Lời mở đầu
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất nước phải trải qua. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá.
Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả. Một trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động đ
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán của Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược khơi động mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là TTCK.
Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy để có một TTCK hợp lý, đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này.
Nhằm góp phần vào lĩnh vực phát triển của TTCK của Việt Nam. Em chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài là: “Giải pháp phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCP chứng khoán Bảo Việt”.
Bố cục chuyên đề gồm 3 Chương:
Chương I : Những vấn đề chung về hoạt động của CTCK
Chương II : Thực trạng hoạt động của CTCK Bảo Việt
Chương III: Giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của
CTCP chứng khoán Bảo Việt
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Cô giáo - ThS. Lê Hương Lan và các cán bộ phòng Ngiệp vụ I tại CTCP chứng khoán Bảo Việt đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I
Những vấn đề chung về hoạt động của
Công ty chứng khoán
1.1. KHáI QUáT Về CTCK
1.1.1. Sự hình thành CTCK
TTCK có tổ chức hoạt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán thực hiện, mà do những người môi giới trung gian thực hiện, đó là nguyên tắc trung gian, nguyên tắc căn bản nhất của TTCK có tổ chức. Từ đó trên TTCK, xuất phát từ nhu cầu gặp gỡ giữa người mua và bán hình thành nên nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
TTCK hình thành, để đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh có hiệu quả, yêu cầu các loại chứng khoán giao dịch là những loại chứng khoán thực, đảm bảo lợi ích cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Xuất phát từ nhu cầu những nhà đầu tư có tiền nhưng không có kinh nghiệm, không biết đầu tư vào đâu và vào loại chứng khoán nào bởi vì họ không thể dự đoán được một cách chính xác giá trị trong tương lai của nó. Nếu không có những người trung gian tư vấn, có trình độ và có sự phân tích cần thiết về những chứng khoán dựa trên những căn cứ xác đáng để có những nhận xét kỹ lưỡng, thì người đầu tư có thể bị lầm lẫn hoặc bị lường gạt. Do đó trên thị trường hình thành nên nghiệp vụ tư vấn đầu tư.
Các Công ty, tổ chức đại diện làm trung gian giúp thị trường hoạt động lành mạnh và hiệu quả cũng có nhu cầu kinh doanh trên trên thị trường để thu lợi nhuận cho chính Công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng. Từ đó hình thành nên nghiệp vụ tự doanh trong Công ty.
Xuất phát từ nhu cầu của các tổ chức phát hành, để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi phải cần đến các Công ty tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện Bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Từ đó hình thành nên nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành.
Khi thị trường phát triển, đòi hỏi Công ty đại diện cho khách hàng hay nói cách khác khách hàng uỷ thác cho Công ty thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận. Từ nhu cầu đó, nghiệp vụ Quản lý danh mục đầu tư hình thành.
Từ những nhu cầu và điều kiện trên đòi hỏi phải có một tổ chức hoặc một Công ty đại diện thực hiện các nghiệp vụ đó một cách thống nhất, có tổ chức giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. Từ đó CTCK được hình thành.
Các CTCK ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của TTCK. ở các nước có TTCK phát triển CTCK hoạt động rất tấp lập và chính họ là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng.
Ngày nay, kể cả các nước đang phát triển, các CTCK ra đời rầm rộ và phổ biến, chiếm lĩnh phần lớn các giao dịch chứng khoán trên thị trường. Nhờ các CTCK mà các trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu của các CTCP được lưu thông, buôn bán với doanh số lớn trên TTCK. Qua đó một lượng vốn lớn được tập trung vào để đầu tư từ những lượng vốn nhỏ trong dân chúng, tổ chức đoàn thể hay doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của CTCK
Một CTCK trên thị trường tuỳ thuộc vào quy định của từng nước hoặc khả năng của Công ty mà có thể kinh doanh trên một lĩnh vực nhất định hoặc có thể kinh doanh trên tất cả các lĩnh vự. Căn cứ vào các nghiệp vụ kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh hoặc tuỳ từng nước mà tên các Công ty này có thể là CTCK hoặc Công ty môi giới chứng khoán hay Công ty kinh doanh chứng khoán…
Tại Việt Nam theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 của UBCKNN, CTCK là CTCP, Công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Công ty Môi giới chứng khoán: là Công ty thực hiện việc trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng .
Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán : là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, nghĩa là tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu: là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
CTCK không tập trung: là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Tuy có nhiều định nghía khác nhau về CTCK nhưng có thể có một khái niệm chung về CTCK như sau:
CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các hoạt động kinh doanh trên TTCK.
Qua khái niệm trên ta có thể thấy đặc điểm của các CTCK như sau:
CTCK là một định chế tài chính trung gian. Một định chế trung gian trên Thị trường tài chính là cầu nối giữa người cho vay và người đi vay. Khi một người cho vay tìm ra được một người muốn vay, người đó gặp phải khó khăn là chi phí thời giờ và tiền bạc cho những cuộc kiểm tra tín nhiệm để biết liệu người vay có thể hoàn trả vốn và lãi cho mình không. Ngoài các chi phí thông tin này, quá trình thực tế cho vay hoặc mua chứng khoán cần đến các chi phí giao dịch. Các trung gian tài chính này giúp cho những người đi vay và người cho vay giảm được chi phí và thời gian tìm kiếm, giao dịch. Vì vậy, không có trung gian tài chính thì Thị trường tài chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Trên thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng có nhiều trung gian tài chính và các CTCK là một trong các trung gian quan trọng trên TTCK.
CTCK thực hiện các hoạt động kinh doanh như bất cứ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, đều nhằm mục đích thu lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh mua, bán chứng khoán.
1.1.3. Phân loại CTCK
1.1.3.1. Theo tính chất sở hữu
Hiện nay có 3 loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là Công ty hợp danh, Công ty TNHH và CTCP.
CTCP
- CTCP là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu Công ty là các cổ đông.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Công ty TNHH
- Thành viên của Công ty chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty TNHH không được phép phát hành Cổ phiếu.
Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở nên.
- Thành viên của Công ty bao gồm: Thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành Công ty, họ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của Công ty.
- Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
Do các ưu điểm của loại hình CTCP và Công ty TNHH so với Công ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH và CTCP.
1.1.3.2. Theo mô hình kinh doanh
Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất thương mại thông thường vì CTCK là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vậy, vẫn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK cũng có những điểm khác nhau và vận dụng cho các khối thị trường có mức độ phát triển khác nhau (thị trường cổ điển; thị trường mới nổi; thị trờng các nước chuyển đổi). Tuy nhiên, có thể khái quát mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán của CTCK theo 2 nhóm (Mô hình CTCK đa năng và Mô hình CTCK chuyên doanh).
CTCK chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
Theo mô hình này, CTCK là Công ty chuyên doanh độc lập, các NHTM và các tổ chức tài chính khác không được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống Ngân hàng do những ảnh hưởng tiêu cực của TTCK, và các Ngân hàng không được sử dụng vốn huy động để đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán; Mặt khác, với sự chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Điển hình của mô hình này là các CTCK ở Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,… có sự tách bạch giữa hoạt động Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành Công ty mẹ, Công ty con và có sự quản lý giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc lập với nhau.
CTCK đa năng
Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các Công ty hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới 2 hình thức sau:
CTCK đa năng một phần: Các Công ty muốn hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán phải thành lập Công ty con-CTCK, hoạt động độc lập. Mô hình này được áp dụng ở Anh và những nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, úc.
Mô hình này có ưu điểm là các Công ty được kết hợp kinh doanh các lĩnh vực khác và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của Công ty. Bên cạnh đó, bởi vì có qui định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp với những nước mới thành lập TTCK, khi mà cần có các tổ chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị trường và khi hệ thống luật, kiểm soát còn nhiều mặt hạn chế.
CTCK đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có sự tách bạch nào giữa hoạt động Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, NHTM không những được hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn được hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. Nó được áp dụng ở các nước Bắc Âu, Hà Lan, Thụy Sĩ, áo...
Khác với mô hình chuyên doanh, ưu điểm của mô hình này là Công ty có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó mà giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về tài chính chịu đựng các biến động của TTCK. Tuy nhiên, mô hình đa năng hoàn toàn có một số hạn chế: TTCK phát triển chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống Ngân hàng dùng vốn để cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán, do đó Ngân hàng thường quan tâm đến lĩnh vực Ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán. Điều này đã thể hiện sự kém phát triển của TTCK Châu Âu so với TTCK Mỹ.
Bên cạnh đó, nó còn có nhược điểm là trong trường hợp biến động của TTCK, hậu quả có thể tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nếu không có sự tách biệt giữa hai loại hình kinh doanh này, thực tế đã chứng minh thông qua cuộc đại khủng hoảng 1929 -1933, hay vụ phá sản Ngân hàng Barings của Anh năm 1995. Ngược lại, trong trường hợp thị trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán của các Ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan là một minh chứng.
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của CTCK
Do vai trò của CTCK đối với TTCK, vì nó là một loại hình kinh doanh ảnh hưởng nhiều đến lợi ích công chúng và rất dễ bị lợi dụng nhằm kiếm lợi riêng, luật pháp các nước đều quy định rất chặt chẽ đối với các hoạt động của CTCK. có rất nhiều quy định nguyên tắc đối với hoạt động của CTCK nhưng nhìn chung trên thế giới các CTCK phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định để bảo vệ cho các nhà đầu tư.
