưới điện trên địa bàn của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc giai đoạn 2010- 2015.
- Cải tạo và xây dựng thêm hệ thống điện tới các xã phục vụ ngưòi dân , tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
- Thu hút dân cư , giải quyết tận gốc tình trạng di canh di cư, tăng cưòng đầu tư phát triển sản xuất dịch vụ.
- Đảm bảo chính trị , nâng cao lòng tin của người dân vào Đảng chính phủ
Xây dựng đường lối chính sách rõ ràng về định hướng phát triển hệ thống lưới điện:
Về dự báo phụ tải:
Đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP khoảng 8,5% - 9%/năm giai đoạn 2006 - 2010 và cao hơn, dự báo nhu cầu điện nước ta tăng ở mức 17% năm (phương án cơ sở), 20% năm (phương án cao) trong giai đoạn 2006 - 2015, trong đó xác định phương án cao là phương án điều hành, chuẩn bị phương án 22% năm cho trường hợp tăng trưởng đột biến.
- Về phát triển nguồn điện:
+ Phát triển nguồn điện phải đáp ứng nhu cầu phụ tải nêu trên. Đảm bảo thực hiện tiến độ xây dựng các nhà máy thủy điện có các lợi ích tổng hợp như: chống lũ, cấp nước, sản xuất điện; phát triển hợp lý có hiệu quả các nguồn nhiệt điện khí; đẩy mạnh xây dựng nhiệt điện than; phát triển thủy điện nhỏ, năng lượng mới và tái tạo cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; chủ động trao đổi điện năng có hiệu quả với các nước trong khu vực; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững.
+ Phát triển phù hợp các trung tâm điện lực ở các khu vực trong cả nước nhằm đảm bảo tin cậy cung cấp điện tại chỗ và giảm tổn thất kỹ thuật trên hệ thống điện quốc gia cũng như đảm bảo tính kinh tế của các dự án, góp phần phát triển kinh tế - xã hội cho từng vùng và cả nước.
+ Phát triển nguồn điện mới phải tính toán với các phương án đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ các nhà máy đang vận hành; đáp ứng tiêu chuẩn môi trường; sử dụng công nghệ hiện đại đối với các nhà máy điện mới.
+ Phát triển các nguồn điện theo các hình thức đã được nhà nước quy định, Bộ Công nghiệp xác định tỷ lệ hợp lý các dự án áp dụng hình thức đầu tư BOT, BOO.
- Về phát triển lưới điện:
+ Phát triển lưới điện truyền tải và phân phối một cách đồng bộ với chương trình phát triển nguồn điện. Thực hiện việc hiện đại hóa và từng bước ngầm hóa lưới điện các thành phố, thị xã hạn chế tác động xấu đến cảnh quan, môi trường. Áp dụng các biện pháp giảm tổn thất điện năng theo quy định.
- Về điện nông thôn, miền núi, hải đảo:
Tiếp tục thực hiện các chương trình đầu tư phát triển điện nông thôn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phấn đấu đến năm 2010 có 95% và năm 2015 có 100% các xã có điện.
3.3. Giải pháp để đưa điện về cho các xã đặc biệt khó khăn vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Theo Dự thảo Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, tỷ trọng công suất sử dụng nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo đến năm 2010 sẽ đạt khoảng 5%.
3.3.1. Giải pháp về cơ chế tài chính
Tăng nguồn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và tăng cường công tác thu hút vốn đầu tư khác từ các tổ chức phi chính phủ cho các dự án năng lượng nông thôn, miền núi, hải đảo, để góp phần phát triển kinh tế và xóa đói, giảm nghèo cho khu vực vùng 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Xem xét thành lập quỹ phát triển năng lượng để hỗ trợ đầu tư cho phát triển các nguồn năng lượng điện mới.
Ưu tiên bố trí nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển, nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay song phương khác của nước ngoài cho các dự án phát triển nguồn năng lượng mới tái tạo theo tiềm năng thế mạnh trên địa bàn các tỉnh trong vùng.
