Lời nói đầu
Kể từ sau Đại hội VI, Việt Nam đã thực sự bước vào công cuộc CNH - HĐH đất nước để trang bị cho một nền sản xuất đại công nghiệp XHCN, cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. Để có được một hệ thống trang bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng được đòi hỏi của một nền đại công nghiệp, Việt Nam đã đang và sẽ cần rất nhiều vốn, một lượng vốn khổng lồ. Do đó, chúng ta đang hướng tới những giải pháp tạo vốn, đặc biệt là trung và dài hạn để phục vụ cho nhu cầu đầu tư dài hạn của nền kinh tế.
Trên thự
53 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tế, việc huy động vốn còn tồn tại nhiều nghịch lý. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn nhưng lại không được huy động, nguồn vốn trong ngân hàng không cho vay được, nhiều doanh nghiệp còn có vốn nhàn rỗi. Trong khi đó, trong nền kinh tế còn nhiều doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư vào những dự án có hiệu quả.
Một trong những nguyên do của nghịch lý trên một phần là do hiệu quả hoạt động của chính các doanh nghiệp còn một phần quan trọng là chưa có thị trường chứng khoán, cung và cầu vốn chưa gặp nhau. Do vậy, để giải quyết nghịch lý trên chúng ta cần thành lập thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, để thành lập thị trường chứng khoán chúng ta cần phải nắm được những lý thuyết cơ bản kết hợp với những thực trạng ở Việt Nam trong những năm qua và quan trọng hơn cả là những điều kiện tiền đề để thành lập thị trường chứng khoán.
Nhằm phục vụ cho những nhu cầu đó, đề tài xin đề cập đến những lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán, thực trạng hàng hoá chứng khoán ở Việt Nam và những giải pháp tăng lượng chứng khoán khả mại cho một thị trường chứng khoán trong tương lai.
Trong quá trình viết do hạn chế về thời gian và trình độ không tránh khỏi nhiều sai sót rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn sinh viên. Sau đây là nội dung của đề tài.
Chương I
Cơ Sở lý luận
I-/ Quá trình hình thành và bản chất của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế hiện đại
1-/ Quá trình hình thành thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán(TTCK) theo Long Man Dictionary of Business, 1985 được định nghĩa như sau: ''Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức, nơi mà các hoạt động mua bán, giao dịch chứng khoán diễn ra theo những quy tắc được ấn định trước".
Chứng khoán là những giấy tờ có giá, chứng nhận về quyền sở hữu. Có hai loại chứng khoán: cổ phiếu và trái phiếu. Chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể hai loại này vào những phần sau.
Qua quá trình hình thành TTCK đã thoát li khỏi định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới.
Vào khoảng thế kỷ XV tại những trung tâm buôn bán ở phương tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cafe để thương lượng việc mua bán các loại hàng hoá (các loại sản phẩm hàng hoá, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động sản...). Trong những cuộc thương lượng này, những người mua và bán trao đổi với nhau qua lời nói mà không có hàng hóa, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất cứ loại giấy tờ nào khác. Những cuộc thương lượng nhằm thống nhất một hợp đồng mua bán - trao đổi thực hiện ngay hoặc thực hiện sau 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm.
Đến cuối thời Trung cổ, những tụ điểm này dần dần tăng lên về quy mô và hình thành một thị trường. Thời gian hop chợ dần dần rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Trong các phiên chợ này, tất cả người tham gia đều phải tuân thủ theo những quy ước chung đã được đề ra. Dần dần những quy ước đó được bổ sung và hoàn chỉnh thành hệ thống những quy tắc có tính chất bắt buộc đối với người tham gia.
Buổi họp đầu tiên của giai đoạn này diễn ra vào những năm 1940, trong một lữ quán của gia đình VanBer tại Bruges (Bỉ). Trước cửa lữ quán có hình tượng của 3 túi da với một từ tính Pháp: " BOURSE", tức là "Sở Giao dịch Chứng khoán". Ba túi da tượng trưng cho 3 nội dung của Sở Giao dịch là: mậu dịch trường hàng hoá, mậu dịch trường ngoại tệ và mậu dịch trường giá khoán động sản.
Đến năm 1547, mậu dịch trường tại thành phố Bruges bị suy sụp và dời đến hải cảng Auvers( Bỉ). Mậu dịch trường này phát triển nhanh và theo đó mậu dịch trường ở các nước khác cũng bắt đầu hình thành.
Vào giữa thế kỉ 18, mậu dịch trường ở Luân Đôn đã được hình thành theo mẫu của mậu dịch trường Auvers gọi là Stock exchange, nơi mà sau này người ta gọi là Sở Giao dịch Chứng khoán(SGDCK) Luân Đôn. Và các mậu dịch trường(MDT) khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức, Italia, Bắc Âu và ít nhiều được cải tiến tuỳ theo điều kiện của từng nước.
Sau một thời gian hoạt động, mô hình của MDT bao gồm 3 nội dung không còn phù hợp với xu thế phát triển nữa. Vì vậy, giao dịch hàng hoá tách thành khu thương mại. giao dịch ngoại tệ thành thị trường hối đoái và giao dịch khoán động sản tách thành TTCK và các giao dịch hợp đồng cho tương lai thành thì trường tương lai.
Như vậy, TTCK đã xuất hiện từ thế kỷ 15 và sự xuất hiện của nó đã kéo theo sự hình thành một loạt các thị trường khác. Quá trình hình thành và phát triển của TTCK thế giới đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Có thể nói, thời kỳ phồn thịnh nhất của TTCK là thời kỳ những năm từ 1875 đến 1915, TTCK phát triển gắn với sự tăng trưởng mạnh của các nền kinh tế trên thế giới. Nhưng sau đó, đến ngày 29/10/1929-Ngày thứ năm đen tối- mở đầu cuộc khủng hoảng tại TTCK New york, từ đó, kéo theo khủng hoảng của các TTCK Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ II, TTCK các nước phát triển mạnh và tương đối ổn định. Cho đến 1987 TTCK thế giới lại lâm vào cuộc đại khủng hoảng làm cho kinh té các nước kiệt quệ và suy yếu. Nhưng chỉ 2 năm sau đó, TTCK thế giới lại đi vào ổn định và phát triển trở thành một nhân tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia.
2-/ Bản chất TTCK
Quá trình phát triển kinh tế xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào cũng làm biến đổi các khái niệm của các yếu tố trong nền kinh tế. Có khái niệm cũ mất đi, khái niệm mới ra đời. Có khái niệm giữ nguyên hình thức cũ nhưng nội dung của nó lại bao hàm những điều mới chỉ biểu hiện trong một thời gian và không gian nhất định. TTCK là một trong những khái niệm như vậy.
Xét về mặt hình thức, các hoạt động mua bán chứng khoán(CK) trên TTCK là sự thay đổi chủ thể nắm giữ CK. Còn xét về mặt nội dung các hoạt động mua bán CK thực chất là sự vận động của tư bản ở hình thái tiền tệ. Điều này có nghía là: sự chuyển đổi từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh và ngược lại. Do vậy, hoạt động mua bán trên thị trường chứng khoán là sự thay đổi chủ sở hữu CK. Một chủ thể khi tham gia vào TTCK anh ta có thẻ vừa là tư bản sở hữu vừa là tư bản kinh doanh. Khi anh ta tham gia vào thị trường bằng cách bỏ vốn đầu tư thì anh ta thực hiện chức năng của tư bản sở hữu. Ngược lại, khi tham gia vào thị trường bằng cách sử dụng vốn đầu tư anh ta thực hiện chức năng của nhà tư bản kinh doanh.
Do đó, TTCK xét về mặt thực chất không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sở hữu tư liệu sản xuất(TLSX) và vốn bằng tiền mà còn là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán những quyền đó. Chính vì vậy, ta có thể nói TTCK là hình thức phát triển cao nhất của nền sản xuất hàng hoá.
II-/ Vai trò của TTCK trong nền kinh tế thị trường.
Sự hình thành và phát triển một TTCK có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó giúp cho nền kinh tế có thể tạo lập thu hút vốn cho đầu tư phát triển và là một công cụ có nhiều lợi thế. Chính vì thế, ở các nước có nền kinh tế phát triển đều hình thành TTCK với vai trò chủ yếu sau:
1-/ Tạo lập vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, vốn luôn là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuât kinh doanh của DN. Chính vì thế, nhu cầu về giao lưu vốn giữa cácchủ thể trong nền kinh tế, kết hợp với hai quy luật đặc trưng của KTTT là quy luật giá trị và quy luật cung cầu sẽ tất yếu hình thành những quan hệ về vốn.
Để tạo lập vốn cho sản xuất kinh doanh, DN có thể thông qua hai hình thức chủ yếu. Một là, vay vốn từ các ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Hai là, tăng nguồn vốn tự có bằng cách phát hành cổ phiếu. Trên TTCK các chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu...) được mua bán, trao đổi thông qua một cơ chế nhất định. Như vậy, TTCK sẽ thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ các khoản tiết kiệm trong dân cư, những luồng vốn đầu tư nước ngoài, nguồn vốn nhàn rỗi trong các quỹ của DN, các tổ chức kinh tế xá hội và Chính phủ để tạo nên một luồng vốn khổng lồ cho đầu tư, phát triển kinh tế. Nhờ đó, TTCK tạo điều kiện cho các DN hoạt động có hiệu quả hơn, tăng thêm lợi nhuận cho DN, giúp Nhà nước và chính phủ bù đắp các khoản thâm hụt Ngân sách và thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, TTCK còn giúp cho dân cư và các tổ chức xã hội tâng thêm được nguồn thu nhập chính đáng.