1.1.4.1. Nhóm nguyên tắc đạo đức
- CTCK phải bảo đảm giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng.
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy có tinh thần trách nhiệm.
- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của Công ty.
- Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các thông tin về tài khoản khách hàng khi chưa được khách đồng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước.
- CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng phải gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận các khoản đầu tư mà họ tư vấn.
- CTCK không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình.
- Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các CTCK không được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
- ở nhiều nước, các CTCK phải đóng góp tiền vào quỹ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để báo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp CTCK mất khả năng thanh toán.
Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng.
1.1.4.2. Nhóm nguyên tắc tài chính.
- Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán báo cáo quy định của UBCKNN. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp đó được dùng phục vụ cho giao dịch của khách hàng.
- CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
1.1.5. vai trò của CTCK
Các CTCK ra đời và phát triển một cách nhanh chóng như vậy là do chúng đóng một vai trò rất quan trọng trên TTCK. Để hiểu rõ sự cần thiết của các CTCK trên TTCK chúng ta xem xét vai trò của các CTCK đối với từng đối tượng, chủ thể khác nhau trên TTCK.
1.1.5.1. Đối với các tổ chức phát hành
Mục tiêu tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, Bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ cho các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
1.1.5.2. Đối với các nhà đầu tư
Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.
1.1.5.3. Đối với TTCK
Với TTCK, CTCK thể hiện hai vai trò:
Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường:
Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và bán phải thông qua các CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK, các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính:
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính và các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó, vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp một, do thực hiện các nghiệp vụ như Bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động được nguồn vốn đưa vào sản xuất, kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp hai. Điều này làm giảm rủi ro, tạo nên tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp hai, do thực hiện giao dịch mua và bán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
1.1.5.4. Đối với các cơ quan quản lý thị trường:
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người Bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mau bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường, do vậy họ nắm được tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của các tổ chức phát hành như là các nhà đầu tư trên TTCK.
Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các nhà đầu tư...Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn bóp méo thị trường.
Như vậy, các CTCK với vai trò có ảnh hưởng rộng rãi tới các chủ thể trên TTCK: Tạo ra cơ chế huy động vốn, cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán và góp phần điều tiết bình ổn thị trường là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng, do đó nó có một vị trí quan trọng trên TTCK.
1.2. Các hoạt động của CTCK
1.2.1. Các hoạt động chính
1.2.1.1. Hoạt động Môi giới chứng khoán
Bản chất hoạt động môi giới
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hao hồng. Theo đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Rủi ro mà Nhà môi giới hay gặp phải là các khách hàng của mình hoặc Nhà môi giới giao dịch khác có thể không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn.
Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng những sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
Những quy định cần thiết trong hoạt động môi giới
Trong quá trình thực hiện các bước của lệnh theo yêu cầu của khách hàng, CTCK và khách hàng đặt lệnh phải tuân thủ những quy định trong quy chế CTCK hay pháp luật của Nhà nước về chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Bao gồm các quy định sau:
+ CTCK phải thực hiện chính xác các lệnh của khách hàng. Mọi sai sót gây ra từ phía CTCK, dẫn đến việc thực hiện sai lệnh gây thiệt hại cho khách hàng. CTCK và nhân viên CTCK phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt tài chính và pháp luật.
+ Theo yêu cầu của khách hàng, hàng tháng, hàng quý CTCK sẽ gửi bản báo cao chứng khoán đến khách hàng để đối chiếu số tiền và chứng khoán trên tài khoản của khách hàng.
+ CTCK có trách nhiệm tổ chức việc sắp xếp, theo dõi thực hiện các lệnh của khách hàng một cách cố hiệu quả nhất. Trong trường hợp chứng khoán của khách hàng mang tên CTCK, CTCK phải tổ chức theo dõi và cung cấp các thông tin khi khách hàng yêu cầu, cũng như việc chuyển cổ tức đến khách hàng.
+ Việc CTCK vay mượn chứng khoán hay tiền của khách hàng trên tài khoản tại CTCK, phải được ghi rõ trong hợp đồng giao dịch chứng khoán. Nếu điều này không ghi trong hợp đồng, CTCK không được sử dụng chứng khoán hay số tiền nói trên, mọi việc vi phạm đều sử theo luật định.
+ CTCK phải thông báo kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng chậm nhất là ngày làm việc kế tiếp ngày thực hiện giao dịch. Nếu thông báo chậm trễ, CTCK phải chịu trách nhiệm về việc thanh toán và chuyển giao chậm trễ của khách hàng.
+ Khách hàng có trách nhiệm thanh toán hay chuyển giao số chứng khoán khi CTCK thực hiện đúng những yêu cầu của khách hàng.
+ Khi muốn sửa đổi hay hủy bỏ lệnh đã đặt, khách hàng phải thông báo cho CTCK biết để kịp thời điều chỉnh. Trong trường hợp lệnh đã được thực hiện thì việc sửa đổi hay hủy bỏ sẽ không có giá trị, khách hàng có trách nhiệm thanh toán hay chuyển giao số chứng khoán đã được thực hiện.
+ Khi khách hàng uỷ quyền cho CTCK hay một ngươiì môi giới toàn quyền sử dụng tài khoản của mình để mua bán chứng khoán, khách hàng phải làm giấy uỷ quyền cho CTCK hay người môi giới đó. Trình tự và thủ tục theo đúng pháp luật hiện hành và phải có sự đồng ý của CTCK hoặc Ngân hàng, nơi khách hàng mở tài khoản.
+ Khi nhận được thông báo kết quả giao dịch, nếu không đồng ý với kết quả này, khách hàng phải thông báo cho CTCK tra soát.
+ Mọi thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán từ chủ cũ sang chủ mới do CTCK liên hệ trực tiếp với Công ty phát hành chứng khoán hoặc thông qua Trung tâm bảo quản chứng khoán để thực hiện.
+ Mức hoa hồng cho các hoạt động môi giới chứng khoán thường được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên tổng số giao dịch và theo nguyên tắc doanh số giao dịch càng lớn thì tỷ lệ hoa hồng càng thấp. Mức tối thiểu và tối đa về hoa hồng cho hoạt động môi giới chứng khoán sẽ do UBCKNN quy định.
Kỹ năng của người môi giới chứng khoán thể hiện trên các khía cạnh sau
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề Môi giới chứng khoán đòi hỏi phải có phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
+ Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người môi giới với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng người môi giới phải đặt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động dịch vụ tài chính và phải được thể hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng.
+ Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: Có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng nhưng nhìn chung có thể được gộp vào nhóm 6 phương cách sau: những đầu mối được gây dựng từ Công ty hoặc tài khoản chuyển nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các chiến dịch viết thư; các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen.
Quy trình thực hiện hoạt động môi giới
+ Bước 1: Mở tài khoản
Trước khi nhận lệnh của khách hàng, CTCK phải yêu cầu khách hàng mở tài khoản giao dịch. Tài khoản đó có thể là tài khoản tiền mặt hay tài khoản ký quỹ. Tài khoản giao dịch để dùng cho các giao dịch thông thường còn tài khoản ký quỹ dùng cho giao dịch ký quỹ. Sở dĩ phải có hai loại tia khoản như vậy là vì yêu cầu quản lý đối với giao dịch ký quỹ khách yêu cầu quản lý đối với giao dịch thông thường.
+ Bước 2: Nhận đơn đặt hàng
Sau khi tài khoản được mở, khách hàng có thể ra lệnh mua, bán cho Công ty môi giới. Hình thức đặt lệnh có thể bằng điện thoại, telex hay bằng phiếu lệnh.
Nếu là lệnh bán Công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị phải ký quỹ một phần số chứng khoán theo một tỷ lệ do UBCKNN quy định.
Nếu là lênh đặt mua, Công ty phải đề nghị khách hàng mức tiền ký quỹ nhất định trên tài khoản khách hàng ở Công ty. Khoản tiền này thường bằng 40% trị giá mua theo lệnh.
Phòng môi giới chứng khoán của Công ty sau khi phân loại các lệnh mua bán và hoàn tất thủ tục ban đầu thoả thuận với khách hàng như: Mức ký quỹ, hoa hồng, lệ phí… sẽ thông báo bằng điện thoại, telex hoặc Fax cho thư ký văn phòng đại diện của Công ty có mặt tại quầy giao dịch trong SGDCK hoặc tại TTCK không tập trung.
+ Bước 3: Chuyển lênh tới thị trường phù hợp để thực hiện
Những người đại diện có giấy phép của CTCK hoạt động với vai trò trung gian giữa khách hàng với Công ty. Trước đây, người đại diện gửi tất cả lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng tới bộ phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của Công ty. ở đây, một thư ký sẽ kiểm tra xem chứng khoán đó được mua bán trên thị trường nào (phi tập trung hay tập trung). Sau đó người thư ký sẽ gửi lệnh này tời thị trường để thực hiện.
Ngày nay, những CTCK có mạng lưới thông tin trực tiếp từ các trụ sở chính và các phòng giao dịch. Vì vậy, các lệnh mua bán chứng khoán không còn được chuyển đến phòng thực hiện lệnh nữa mà được chuyển trực tiếp tới phòng giao dịch của SGDCK.