Việc huy động vốn cho các dịch vụ cấp điện ở các khu vực vùng sâu, vùng xa chưa có điện là vấn đề đặc biệt khó khăn do chi phí cao và kết quả thu hồi vốn thấp. Hiện Việt Nam đang được ADB, WB,… hỗ trợ vốn cho các dự án phát triển hệ thống lưới điện và mở rộng chương trình điện khí hóa cho nông thôn nhằm mở rộng phạm vi cấp điện trên khắp đất nước, đặc biệt là ở các tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu vùng xa với nhiều ưu đãi như: thời gian vay dài hạn, lãi suất thấp, hỗ trợ không hoàn lại…
3.2.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực khoa học chuyên ngành, có trình độ chuyên môn cao là một trong những nhân tố có tính quyết định cho sự phát triển khoa học công nghệ, do đó tại các nước trên toàn thế giới, việc đào tạo nguồn nhân lực khoa học chuyên sâu, trình độ cao đã được đặc biệt coi trọng. Tại Việt Nam nói chung chưa có cơ sở đào tạo nguồn nhân lực về lĩnh vực năng lượng.
Khuyến khích và hỗ trợ các trường kỹ thuật phát triển giáo trình và giảng dạy các môn khoa học liên quan đến năng lượng mới và tái tạo, để nghiên cứu xây dựng, phát triển các nguồn năng lượng mới thân thiện với môi trường, giúp giảm áp lực điện áp cho lưới điện quốc gia.
Tại các tỉnh biên giới phía Bắc, để triển khai hiện quả quy hoạch phát triển các nguồn năng lượng điện để đưa điện về cho các xã vùng sâu vùng xa, cần sớm tổ chức các đội ngũ cán bộ quản lý và triển khai dự án để họ trở thành các hạt nhân đưa điện đến các địa phương trên cả hai phương diện tài sản vật chất và kiến thức.
3.3.3. Các giải pháp nâng cao năng lực tổ chức, quản lý khai thác và sử dụng nguồn năng lượng điện.
Để khai thác sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng điện, cũng như các nguồn năng lượng khác, cần phải có bước cơ bản để đánh giá tiềm năng lý thuyết, tiềm năng kinh tế kỹ thuật phù hợp với trình độ kỹ thuật hiện đại và từ đó xác định được khả năng khai thác thực tế của nguồn năng lượng điện.
Trên cơ sở điều tra cơ bản đấy, nhà nước đưa ra các lộ trình, chiến lược phát triển, quy hoạch và kế hoạch chi tiết khai thác, sử dụng nguồn năng lượng hiệu quả, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.
3.3.4. Đầu tư xây dựng hệ thống nguồn điện.
Đầu tư phát triển lưới điện không chỉ cần nguồn vốn lớn mà còn phải chấp nhận cho vay dài hạn. Với mục tiêu phấn đấu 100% hộ dân có điện, hiện nay, tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) đang tập trung thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến 2025. Có thể nói đây là quy hoạch có quy mô lớn nhất từ trước đến nay. Xét riêng số vốn đầu tư trong giai đoạn đầu 2006-2010 đã lên tới 206.680 tỷ đổng để xây dựng các công trình điện.
Với số vốn này, EVN đã và đang xây dựng 29 dự án nguồn với tổng công suất 11.820 MW. Chỉ tính từ năm 2006-2009, đã có gần 5.000 MW công suất được bổ sung vào hệ thống điện quốc gia. Dự kiến trong năm 2010, EVN sẽ đưa vào vận hành tiếp 2.130 MW công suất của 7 dự án nguồn do tập đoàn đầu tư và chiếm cổ phần chi phối.
Tuy nhiên đây chỉ là một giải pháp mang tính tạm thời. Do điều kiện tự nhiên xa xôi hẻo lánh, để đưa được điện đến cho bà con dân tộc, số tiền phải đầu tư trên không khác gì muối bỏ bể. Do đó, ta cần thực hiện các giải pháp khác song song với việc cấp vốn đầu tư, xây dựng.
3.3.5. Phát triển nguồn phát điện phân tán
3.3.5.1. Phát triển hệ thống thủy điện nhỏ
Các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và 6 tỉnh đặc biệt khó khăn trong vùng nói riêng là khu vực có nhiều tiềm năng, đồng thời có vị trí xung yếu về an ninh - quốc phòng. Việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quan trọng này luôn là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Là nguồn năng lượng rẻ, có giá trị kinh tế- xã hội cao có thể đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn, miền núi, thủy điện nhỏ ở Việt Nam cần được nhìn nhận, quan tâm đúng mức để phát huy hết tiềm năng.