2-/ TTCK tạo điều kiện cho các DN sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn
Vốn kinh doanh của một DN bao gồm: vốn cố định và vốn lưu động. Trong ngắn hạn, vốn cố định của DN là không đổi, vì vậy, để tăng nguồn vốn kinh doanh của mình, DN phải tăng nguồn vốn lưu động. Thông qua TTCK DN có thể chủ động về quy mô, thời hạn thu hút vốn lưu động. Nguồn vốn huy động này giúp DN huy động được nguồn vốn trung và dài hạn, chủ động trong sử dụng vốn. Khi phát hành chứng khoán trên thị trường, DN thực hiện chức năng của người vay vốn, người mua chứng khoán sẽ là nhà đầu tư vốn.
Về phía các nhà đầu tư, họ mua chứng khoán nhằm mục đích sinh lời, do đó, khi mua họ sẽ chọn những chứng khoán có khả năng sinh lời cao nhất. Khả năng này tuỳ thuộc chủ yếu vào hiệu quả hoạt động của DN phát hành chứng khoán. Như vậy, giá của những chứng khoán mà chủ phát hành là những DN hoạt động có hiệu quả sẽ tăng cao hơn so với những chứng khoán của các DN hoạt động kém hiệu quả. Để đảm bảo giá chứng khoán, DN cần phải sử dụng vốn linh động và đạt hiệu quả cao nhất.
3-/ Công cụ đánh giá DN và dự đoán tương lai
Cùng với sự phát triển của KTTT, TTCK biến hoá ngày càng đa dạng và phức tạp, số lượng cũng như các loại chứng khoán tăng lên ngày càng nhiều, điều đó đã tác động đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong khu rừng đầy rẫy những con số, giá cả của những loại CK, các nhà đầu tư phải đưa ra được những phương pháp để xác định giá CK. Nếu không phải là những phân tích cụ thể thì cũng là một phương hướng phát triển chung của CK, giúp họ lựa chọn phương án đầu tư tối ưu. Với mục đích đó, người ta đã đưa ra rất nhiều biện pháp trong đó có hệ thống các chỉ số. Hệ thống này cung cấp những thông tin về biến động chung của các CK trên thị trường. Cho đến nay việc đánh giá được coi là chính xác nhất là đánh giá theo chỉ số Dow-Jones.
Cho dù những chỉ số trên thị trường còn phải chịu tác động của nhiều yếu tố nhưng đó là những chỉ số quý báu về sức khoẻ của các DN được yết giá trển thị trường. Bất kì một DN nào hoạt động kém hiệu qủa, ngay lập tức cổ phiếu của nó sẽ giảm xuống và ngược lại. Hơn nữa, việc các DN yết giá buộc họ phải cung cấp đầy đủ và thường xuyên những thông tin cần thiết về hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Từ đó, các nhà đầu tư mới đánh giá được hiệu quả hoạt động của các DN.
Tuy nhiên, trên thị trường cũng có những cổ phiếu có mức cổ tức khiêm tốn song giá thị trường của nó vẫn cao vì đó là những DN có tiến bộ kỹ thuật và hứa hẹn nhiều lợi nhuận trong tương lai. Những DN này do tập trung phát triển kỹ thuật nên hàng kỳ nó phải trích một phần không nhỏ lợi nhuận vào các quỹ đầu tư, phát triển, do đó, cổ tức của các cổ đông cũng giảm xuống. Ngược lại, trong tương lai, những DN này sẽ có lợi thế về mặt kỹ thuật, lợi nhuận của nó sẽ tăng lên và làm cho cổ tức của các cổ đông cũng tăng lên tương ứng.
Nhìn chung, TTCK còn có nhiêù chức năng khác như: công cụ đảm bảo tính thanh toán cho số tiết kiệm đầu tư dài hạn, khuyến khích tiết kiệm, tạo thói quen để dành tích cực... Nhưng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt dù đứng trên tầm vĩ mô hay vi mô.
III-/ Những mặt tích cực và tiêu cực của TTCK
1-/ Những mặt tích cực
1.1- TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư.
Bất kể một nền kinh tế nào muồn phát triển đều phải đầu tư. Có hai biện pháp đầu tư chủ yếu:
Một là, doanh nghiệp tự tích luỹ vốn để đầu tư. Qua các chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp sẽ trích một phần lợi nhuận của mình vào quỹ đầu tư. Biện pháp này chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và quy mô hoạt động lớn.
Hai là, doanh nghiệp huy động từ nguồn vốn bên ngoài. Biện pháp này phổ biến hơn qua hai hình thức: vay tín dụng và phát hành cổ phiếu.
Nhờ TTCK cổ phiếu và trái phiếu của DN phát hành dễ dàng hơn, dân cư có thể tiết kiệm tích cực và các quỹ nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế có thể được đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
1.2- TTCK là phương tiện huy động vốn
Khi chưa có TTCK việc huy động vốn của các DN hoặc Chính phủ chủ yếu thông qua vay tín dụng Ngân hàng. Kể từ khi xuất hiện TTCK các DN và Chính phủ có thể chủ động vay vốn trực tiếp thông qua phát hành chứng khoán. Nguồn vốn huy động được bảo đảm và thời gian sử dụng lâu dài. Đơn vị lại chủ động hơn về mặt thanh toán cũng như không bận tâm khi giá của cổ phiếu biến động. Đối với chính phủ, thay vì phất hành tiền có thể phát hành CK để bù đắp thâm hụt NS mà không gây ra lạm phát. Tuy nhiên, nếu không có TTCK vẫn có thể phát hành được trái phiếu song đó chỉ là trung và ngắn hạn.
1.3- TTCK là một công cụ giúp cho nhà nước thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội
Trong khi thực hiện các chương trình phát trỉen kinh tế xã hội, CP các nước thường bị thâm hụt NS. Để bù đắp cho thâm hụt Nhà nước có hai biện pháp:
Một là, các NH TW sẽ phát hành tiền cho CP. Biện pháp này rất dễ gây ra lạm phát cao.
Hai là, Chính phủ đi vay từ nước ngoài (các tổ chức tài chính quốc tế), từ NH và có thể vay từ dân chúng. Biện pháp vay từ dân chúng giúp chính phủ tránh được thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia khi vay từ nước ngoài và tránh được lạm phát do vay từ NH TW.
1.4- TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút vừa kiềm soát vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là toàn bộ thông tin liên quan đến giao dịch CK quốc tế đều được công khai hoá. Đồng thời, theo luật mỗi loại CK bán ra đều được giới hạn một lượng nhất định bán cho người nước ngoài.
1.5- TTCL lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước
TTCK sẽ tạo ra tính lỏng tương đối cho các loại chứng khoán. Đối vớinhững người tiết kiệm lớn hay nhỏ đều có thể mua được CK trển thị trường một cách dễ dàng, đồng thòi, có thể bán CK ngay khi họ cần tiền. Với TTCK hoạt động tốt, DN sẽ sẵn sàng đầu tư phát triển công nghệ, làm cho nguồn vốn được lưu động hoá. Từ đó, mọi món tiền tiết liệm đêu sẵn sàng lưu động, đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
1.6- TTCK là điều kiện, tiền đề cho quá trình cổphần hoá
Cổ phần hoá là quá trình chuyển từ DN sang công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty. TTCK, nơi diển ra hoạt động mua bán và phát hành CK, với các nguyên tắc: trung gian, đấu gia, côngkhai sẽ giúp cho quá trình phát hành, mua bán CP diễn ra nhanh hơn. Từ đó, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá
2-/ Những mặt tiêu cực của TTCK
2.1- Yếu tố đầu cơ
Thực ra, đầu cơ cũng là một sự đầu tư. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro khi họ bỏ tiển mua một loại CK nào đó với giá thấp và hy vọng sẽ bán được với giá cao trong tương lai. Đầu cơ có thể làm cho giá cổ phiếu tăng lên hoặc giảm xuống một cách giả tạo và từ đó sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa hoặc thiếu cổ phiếu. Nói chung luật CK không cấm đầu cơ song lại cấm sự cấu kết dưới mọi hình thức. Ngoài ra, một hình thức khác của đầu cơ là việc mua liên tục một loại cổ phiếu nào đó với giá cao và bán ra với giá thấp nhằm thao túng thị trường. TTCK không chấp nhận những hoạt động này.
2.2- Mua bán nội gián
Đó là việc một cánhân lợi dụng những thông tin của một công tin đẻ mua bán CP của công ty đó một cách bất thườgn nhằm thu được lợi nhuận. Hoạt động mua bán như vậy là phi đạo đức về mặt thương mại và đi ngược lại nguyên tác công bằng của TTCK.
2.3- Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường
ở hầu hết các nước luật đều hạn chế các nhà môi giới cũng như các nhà đầu tư mua bán ngoài thị trường vì điều này gây ảnh hưởng xấu đến những công ty và tạo áp lực với các nhà đầu tư mua bán cổ phiếu trên thị trường chính thức.