+ Bước 4: Xác nhận cho khách hàng
Sau khi lệnh đã được thực hiện sau, CTCK gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh.
Thông thường, các Công ty môi giới chứng khoán gửi xác nhận trong ngày làm việc hôm sau so với ngày mua bán chứng khoán. Xác nhận này cũng giống như một hoá đơn hẹn ngày thanh toán với khách hàng.
+ Bước 5: thanh toán bù trừ giao dịch
Hoạt động thanh toán bù trừ giao dịch bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao dịch.
Hiện nay các nước áp dụng đối chiếu cố định (look in): SGDCK sẽ tiến hành bù trừ giao dịch trên cơ sở nội dung lệnh của các CTCK chuyển vào hệ thống, những sai sót của CTCK tự sửa chữa. Phương pháp này sẽ giảm thiểu rất nhiều các hoạt động đối chiếu điều chỉnh giao dịch.
Việc bù trừ các kết quả giao dịch sẽ kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này sẽ được gửi cho các CTCK và là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao dịch chứng khoán.
+Bước 6: Thanh toán và giao hàng
Ngày nay với hệ thống thanh toán hiện đại, hầu như tất cả đều được thực hiện thông qua hệ thống chuyển khoản.
Đến ngày thanh toán, người mua sẽ nhận được một giấy chứng nhận quyền sở hữu về số chứng khoán do Công ty bảo quản chứng khoán xác nhận, số chứng khoán này nằm trong tài khoản lưu trữ chứng khoán mà CTCK đã mở tại Công ty Bảo quản.
Đối với người bán chứng khoán sẽ nhận được một giấy báo cáo trên tài khoản của mình ở CTCK hoặc thông qua Ngân hàng đại diện của khách hàng.
Phí môi giới
Hoạt động với tư cách là nhà đại lý, nên CTCK được hưởng hoa hồng môi giới. Tiền hoa hồng thường được tính phần trăm trên tổng giá trị một giao dịch. Số tiền mua bán càng nhỏ thì số phần trăm hoa hồng càng lớn. TTCK Tokyo là một trong những số ít TTCK phát triển hiện còn giữ nguyên tắc hoa hồng cố định cho các môi giới chứng khoán. Theo đó mức hoa hồng cao thấp tuỳ thuộc vào giá trị hợp đồng (nhưng mức cao nhất là 1,15%). Có một số nước hiện nay vẫn duy trì tỷ lệ hoa hồng cố định như ở Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan.
Thông thường, các CTCK đều có một chế độ hoa hồng của mình và thỉnh thoảng lại điều chỉnh cho thích hợp. Các Công ty nhỏ thường phải chờ xem những hãng lớn như Merril Luynch (Mỹ), Nomura (Nhật)… cho biết tỷ suất hoa hồng của họ rồi mới công bố tỷ suất của mình.
Thuế giao dịch chứng khoán
Cũng như tất cả các loại hình kinh doanh khá, các CTCK phải nộp các loại thuế đối với hoạt động kinh doanh của mình. Doanh thu chịu thuế sẽ phụ thuộc vào từng hoạt động mà Công ty thực hiện. Đối với hoạt động môi giới hay Bảo lãnh, thuế sẽ được đánh trên cơ sở tổng mức hoa hồng hay triết khấu mà Công ty thực hiện. Đối với hoạt động tự doanh, thuế được đánh trên mức lãi vốn, tức là chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán. Ngoài ra, các CTCK còn phải chịu thuế lợi tức trong trường hợp Công ty kinh doanh có lãi.
Tuy nhiên, để khuyến khích mọi người tham gia mua Trái phiếu Chính phủ, các nước thường có quy định không đánh thuế lãi vốn hay thuế đối với các khoản lãi nhận được từ việc đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ.
1.2.1.2. Hoạt động Tự doanh.
Bản chất hoạt động tự doanh
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò nhà tạo lập thị trường nắm giữ một số chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính Công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân Công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ mô._.i giới và nghiệp vụ tự doanh, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định hai loại hình CTCK là Công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới chứng khoán và CTCK có chức năng tự doanh.
Khác với nghiệp vụ mô giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh bằng chính nguồn vốn của Công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò các nhà tạo lập thị trường.
Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh
+ Giao dịch gián tiếp: Tức là CTCK đặt các lệnh mua và bán của mình trên sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với khách hàng nào không xác định trứơc.
+ Giao dịch trực tiếp: Tức là giao dịch tay đôi giữa 2 CTCK hay giữa CTCK với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng giao dịch loại này thường là các loại trái phiếu, các cổ phiếu đăng ký giao dịch trên thị trường OTC.
Yêu cầu đối với CTCK
+ Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ moi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và Công ty.
+ Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưutiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của Công ty. Nguyên tắc này đảm bạơ công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
+ Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm góp phầnlàm bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các CTCK phải dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
+ Hoạt động tạo thị trường: Khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tại thị trường cho các chứng khoán mới này các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua và bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoăc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy họ sẽ duy trì một thị trường liên tục với chứng khoán mà họ kinh doanh.
1.2.1.3. Hoạt động Bảo lãnh phát hành.
Bản chất Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra chông chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện Bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây là nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành của các CTCK và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK.
Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng Bảo lãnh(tổ chức Bảo lãnh) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức Bảo lãnh phát hành không chỉ có các CTCK mà còn bao gốm các định chế tài chính khác như Ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc CTCK nhận Bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn lại Ngân hàng đầu tư thường đứng ra Bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp Bảo lãnh phát hành) sau đó chuyên phân phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác.
Các hình thức Bảo lãnh phát hành
+ Bảo lãnh chắc chắn: Là hình thức Bảo lãnh mà Công ty Bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của Công ty phát hành, sau đó sẽ bán ra công chúng. Giá mua của Công ty Bảo lãnh là một giá được ấn điịnh. Thường là thấp hơn giá thị trường, giá bán của Công ty Bảo lãnh là giá thị trường. Hoặc toàn bộ chứng khoán với một giá nhất định cho đến lúc không còn ai mua thì Công ty sẽ nhận mua toàn bộ số chứng khoán còn lại. Đây là hình thức Công ty Bảo lãnh hoạt động kinh doanh, hoạt hoạt động cho chính họ và sẵn sàng chịu mọi rủi ro. Phương thức này thông dụng khi việc mua bán chứng khoán trở nên phổ biến và các CTCK có thể dự đoán được một cách khá chính xác kết quả của nghiệp vụ nhận bán chứng khoán.
+ Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức Bảo lãnh mà Công ty Bảo lãnh phát hành hứa sẽ cố gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho Công ty phát hành. Trường hợp không bán hế, số chứng khoán còn lại được trả về cho Công ty phát hành. Người Bảo lãnh được hưởng hoa hồng trên số chứng khoán đã được bán ra.
Đây là phương thức nhận bán ít mạo hiểm hơn so với phương thức trên thường được các CTCK mới thành lập, không muốn phiêu lưu nhiều, nên chỉ đơn giản muốn thu lợi nhuận từ hoa hồng được hưởng do bán hộ.
+ Bảo lãnh đảm bảo tất cả hoặc không: Đây là trường hợp áp dụng kho Công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một mục tiêu nhất định. Nếu huy động được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ thực hiện phát hành, nếu không huy động đủ thì sẽ huỷ bỏ. Cũng có thể, để cho việc chào bán có hiệu quả, nhẹ nhàng hơn trong trách nhiệm của người Bảo lãnh, Công ty phát hành yêu cầu phải phát hành được một số lượng chứng khoán tối thiểu nào đó trong tổng số chứng khoán cần phát hành, nếu đạt đươc số tối thiểu này thì số còn lại sẽ phát hành tiếp, nếu không đạt được số tối thiểu đó thì sẽ huỷ bỏ toàn bộ.
Quy trình Bảo lãnh
+ Lập nghiệp đoàn Bảo lãnh
Lập nghiệp đoàn: Nếu Công ty phát hành là một Công ty nhỏ, giá trị chứng khoán phát hành không lớn, thì có thể chỉ cần một CTCK đứng ra Bảo lãnh phát hành. Nhưng nếu đó là một Công ty lớn, số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng Bảo lãnh của một CTCK thì một nghiệp đoàn bao gồm một số CTCK và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập.
Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức Bảo lãnh chắc chắn. Trong nghiệp đoàn, sẽ có một Công ty Bảo lãnh chính hay còn gọi là người quản lý, thường là người khởi đầu cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các thủ tục giấy tờ với Công ty phát hành. Nó cũng quyết định CTCK nào sẽ được mời tham gia nghiệp đoàn cũng như sẽ chi trả phí Bảo lãnh cho các Công ty khác trong nghiệp đoàn.
Nhóm bán: Trong những trường hợp cần thiết, nghiệp đoàn Bảo lãnh có thể tổ chức thêm một “nhóm bán” để giải quyết việc bán chứng khoán nhanh hơn. Nhóm bán gồm những CTCK không nằm trong nghiệp đoàn Bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không chịu trách nhiệm về những chứng khoán không bán được. Vì thế, thường thù lao cho họ ít hơn so với CTCK là thành viên của nghiệp đoàn.