Những năm gần đây, lưới điện quốc gia đã được đưa về tới hầu khắp các vùng thôn, miền núi nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bản làng xa xôi chưa thể xây dựng được lưới điện do địa hình phức tạp, dân cư không tập trung. Để có điện, bà con các dân tộc đã tận dụng nguồn nước tại các sông suối để lắp đặt máy thủy điện cực nhỏ. Việc cấp điện cũng như cấp nước sinh hoạt ở miền núi cần được giải quyết theo hướng triệt để kết hợp với công trình thuỷ lợi để lắp đặt thiết bị.
Đối với vùng sâu, vùng xa điện lưới quốc gia khó vươn tới được, vì vậy việc tận dụng nguồn thủy năng sẵn có làm thuỷ điện nhỏ là một hướng quan trọng để nâng cao đời sống dân cư ở các bản làng.
Với lợi thế nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mật độ sông suối dày đặc, phân bố tương đối đồng đều lại bị phân cách mạnh tạo độ dốc lớn nên Việt Nam được đánh giá có tiềm năng lớn về thủy điện vừa và nhỏ. Nguồn tiềm năng này khi được kai thác không chỉ tạo thu nhập cho người dân, giải quyết nhu cầu năng lượng ở quy mô nhỏ mà còn góp phần bổ sung nguồn năng lượng thiếu hụt cho Nhà nước.
Bên cạnh việc tiếp tục triển khai xây dựng các nhà máy thủy điện có công suất lớn, do Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam làm chủ đầu tư như nhà máy thủy điện Sơn La, nhà máy thủy điện tại Bản Vẽ, Ðại Ninh,... nhiều doanh nghiệp trong và ngoài ngành điện cũng mạnh dạn đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện công suất vừa và nhỏ. Theo thống kê mới đây nhất, hiện tại, thủy điện nhỏ và vừa chiếm khoảng 40% tổng công suất của hệ thống. Trên cả nước đã có khoảng 800 dự án thủy điện vừa và nhỏ được quy hoạch, trong số đó có trên 200 nhà máy đã và đang triển khai.Viện nghiên cứu khoa học thủy lợi đã nghiên cứu chế tạo trong nước nhiều loại thiết bị thủy luân, thuỷ điện nhỏ có kết hợp chạy các máy xay xát nông sản, và hiện đang tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng thiết bị (như hiệu suất, độ bền) và giảm giá thành sản phẩm để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về các dạng thiết bị này của các địa phương miền núi.
Đa số các chủ dự án thủy điện vừa và nhỏ mới chỉ lo được 10 - 20% vốn từ nguồn tự có, còn lại đều phải trông cả vào nguồn vốn vay ngân hàng (số dự án có phần vốn tự có khoảng 50% là rất hiếm, thường chỉ là ở các dự án cực nhỏ). Dù khi chuẩn bị xây dựng dự án, chủ đầu tư đã có thỏa thuận về vay vốn với ngân hàng, nhưng đến khi triển khai lại thường bị "tắc" do ngân hàng không đáp ứng được mức vay của chủ đầu tư.
Khác xa với tiềm năng thực có và công suất khai thác như mong đợi, trên thực tê Việt Nam mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ nguồn tài nguyên năng lượng này phục vụ cho người dân miền núi. Tổng công suất của các trạm đang còn hoạt động chỉ vào khoảng 3% tiềm năng và chỉ đạt khoảng 50 đến 70% công suất thiết kế.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này được giới nghiên cứu đánh giá chủ yếu là do việc khai thác thủy điện nhỏ còn chưa bền vững, chất lượng công trình và thiết bị còn kém dẫn đến tỉ lệ hư hỏng và ngừng hoạt động cao như con số nêu trên, nhất là ở các trạm có công suất dưới 100 KW. Tình trạng thường xuyên thiếu nước trong mùa khô cũng là khó khăn ảnh hưởng lớn đến công suất của các trạm thủy điện nhỏ. Vấn đề cấp bách cần làm nhất lúc này là phải xây dựng được mô hình quản lý thích hợp, phát huy được đầy đủ trách nhiệm đóng góp nguồn lực của cộng đồng người hưởng lợi để duy trì sự hoạt động bền vững của công trình.Trong điều kiện thiếu nguồn điện như hiện nay thì tổng công suất từ thủy điện vừa và nhỏ cung cấp cho hệ thống điện quốc gia hoặc từng khu vực là sự đóng góp đáng kể. Bên cạnh đó, việc đầu tư xây dựng thủy điện vừa và nhỏ mang lại hiệu quả kinh tế lớn (chủ đầu tư thu hồi được vốn và lãi suất vốn vay sau 7 - 10 năm công trình được đưa vào khai thác).