2.4- Phao tin đồn không chính xác về hoạt động của một đơn vị kinh tế
Đây là hoạt động đi ngược lại nguyên tắc công khai của thị trường. Thông thường, đó là các thông tin xấu. Những thông tin này sẽ tác động đến các nhà đầu tư làm cho họ bán ồ ạt các cổ phiếu ra thị trường khiến cho giá CP giảm mạnh. Những kể tung tin sẽ đứng ra mua cổ phiếu và thao túng mọi hoạt động của công ty nhằm hưởng lợi bất chính cho đến khi tin đồn được kiểm chứng.
IV-/ Phân loại TTTC
1-/ Thị trường tài chính bao gồm thị trường cấp 1 và thj trường cấp 2
1.1- Thị trường cấp I
TT cấp 1 là thị trường mà tại đó các chứng khoán mới được phát hành và bán cho người mua đầu tiên.
Để CK từ nhứng nhà phát hành đến được tay của những nhà đầu tư cần phải qua các trung gian tài chính (TGTC). Nhứng trung gian này sẽ đứng ra thực hiện hộ nhà phát hành việc phát hành những chứng khoán mới. Có hai phương thức phát hành:
Thứ nhất, Các TGTC sẽ đứng ra nhận bán hộ các lô chứng khoán, sau khi bán xong dù hết CK hay không thì các công ty phát hành vẫn phải thanh toán cho TGTC một khoản phí hoa hồng. Đồng thời, các TGTC sẽ không chịu trách nhiệm mua trọn CK chưa bán hết.
Thứ hai, Các TGTC sẽ mua chọn lô chứng khoán với gía thấp và bán ra với giá cao nhằm thu được lợi nhuận từ khoản chênh lệch giá. Trong trường hợp này, các TGTC phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với nhứng CK không bán hết.
TT cấp 1 là một thị trường nhỏ hẹp về cả quy mô lẫn giá trị CK phát hành. Bởi vì, trên thì trường chỉ có 3 đối tượng chính là người mua đầu tiên và người phát hành. Sau khi đã được phát hành, CK sẽ ra khỏi thị trường mà không thực hiện việc quay vòng luân chuyển. Bên cạnh đó, giá những CK bán ra lần đầu luôn luôn thấp hơn so với những lần bán lại sau đó nên tổng giá trị của các CK sẽ không lớn.
Những CK trên thị trường này sau khi được mua bán sẽ làm thay đổi chủ sở hữu của nguồn vốn. Thêm vào đó, nó sẽ làm tăng nguồn vốn huy động của công ty phát hành. Lượng tăng vốn đó đúng bằng lượng giá trị CK được giao dịch trên thị trường.
1.2- Thị trường cấp 2
Thị trường cấp 2 là thị trường mà ở đó các CK đã được phát hành từ trước được mua đi bán lại kể từ người mua thứ 2.
Trên thị trường, ngoài những người mua và bán CK còn tồn tại một đối tượng mới là những nhà môi giới CK. Nếu như các nhà kinh doanh mua, bán CK là những tác nhân tạo nên thị trường cấp 2 thì những nhà môi giới CK là những chất xúc tác tác đôngj thúc đẩy thị trường hoạt động tốt hơn.
Ngược lại với thị trường cấp 1, TT cấp 2 hoạt động với quy mô và doanh số rất lớn. Những CK không chỉ được mua bán môt lần mà có thể được mua đi bán lại rất nhiều lần trển thị trường và cứ sau mỗi lần mua bán giá CK sẽ tăng hoặc giảm và làm cho doanh số tăng lên một lần. Tuy nhiên, việc tăng doanh số mua bán trên thị trường lại không làm tha;y đổi vốn của công ty phát hành ra CK.
Hai loại TT trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhờ có TT cấp 1 mà TT cấp 2 mới có hàng hoá để giao dịch. Ngược lại, chính TT cấp 2 lại tạo điều kiện làm tăng tính lỏng cho các CK được phát hành ở TT cấp 1.
2-/ TTTC gồm TT nợ và TT vốn cổ phần
2.1- Thị trường nợ
TT nợ là thị trường mà ở đó những giấy tờ ghi nợ được mua bán và trên những giấy tờ đó có ghi rõ ai là chủ nợ, ai là con nợ
Hàng hoá trển thị trường nợ là những công cụ nợ, đó là những giấy tờ ghi nợ. Những giấy tờ này xác định quan hệ giữa chủ nợ và con nợ, hay nói cách khác nó xác định quan hệ tín dụng giữa người vay và người cho vay theo nguyên tắc có hoàn trả trực tiếp. Theo nguyên tắc tín dụng, những công cụ nợ sau một thời hạn nhất định( đã ghi trên công cụ), người phát hành ra công cụ nợ ấy phải có trách nhiệm hoàn trả số tiền mà họ đã vay kèm theo phân lợi tức cho việc vay tiền. Chính vì vậy, giá cả trên thị trường nợ chính là lãi suất tín dụng.
2.2- Thị trường vốn cổ phần
TT vốn cổ phần là TT mà ở đó người ta mua bán cổ phần(CP) của các công ty cổ phần(CT CP) biểu hiện ở sự mua bán cổ phiếu của các CT CP.
CP là những phần vốn bằng nhau được chia ra từ vốn điều lệ của doanh nghiệp. Những giấy tờ xác nhận quyền sở hữu CP là cổ phiếu. Người sở hữu cổ phiếu là cổ đông. Cổ phiếu thường không có kỳ hạn do vậy người phát hành ra nó sẽ không chịu trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho người mua cổ phiếu trừ 2 trường hợp: khi công ty hết hạn hoạt động và khi công ty phá sản. Trong cả hai trường hợp này, các cổ đông chỉ được hoàn vốn sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ.
Để thu hồi lại tiền các cổ đông có thể bán lại cổ phiếu trên TT theo giá TT. Giá TT được xác định theo công thức:
Giá thị trường = (Thu nhập do cổ phiếu mang lại) / ( lãi suất ngân hàng)
Như vậy, thị giá cổ phiếu không chỉ phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng mà còn phụ thuộc chủ yếu vào thu nhâp do cổ phiếu mang lại. Do đó, kêt squả hoạt động của CT sẽ quyết định giá TT của cổ phiếu. Tuy nhiên, khi còn giữ cổ phiếu trong tay tất cả các cổ đông đều có quyền tham gia quyết định hoạt động của công ty thông qua đại hôi cổ đông.
3-/ TTTC gồm TT vốn và TT tiền tệ
3.1- Thị trường vốn
Thị trường vốn là TT mà ở đó ngưòi ta mua bán các công cụ nợ trung hạn, dài hạn và các cổ phiếu của CT CP.
TT vốn gồm bốn bộ phận:TTcổ phiếu, TT các khoản cho vay cầm cố, TT trái phiếu của các công ty và TT trái phiếu chính phủ ngắn hạn.
trước tiên, TTcổ phiếu chiếm một bộ phận rất lớn trong TT vốn. 35% lượng cổ phiếu trên thị trương do các cá nhân sở hữu và họ mua bán vôứi nhau mỗi ngày. Số còn lại cũng thuộc sở hữu cá nhân nhưng thông qua việc các TCTC vay vốn và họ nắm cổ phiếu trong tay.
Bộ phận thứ hai là các khoản cho vay cầm cố và vốn trả chậm. những khoản nay chủ yếu là dài hạn từ hai năm trở lên.
Nhóm thứ ba là TT trái phiếu dài hạn của các công ty. Những đơn vị bảo hiểm và các quỹ XH là những chủ thể đầu tư loại chứng khoán này nhất.
3.2- Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường mà ở đó người ta mua bán các công cụ nợ ngắn hạn (nhỏ hơn một năm), là thị trường mà các công cụ của nó có tính lỏng cao, chi phí và độ rủi ro thấp.
Các chứng thư tiền gửi (CDS) loại lớn của các NHTM cũng là hàng hoá của TT này. Đặc trưng nổi bật nhất của TT tiền tệ là ở chỗ hầu hết những hàng hoá của nó có khả năng thanh toán rất cao vì thời gian đáo hạn của CK là từ ngắn đến rất ngắn. Lâu nhất là 12 tháng và ngắn nhất là 24 giờ hoặc 1 đêm.
Trên thị trường này có rất nhiều loại hàng hoá, ngoài trái phiếu ngắn hạn của kho bạc và CDS, hầu hết các CK ngắn hạn khác như: thương phiếu và các loại chứng thư nợ do NH phát hành đều được mua bán trên thị trường này.
V-/ Nguyên tắc hoạt động của TTCK
TTCK là một định chế đặc biệt, phát triển trong nền kinh tế thị trường. Do đó, hoạt động của nó cũng phải thuân theo những nguyên tắc nhất định. Nói chung TTCK có 3 nguyên tắc chủ yếu: công khai, đấu giá và trung gian.
1-/ Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, những CK lưu hành trên thị trường được bảo đảm là những chứng khoán thực. Nguyên tắc này giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh hơn, đều đặn và hợp pháp. Hơn nữa, nó còn bảo vệ quyền lợi của nhứng nhà đầu tư. Bởi lẽ nhà môi giới CK sẽ giúp cho các nhà đầu tư nắm được đầy đủ thông tin về CK của một công ty, từ đó, giúp họ xác định đúng giá trị của CK ấy. Có hai loại môi giới: môi giới trung gian và thương gia CK.