+ Phân tích, đánh giá chứng khoán
Định giá chứng khoán cho một đơth phát hành mới là một nghệ thuật, một khoa học. Giá của cổ phiếu cũng như lãi suất của trái phiếu không được định trước ngày chứng khoán được phép bán ra cho công chúng. Giá thị trường của chứng khoán rất bất thường, có thể hấp dẫn vào buổi sáng nhưng có thể không hấp dẫn vào buổi chiều nữa.
Đối với trái phiếu, việc định giá có đơn giản hơn, vì trên thị trường đã có sẵn lãi suất chuẩn và giá yết của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái phiếu tương tự.
Định giá cho một cổ phiếu, việc định giá rất phức tạp. ở đây người quản lý vấp phải một vấn đề nan giải: Một mặt, người phát hành cổ phiếu muốn nhận càng nhiều tiền càng tốt từ đợt bán này mặt khác, người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán được và bán càng nhiều càng tốt. Nếu giá cao quá công chúng sẽ không muốn mua nữa, nếu thấp quá thì chứng khoán sẽ mau chóng chuyển nên giá cao hơn ở thị trường thứ cấp và người phát hành sẽ bị thiệt.
Thông thường, việc định giá một cổ phiếu tuỳ thuộc vào việc định lượng nhiều yếu tố: Lợi nhuận của Công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỷ lệ giá cả-lợi tức so với những Công ty tương tự và tình hình thị trường lúc chào bán.
+ Ký hợp đồng Bảo lãnh
Sau khi nghiệp đoàn được thành lập xong, đồng thời tiến hành một số công việc như phân tích định giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán…, nghiệp đoàn Bảo lãnh sẽ ký một hợp đồng với Công ty phát hành, trong đó xác định: Phương thức Bảo lãnh, phương thức thanh toán và khối lượng Bảo lãnh phát hành.
+ Đăng ký phát hành chứng khoán (Nộp đơn xin Bảo lãnh và Bản cáo bạch).
Sau khi ký hợp đồng Bảo lãnh, nghiệp đoàn phải trình lên cơ quan quản lý đơn xin đăng ký phát hành cùng một Bản cáo bạch thị trường, có đầy đủ chữ ký của đơn vị phát hành, Công ty Bảo lãnh, Công ty luật. Bản cáo bạch là thông báo của tổ chức phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán.
Thường thì cơ quan quản lý xem xét tính trung thực và hợp lệ của Bản cáo bạch để chấp thuận cho phép phát hành hay từ chối trong thời hạn 30 ngày.
Trong thời gian này, có thể Công ty Bảo lãnh cùng Công ty Phát hành sẽ phải cung cấp thêm tài liệu để giải trình các chi tiết chưa đủ, chưa rõ trong Bản cáo bạch.
+ Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng ký
Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát Bản cáo bạch và phiếu đăng ký mua chứng khoán và đợi khi đăng ký phát hành chứng khoán có hiệu lực, CTCK (Hoặc nghiệp đoàn Bảo lãnh) sẽ tiến hành phân phối chứng khoán.
Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể phân phối chứng khoán ra công chúng bằng các hình thức: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, như các quỹ đầu tư, quỹ Bảo hiểm, quỹ hưu trí…, bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành, bán ra công chúng.
+ Thanh toán
Đến đúng ngày theo hợp đồng, Công ty Bảo lãnh phát hành phải giao tiền cho Công ty phát hành. Số tiền phải giao là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao cho Công ty Bảo lãnh.
Thù lao cho Công ty Bảo lãnh có thể là một khoản phí đối với hình thức Bảo lãnh chắc chắn hoặc hoa hồng đối với các hình thức Bảo lãnh khác. Mức phí Bảo lãnh cao hay thấp tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành cùng điều kiện thị trường lúc phát hành, do hai bên thoả thuận nói chung, nếu đó là đợt phát hành lần đầu thì mức phí và hoa hồng phải cao hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu, phí và hoa hồng Bảo lãnh còn tuỳ thuộc vào lãi suất trái phiếu (Nếu lãi suất cao thì dễ bán, chi phí sẽ thấp và ngược lại).
Hoa hồng: là một tỷ lệ cố định (%) đối với một loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng cho các thành viên trong nghiệp đoàn là do các thành viên thương lượng với nhau.
Phí Bảo lãnh: Là mức chênh lệch giữa giá chứng khoán trên thị trường cho người đầu tư (người đầu tư phải trả) và số tiền Công ty phát hành nhận được.
1.2.1.4. Hoạt động Quản lý danh mục đầu tư.
Bản chất hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư khách hàng uỷ thác tiền cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc theo yêu cầu .
Nghiệp vụ này bao gồm các bước sau
+ Bước 1, xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: CTCK và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn tư đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác. Đồng thời, Công ty phải chứng minh cho khách hàng thấy được khả năng của mình, đặc biệt là khả năng chuyên môn và khả năng kiểm soát nội bộ, đây là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất của Công ty khi tham gia nghiệp vụ này. khả năng chuyên môn của Công ty chính là khả năng đầu tư vốn đem lại lợi nhuận cho khách hàng còn khả năng kiểm soát nội bộ là việc Công ty có thể đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng, chống lại những thất thoát do vô ý hay cố tình của nhân viên Công ty.
+ Bước 2, Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa khách hàng và Công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên phí quản lý danh mục đầu tư.
+ Bước 3,Thực hiện các hợp đồng quản lý: CTCK thực hiện đầu tư vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải bảo đảm tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính Công ty.
+ Bước 4, Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi CTCK bị nhưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản. Khi đến hạn kết thúc hợp đồng hay trong một số trường hợp Công ty giải thể, phá sản, ngừng hoạt động…Công ty phải cùng với khách hàng bàn bạc và quyết định xem có tiếp tục gia hạn hay thanh lý hợp đồng. Trong trường hợp CTCK phá sản, tài sản uỷ thác của khách hàng phải được tách riêng và không được dùng để trả các nghĩa vụ nợ của CTCK.
Thực hiện nghiệp vụ này cho khách hàng, CTCK vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường CTCK nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm trên số lợi nhuận thu về cho khách hàng.
1.2.1.5. Hoạt động Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Bản chất hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Cũng như những loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Phân loại hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể do bất kỳ CTCK hay cá nhân nào tham gia hoạt động. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:
+ Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp (Gặp trực tiếp khách hàng hoặc qua thư từ điện thoại) và tư vấn gián tếp (thông qua ấn phẩm sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
+ Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý và TVUQ
+ Theo đối tượng của hoạt động tư vấn bao gồm:
Tư vấn cho người phát hành hay còn gọi là tư vấn tài chính Công ty. CTCK có thể sử dụng các kỹ năng của mình để tư vấn cho các Công ty về việc sát nhập, thâu tóm, cơ cấu vốn của Công ty để đạt mức độ hoạt động tối ưu và các vấn đề liên quan để thu phí tư vấn. Khi nghiệp vụ này đi kèm với nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành (Cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, Bản cáo bạch) càng có hiệu quả cao
Tư vấn đầu tư, đó là việc CTCK xác định các đặc tính và điều kiện chứng khoán, đánh giá TTCK, phân tích tình hình tài chính Công ty phát hành để cho việc mua bán chứng khoán được thành công. CTCK đưa ra những lời khuyến nghị, thường phải phù hợp với tình hình tài chính và mục tiêu của nhà đầu tư. Nghiệp vụ này, muốn đưa lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư để từ đó CTCK cũng thu được tiền hoa hồng thoả đáng đòi hỏi CTCK có đội ngũ nhân viên nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn cao.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám họ bỏ ra để kinh doanh đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyến cáo đối với khách hàng, vì với lời khuyến đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản phí về dịch vụ tư vấn (Bất kể dịch vụ đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố đinh nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ,. Có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
+ Không đựơc dụ dỗ, mời chào khách hàng mau hay bán một loại chứng khoán nào đó những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu
1.2.2. Các hoạt động phụ trợ
1.2.2.1. Hoạt động Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi số, khách hàng phải mở tài khoản lưu ky chứng khoán tại các CTCKhoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
1.2.2.2. Hoạt động Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
1.2.2.3. Hoạt động Tín dụng
Đối với các TTCK phát triển bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để họ thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ.
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một lần, số còn lại sẽ do CTCK ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận khách hàng phải trả hoàn đủ cả gốc và lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì Công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
1.2.2.4. Hoạt động Quản lý quỹ
ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép CTCK được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư chứng khoán. CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của CTCK
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Yếu tố tổ chức quản lý
Ta đã biết hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vây, ứng với các TTCK khác nhau, các CTCK khác nhau sẽ có hệ thống tổ chức quản lý khác nhau. Sở dĩ như vậy, vì việc tổ chức quản lý của một CTCK sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng của Công ty. Nếu tổ chức quản lý không khoa học sẽ làm cho việc thực hiện các nghiệp vụ không đồng bộ, ăn khớp dẫn đến sai sót và kết quả là ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động khác của Công ty. Do các nghiệp vụ của CTCK có đặc thù là độc lập với nhau nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định với nhau, vì vậy tổ chức quản lý của CTCK phải đáp ứng được yêu cầu này. Các phòng ban phải tổ chức hợp lý sao cho vừa đảm bảo nghiệp vụ được thực hiện nhanh chóng, chính xác, vừa bảo mật thông tin. Có như vậy thì CTCK mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một cách an toàn và ổn đinh.