Để sử dụng các thiết bị thủy điện cực nhỏ vào mục đích cấp điện của sinh hoạt cần phải có nguồn nước, có độ chênh lệch cột nước và lưu lượng cần thiết. Do đặc điểm của sông suối miền núi là có mức dao động mực nước lớn giữa mùa lũ và mùa kiệt nên thiết bị bơm nước phải đáp ứng được yêu cầu đó. Giải pháp bơm sử dụng năng lượng truyền thống, do chi phí vận hành cao nên chỉ được sử dụng cho vùng có cột nước bơm thấp hoặc cho cây trồng có giá trị kinh tế cao. Giải pháp sử dụng năng lượng nước như dốc nước, thác nước, đập dâng để xây dựng, lắp đặt các loại bơm như bơm va, bơm thuỷ luân là phù hợp, vì công nghệ này chưa được sử dụng rộng rãi nên còn nhiều địa điểm có thể tận dụng được.
Bên cạnh đó, công nghệ này có thể đưa nước lên cao (10-100m) tạo nguồn nước để cấp nước cho vùng đất dốc, cho cây ăn quả, cây công nghiệp, cho nuôi cá, có thể dẫn nước đi xa để cấp nước sinh hoạt. Quy mô công trình vừa và nhỏ, phù hợp với quy mô hộ gia đình ở miền núi, chi phí thấp (dưới 1 triệu đồng cho 1 trạm), người dân có thể tự đầu tư, xây dựng, quản lý vận hành, góp phần xã hội hoá công tác thủy lợi .
Viện Khoa học Thủy lợi đã tập trung nghiên cứu, áp dụng các thành tựu mới về thuỷ điện nhỏ của thế giới và bước đầu đã chế tạo được những thiết bị chính cho thuỷ điện nhỏ với quy mô công suất 5-200 kW, phục vụ cho quy mô thôn, bản đến quy mô xã miền núi.
3.3.5.2. Mô hình máy phát điện chạy bằng khí biogas
Một mô hình khác có thể nhân rộng là mô hình máy phát điện chạy bằng biogas. Chỉ với khoảng 20 con lợn, hộ gia đình đã có thể lắp đặt một chiếc máy phát điện chạy bằng khí sinh học (biogas) có công suất 1kw để sử dụng thắp sáng, bơm nước tắm rửa. Việc lắp đặt xây dựng hầm biogas và máy phát điện chạy bằng biogas chi phí không nhiều mà lợi ích lại rất lớn. Tuỳ theo quy mô chăn nuôi, các gia đình hoặc các chủ trang trại có thể lựa chọn các loại máy có công suất khác nhau. Khí biogas từ các hầm ủ được dẫn vào các túi nhựa để trữ biogas. Khi vận hành chỉ cần mở van dẫn khí vào máy, khởi động máy. Khi thấy điện áp ổn định thì đóng tải các thiết bị sử dụng điện như: tivi, quạt, máy bơm nước... Như vậy toàn bộ lượng phân thải ra sẽ được tận dụng tối đa, không chỉ để đun nấu mà còn tạo được điện năng. Đồng thời, phân gia súc không bị thải ra cống rãnh nên tránh được nguy cơ ô nhiễm môi trường, tránh luôn mầm bệnh cho gia súc. Điều đặc biệt là khi sử dụng loại thiết bị này, các hộ gia có thể chủ động được nguồn điện, nhất là những nơi điện áp yếu. Ngay cả khi hết gas thì vẫn có thể thay thế bằng gas công nghiệp nhưng giá thành giảm hơn so với chạy bằng xăng khoảng 30%.
3.3.5.3. Nguồn điện từ năng lượng mặt trời.
Ngành công nghiệp năng lượng Mặt trời đang ngày càng bùng nổ và có thể cung cấp 2,5% nhu cầu điện của thế giới vào năm 2025 thay cho nguồn nhiên liệu hoá thạch, báo cáo được công bố hôm qua của Tổ chức Hòa bình xanh và Hiệp hội công nghiệp sản xuất điện từ ánh sáng Mặt trời châu Âu (EPIA).