Môi giới trung gian là người môi giới mua bán CK cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Thương gia CK là những người trung gian mua bán CK không phải cho khách hàng mà cho bản thân mình để hưởng lợi từ chênh lệch giá mua bán CK.
Để đảm bảo cho TT diễn ra theo nguyên tắc và t;uân thủ những quy định của pháp luật, buộc các nhà môi giới phải tập trung lại và chịu sự quản lý của một hiệp hội. Thông thường hiệp hội đó là những công ty CK và tồn tại dưới hình thức CTCP.
2-/ Nguyên tắc đấu giá
Việc định giá trên thị trường chủ yếu do các nhà môi giới quyết định. Mỗi nhà môi giới định giá theo thời điểm, theo phán đoán và theo tác động qua lại của cung cầu CK trên TT. Việc định giá sẽ được thực hiện qua việc đấu giá CK giữa người bán và người môi giới, giữa người môi giới này và người môi giới khác. Sau mỗi cuộc đấu giá CK sẽ được bán cho ai mua được với giá cao nhất. Do vậy, giá CK sẽ không chịu sự tác động của bất kì cá nhân nào. Đó cũng là lý do mà người ta thường gọi TTCK là một thị trường cạnh tranh tự do.
3-/ Nguyên tắc công khai
Tất cả mọi hoạt động mua bán, trao đổi hay giao dịch trên thị trường đều phải được thực hiện công khai. Các kết quả hoạt động cùng với những báo cáo về tình hình tài chính của các công ty có cổ phiếu được niêm yết trên TTCK thì đều được thông báo công khai. Số lượng và giá cả của các loại CK được đưa lên bảng điện tử.
Nói tóm lại, trên mỗi TTCK ở mỗi nước khác nhau lại có những nguyên tắc hoạt động khác nhau tuỳ theo tập quán và thông lệ buôn bán cùa mỗi nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc trên là nhứng nguyên tắc cơ bản mà bất kì TTCK nào trên thế giới đều phải tuân thủ. Nhà nước sẽ bảo vệ những nguyên tắc đó thông qua những quy định và thể chế pháp luật.
VI-/ Hàng hoá trên TTCK
Bất kì một thị trường nào trong nền kinh tế TT đều cần phải có hành hoá để giao dịch. TT lao động cần hàng hoá sức lao động, TT hàng tiêu dùng cần hàng tiêu dùng... Cũng giống những thị trường khác, TTCK cũng cần có những hàng hoá trong hoạt động giao dịch. Đó là chứng khoán. TTCK có 2 loại CK cơ bản: Cổ phiếu và Trái phiếu.
1-/ Cổ phiếu
Cổ phiếu là một giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu cổ phần của một CTCP. Nó chứng thực về sự góp vốn, đảm bảo quyền được nhận cổ tức và quyền tham gia quản lý công ty của người sở hữu cổ phiếu.
Cổ phiếu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Theo giáo sư Wolfran Engels trong tác phẩm "TTCK và CTCP" đã khẳng định: "không có sáng kiến tìm ra cổ phiếu thì không thể nghĩ đến phát triển".
CP đã thực sự trở thành công cụ để chuyển vốn nhàn rỗi trong dân cư vào đầu tư phát triển kinh tế. Nó tạo điều kiện tách biệt chức năng của nhà kinh doanh và nhà cấp vốn.
Các CTCP khi thành lập hay khi có nhu cầu về vốn sẽ chia phần vốn cần huy động thành nhiều phần, mỗi phần được gọi là một cổ phần. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông. Giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phần của cổ đông được gọi là cổ phiếu. Giá trị của CP khi phát hành là mệnh giá CP. Trong quá trình lưu hành trên TT, CP không được mua bán theo mệnh giá mà phải theo giá TT. Giá này không những phụ thuộc vào lãi suất Ngân hàng mà còn phụ thuộc chủ yếu vào kết quả SXKD của DN. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của những nhà tiết kiệm và nhà đầu tư trên thị trường có rất nhiều loại CP. Sau đây là hai loại CP thông dụng.
1.1- Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là loại CP không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó, không có mức lãi suất cố định, số lãi được chia vào cuối niên độ kết toán được gọi là cổ tức. CP thường có những đặc điểm sau:
Một là, các chủ nhân của nó phải chịu rủi ro lớn. Trong trường hợp tồi tệ nhất, khi công ty phá sản, cổ đông có thể bị mất trắng hoặc nếu chăng có được hoàn lại thì chỉ là phần vốn còn lại của công ty sau khi đã thanh toán hết nợ. Khi công ty hoạt động có hiệu quả, những cổ đông này lại là những người được lợi nhiều nhất vì họ được hưởng phần lớn lợi nhuận của công ty.
Hai là, các cổ đông có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp và sở hữu những tài sản pháp định. Quyền tham gia vào quản lý DN thể hiện qua Đại hội cổ đông và thông qua việc bỏ phiếu quyết định mọi vấn đề được đưa ra và quyết định bầu lãnh đạo công ty.
Ba là, các cổ đông có quyền được biết những thômh tin cần thiết về tình hình hoạt động và kết quả SXKD của công ty. Nếu công ty phát hành một đợt cổ phiếu mới, những cổ đông này có quyền ưu tiên trong việc mua cổ phiếu với một lượng tương ứng với lượng cổ phiếu mà họ nắm giữ và vơí giá thấp hơn so với giá thị trường.
1.2- Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi cũng giống như cổ phiếu thông thướng song cũng có mốt số hạn chế nhất định như người sở hữu cổ phiếu không được tham gia bầu cử hoặc ứng cử vào HĐQT hay ban kiểm soát công ty. Họ được hưởng những ưu đãi về tài chính nhất định. Mức lợi tức của những CP loại này thường cố định qua các chu kỳ sản xuất kinh doanh và được chia trước những CP thông thường. Nếu công ty bị phá sản họ sẽ được ưu tiên hơn. Do lợi tức của CP ưu đãi là cố định nện giá TT của nó hầu như không biến động hoặc biến động rất ít. Tuy vậy, lợi tức của CP ưu đãi vẫn lớn hơn so với lãi suất tín dụng, lợi tức trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty vì khi công ty phá sản họ được ưu tiên thanh toán như nhứng chủ nợ.
2-/ Trái phiếu
Trái phiếu là một giấy tờ ghi nợ phát sinh trong quan hệ tín dụng, chứng nhận người sở hữu là chủ nợ của người phát hành ra TP.
Như vậy, CP là một CK nợ. Người mua trái phiếu là trái chủ, là chủ nợ của tổ chức phát hành. Sau một thời gian nhất định được ghi trên TP, trái chủ được cơ quan phát hành hoàn trả vốn theo mệnh giá kèm theo một khoản lợi tức. Trên thị trường, giá trái phiếu bị ảnh hưởng bởi lãi suất tín dụng, ngoài ra có thể là lạm phát hoặc sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của NHTW. Có nhiều tiêu thức để phân loại trái phiếu tuỳ theo những căn cứ khác nhau.
2.1- Xét về hình thức phát hành
Trái phiếu có hai loại: TP vô danh và TP kí danh.
TP vô danh không ghi tên người chủ TP trên TP cũng như trên sổ của người phát hành. Loại TP này cho phép mua bán trao đổi dễ dàng mà không cần thủ tục rườm rà. Bất kì ai có TP trong tay đều là trái chủ và được hưởng lợi tức. Việc lĩnh lợi tức theo định kỳ sẽ thông qua những phiếu trả lợi tức đính kèm trái phiếu. Sau mỗi kỳ người sở hữu sẽ gửi phiếu đến tổ chức phát hành để nhận tiền lời.
TP ký danh là trái phiếu mà tên và địa chủ của trái chủ được ghi lại cả trên trái phiếu và trên sổ của người phát hành. Loại TP này rất khó mua bán trên thị trường. Để thực hiện việc chuyển nhượng mua bán trái chủ phải thực hiện một số thủ tục pháp lý nhất địnhvà do vậy loại TP này kém lỏng hơn TP vô danh. Theo định kỳ trái chủ sẽ được nhận những khoản lợi tức do chủ phát hành gưỉ đến và không sử dụng cuống phiếu như trái phiếu vô danh.
2.2- Xét về tổ chức phát hành
Trái phiếu gồm hai loại: trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ, Chính quyền địa phương.
TP công ty là TP do các công ty phát hành với mục đích huy động vốn cho đầy tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Các công ty khi có nhu cầu về vốn cho đầu tư trung và dài hạn sẽ phát hành trái phiếu công ty để huy động. Khi đó, công ty là người._. đi vay (con nợ) và người mua TP là người cho vay (chủ nợ) của công ty. Công ty phải cam kết thanh toán nợ cả gốc và lãi cho ngưòi mua trái phiếu theo những quy định đã nêu trong hợp đồng phát hành trái phiếu.
Như vậy, một công ty khi phát triển đến một mức độ nào đó công ty sẽ có nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Để huy động được vốn trên thị trường, công ty có thể sử dụng một trong hai cách. Hoặc công ty phát hành cổ phiếu để tăng nguồn vốn tự có, hoặc công ty phát hành trái phiếu để tăng nguồn vốn cho vay của mình. Việc quyết định một trong hai phương thức trên tuỳ thuộc vào những chỉ tiêu sau:
-Tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong kỳ trước.
-Tình hình giá cả của CP hoặc TP của công ty trên TT.