1.3.1.2. Yếu tố con người
Yếu tố con người ở đây chủ yếu là nói đến đội ngũ nhân viên của CTCK. Chứng khoán là một lĩnh vực đòi hỏi người nhân viên phải có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có khả năng phân tích đánh giá cũng như khả năng nhạy bén đối với các thông tin của thị trường. Vì vậy có thể nói nhân viên của CTCK phải là những chuyên gia trong lĩnh vực mình phụ trách. Nếu họ nhận đinh sai một thông tin nào đó sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư mất lòng tin vào Công ty. Trong trường hợp sai sót đó còn nhỏ thì khách hàng sẽ từ bỏ Công ty này sang Công ty khác, nhưng nếu sai sót lớn thì không những hình ảnh của Công ty bị ảnh hưởng mà nó còn tác động đến thị trường, bởi khách hàng sẽ gây ra phản ứng dây truyền nhanh chóng và khó có thể dự đoán điều gì xảy ra.
Ngoài ra cũng không thể phủ nhận ảnh hưởng của các nhà quản lý các CTCK trong yếu tố về con người, họ là người quyết định các chính sách, chiến lược của Công ty, ngoài việc phải am hiểu tổng thể các nghiệp vụ, họ còn cần có khả năng tổ chức lãnh đạo. Vì vậy đối với CTCK, yêu cầu đối với một người quản lý là rất cao.
1.3.1.3. Yếu tố tài chính
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề tài chính cũng là vấn đề rất quan trọng. Tình hình tài chính của Công ty tốt tức là Công ty làm ăn hiệu quả, có lãi. Nó sẽ quyết định định hướng cũng như quy mô hoạt động kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo của Công ty.
Nếu tài chính không tốt, không những hoạt động kinh doanh của Công ty không thể mở rộng được mà còn làm giảm sút uy tín và lòng tin của khách hàng đối với Công ty. Mà đối với CTCK ảnh hưởng của Công ty đối với khách hàng là rất quan trọng. Vì trong chức năng hoạt động kinh doanh của Công ty thực chất là phải cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các yêu cầu về chứng khoán của khách hàng, nếu không có đủ năng lực tài chính để đưa ra các tiện ích phục vụ khách hàng thì sẽ không còn ai muốn hợp tác với Công ty nữa.
Riêng đối với Việt Nam thì yếu tố tài chính còn đặc biệt quan trọng bởi số vốn điều lệ của Công ty quyết định cả các nghiệp vụ mà Công ty được phép hoạt động. Hơn nữa, do khách hàng mở tài khoản tại CTCK nên Công ty không những phải coi trọng tài chính của mình mà còn phải quan tâm tới các tài khoản của khách hàng. Công ty phải mở và quản lý tài sản của khách hàng tách biệt với nhau.
1.3.1.4. Yếu tố công nghệ
Cuộc sống ngày càng phát triển nên công nghệ đối với tất cả các ngành nghề đều rất quan trọng. Nhưng đối với ngành chứng khoán thì thời gian gắn liền với tiền bạc nếu thông tin không nhanh chóng, chính xác thì sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Do CTCK là trung gian nên họ là cầu nối giữa các chủ thể của thị trường, vì vậy thông tin họ cập nhật được cũng như phải công bố lại cho nhiều đối tượng, nhiều địa điểm. Vậy nếu không có công nghệ hiện đại, thông tin không truyền đến được với các nhà đầu tư, hay TTGD không thể chuyển thông tin cho các CTCK thì khách hàng bị thua lỗ, CTCK cũng thua lỗ và thị trường khó có thể hoạt động lành mạnh được. Ngay trong nội bộ một Công ty, việc trang bị công nghệ để thông tin giữa các phòng ban, nhân viên cũng là một yếu tố tác động không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của Công ty. ở những nước có TTCK phát triển, công nghệ của họ vô cùng hiện đại vì vậy họ có thể mở rộng thị trường, rút ngắn mọi khoảng cách giữa các quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới phát triển hơn. Còn đối với một TTCK mới đi vào hoạt động chưa lâu như ở nước ta thì vấn đề công nghệ có ảnh hưởng rất lớn và là yếu tố cần thiết hiện nay cho các CTCK để có thể phát triển các nghiệp vụ của mình.
1.3.1.5. Kiểm soát nội bộ
Nguyên tắc bảo mật thông tin của các CTCK là một nguyên tắc sẽ quyết định yếu tố thắng lợi trong cạnh tranh của Công ty. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ là rất cần thiết. Tất nhiên không phải chỉ có thông tin mới cần kiểm soát, ngay từ các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục tiến hành nghiệp vụ của CTCK đều phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo không vi phạm pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động của Công ty. Để lộ thông tin hay vi phạm pháp luật đều dẫn đến kết quả là Công ty sẽ thất bại trọng hoạt động kinh doanh.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính của một quốc gia hay nói rộng ra nó là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của TTCK. Và dĩ nhiên CTCK cũng chịu sự tác động rất nhiều của nền kinh tế. Nếu kinh tế phát triển các doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều lợi nhuận, họ mong muốn được mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó họ cần vốn và phương pháp hữu hiệu để có nguồn vốn trung và dài hạn là huy động trên TTCK. Khi đó họ đã trở thành những nhà phát hành. Nếu là cá nhân bạn có thể dùng thu nhập nhiều hơn do kinh tế phát triển để đầu tư chứng khoán thu lợi nhuận. Tất cả những hoạt động đó CTCK đều có thể đứng ra thực hiện cho họ vì đó là chức năng của CTCK. CTCK phát triển sẽ thúc đẩy TTCK phát triển và TTCK lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là ảnh hưởng tích cực. Ngược lại, nếu kinh tế không phát triển mọi điều trên không xảy ra, không có nhà đầu tư thì không có thị trường và cũng không có CTCK.
1.3.2.2. Yếu tố pháp lý
Đây là yếu tố không thể thiếu đối với TTCK nói chung và với CTCK nói riêng. Như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, CTCK cần phải tuân thủ pháp luật của mỗi quốc gia mà trong đó nó được thành lập. Có thể coi yếu tố pháp lý ở đây là những luật định của các cơ quan quản lý và giám sát TTCK của mỗi quốc gia. Họ có quyền cao nhất trong việc ra các quyết định đối vơi thị trường và vì vậy những quyết định đó có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường. Nếu họ thay đổi một số quy định, giả sử về thủ tục phát hành,về phiên giao dịch, về hình thức khớp lệnh hay về thuế một cách tiêu cực hay tích cực đều có những tác động tương ứng ngay tới các CTCK. CTCK sẽ hoạt động thuận tiện hơn, có hiệu quả hơn hay sẽ bị bó buộc, làm ăn thua lỗ một phần phụ thuộc vào yếu tỗ pháp lý do các cơ quan quản lý và giám sát thị trường ban hành.
1.3.2.3. Sự phát triển của TTCK.
CTCK không thể tồn tại và tách rời khỏi TTCK. Sự phát triển của TTCK ở đây là sự phát triển cả cung và cầu chứng khoán, các thành viên tham gia thị trường cùng sự phát triển của các trung gian tài chính và các hoạt động khác. Một thị trường không có hàng hoá thì không tồn tại vì không có gì để mua và bán. Nếu TTCK không phát triển thì CTCK cũng không phát triển được vì CTCK là một chủ thể chính tham gia trên TTCK. TTCK phát triển cùng với hệ thống công bố thông tin, hệ thống đăng ký, hệ thống công bố công khai của nó đã cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán, tăng độ tin cậy cho thị trường và giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Từ đó, nhà đầu tư có niềm tin tham gia đầu tư, mà CTCK là cầu nối cho họ.
1.3.2.4. Tâm lý nhà đầu tư
Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của CTCK. Một CTCK không thể hoạt động tốt nếu các nhà đầu tư có tâm lý không tốt về TTCK nói chung và CTCK nói riêng. Từ đó các CTCK luôn phải tìm cách tạo những hình ảnh tốt trong các nhà đầu tư để từ đó họ tin tưởng vào sự phát triển của TTCK và hoạt động của CTCK giúp cho hoạt động của CTCK trở lên thuận lợi và có hiệu quả hơn.
Trên đây là những vấn đề chung về hoạt động của CTCK, sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về thực trạng hoạt động của CTCK Bảo Việt.
Chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh của
CTCP chứng khoán Bảo Việt
2.1. Khái quát về CTCK Bảo Việt
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CTCK Bảo Việt
2.1.1.1. Lịch sử hình thành Bảo Việt
Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam đòi hỏi một khối lượng vốn lớn nhất là nguồn vốn dài hạn, mà trong điều kiện hiện nay thị trường mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Xuất phát từ đòi hỏi đó. TTCK với tư cách là kênh huy động vốn quan trọng cho quá trình CNH-HĐH đã trở thành một nhu cầu cấp thiết, khách quan trong tình hình hiện nay, một nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.
Tuy nhiên, TTCK muốn thiết lập được thì cần phải tạo hàng hoá và đồng thời phải có những trung gian nhằm tạo thị trường, mua bán, giao dịch các loại hàng hoá đó. Trong các trung gian tài chính không thể không nhắc đến vai trò quan trọng không thể thiếu của các CTCK. Như vậy, sự ra đời của TTCK cũng đồng nghĩa với việc thành lập các CTCK.