Trong các nguồn năng lượng tái tạo gồm: năng lượng mặt trời, gió, thủy điện thì thủy điện (chiếm khoảng 40% tổng sản lượng điện toàn quốc) gần như bị khai thác triệt để và có những hạn chế nhất định về sinh thái, môi trường. Còn gió (phong điện) thì chỉ thích hợp phát triển ở vùng bờ biển, đảo. Riêng nguồn năng lượng từ mặt trời có thể khai thác được ở nhiều nơi, ngay cả trong trung tâm các thành phố. Việc khai thác nguồn năng lượng tái tạo này không chỉ thân thiện với môi trường mà còn là xu thế của thế giới.
Năng lượng Mặt Trời là một nguồn năng lượng quan trọng điều khiển các quá trình khí tượng học và duy trì sự sống trên Trái Đất. Ngay ngoài khí quyển Trái Đất, cứ mỗi một mét vuông diện tích vuông góc với ánh nắng Mặt Trời, chúng ta thu được dòng năng lượng khoảng 1.400 joule trong một giây. Đối với cuộc sống của loài người, năng lượng Mặt Trời là một nguồn năng lượng tái tạo quý báu.
Có thể trực tiếp thu lấy năng lượng này thông qua hiệu ứng quang điện, chuyển năng lượng các photon của Mặt Trời thành điện năng, như trong pin Mặt Trời. Năng lượng của các photon cũng có thể được hấp thụ để làm nóng các vật thể, tức là chuyển thành nhiệt năng, sử dụng cho bình đun nước Mặt Trời, hoặc làm sôi nước trong các máy nhiệt điện của tháp Mặt Trời, hoặc vận động các hệ thống nhiệt như máy điều hòa Mặt Trời.
Hệ thống gồm các tấm Pin mặt trời hoặc Máy phát điện gió kết hợp với Máy phát điện hoá năng do INCOSYS sản xuất. Các tấm pin được lắp trên 1 giàn đỡ cố định, có thể đặt trên nóc nhà, những khu vực đón ánh nắng tốt nhất, thu năng lượng rồi tích vào máy phát điện hoá năng, cấp điện ra phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho gia đình, sử dụng các thiết bị văn phòng.
Trạm phát điện này có công suất thiết kế là 1500 W, lắp đặt ở độ cao 10-15 m. Theo khảo sát, vận tốc gió ở Cù Lao Chàm trung bình là 9-10m/s, rất thuận lợi cho việc xây dựng các trạm phát điện sử dụng năng lượng gió. Tuy nhiên, theo ông Phạm Văn Bạch Ngọc (phòng Cơ điện tử, Viện Cơ học) - người trực tiếp khảo sát và xây dựng trạm điện này - thì, những lúc vận tốc gió quá thấp, công suất phát điện của máy sẽ rất nhỏ, thậm chí máy không hoạt động. Đây thường là lúc trưa nắng, nguồn năng lượng Mặt trời rất dồi dào. Do đó, việc kết hợp cả hai loại năng lượng tái tạo trên đã khắc phục được hiện tượng phát điện ngắt quãng.
3.3.5.4. Nguồn điện gió.
Các máy phát điện lợi dụng sức gió (dưới đây gọi tắt là trạm phong điện) đã được sử dụng nhiều ở các nước châu Âu, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển khác. Trạm phong điện trục đứng có thể hoạt động bình đẳng với mọi hướng gió nên hiệu qủa cao hơn, lại có cấu tạo đơn giản, các bộ phận đều có kích thước không quá lớn nên vận chuyển và lắp ráp dễ dàng, độ bền cao, duy tu bảo dưỡng đơn giản.
Các trạm phong điện có thể hoạt động độc lập hoặc cũng có thể nối với mạng điện quốc gia. Các trạm độc lập cần có một bộ nạp, bộ ắc-quy và bộ đổi điện. Khi dùng không hết, điện được tích trữ vào ắc-quy. Khi không có gió sẽ sử dụng điện phát ra từ ắc-quy. Các trạm nối với mạng điện quốc gia thì không cần bộ nạp và ắc-quy.
Ưu điểm dễ thấy nhất của phong điện là không tiêu tốn nhiên liệu, không gây ô nhiễm môi trường như các nhà máy nhiệt điện, dễ chọn địa điểm và tiết kiệm đất xây dựng, khác hẳn với các nhà máy thủy điện chỉ có thể xây dựng gần dòng nước mạnh với những điều kiện đặc biệt và cần diện tích rất lớn cho hồ chứa nước.Các trạm phong điện có thể đặt gần nơi tiêu thụ điện, như vậy sẽ tránh được chi phí cho việc xây dựng đường dây tải điện.