-Lãi suất Ngân hàng.
-Tính chất của dự án đầu tư.
-Những quyết định trong nội bộ công ty.
Trên TTCK ngoài CP và TP công ty còn có một loại hàng hoá quan trọng khác xuất hiện ở hầu hết các TTCK trên thế giới, ở Việt Nam loại CK này là một hàng hoá đầu tiên được giao dịch trên TTCK trong tương lai, đó là trái phiếu CP.
TP Chính phủ & Chính quyền địa phương là loại trái phiếu do Chính phủ hay Chính quyền địa phương phát hành và được đảm bảo chi trả bằng Ngân sách. Mục đích của việc huy động các khoản vốn này là nhằm bù đắp cho thâm hụt và cân bằng thu chi Ngân sách. Sử dụng công cụ phát hành trái phiếu nhà nước có thể bù đắp thâm hụt Ngân sách mà không phải phát hành tiền, gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị tiền lưu hành. Những khoản nợ này, sau một kì hạn, sẽ được CP sử dụng NS quốc gia để thanh toán.
Một đặc điểm dễ thấy mà nhiều người rất thĩch mua TP CP đó là loại trái phiếu này có độ rủi ro bằng không do nhà nước luôn đảm bảo chi trả khi trái phiếu đáo hạn. Thêm vào đó, trái chủ không phải nộp bất cứ một khoản thuế nào.
Xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ các loại TP được phát hành ra TT rất phong phú và đa dạng.
Trái phiếu ngắn hạn (dưới một năm) là loại TP được phát hành để bù đắp sự thiếu hụt NS tạm thời trong thời gian ngắn, khi thu NS chưa kịp đủ để đáp ứng chi. Như vậy, sau khi thu được Ngân sách Nhà nước sẽ sử dụng NS để thanh toán cho những TP này.
Trái phiếu trung hạn (từ 1 năm đến 9 năm) là loạt TP được phát hành để sử dụng cho mục đích đầu tư trung hạn. Thông thường Nhà nước sẽ trả lãi mỗi năm hai kỳ với lãi suất lớn hơn loại ngắn hạn. Đây là nguồn huy động vốn ổn định cho nhà nước để đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng.
Trái phiếu dài hạn (từ 10 năm trở lên) là loại TP huy động để đầu tư vào những công trình lớn có nguồn thu hoàn trả vốn vay. Nguồn vốn này giúp cho NS giảm gánh nặng chi tiêu.
Trên đây là 2 loại hàng hoá cơ bản không thể thiếu đối với một TTCK. Ngoài ra, trên TTCK còn có những hàng hoá khác như: giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu, quyền mua lại, quyền bán lại, hợp đồng mua bán tương lai.. . Tất cả các loại CK trên, về bản chất, đều là công cụ huy động vốn nhàn rỗi cho đầu tư và phát triển. Do vậy, đa dạng hoá các loại hình CK là đòi hỏi bắt buộc đối với tất cả các quốc gia đang trong tiến trình hình thành TTCK.
VII-/ Tính tất yếu phải hình thành một TTCK tại Việt Nam
Hiện nay, Việt nam đang trong quá trình đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu hướng tới môt nền đại công nghiệp Xã hội chủ nghĩa. Nhưng thực tế thì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế kém phát triển một trong những điều kiện tiên quyết, có tính quyết đinh đén sư thành công của CNH-HĐH đất nước là vấn đề về vốn. Chúng ta đang hướng tới những giải pháp tạo ra nhiều vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn dể phục vụ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các DN có thể tiến hành tạo lập vốn qua hai cách: Một là, đi vay các ngân hang thương mại hoặc phát hành trái phiếu công ty. Hai là, Phân chia quyền sở hữu của DN bằng các hành cổ phiếu. Từ thực trạng tạo lập vốn ở Việt Nam hiện nay cho thấy, nguồn vốn mà các DN vay trung và dài hạn từ các NHTM là rất hạn chế. Bởi nguồn vốn mà các NHTM huy động chủ yéu là vốn ngắn hạn nên chưa đáp ứng được phần lớn nhu câù về vốn trung và dài hạn của DN. Một hình thức vay khác là DN có thể phát hành TP trên thị trường. hìnhthức này, hiện nay, đang gặp rất nhiều khó khăn. Từ sau luật công ty năm 1990, trên thị trường đã xuất hiện một số loại TP. Tuy nhiên con số đạt được rất khiêm tốn chủ yuế tập trung vào TPCP , TP công ty chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Đối với DNNN, trái phiếu của hai doanh nghiệp ngành Xi măng chỉ dừng lại ở 330 tỷ và theo một báo cáo mới nhất tổng giá trị các khoản vay trong nước chỉ đạt xấp xỉ 5%GDP.
Qua thực trạng trên, chúng ta có thể nhận định rằng nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong nền kinh tế đang còn tồn tại nhiều nghịch lý. Trong khi các tổ chức kinh doanh đang cần vốn thì trong các ngân hàng và một số doanh nghiệp khác vốn bị ứ đọng không giải ngân được. Bên cạnh đó, trong dân cư vẫn phổ biến tâm lý giữ tiền mặt, chưa mạnh dạn đầu tư. Các NHTM có xu hướng thắt chặt tín dụng nên chưa hạ được lãi suất. Xã hội cần các kênh giải ngân mà chúng ta chưa có. Như vậy, TTCK là một hướng khả dĩ để tích tụ, tập trung vốn, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH. Có nhiều nhà kinh tế cho rằng: "TTCK có thể tạo ra những CTCP mà cổ đông là những bà nội trợ tiết kiệm tiền đi chợ".
chương II
thực trạng về việc chuẩn bị hàng hoá cho thị trường chứng khoán ở Việt nam
Từ những phân tích và tính tất yếu phải hình thành TTCK ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy TTCK ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết. Để chuẩn bị cho ra đời một TTCK hoàn chỉnh, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực tạo mọi điều kiện ban đầu. Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về điều kiện tiền đề để thành lập TTCK ở Việt Nam nhưng nhìn chung thống nhất ở những điểm sau: ổn định kinh tế-chính trị-xã hội; kiểm soát được lạm phát; chuẩn bị đầy đủ hàng hoá khả mại cho TTCK, đội ngũ nhân viên, khung pháp lý, cơ sở hạ tầng thông tin... Có thể nói hàng hóa chứng khoán là yếu tố quan trọng hàng đầu, nó quyết định cơ chế hoạt động và các chủ thể tham gia TTCK.
Để hiểu thêm về hàng hoá trên TTCk, chúng ta đi sâu xem xét thực trạng hàng hoá chứng khoán ở VIệt Nam trong thời gian gần đây.
I-/ thực trạng tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
TTCK có rất nhiều loại hàng hoá như: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, thương phiếu, hối phiếu, công trái... Trong đó cổ phiếu và trái phiếu là 2 hàng hoá chính. Trong phần này, bài viết sẽ tiếp cận về thực trạng cổ phiếu. Có nhiều giải pháp tạo ra cổ phiếu trên thị trường, tạo điều kiện thành lập các công ty cổ phần tư nhân. Nhưng hiện nay giải pháp quan trọng nhất được Đảng và Nhà nước ta coi trọng là cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Chủ trương về CPH một bộ phận các DNNN được đặt ra từ cuối những năm 80 và chính thức đi vào thực hiện năm 1992 (Sau Đại hội Đảng VII). Trong 10 năm thực hiện CPH, DNNN đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vân tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt là tốc độ CPH.
1-/ Thực trạng CPH:
Tiến trình CPH được chia làm 3 giai đoạn:
1.1- Giai đoạn thí điểm.
Từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996: Qua 4 năm thực hiện thí điểm, cả nước chỉ CPH được 5 DNNN (3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương) theo QĐ 202/CT của chủ tịch HĐBT, và chỉ thị 84/TTG của thủ tướng CP. Tuy nhiên, diện cổ phần còn rất hẹp, quy mô doanh nghiệp CPH còn nhỏ. Trong số 5 doanh nghiệp trên, lớn nhất là công ty Cơ điện lạnh TP HCM chuyển vào ngày 1/10/1993 với 16 tỷ đồng.
1.2- Giai đoạn hai:
Đây là giai đoạn mở rộng công tác CPH: từ 6/5/1996 đến 6/1998, thực hiện theo NĐ 28/CP của Chính phủ quy định một cách hệ thống từ mục tiêu, yêu cầu, đối tượng, của CPH đến phương thức tiến hành, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và lao động trong các doanh nghiệp thực hiện CPH.
Trong 2 năm thực hiện, tốc độ CPH tăng lên rõ rệt. Cả nước có 27 doanh nghiệp hoàn thành CPH, gấp hơn 5 lần so với giai đoạn trước. Đến tháng 6/1998 cả nước có 32 DNNN hoàn thành CPH và đi vào hoạt động theo luật công ty. Tiến trình CPH không chỉ được mở rộng theo số lượng doanh nghiệp mà còn mở rộng cả về phạm vi địa lí: 3 bộ, 9 tỉnh, thành phố. Trong thời kì này quy mô doanh nghiệp CPH đã lớn hơn: có doanh nghiệp có số vốn lên tới trên 120 tỷ đồng; có 5 doanh nghiệp có vốn lớn hơn 10 tỷ đồng.