Để chuẩn bị cho sự ra đời của các CTCK, sau khi thành lập UBCKNN, Chính phủ đã ra nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và TTCK, trong đó có những quy định vê CTCK. Trong nghị định có quy định: một CTCK muốn được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán phải là CTCP hoặc Công ty TNHH đáp ứng các điều kiện sau:
Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành chứng khoán.
Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Có mức vốn pháp định đáp ứng được quy định của từng loại hình kinh doanh như sau:
+ Môi giới chứng khoán
:
3 tỷ đồng
+ Tự doanh chứng khoán
:
12 tỷ đồng
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán
:
22 tỷ đồng
+ Tư vấn đầu tư chứng khoán
:
3 tỷ đồng
+ Quản lý danh mục đầu tư
:
3 tỷ đồng
Như vậy, nếu CTCK muốn thực hiện cả 5 nghiệp vụ thì phải có khả năng tài chính tối thiểu là 43 tỷ đồng (vốn pháp định).
Các CTCK ở Việt nam được hình thành dưới dạng Công ty tài chính độc lập hoặc Công ty con trực thuộc doanh nghiệp nhà nước, Ngân hàng thương mại, các CTCP, Công ty TNHH có tư cách pháp nhân riêng, hạch toán độc lập. Việc bắt buộc các CTCK là CTCP hoặc Công ty TNHH nhằm bảo vệ lợi ích cho khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng doanh nghiệp nhằm phục vụ lợi ích riêng của một số người. Ngoài ra, CTCP hay TNHH phải tuân thủ chế độ báo cáo thông tin chặt chẽ hơn, cũng như phải đáp ứng yêu cầu quản lý cao hơn hoặc loại hinh doanh nghiệp khác. Như vậy, có thể nói ở Việt nam hiện nay chưa tồn tại hình thức CTCK quốc doanh. Sở dĩ như vậy là vì theo các quy định hiện hành của nước ta thì các doanh nghiệp Nhà nước muốn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán cũng phải thành lập Công ty con kinh doanh độc lập dưới dạng CTCP hoặc Công ty TNHH.
CTCP chứng khoán Bảo Việt (BVSC) là CTCK đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, cổ đông sáng lập là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) và chính thức được phép tham gia hoạt động kể từ ngày 26/11/1999 theo giấy phép hoạt động số 01/GPHĐKD do UBCKNN cấp.
Trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam, số lượng các CTCK chưa nhiều và cũng chưa có sự xuất hiện của các CTCK._.ngoại trừ khả năng cũng có thể có những biến động khó lường chính vì vậy trong năm 2004 Công ty xác định vẫn tập trung ưu tiên vào mảng nghiệp vụ mang lại thu nhập ổn định và ít chịu ảnh hưởng của nhiều biến động trên thị trường chung như Nghiệp vụ Bảo lãnh và Đại lý phát hành, tăng cường hoạt động đầu tư tài chính và đẩy mạnh triển khai hơn nữa nghiệp vụ tư vấn. Các nghiệp vụ khác như hoạt động môi giới và dịch vụ tiện ích khách hàng vẫn phải được quan tâm duy trì.
3.1.2.1. Về hoạt động môi giới
Tuy doanh thu từ hoạt động môi giới có sụt giảm mạnh do nhiều ảnh hưởng khách quan từ tình hình thị trường chung, nhưng Công ty xác định Môi giới là một nghiệp vụ luôn được quan tâm duy trì, củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng các biện pháp :
Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả ứng dụng của trang Web, nâng cao chất lượng cung cấp thông tin qua các kênh như mạng Internet, bản tin tuần, tháng và nỗ lực sớm xây dựng hoàn thiện cơ sở dữ liệu kèm theo phân tích đánh giá về các doanh nghiệp, đặc biệt là các Công ty niêm yết.
Triển khai các hoạt động nhằm tăng cường khai thác doanh thu hoạt động môi giới như tiến hành triển khai CVPT , mở rộng mạng lưới đại lý giao dịch cá nhân dưới hình thức các cộng tác viên để thu hút thêm người đầu tư trong nước và thông qua các tổ chức, cá nhân có mối quan hệ để quảng bá, phát triển đối tượng khách hàng là người đầu tư nước ngoài, sớm nghiên cứu phương án mở đại lý giao dịch tại Móng Cái, Lào Cai để thu đối tượng khách hàng người Trung Quốc.
Phối hợp nghiên cứu xây dựng đề án giao dịch, tăng cường mối quan hệ đối với các tổ chức đầu tư để đẩy mạnh hoạt động giao dịch trái phiếu thứ cấp.
Tiếp tục phối hợp với các hoạt động lưu ký để tăng cường nghiệp vụ quản lý cổ đông và đại lý chuyển nhượng, thực hiện quyền cho các doanh nghiệp cổ phần chưa niêm yết.
Năm 2004, Công ty tiếp tục đặt mục tiêu duy trì thị phần giao dịch cổ phiếu ở mức trên 18%.
3.1.2.2.Về hoạt động tư vấn
Năm 2004, Công ty sẽ tiếp tục triển khai thực hiện các hoạt động đã ký kết từ năm 2003 chuyển sang, đồng thời tiếp tục khai thác và ký kết thêm các hoạt động mới cho thời gian cuối năm. Hoạt động tư vấn trong năm 2004 sẽ tập trung chủ yếu và Tư vấn tài chính, Tư vấn phát hành và Tư vấn CPH doanh nghiệp, ký kết các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc triển khai hoạt động Tư vấn sẽ được tăng cường chiều sâu, triển khai tỷ trọng và nâng cao chất lượng Tư vấn để đảm bảo uy tín, việc Tư vấn CPH tiếp tục triển khai theo hướng cung cấp dịch vụ Tư vấn trọn gói tư đầu cho đến khi bàn giao xong doanh nghiệp. Mục tiêu trong năm 2004 sẽ triển khai hoàn tất tối thiểu 10 hợp đồng Tư vấn CPH trọn gói, trong đó có ít nhất 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục triển khai đề án Tư vấn phát hành Trái phiếu Công ty cho Bộ Giao thông vận tải và xúc tiến triển khai Tư vấn phát hành Trái phiếu cho ít nhất 1 địa phương.
3.1.2.3. Về hoạt động Bảo lãnh và Đại lý phát hành
Công ty sẽ chủ động nắm bắt kế hoạch phát hành của kho bạc nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và các tổ chức phát hành khác tiến hành thăm dò và giúp các tổ chức đầu tư, củng cố và phát triển mạng lưới khách hàng, tổ chức tiến hành thương lượng mức lãi suất phát hành có lợi nhất và chủ động linh hoạt trong việc dàn xếp lãi suất với các tổ chức đầu tư phát hành, chủ động hơn trong việc chào dịch vụ với nhà đầu tư để có thể đẩy mạnh hoạt động Bảo lãnh phát hành.
Công ty tiếp tục tìm kiếm các đợt phát hành có lãi suất hấp dẫn của các Ngân hàng thương mại để triển khai đại lý phát hành. Tiếp tục duy trì mối quan hệ với NHMHB và một số NHTMCP khác để phối hợp trong các đề án phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu đồng thời triển khai đại lý phát hành.
3.1.2.4. Về hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Công ty vẫn sẽ tiếp tục thoả thuận triển khai hoạt động quản lý danh mục đầu tư cho Bảo Việt, nghiên cứu xây dựng và đề xuất triển khai một danh mục mới của Tổng Công ty Bảo hiểm nhân thọ. Công ty dự kiến sẽ thương lượng lại cới các điều kiện của thị trường.
Tiếp tục bám sát diễn biến thị trường để cơ cấu lại danh mục tự doanh, giảm bớt tỷ lệ chứng khoán có độ rủi ro cao, hoán đổi sang các loại chứng khoán có thị giá tương đương nhưng ổn định và chó chiều hướng gia tăng, tiếp tục thực hiện chiến lược quay vòng nhanh các loại chứng khoán niêm yết nếu thị trường cho phép để tìm kiếm lãi vốn hoặc giảm giá vốn bình quân. Xem xét điều chỉnh quy mô tự doanh linh hoạt cho phù hợp với điều kiện thị trường và khả năng tìm kiếm lợi nhuận, lập phương án trình Hội đồng quản trị, dành một phần vốn tự doanh để đầu tư có cân nhắc và một số cổ phiếu chuẩn bị niêm yết hoặc có triển vọng tăng trưởng và có tỷ suất đầu tư đạt trên 12%/năm.
3.1.2.5. Về hoạt động đầu tư tài chính
Dự kiến trong năm 2004 mức lãi suất huy động có thể vẫn ở mức thấp, điều này có thể ảnh hưởng đến doanh thu hoạt động tài chính của Công ty. Công ty sẽ tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các Ngân hàng, Tổ chức tín dụng nhằm đàm phán lãi suất tốt nhất hoặc triển khai tìm kiếm đối tác hợp vốn để đảm bảo hiệu quả đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi. Trong năm 2004, tổng nguồn vốn dự kiến đầu tư tài chính từ 14-15 tỷ đồng, với mục tiêu lãi suất đầu tư tài chính đạt mức 8%/năm. Bên cạnh đó, Công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu các cơ hội đầu tư khác như đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình hoặc Trái phiếu Doanh nghiệp nếu ty suất đầu tư cao hơn so với Tiền gửi Ngân hàng mà vẫn đảm bảo chủ động nguồn vốn hoạt động của Công ty.