Các trạm phong điện có thể đặt gần nơi tiêu thụ điện, như vậy sẽ tránh được chi phí cho việc xây dựng đường dây tải điện. Phong điện đã trở thành một trong những giải pháp năng lượng quan trọng ở nhiều nước, và cũng rất phù hợp với điều kiện Việt nam.
Trạm phong điện có thể đặt ở những địa điểm và vị trí khác nhau, với những giải pháp rất linh hoạt và phong phú:
Các trạm phong điện đặt ở ven biển cho sản lượng cao hơn các trạm nội địa vì bờ biển thường có gió mạnh. Giải pháp này tiết kiệm đất xây dựng, đồng thời việc vận chuyển các cấu kiện lớn trên biển cũng thuận lợi hơn trên bộ. Giải bờ biển Việt Nam trên 3000 km có thể tạo ra công suất hàng tỷ kW phong điện.
Những mỏm núi, những đồi hoang không sử dụng được cho công nghiệp, nông nghiệp cũng có thể đặt được trạm phong điện. Trường hợp này không cần làm trụ đỡ cao, tiết kiệm đáng kể chi phí xây dựng.
Trên mái nhà cao tầng cũng có thể đặt trạm phong điện, dùng cho các nhu cầu trong nhà và cung cấp điện cho thành phố khi không dùng hết điện. Trạm điện này càng có ý nghĩa thiết thực khi thành phố bất ngờ bị mất điện.
Đặt một trạm phong điện bên cạnh các trạm bơm thủy lợi ở xa lưới điện quốc gia sẽ tránh được việc xây dựng đường dây tải điện với chi phí lớn gấp nhiều lần chi phí xây dựng một trạm phong điện. Việc bảo quản một trạm phong điện cũng đơn giản hơn việc bảo vệ đường dây tải điện rất nhiều.
Một trạm phong điện 4 kW có thể đủ điện cho một trạm kiểm lâm trong rừng sâu hoặc một ngọn hải đăng xa đất liền. Một trạm 10 kW đủ cho một đồn biên phòng trên núi cao, hoặc một đơn vị hải quân nơi đảo xa. Một trạm 40 kW có thể đủ cho một xã vùng cao, một đoàn thăm dò địa chất hay một khách sạn du lịch biệt lập, nơi đường dây chưa thể vươn tới được. Một nông trường cà phê hay cao su trên cao nguyên có thể xây dựng trạm phong điện hàng trăm hoặc hàng ngàn kW, vừa phục vụ đời sống công nhân, vừa cung cấp nước tưới và dùng cho xưởng chế biến sản phẩm.
Không phải nơi nào đặt trạm phong điện cũng có hiệu quả như nhau. Để có sản lượng điện cao cần tìm đến những nơi có nhiều gió. Các vùng đất nhô ra biển và các thung lũng sông thường là những nơi có lượng gió lớn. Khi chọn địa điểm đặt trạm có thể dựa vào các số liệu thống kê của cơ quan khí tượng hoặc kinh nghiệm của nhân đân địa phương, nhưng chỉ là căn cứ sơ bộ. Lượng gió mỗi nơi còn thay đổi theo từng địa hình cụ thể và từng thời gian. Tại nơi dự định dựng trạm phong điện cần đặt các thiết bị đo gió và ghi lại tổng lượng gió hàng năm, từ đó tính ra sản lượng điện có thể khai thác, tuơng ứng với từng thiết bị phong điện. Việc này càng quan trọng hơn khi xây dựng các trạm công suất lớn hoặc các vùng phong điện tập trung.
Nhà nước cần cho phép các địa phương, các ngành, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp hoặc cá nhân được quyền xây dựng và sở hữu một số trạm phong điện, tùy theo nhu cầu và khả năng tài chính của mình. Chủ sở hữu được quyền sử dụng sản lượng điện sản xuất ra hoặc bán cho ngành điện lực qua lưới điện quốc gia.
Để xây dựng một nhà máy thủy điện cần có sự chuẩn bị rất lâu từ trước. Riêng các việc điều tra, quy hoạch, chọn phương án... có thể kéo dài hàng chục năm. Đối với phong điện cũng cần thực hiện những bước này, nhưng nhanh hơn. Sau một thời gian sử dụng, nếu cần có thể rời trạm tới nơi khác. Nếu là trạm phong điện công suất nhỏ thì việc di chuyển càng không mấy khó khăn.