Trong số 27 DNNN được CPH có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần (Công ty Đầu tư sản xuất và thương mại Hà nội). Số còn lại Nhà nước nắm ít nhất 10% và cao nhất là 50% vốn cổ phần.
Ngoài Nhà nước nắm phần lớn số cổ phần còn một bộ phận khác cũng nắm giữ không ít là: người lao động, tư bản ( 42%-42,86%). Số cổ phần còn lại do những cổ đông ngoài xí nghiệp nắm giữ, tư bản chiếm từ 19%-20%. Điều này chứng tỏ hiệu quả huy động vốn trong dân của công tác CPH là đáng kể.
Để hỗ trợ và giám sát công tác CPH, trong thời gian này các cấp, các ngành đã tăng cường bổ sung đội ngũ cán bộ vào ban chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập các ban chỉ đạo CPH ở địa phương. trong quá trình thực hiện CPH 31/61 địa phương đã thành lập ban chỉ đạo CPH, các địa phương còn lại do ban đổi mới doanh nghiệp kiểm nghiệm hoặc giao cho một số chuyên viên giúp việc. Về phía các bộ, ngành, các tổng công ty đã có 16 đơn vị thành lập ban chỉ đạo CPH DNNN. Mặc dù vậy, việc thành lập các ban chỉ đạo diễn ra còn rất chậm và chưa có kế hoạch triển khai cụ thể.
Tiến hành song song với việc thành lập ban chỉ đạo, một số Bộ, ngành và địa phương đã chú trọng đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho các cán bộ và người lao động hiểu về chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước. Thực tế tiến trình CPH đã cho thấy công tác tuyên truyền rất quan trọng. Song bên cạnh đó vẫn còn một số Bộ, ngành chưa quan tâm đến công tác tuyên truyền chủ trương này cho các cán bộ và người lao động. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm tốc độ của tiến trình CPH.
1.3- Giai đoạn 3:
Trong giai đoạn này, rút kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện trong các giai đoạn trước, Chính phủ ban hành NĐ 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc CPH DNNN thay thế cho NĐ 28 CP trước đây. Trong NĐ này, những vấn đề về pháp lý, thủ tục triển khai CPH, đối tượng áp dụng, phân công trách nhiệm về cơ bản đã được tháo gỡ. Bên cạnh đó NĐ cũng mở rộng thêm đối tượng và hình thức CPH, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá thị trường, bảo đảm quyền lợi cho người lao động và có những chính sách ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp CPH...
Ngoài việc ban hành các văn bản quy định rõ hơn về công tác CPH, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập ban chỉ đạo mới quản lý DNNN, giúp cho các cấp, các ngành và các doanh nghiệp CPH trong công tác đổi mới quản lý và thực hiện CPH. Thêm vào đó, nhứng văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ đã được ban hành trong các hội nghị tổng kết công tác CPH để từ đó đánh giá thực trạng, rút kinh nghiệm và đưa ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH.
Nhờ có những giải pháp trên, trong thời gian từ tháng 7/1998 đến tháng 5/1999, cả nước đã CPH được 136 DNNN. Riêng tháng 6/1998, CPH được 86 doanh nghiệp, gấp 3 lần 2 giai đoạn trước đây. Trong 5 tháng đầu năm 1999, theo số liệu của ban đổi mói Trung ương, toàn quốc đã CPH được 50 DNNN, đưa tổng số DNNN đã thực hiện CPH lên tới 170 .
Trong thời gian tới thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt 434 DNNN thực hiện CPH trong năm 1999 và có thể sẽ tăng lên 504 doanh nghiệp do các Bộ, ngành bổ sung thêm. Trong số đó, theo các chuyên gia nhận xét tại Hà nội, TP HCM, Hải Phòng, Tuyên Quang, Nam Định sẽ là những đơn vị thực hiện CPH đầu tiện và chắc chắn. Ngược lại, đối với khối các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 thì việc thực hiện có khó khăn hơn do quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà và không chủ động. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 là đáng kể. Do vậy, nếu các đơn vị thuộc tổng công ty 91 thực hiện nhanh tiến độ CPH thì sẽ góp phần không nhỏ thúc đẩy tiến trình CPH trong cả nước.
2-/ Những khó khăn và nguyên nhân trong quá trình CPH.
Phải khẳng định rằng, trong những năm thực hiện, tiến trình CPH các DNNN đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Một trong số những thành tựu đó là đẩy mạnh quá trình sản xuất kinh doanh trong DNNN và bước đầu tạo ra 1 loại hàng hoá cho TTCK. Để đạt được những kết quả đó không thể không kể đến những thuận lợi của tiến trình CPH.
Thứ nhất, CPH các DNNN được coi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là vấn đề thu hút sự quan tâm lớn nhất của Chính phủ, các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân trong những năm qua. Đây là thuận lợi lớn nhất và cũng là điều kiện tiên quyết để có thể CPH thành công.
Thứ hai, trong việc thực hiện CPH Việt Nam là nước đi sau so với khu vực và Thế giới,vì vậy chúng ta có điều kiện để tiếp thu những kinh nghiệm và bài học rút ra từ những thành công cũng như thất bại của các nước đã CPH.
Thứ ba, thực tiễn và hoạt động của các DNNN từ những năm 1992 đến nay đều làm tăng kết quả kinh doanh, tăng lao động và tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (NSNN).
Bên cạnh những thuận lợi to lớn đã nêu trên, tiến trình CPH cồn tồn tại những mặt khó khăn nhất định trong công tác thực hiện. Biểu hiện rõ nhất là trong thời gian qua tiến trình CPH đã diễn ra quá chậm so với tiến trình đã đề ra. Trên thực tế, mặc dù đã qua 9 năm triển khai chủ trương CPH (1990-1999), nhưng cả nước mới CPH được 168 DNNN. Những văn bản Pháp luật về CPH đã được ban hành từ năm 1992 nhưng đến hết năm 1996 mới tiến hành được 11 DNNN, mục tiêu 2 năm 97-98 là 150 DNNN, nhưng đến hết năm 1997 mới CPH được thêm 4 doanh nghiệp, 6 tháng đầu năm 1998 là 14 doanh nghiệp. Như vậy thì con số 168/5756 DNNN so với mục tiêu chúng ta đặt ra: 20% DN CPH trước năm 2000 quả là còn rất ít ỏi. Vậy do đâu mà tiến trình CPH ở Việt Nam lại chậm trễ đến vậy?
Có rất nhiều nguyên do nhưng tựu trung lại có 6 khó khăn cơ bản sau:
2.1- Về mặt nhận thức, tư tưởng còn nhiều hạn chế, các cấp các ngành quản lý, các doanh nghiệp và bản thân người lao động trong doanh còn có tâm lý e ngại CPH.
Về phía các cấp lãnh đạo tâm lý e ngại này còn thể hiện ở chỗ các địa phương, cơ sở chưa sốt sắng làm hết công việc được giao, chưa chú ý đúng mức đến việc thành lập và đôn đốc các ban CPH. Nguyên do của những e ngại này xuất phát từ lợi ích cục bộ, cản trở tiến trình CPH. Họ sợ rằng sau khi CPH họ mất quyền quản lý và lợi ích. Đây là kiểu tư duy “chậm tiến” và thiển cận. Nếu cứ tồn tại những tư duy kiểu này sẽ không đạt được mục tiêu như đã định.
Về phía doanh nghiệp, ban giám đốc doanh nghiệp đang quen với chế độ cũ nên ngại bước vào môi trường cạnh tranh nhiều rủi ro, e sợ sự giám sát chặt chẽ, đồng thời CPH đòi hỏi giám đốc phải có trình độ và trách nhiệm.
Về phía người lao động, họ chưa nắm được lợi ích và mục tiêu của CPH nên tồn tại phổ biến tâm lý e sợ. Mặt khác, những biện pháp khuyến khích CPH thông qua việc phát hành cổ phiếu ưu đãi chưa xuất phát từ việc giải quyết lợi ích cho người lao động . Người lao động luôn luôn lo sợ bước vào cơ chế cạnh tranh, xoá bỏ sự bảo trợ của Nhà nước, nghĩa là rủi ro sẽ cao hơn đối với cả doanh nghiệp lẫn người lao động.
2.2- Thủ tục và bước đi của tiến trình CPH còn rườm rà và qua nhiều khâu, nhiêu tầng nấc, nhất là việc xử lý những vấn đề tài chính doanh nghiệp.
Đây là một trong những vướng mắc mà hầu hết các doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành CPH. Quy trình CPH theo công văn 3395/VPCP-ĐMDN ngày 29/8/1998 tuy chỉ đề ra 4 bước song trong mỗi bước lại có nhiều công đoạn khác. Chính do những chậm trễ trong công đoạn khiến thời gian CPH trung bình là 27 tháng, chậm nhất lên tới 79 tháng. Thêm vào đó, thủ tục CPH vẫn còn nhiều vướng mắc là khâu xét giá trị doanh nghiệp. Mặc dù NĐ mới 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 đã đơn giản hoá nhiều nhưng để xác định giá trị thực tế cho người mua và người bán cổ phần chấp nhận không phải vấn đề đơn giản.
2.3- Công tác chỉ đạo của Nhà nước còn chậm chạp và lúng túng.