3.1.2.6. Về hoạt động lưu ký và các dịch vụ tiện ích
Công ty xác định đây là hoạt động hỗ trợ cho nghiệp vụ môi giới và tư vấn của Công ty. Năm 2004, Công ty tiếp tục duy trì ổn định các khách hàng đã lưu ký và phát triển thêm từ 3-5 khách hàng mới, tiếp tục duy trì và đẩy mạnh các dịch vụ tiện ích như cho vay cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay hỗ trợ tiền mua chứng khoán khi tình hình thị trường được cải thiện đồng thời xúc tiến mạnh dịch vụ hỗ trợ cho vay cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp CPH mua cổ phần. Bên cạnh đó, Công ty sẽ sớm nghiên cứu và tìm kiếm đối tác để triển khai thêm dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán chưa niêm yết.
3.2. Các giải pháp phát triển các hoạt động tại cTCP chứng khoán Bảo Việt
Sau khi nghiên cứu những điều kiện thuận lợi, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân dẫn tới điều đó, chúng ta thấy rằng BVSC cần phải có những biện pháp để khắc phục khó khăn nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty.
3.2.1. Đa dạng và phát triển đồng bộ các hoạt động
Phân tích thị trường là một nhiệm vụ rất quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của CTCK. Khả năng mở rộng và phát triển của Công ty phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và chất lượng của các dịch vụ cung cấp. Có thể nói, phân tích thị trường là một mũi nhọn cạnh tranh về dịch vụ giữa các CTCK. Trong điều kiện hiện nay, khi các CTCK mới đi vào hoạt động, các lợi thế cạnh tranh chưa có sự phân biệt rõ rệt thì yếu tố chủ yếu để thu hút chính là chất lượng dịch vụ mà Công ty cung cấp, cụ thể hơn, đó là chất lượng của dịch vụ tư vấn của Công ty cho khách hàng trong các quyết định đầu tư. Hơn nữa, đối với bản thân Công ty, các kết quả phân tích trên thị trường cũng là cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư nhằm mang lại lợi ích cao nhất. Với những lý do đó, BVSC cần phải hết sức quan tâm đến việc phát triển năng lực phân tích thị trường của mình.
Để có thể tiến hành phân tích thị trường, CTCK phải dựa trên một số yếu tố chuẩn về hệ thống chính sách kinh tế, hệ thống pháp luật, hệ thống thông tin thị trường, sự phát triển của hệ thống tài chính, hệ thống Ngân hàng, hệ thống các thị trường hàng hoá. Đặc biệt, CTCK phải chú ý đến môi trường kinh doanh mà ở đây sẽ bao gồm các yếu tố vĩ mô và vi mô.
Nếu phân tích kinh tế vĩ mô chỉ ra được các ảnh hưởng của nền kinh tế nói chung đến TTCK thì dự đoán diễn biến trên thị trường sẽ chỉ ra cho CTCK thời điểm thích hợp để thực hiện việc mua bán chứng khoán đó. Khả năng dự đoán diễn biến thị trường của CTCK phụ thuộc vào khả năng thu thập thông tin, khả năng đánh giá xu hướng thị trường và khả năng đánh giá động thái tâm lý của nhà đầu tư. Hiện nay, khả năng tiếp cận của BVSC là tương đối tốt. Tuy nhiên, các thông tin này rất đa dạng, BVSC cần phải chú ý tới việc sàng lọc giữa những thông tin thực sự và thông tin giả mạo.
Phân tích thị trường là một việc rất phức tạp,vì thế CTCK phải có hàm lượng chuyên môn cao, kinh nghiệm phong phú và khả năng nhận định sắc bén.
3.2.2. Xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực
Phát huy mạnh mẽ năng lực của ban lãnh đạo
Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động còn nhiều mới mẻ, phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, TTCK là một trong những thị trường biến động nhiều nhất và chịu sự quản lý chặt chẽ của UBCKNN, TTGDCK. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này thường xuyên được điều chỉnh, thậm chí có nhiều thay đổi mang tính bước ngoặt. Do đó, ban lãnh đạo Công ty cần thường xuyên theo dõi sát sao các văn bản này cũng như các biến động trên thị trường và những thay đổi của khách hàng. Cán bộ Công ty phải có cái nhìn toàn diện, bao quát, kết hợp với đầu óc phân tích tổng hợp, linh hoạt sáng tạo đưa ra các biện pháp nhanh chóng kịp thời phù hợp với từng thời điểm, từng diễn biến để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh mà vẫn hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Để có được phẩm chất này cán bộ lãnh đạo cần biết tận dụng và tích luỹ những kinh nghiệm quý báu có được trong quá trình làm việc, đồng thời thường xuyên trau dồi kiến thức, tích luỹ chuyên môn nghề nghiệp vững vàng, có khả năng quản lý và có đầu óc phán đoán nhanh nhạy. Trong quá trình làm việc phải kết hợp trao đổi thông tin chặt chẽ với UBCKNN, TTGDCK và các chi nhánh của Công ty. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo cũng phải nghiên cứu đưa ra các chính sách khen thưởng và kỷ luật thích hợp cả về vật chất lẫn tinh thần, để khuyến khích động viên kịp thời, tạo động lực phấn đấu lành mạnh cho mọi thành viên trong Công ty.
Thường xuyên đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
Để thực hiện định hướng trở thành CTCK có tầm cỡ, kinh doanh trên tất cả các nghiệp vụ thì một yếu tố quan trọng không thể thiếu được là nhân tố con người trong việc tổ chức, quản lý và vận hành các nghiệp vụ của Công ty.
Một CTCK có thể trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại trong một thời gian ngắn nhưng không thể có ngay được một đội ngũ cán bộ có trình độ tương xứng trong một thời gian ngắn được. Vì vậy, Công ty cần phải có một kế hoạch (cả ngắn hạn và dài hạn) phù hợp trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho hiện tại và tương lai.
Khách hàng chứng khoán là khách hàng có trình độ hiểu biết pháp luật rất cao, buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh và phức tạp. Vì vậy để cung cấp dịch vụ cho đối tượng này đòi hỏi người làm chứng khoán phải có trình độ cao về pháp luật, tin học và nghiệp vụ. Cán bộ của CTCK phải là những người am hiểu về kỹ thuật, thông tin về nghiệp vụ, kết hợp lý luận và thực tiễn trong mọi tình huống để tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Hiện nay, với xu hướng hội nhập kinh tế, Công ty cần có nhiều chuyên gia giỏi để có đủ năng lực bắt kịp và hoà nhập vào nền kinh tế sôi động đó. Chính vì thế, Công ty cần có chương trình, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện: Yêu cầu cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này phải có một trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học nhất định và thường xuyên phải học tập và trau dồi thêm. Định kỳ tổ chức kiểm tra trình độ, có chế độ khen thưởng đối với những người có trình độ vượt mức yêu cầu. Khuyến khích, tạo điều kiện trợ giúp kinh phí cho các cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là các cán bộ trẻ. Đặc biệt ưu tiên những cá nhân phấn đấu đạt các học vị như thạc sĩ, tiến sĩ...Đây là lực lượng đưa Công ty tiếp cận, làm chủ các công nghệ hiện đại, bắt kịp với xu hướng phát triển chung. Quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn cho Công ty. Bên cạnh những yêu cầu về chuyên môn, cán bộ Công ty cũng cần phải có những phẩm chất và tác phong làm việc khoa học. Cụ thể là cán bộ phải có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp, không để xảy ra các vụ việc tiêu cực làm thất thoát tài sản của Công ty, gây thiệt hại cho khách hàng, ảnh hưởng xấu tới uy tín của Công ty.
Con người- nhân tố quyết định tới sự phát triển- là trung tâm của mọi hoạt động. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực sẽ có ý nghĩa nhất định đối với việc thực hiện thành công những nỗ lực phát triển của Công ty.
3.2.3. Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý
Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một CTCK. Với phương châm phục vụ: “Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của BVSC” thì một giải pháp về khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của BVSC trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành thị phần với CTCK khác.
Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ với nhau. Một chính sách khách hàng hợp lý bao gồm:
Chính sách giá cả hấp dẫn: Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, các mức phí của Công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà Công ty theo đuổi. Mức phí đưa ra phải phù hợp từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút thêm khách hàng mới. Để thực hiện điều này, Công ty có thể tiến hành phân tổ khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Ví dụ, đối với khách hàng có uy tín, thường xuyên có những giao dịch với giá trị lớn sẽ được hưởng mức phí ưu đãi.
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi BVSC cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới, cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà...
Chủ động tìm kiếm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước mà còn nhằm vào cả các nhà đầu tư nước ngoài, không những nhằm vào các nhà đầu tư cá nhân mà còn nhằm vào các tổ chức. Thực hiện được chính sách này, tức là tìm được khách hàng mới, Công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn, có cơ hội tốt trong việc thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành cho khách hàng mới, từ đó có cơ sở thực hiện các nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư... cho khách hàng để tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao uy tín của mình.