3.3.5.5. Nguồn điện chủ động (ổn định)
Các nguồn năng lượng tái tạo có nhược điểm chung là không ổn định, do đó không có khả năng cấp điện ổn định, bền vững cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của huyện đảo, do đó bên canh khai thác các nguồn năng lượng sạch này, cần sử dụng kết hợp với các nguồn điện ổn định (nguồn năng lượng truyền thống), không phụ thuộc thiên nhiên như nguồn điện diesel, nhà máy nhiệt điện công suất nhỏ hoặc nguồn điện lưới quốc gia cấp cho huyện đảo bằng cáp biển ngầm cao thế. Việc lựa chọn loại nguồn nào thích hợp cần căn cứu vào điều kiên cụ thể của từng hải đảo (vị trí địa lý, nhu cầu phụ tải, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội…).
a) Nguồn điện diesel
Đây là một nguồn điện truyền thống, đã và đang được sử dụng phổ biến ở khu vực vùng sâu vùng xa do tính linh hoạt, dễ lắp đặt sử dụng, chi phí ban đầu không cao, dải công suất rất rộng từ nhỏ đến lớn, rất thuận lợi cho nhu cầu phân tán. Tuy nhiên nhược điểm nổi bật là chi phí vận hành cao, vận chuyển nhiên liệu phức tạp, thay thế sữa chữa không thuận lợi, đặc biệt đối với những vùng xa xôi hẻo lánh như hải đảo, do đó nguồn điện này chỉ được sử dụng hạn chế, phục vụ cho nhu cầu điện sinh hoạt.
b) Nhà máy nhiệt điện
Hiện nay tập đoàn than và khoáng sản đang có dự kiến xây dựng nhà máy nhiệt điện quy mô nhỏ 6 MW (2 tổ máy 3 MW) tại Cô Tô phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Đây là một giải pháp khả thi về kỹ thuật, tận dụng được thế mạnh về nguồn than sẵn có, vận chuyển gần. Tuy nhiên nhược điểm loại nguồn này là gây ô nhiễm môi trường, chiếm diện tích đất lớn, phức tạp trong vận chuyển nhiên liệu và khó điều chỉnh công suất đối với phụ tải có biến động lớn theo ngày đêm, theo mùa…
3.3.6. Giải pháp về mô hình lưới điện và giá điện cho các xã đặc biệt khó khăn:
Hiện nay, hệ thống lưới điện nông thôn còn phải thông qua các hợp tác xã đấu thầu điện, do đó, giá điện khi đến với người dân đã cao hơn rất nhiều. Chính phủ hiện đang có những bước cải tổ để tránh tình trạng cai thầu về điện.
Bên cạnh đó, nhà nước đưa ra những mức giá khác nhau và hỗ trợ giá cho các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn để giúp người dân có thể tiếp cận được với điện dễ dàng hơn.
3.3.7. Giải pháp kỹ thuật.
3.3.7.1. Cáp siêu dẫn nhiệt độ cao.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới sử dụng Cáp siêu dẫn nhiệt độ cao. Loại cáp này có khả năng truyền dẫn điện cao gấp 10 lần so với các loại cáp điện truyền thống.
Loại cáp siêu dẫn nhiệt độ cao này có thể giúp giảm tắc nghẽn hệ thống điện, đồng thời giảm chi phí lắp đặt và vận hành. Sử dụng cáp siêu dẫn giúp giải quyết được bài toán thách thức phải truyền tải được nhiều điện hơn qua các lưới điện, và bảo vệ người sử dụng điện khỏi sự tác động của các quá dòng điện ngày càng lớn, tức là các dòng điện sự cố.
Cáp siêu dẫn nhiệt độ cao có bốn đặc tính chính tạo nên sự khác biệt với các cáp đồng truyền thống: Khả năng truyền dẫn điện cao hơn, trở kháng rất thấp, bố trí lắp đặt đơn giản, và có khả năng hạn chế dòng điện sự cố. mật độ công suất cho phép cáp siêu dẫn nhiệt độ cao ở cấp điện áp bất kỳ, dẫn điện gấp 10 lần so với các cáp đồng truyền thống. Còn nếu cùng truyền tải một công suất nhất định thì cáp siêu dẫn nhiệt độ cao có thể thực hiện ở cấp điện áp thấp hơn nhiều so với cấp điện áp thường được sử dụng.