Do chủ trương CPH là một vấn đề mới nên Chính phủ chưa có đủ những văn bản Pháp luật đủ tầm cỡ mà chỉ thực hiện theo những văn bản dưới luật. Vì vậy, những ách tắc, ngừng trệ trong tiến trình CPH là không thể tránh khỏi. Đơn cử trường hợp một công ty cổ phần và hoạt động thì khuôn khổ pháp luật của nó chỉ là NĐ 44 CP (trước đây là 28CP) còn luật công ty, luật DNNN lại chưa được hoàn chỉnh.
Thiếu những văn bản đủ mạnh về pháp lý nhưng công tác chỉ đạo CPH vẫn thiếu thống nhất và ăn khớp. Thực trạng này xuất phát từ nguyên do công tác này mới được tái thiết lập, một phần do bộ máy tài chính các ban chưa được tổ chức độc lập, chuyên trách mà đa phần vẫn là kiêm nghiệm. Do vậy, hiệu quả thấp là đương nhiên.
2.4- Mức độ khuyến khích chưa đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp CPH.
Có thể nói, các DNNN theo luật DNNN và các văn bản pháp quy khác có những ưu đãi nhất định mà các loại hình doanh nghiệp khác (Công ty tư nhân, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân...) không có, chẳng hạn về vốn, kĩ thuật... Chính vì vậy, khi chuyển sang loại hình công ty cổ phần, các DNNN sẽ mất đi những quyền lợi trước mắt nên tâm lý phổ biến là họ không muốn CPH. Sự ưu đãi rõ nhất đối với các DNNN được thể hiện trong mối quan hệ giữa DNNN với Ngân hàng Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH.
2.5- Mức độ khuyến khích đối với người lao động trong doanh nghiệp chưa thực sự hấp dẫn.
Chế độ ưu đãi đối với người lao động khi thực hiện CPH vẫn được coi là vấn đề “nóng” nhất từ trước đến nay. Vậy mà chúng ta vẫn chưa thực sự quan tâm. Chính điều này đã dẫn đến sự không nhiệt tình ủng hộ CPH từ phía người lao động.
Một lo ngại lớn nhất của người lao động là sau khi CPH sẽ có một lượng lao động bị dư ra. Mặc dù NĐ 44 đã chỉ ra rằng, sau 12 tháng kể từ ngày CPH doanh nghiệp có thể dư ra một lượng lao động nhất định nhưng trên thực tế con số này có thể lên tới 1/3 thậm chí 1//2 tổng số lượng lao động trong doanh nghiệp. Chính vì thế mà việc người lao động không thiết tha mấy với CPH cũng là điều dễ hiểu.
2.6- Việt Nam chưa có TTCK.
Một trong những vấn đề không thể bỏ qua khi nói đến những khó khăn, vướng mắc của quá trình CPH là Việt Nam chưa có TTCK. Như vậy, một mặt các doanh nghiệp sẽ thiếu một công cụ huy động vốn hữu hiệu, mặt khác, khi mua cổ phiếu người lao động không có khả năng bán lại cổ phiếu đó khi cần tiền, nghĩa là cổ phiếu có tính lỏng kém và rủi ro cao hơn. Vì thế, bản thân người lao động trong doanh nghiệp cũng như nhân dân (nếu doanh nghiệp muốn huy động vốn nhàn rỗi trong toàn xã hội) sẽ không chú ý đến CPH.
Trên đây là những vấn đề cơ bản về thực trạng cũng như những khó khăn trong tiến trình thực hiện CPH. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng, cổ phiếu của công ty trên TTCK không chỉ được tạo ra thông qua CPH các DNNN mà nó còn có thể được tạo ra từ những công ty cổ phần tư nhân. Tuy nhiên, thành phần này trong nền kinh tế VIệt Nam chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ nên giải pháp chủ yếu để phát triển hàng hoá trên TTCK Việt Nam trong tương lai là CPH các DNNN.
II-/ trái phiếu:
Trái phiếu là một trong 2 hàng hoá chính được giao dịch trên TTCK, là một hàng hoá quan trọng không kém gì cổ phiếu. Trên TTCK có rất nhiều loại cổ phiếu ( như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận) Tuy nhiên ở Việt Nam trái phiếu gồm 2 loại chủ yếu: Trái phiếu công ty và tría phiếu Chính phủ (tín phiếu và trái phiếu trung, dài hạn)
Trước tiên, chúng ta xem xét về thực trạng trái phiếu công ty.
1-/ Trái phiếu công ty:
Từ phần cơ sở lý luận chúng ta có thể thấy trái phiếu công ty cũng là một loại dư nợ chủ yếu của doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp được trực tiếp gọi vốn từ công chúng mà không thông qua trung gian là các NHTM.
Mặc dù có lợi thế như vậy nhưng trên thị trường nợ Việt Nam phần lớn trái phiếu có tính chất ngắn hạn, việc phát hành trái phiếu công ty vẫn ở mức dè chừng, chưa đều đặn, với phương thức tự phát hành là chủ yếu. Lượng trái phiếu lưu hành trên thị trường còn rất ít ỏi. Loại trái phiếu DNNN chỉ mới do 2 nhà máy xi măng Hoàng Thạch và Anh Sơn phát hành với hơn 63 tỷ đồng. Các loại trái phiếu mà những NHTM đã phát hành chủ yếu có kỳ hạn ngắn ( từ 1-3 năm) với tổng số vốn khoảng 10 tỷ đồng tính đến năm 1997. Đó chỉ là những con số tổng hợp, nếu xét theo từng năm, các Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) chỉ phát hành kỳ phiếu vào những lúc thời vụ, nên tính chất thường xuyên của việc phát hành cũng rất hạn chế. Tương tự như trái phiếu, các hối phiếu và thương phiếu chưa được quan tâm sử dụng giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với Ngân hàng. Bên cạnh những tồn tại về thời hạn và giá trị, các trái phiếu phần lớn mới chỉ được phát hành ở phạm vi trong nước.
Trên thị trường mới chỉ có trái phiếu của công ty Cơ điện lạnh Việt Nam đang trong giai đoạn thí điểm phát hành ra nước ngoài với tổng giá trị 5 triệu USD vào tháng 6/1996, lãi suất 4,5%, kỳ hạn 2 năm. Tuy nhiên, đây là loại trái phiếu phát hành riêng ra nước ngoài mà không phải là loại phát hành ra công chúng. Do đó, trên thị trường loại trái phiếu được định giá bằng ngoại tệ còn rất ít.
Như vậy, quang cảnh của việc mua bán trao đổi trái phiếu công ty trên thị trường vốn Việt Nam còn khá ảm đảm. Nếu tiếp tục duy trì tình trạng này mà không có những giải pháp khắc phục, trên TTCK Việt Nam sẽ thiếu một loại hàng hoá quan trọng và các doanh nghiệp sẽ mất đi một công cụ huy động vốn hiệu quả.
2-/ Trái phiếu Chính phủ-NHTM.
Trong khi tiến trình CPH đang diễn ra rất chậm chạp và thị trường các trái phiếu công ty rất ảm thì thị trường mua bán trái phiếu Chính phủ lại rất sôi động. Trong thời gian tới, nếu thành lập TTCK, hàng hoá chủ yếu được giao dịch ở Việt Nam sẽ là các loại trái phiếu Chính phủ.
Từ đầu năm 1999 đến nay, công cụ huy động vốn trung và dài hạn rất phổ biến tên thị trường vốn dưới dạng công trái với quy mô lớn hơn. Trái phiếu nào còn thời hạn đều có thể được mua bán trên thị trường nếu các trái chủ có nhu cầu.
Trước tiên, phỉa nói đến trái phiếu do Kho bạc Nhà nước (KBNN) trực tiếp phát hành với kỳ hạn 2 năm, lãi suất 13%/năm, trái phiếu sẽ được thanh toán một lần khi đáo hạn. Từ đầu năm 1999 đến 12/5/1999, KBNN đã phát hành 3.096 tỷ đồng trái phiếu. Tiếp đó, từ 19/5 đến 15/7/1999, KBNN đã phát hành công trái quốc gia với thời hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm và tối đa đến 50%/5 năm. Kết quả tổng số trái phiếu phát hành đợt này là 4.491,6 tỷ đồng (dự kiến là 4000 tỷ đồng) trong đó Ngân hàng và các tổ chức Bảo hiểm đã mua 2.550 tỷ đồng.
Sau đợt phát hành này, trên thị trường đã xuất hiện nhu cầu mua bán công trái. Nắm bắt được nhu cầu đó, NHTM cổ phần và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ trong một thời gian ngắn đã chứng khoán hơn 10 tỷ đồng công trái.
Tính từ đầu năm đến 3/9/1999 NHNN đã tổ chức được 30 phiên đấu thầu trái phiếu với 150 lượt thành viên, nâng tổng lượng đăng ký dự thầu lên gần 5000 tỷ đồng. Kết quả, khối lượng trúng thầu được phát hành là 1.950 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu là 9,1% cho đến 9,85%/năm. Dự kiến đến hết năm 1999 sẽ tổ chức thêm 15-16 đợt đấu thầu trái phiếu, nâng khối lượng trái phiếu dự kiến từ 3.500 đến 4.000 tỷ đồng.