Bảo đảm phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo chính là một nghệ thuật giữ khách hàng hiệu quả nhất. Thái độ của nhân viên có thể tạo nên hình ảnh của Công ty trong khách hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách hàng. Ngoài ra, các cán bộ nhân viên còn phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cẩn thận không để mắc sai sót, nhầm lẫn tạo sự an tâm, tin tưởng tuyệt đối từ phía khách hàng.
Tổ chức hội nghị khách hàng: BVSC có thể định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng bởi vì đây sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa các nhà đầu tư với Công ty. Và hơn thế nữa, hội nghị khách hàng sẽ có lợi cho cả hai bên, khách hàng và Công ty.
Về phía khách hàng, trước hết họ sẽ được cung cấp những văn bản pháp lý mới nhất liên quan đến chứng khoán và TTCK, tránh được những sai phạm không đáng có khi tham gia đầu tư trên TTCK. Tiếp đến, họ có thể tham khảo những bài phân tích, đánh giá của các chuyên gia trong Công ty về tình hình TTCK, tình hình hoạt động kinh doanh của các Công ty niêm yết. Cái lợi mà khách hàng có được chính là ở chổ: dựa trên các thông tin có được, họ tự biết điều gì nên và không nên làm, đầu tư như thế nào trong thời gian tới để có hiệu quả cao nhất.
Về phía Công ty, hội nghị khách hàng là một dịp tốt để tăng cường mối quan hệ với các nhà đầu tư, là một dịp để các nhà đầu tư hiểu kỹ hơn về Công ty ty thông qua các loại hình dịch vụ mà Công ty đang cung cấp cho họ. Hội nghị khách hàng sẽ giúp cho Công ty tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía các nhà đầu tư và công chúng. Hơn nữa, thông qua hội nghị khách hàng, Công ty còn cho thấy khách hàng là tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh của mình, là mối quan tâm hàng đầu của mình để từ đó khách hàng có niềm tin vững chắc vào Công ty.
3.2.4. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh
Cùng với sự phát triển và sôi động của TTCK, CTCK BVSC cũng buộc phải có sự phát triển không ngừng và việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện kinh doanh là một tất yếu đang được quan tâm hiện nay. Với tình hình của Công ty như hiện nay, Công ty nên tập trung các giải pháp về công nghệ thông tin, đó là: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng, bao gồm nhiều dữ liệu khác nhau, hình thành Ngân hàng dữ liệu phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng và khai thác khác nhau. Thiết kế và cài đặt cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng, kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. Trước mắt, BVSC cần hoàn thiện trang Web, đồng thời triển khai xây dựng một hệ thống tin học mạnh, đảm bảo vi tính hoá toàn bộ các nghiệp vụ chứng khoán, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, xây dựng trước một bước cơ sở vật chất để tạo điệu kiện cho khách hàng kinh doanh qua mạng.
3.2.5. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ với các CTCK nước ngoài
Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của BVSC, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các CTCK nước ngoài. BVSC cần củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có, chọn các CTCK, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các Công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Đồng thời, BVSC cần mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển mối quan hệ chặt chẽ với CTCK các nước ASEAN, đặc biệt với các CTCK của các nước láng giềng như: Thái Lan, Trung Quốc...
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
TTCK là một thể chế đặc biệt bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của một đất nước khi có những biến động. Với cơ chế vận hành phức tạp, nên các quá trình từ phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho đến các giao dịch trên thị trường thứ cấp đòi hỏi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của luật pháp về chứng khoán và TTCK. Ngoài các quy định nêu trên, hoạt động của TTCK còn chịu sự chi phối của các văn bản luật khác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, đầu tư nước ngoài, phá sản…. Hoạt động của TTCK nói chung, bên cạnh những đặc tính ưu việt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, còn chứa đựng những hạn chế, khuyết tật có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Vì vậy, sự điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK này nhằm tạo ra những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của nền kinh tế thị trường và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình hoạt động thị trường. Giữa các chủ thể của thị trường hình thành những mối quan hệ kinh tế-xã hội đan xen. CTCK là một chủ thể quan trọng của thị trường, hoạt động kinh doanh của Công ty có hiệu quả tốt hay không, một mặt phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường.
Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu của nó đã được hình thành, bao gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và TTCK. Tuy nhiên, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và nhiều quan hệ trong TTCK chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức TTCK của nước ngoài mà chưa được hay còn ít được kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh và các văn bản ở các ngành, lĩnh vực liên quan khác nhằm tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của TTCK Việt Nam.
Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện những văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động của TTCK cũng như các CTCK để phù hợp với tình hình phát triển thực tế của TTCK Việt Nam. Mặt khác, với tình hình và xu hướng của thị trường hiện nay, Chính phủ cũng cần có các quy định cụ thể về giao dịch điện tử trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Điều này rất quan trọng vì đó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch sẽ rất phổ biến trong tương lai này.
3.3.1.2. Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán
Ưu đãi thuế cho TTCK là chính sách quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các CTCK. Hiện nay ngoài việc hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm hoạt động, các CTCK còn được giảm 50% số thuế doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, quy định ưu đãi thuế như vậy đối với các CTCK vẫn chưa thoả đáng do các Công ty này mới đi vào hoạt động, doanh số chưa nhiều, TTCK chưa sôi động, chưa phát triển nên hiệu quả hoạt động còn thấp. Chắc chắn các CTCK đều bị lôc trong những năm đầu hoạt động. Do vậy, hết thời hạn được giảm thuế như trên các CTCK sẽ gặp nhiều khó khăn khi tính đến hiệu quả kinh doanh.
Chính vì thế cần phải có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các CTCK mới có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào TTCK. Cụ thể, mức ưu đãi trong thời gian tới nên là miễn thuế cho 5 năm đầu hoạt động và giảm thuế còn 50% trong 3 hoặc 5 năm tiếp theo.
Đối với thuế giá trị gia tăng, mặc dù Bộ tài chính đã cam kết sẽ chính thức đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào diện không chịu thuế VAT được ghi tại điều 4 luật thuế này, nhưng các CTCK đã không mấy hứng khởi vì việc đưa vào diện không chịu thuế VAT đồng nghĩa với việc sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cho nên, các CTCK nên được áp dụng thuế suất VAT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là 0%. Với thuế suất này, các Công ty sẽ được hoàn thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra và đây chính là điều mà không chỉ BVSC mà các CTCK khác đều mong đợi.
3.3.2. Kiến nghị với UBCKNN và TTGDCK
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán còn phải chấp hành về đạo đức kinh doanh, quy định về hạn mức áp dụng đối với kinh doanh... do UBCKNN và TTGDCK quy định.
3.3.2.1. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với CTCK
NORC =
NOC
´ 100 ³ 100%
ồ rủi ro
Trong đó:
NOC: chỉ tiêu vốn hoạt động ròng
NOC = Tài sản ròng (Tổng tài sản - Tổng nợ) -Tổng các khoản gia tăng
+ Tổng các khoản giảm trừ.
ồ rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro cơ bản
+ Rủi ro tập trung tín dụng - Phần bù rủi ro
Quy định về việc trích lập dự phòng vốn điều lệ: Quy định này yêu cầu CTCK trong quá trình hoạt động phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của Công ty. Việc thực hiện quỹ này được thực hiện theo những quy định hiện hành đối với các loại hình CTCP và TNHH.
3.3.2.2. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin
Quy định này được áp dụng ở các TTCK trên thế giới, theo đó các CTCK phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và SGDCK nếu Công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, CTCK phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của CTCK phải được Công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận.
Mặt khác, thông tin về TTCK là cơ sở hoạt động của TTCK, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến Công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành Công ty. Các thông tin sai lệch trên TTCK có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Ngay từ đầu xây dựng TTCK tại Việt Nam, UBCKNN đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên TTCK. Các quy định của UBCKNN đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, Công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với UBCKNN. UBCKNN và TTGDCK cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các Công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời UBCKNN và TTGDCK cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của UBCKNN, bên cạnh tờ tin của TTGDCK cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của UBCKNN về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy.
3.3.2.3. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó.
Theo số liệu điều tra của UBCKNN, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. UBCKNN cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất.
3.3.3. Kiến nghị với bộ tài chính
3.3.4. kiến nghị với BVSC
Kết luận
ở Việt Nam hiện tại các CTCK đang còn trong giai đoạn đầu và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào TTCK cho dù gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình nhưng các Công ty cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để có thể phát triển tốt trong tương lai không xa.
Từ những buổi đầu thành lập BVSC đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và tạo được lòng tin nơi khách hàng như lòng tin ở công chúng đầu tư. Tuy nhiên, chặng đường trước mắt đối với Công ty là rất khó khăn và đầy thử thách. Do đó, Công ty cần phải có những bước đi cụ thể để tự mình vượt qua nhứng khó khăn thử thách hướng tới sự phát triển bền vững.
Qua thời gian nghiên cứu và thực tập tại CTCP chứng khoán Bảo Việt, em đã hiểu phần nào các hoạt động kinh doanh và mạnh dạn đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển các hoạt động kinh doanh của Công ty. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến của thầy cô và cán bộ Công ty để em có thể hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24086.doc