3.3.7.2. Lưới điện thông minh.
Hiện nay, mạng lưới điện đang theo mô hình là dòng điện chảy một chiều từ các nhà máy điện có công suất lớn chung cho cả khu vực, qua đường dây chính tới khách hàng. Do vậy, không khó để hình dung ra một “mạng điện chằng chịt” với sự tác động qua lại phức tạp giữa các điểm nút của mạng điện. Vào những khoảng thời gian “cao điểm” trong sử dụng điện, mạng điện theo mô hình cũ sẽ dễ bị quá tải và bị ngắt, gây ra ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất cũng như sử dụng ngay trong các hộ gia đình. Chúng ta cần phải cải tiến mạng lưới điện tập trung một chiều của ngày hôm nay thành dòng năng lượng và dữ liệu năng động hai chiều với sự hỗ trợ từ những công nghệ và quy định mới.
Một lưới điện thông minh được sử dụng trong các hộ gia đình cho phép nhà riêng của người sử dụng kết nối trực tiếp với hệ thống phát điện phân phối tại các khu dân cư để có thể trữ năng lượng ngay tại nhà, sử dụng trực tiếp cho các nhu cầu của mình. Thiết bị trữ năng lượng này sẽ được gắn với thiết bị cho phép định giá tới hạn giờ cao điểm. Bên cạnh đó, thiết bị cũng sẽ giúp người sử dụng giảm giá điện vào giờ cao điểm do được lắp trực tiếp vào mỗi hộ sử dụng. Hơn nữa, thiết bị này cho phép theo dõi thời gian sử dụng năng lượng. lưới điện sẽ đảm bảo an ninh trong cung cấp điện, độ tin cậy của mạng lưới và chất lượng điện cung cấp.
KẾT LUẬN
Các xã vùng sâu vùng xa có vị trí chiến lược trọng yếu nằm trong vành đai biên giới của Tổ quốc. Để giữ vững chủ quyền cần thiết phải có sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước và của địa phương về xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế biển đảo và góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng.
Một trong những ưu tiên hàng đầu là xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống cung cấp năng lượng bền vững cho các tỉnh, giúp cho người dân tiếp cận được với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giúp cải thiện đời sống cho người dân.
Đối với các phương án cấp điện cho vùng sâu, vùng xa hoặc hải đảo, cần xem xét các chỉ số kinh tế đơn thuần kết hợp với việc đánh giá tính hiệu quả dự án theo các chỉ số phát triển xã hội. Trong tiến trình phát triển, những lợi ích to lớn về ý nghĩa xã hội là rất quan trọng và thậm chí, có thể mang trọng số cao hơn so với hiệu quả kinh tế mang lại cho chủ thể đầu tư. Một trong những lợi ích đó là việc nâng cao mức sống của dân cư, góp phần xoá đói, giảm nghèo; nâng cao dân trí, thực hiện xã hội công bằng văn minh, tạo thêm việc làm và góp phần ổn định trật tự xã hội, an ninh quốc phòng.
Đối với cả nước nói chung và các địa phương nói riêng, để phát triển kinh tế đến các xã nghèo, các xã thuộc vùng sâu vùng xa, thực hiện điện khí hóa nông thôn thì việc đầu tiên là phải phát triển mạng lưới điện tới các xã này. Để đạt được mục tiêu do chính phủ đề ra và đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự cố gắng của Điện lực các tỉnh, Tổng công ty điện lực miền Bắc và cả sự phối hợp cao giữa các ngành các cấp của chính quyền địa phương. Chỉ có như vậy thì mới có thể thực hiện tốt kế hoạch đưa điện về nông thôn , góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài chuyên đề thực tập này, tôi chỉ xin đưa ra một vài giải pháp nhỏ giúp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đưa điện về cho các xã đặc biệt khó khăn vùng sâu vùng xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trang web:
- Trang web của bộ tài chính: www.mof.gov.vn
- www.wikipedia.vn
- Trang web của chương trình 135: www.chuongtrinh135.com
- Trang web của Ủy ban dân tộc: www.cema.gov.vn
- Trang web của Tổng công ty điện lực Việt Nam: www.evn.com.vn
2. Các tài liệu tham khảo khác:
- Niên giám thống kê 2009
- Khảo sát mức sống hộ gia đình 2008.
- Quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt- Trung đến năm 2020.
- Dự án đầu tư xây dựng lưới điện nông thôn RE I, RE II.
- Chương trình phát triển Kinh tế- Xã hội nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững.
- Quy hoạch lưới điện VI.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25669.doc