Để đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế, ngay từ đầu 1999, các NHTM đã chủ động phát hành trái phiếu có thời hạn lớn hơn 1 năm với lãi suất khá hấp dẫn. Ngân hàng Đầu tư & phát triển (NHĐT&PT) chỉ trong hơn 1 tháng từ 17/4/1999 đã phát hành được 1.900 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn từ 2 đến 5 năm. Trong đó kì hạn 2 năm chiếm 80% và lãi suất trả trước 12,5%/năm. Trong khi đó, cùng kỳ năm 1998, Ngân hàng chỉ phát hành được hơn 1000 tỷ đồng kỳ hạn 1-5 năm với lãi suất 13,236%/năm đến 16,2%/năm.
Đặc biệt, công ty Tài chính Quốc tế ILC qua Ngân hàng Công thương VIệt Nam chỉ trong 2 giờ làm việc ngày 10/8/1999 đã phát hành được 10 tỷ đồng trái phiếu, thời hạn 2 năm, 6 tháng trả lãi một lần với lãi suất 12%. Xét tổng cộng các loại: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Ngân hàng và công trái Quốc gia có trên 13.500 tỷ đồng đã được phát hành trong năm 1999. Trong số đó, gần 4000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 2 năm, lãi suất 12-13%/năm do KBNN phát hành năm 1998, đến đầu năm 2000 mới hết hạn thanh toán đối với 1000 tỷ đồng của trái phiếu NHĐT&PT và 1000 tỷ đồng các loại trái phiếu khác.
Như vậy, đến cuối năm 1999 và đầu năm 2000, tổng số có khoảng trên 19.000 tỷ đồng các loại trái phiếu, công trái còn thời hạn thanh toán. Lượng trái phiếu này sẽ là điều kiện cần thiết để đưa vào giao dich khi trung tâm giao dich chứng khoán (TTGDCK) đi vào hoạt động. Mặc dù việc phát hành trái phiếu Chính phủ trong năm qua vượt mức dự định nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập:
*Một là, phương thức phát hành chưa phù hợp dẫn đến hạn chế khả năng huy động vốn. Hiện nay, có 2 phương thức phát hành chính. Đối với tín phiếu kho bạc phát hành bằng cách đấu thầu thông qua NHNN. Trong khi đó trái phiếu kho bạc chủ yếu được bán lẻ qua hệ thống phân phối kho bạc. Chính điều này đã tạo ra sự khác nhau trong việc quy định đối tượng mua trái phiếu. Trước kia QĐ 839/TC-QĐ/KBNN ngày 29/8/1996 quy định chỉ các cá nhân được mua trái phiếu. Đến nay QĐ 122/TC-QĐ/KBNN ngày 1/2/1997, công ty mua đã được mở rộng đến các tổ chức, cơ quan đoàn thể và các doanh nghiệp trừ những doanh nghiệp kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hệ quả tất yếu của quyết định này là các công ty làm ăn kém hiệu quả sẽ dồn vốn mua trái phiếu Chính phủ. Vì thế, Chính phủ sẽ không huy động được đủ nguồn vốn cần thiết.
* Hai là, lãi suất trái phiếu Chính phủ (TPCP) chưa thực sự đóng vai trò là lãi suất chuẩn đối với các lãi suất khác. Tức là, lãi suất trái phiếu KBNN bán trực tiếp có xu hướng thoát li sự điều hành lãi suất chung của NHNN. Trên thực tế, điều đó được thể hiện bằng việc xây dựng lãi suất của trái phiếu Chính phủ tương đương với lãi suất cho vay của các NHTM. Do vậy, dẫn đến tình trạng tăng cầu giả tạo về trái phiếu Chính phủ bởi tâm lý muốn hưởng lãi suất cao, rủi ro thấp. Như vậy, đứng trên bình diện quản lý vĩ mô, trái phiếu Chính phủ không thực hiện được chức năng điều tiết quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế.
* Ba là, việc thanh toán lãi suất cho các trái chủ không linh hoạt, mềm dẻo và những thủ tục phiền hà khi sang tên làm trái phiếu Chính phủ mất đi tính thanh khoản và không hấp dẫn với nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều người có nhu cầu chuyển nhượng trái phiếu trước kì hạn phải chấp nhận không được hưởng lãi trong thời gian nắm giữ, kèm theo đó là những thủ tục phiền hà... Chính những bất cập này tất yếu dẫn đến hình thành “chợ đen” cho các loại trái phiếu chưa đáo hạn. Việc này sẽ có tác động không nhỏ cho tiến trình thành lập TTCK ở Việt Nam.
Trên đây là một số bất cập nổi bật của thị trường trái phiếu Chính phủ, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu tình hình giá cả trái phiếu trong thời gian qua. Trên thực tế, lượng trái phiếu Chính phủ phát hành ra thị trường là điều kiện cần thiết để giao dich khi TTCK đi vào hoạt động. Trong trường hợp TTCK đã hình thành thì vấn đề tiếp theo là giá cả của hàng hoá trên TTCK, tỷ lệ chiết khấu của các loại trái phiếu, công trái. Điều này tuỳ thuộc vào lãi suất ghi trên mỗi loại trái phiếu, công trái và mối quan hệ với sự biến động của những công cụ huy động vốn khác trong cùng thời kỳ.
Bắt đầu từ 1/6/1999, NHNN Việt Nam đã quy định mức lãi suất trần cho vay tối đa bằng VNĐ là 1,15%/tháng áp dụng cho mọi kì hạn, kèm theo là việc quy định lãi suất cho vay tái cấp vốn 0,85%/tháng thay cho nhiều mức trần lãi suất như trước đây. Việc điều chỉnh này tác động trực tiếp đến lãi suất huy động vốn của các loại trái phiếu kể cả trái phiếu KBNN và trái phiếu NHTM. Tính từ ngày 1/7/1997 đến trung tuần tháng 9/1999 NHNN Việt Nam đã điều chỉnh 6 lần lãi suất cho vay. Riêng năm 1999 có 4 lần: 1/2/1999, 1/6/1999, 1/8/1999, 4/9/1999.
Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay và lãi suất cho vay tái cấp vốn ở Việt Nam trong hai năm gần đây
Đơn vị tính: %
Thời điểm thực hiện
Mức trần lãi suất
cho vay các loại
1/7/97
21/1/98
1/2/99
1/6/99
1/8/99
4/9/99
1. Ngắn hạn
1,0
1,2
1,1
1,15
1,05
0,95
2. Trung hạn
1,1
1,25
1,15
1,15
1,05
0,95
3. Vùng nông thôn
1,2
1,25
1,25
1,15
1,15
1,15
4. Quỹ TDND và HTXTD
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
5. Lãi suất tái cấp vốn
1,1
1,1
1,0
0,85
0,85
0,7
Các loại trái phiếu, công trái có thể giao dịch tại trung tâm Giao dịch Chứng khoán đến cuối năm 1999
Loại trái phiếu, công trái
Thời hạn (năm)
Lãi suất (%/năm)
Số lượng (tỷ đồng)
1. Trái phiếu Kho bạc Nhà nước bán lẻ 1998 (ước tính)
2
12 - 13
4.000
2. Trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 1998
1 - 5
13 - 14
1.000
3. Trái phiếu Kho bạc Nhà nước bán lẻ 1999
2
13
3.096
4. Trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển năm 1999
2 - 5
12,5
1.900
5. Công trái Quốc gia 1999
2 - 5
10
4.491,6
6. Trái phiếu đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước (ước tính cả năm 1999)
1
9,5
4.000
7. Trái phiếu công ty tài chính quốc tế VILC
2
12
10
8. Các loại trái phiếu khác
1 - 2
11 - 13
1.000
Tổng cộng
19.587,2
Ngày 4/9/1999, thống đốc NHNN ra chỉ thị 05/1999/CT-NHNN quy định trần lãi suất cho vay tối đa đối với khu vực thành thị là 0,95%/tháng với mọi khoản vay, lãi suất cho NHTM cổ phần và vùng nông thôn là 1,13% và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng khác (Quỹ tín dụng và HTX tín dụng) vẫn là 1,5%/tháng. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng tác động của quy định này là NHTMQD, song để cạnh tranh giữ thị phần, các NHTM cổ phần cũng buộc phải đồng loạt hạ lãi suất cho vay xuống bằng mức lãi suất của các NHTMQD.
Việc điều chỉnh lãi suất tiền vay tất yếu thay đổi lãi suất tiền gửi. Trong vòng hơn 2 năm (1997-1999) các NHTM đã giảm dần lãi suất huy động vốn. Bắt đầu từ 9/1999, lãi suất huy động vốn trái phiếu kỳ hạn 1 năm chỉ còn 0,75%-0,85%/tháng; lãi suất tiền gửi 12 tháng là 0,7%-0.72%/tháng; 6 tháng từ 0,6%-0,65%/tháng và không kỳ hạn là 0,45%-0,5%/tháng;
Hiện nay, lãi suất cho vay chỉ còn 11,3%/năm. Như vậy so với các trái phiếu còn thời hạn với lãi suất 12% trở lên thì đương nhiên lãi suất trái phiếu còn cao hơn lãi suất cho vay. Điều này có thể dẫn đến:
*Trái chủ khi có nhu cầu thanh toán sẽ không sử dụng để chiết khấu mà dùng nó làm tài sản thế chấp để vay Ngân hàng với lãi suất thấp hơn.
*Do lãi suất của công trái và trái phiếu cao hơn lãi suất cho vay, các NHTM sẽ thíc._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0746.doc