Chương I: tổng quan về thị trường tiền tệ, lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước
1.1.thị trường tiền tệ
1.1.1.Khái niệm
a.Bản chất:
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, ở đó những công cụ nợ ngắn hạn (thông thường dưới một năm) được mua – bán. Hay nói một cách khác, thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn – là nơi mua bán, trao sổi các chứng khoán ngắn hạn.
Tại các nước có nền kinh tế thi trường phát triển, thị trường
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm xây dựng cơ chế điều hành l•i suất thị trường tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền tệ dược hiểu là thị trường vốn ngắn hạn, nơi các chủ thể kinh tế đều có thể tham gia giao dịch các công cụ nợ ngắn hạn theo cơ chế thị trường, với lãi suất biến động tự do. Các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tiền tệ có thời hạn dưới một năm (nhưng đặc biệt cũng có thể có kỳ hạn tới 3 – 5 năm) như: tín phiếu Kho bạc Nhà nước, các khoản vay ngắn hạn của các Ngân hàng, các chứng chỉ tiền gửi, các kỳ phiếu thương mại, các thoả thuận mua lại…
Theo khái niệm này thì thị trường tiền tệ là giai đoạn phát triển cao hơn thị trường tiền gửi truyền thống ( thị trường tín dụng ) giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng của Ngân hàng thương mại. Thị trường tiền tệ có tính đa phương hơn và công khai hơn thị trường tín dụng - nơi quan hệ giữa Ngân hàng thương mại – khách hàng của Ngân hàng thương mại là song phương, riêng biệt và đơn điệu.
b.Đặc điểm:
Thị trường tiền tệ xuất hiện khá sớm, ngay từ giai đoạn đàu của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Khi mà nền kinh tế thị trường phát triển thị trường tiền tệ cũng đã đạt được mức độ phát triển cao. Tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào sự hoàn thiện của hệ thống Ngân hàng và vai trò điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Trung ương mỗi nước mà thị trường tiền tệ các nước có đặc điểm kác nhau… Nhưng nhìn chung thì thị trường tiền tệ có các đặ điểm sau:
+ Hàng hoá được đưa ra trao đổi mua bán chủ yếu là các chứng khoán ngắn hạn và có tính thanh khhoản rất cao.
+ Việc mua bán, trao đổi trên thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu vốn hoặc tính đến khả năng sinh lời của tiền tệ.
+ “ Giá cả hàng hoá “( lãi suất ) trên thị trường tiền tệ biến động theo quan hệ cung cầu.
+ Có sự tham gia của nhiều thành viên, trong đó sự tham gia của Ngân hàng Trung ương là không thể thiếu được.
+ Thị trường tiền tệ là thị trường vô hình: không trụ sở, không mảnh đất trống dành riêng cho thị trường mà hoạt động của thị trường được diễn ra ở khắp các Ngân hàng có tham gia mua bán các chứng khoán ngắn hạn.
+ Thị trường tiền tệ là thị trương bán buôn là chủ yếu.
c.Chức năng:
+Chuyển vốn tạm thời nhàn rỗi sang người thiếu vốn, cần bỏ sungcho quá trình kinh doanh và có cơ hội đầu tư.
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn và là bộ phận không thể thiếu được trong thị trường tài chính.
Các trung gian tài chính
Vốn
Vốn
Vốn ngắn hạn
Bên đi vay:
- Doanh nghiệp, công ty
- Cá nhân, hộ gia đình
- Chính phủ
Vốn ngắn hạn
Thị trường tiền tệ
Bên cho vay:
- Cá nhân
- Hộ gia đình
-Doanh nghiệp, công ty
Vốn ngắn hạn
Sơ đồ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, có những cá nhân, doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ hợp tác… có những khoản thu nhập lớn hơn chi tiêu, họ đã tiết kiệm được, tích luỹ được và đem cho vay. Dòng vốn của họ đã chuyển dịch sang phía những cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp, công ty… có thu nhập nhỏ hơn chi tiêu, thiếu vốn, cần vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Việc chuyển dịch vốn từ bên cung sang bên cầu được thực hiện bằng hai cách:
. Gián tiếp qua hệ thống tài chính trung gian như các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, công ty tài chính…Hệ thống tài chính trung gian huy động vốn của khách hàng dưới các hình thức mởtài khoản séc, mở tài khoản tiền gửi định kỳ, tiền gửi tiêt kiệm và sử dụng chúng làm nguòn vốn cho vay lại đối với khách hàng có nhu cầu.
. Trực tiếp qua thị trường tài chính dưới hình thức: Chính phủ, các doanh nghiệp, công ty, Ngân hàng phát hành các giấy nự ngắn hạn bán cho người có nhu cầu đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn. Những chứng khoán này là những trái quyền đối với thu nhập hoặc tài sản tương laicủa người vay. Trong khi các chứng khoán này là tài sản Có đối với người mua chúng, đồng thời là tài sản Nợ đối với người bán.
+ Cân đói điều hoà nguồn vốn giữa các Ngân hàng thương mại
Xét theo nghĩa cổ điển thì thị trường tiền tệ là thị trương liên Ngân hàng nên thị trường tiền tệ còn có chức năng: cân đối, điều hoà nguồn vốn giữa các Ngân hàng thương mại để bảo đảm nguồn vốn kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán cho các Ngân hàng thương mại. Thông qua hoạt động trên thị trương tiền tệ mà Ngân hàng Trung ương điều tiết lưu thông tiền tệ trên phạm vi quốc giănhmf thực thi chính sách tiền tệ. Mặc dù là thị trường vốn ngắn hạn, nhưng thị trường tiền tệ có mối quan hệ gắn bó với thị trường chứng khoán vì các chủ thể hoạt động trên thị trường tiền tệ luôn có sự kết hợp về vốn với việc đầu tư trên thị trường dài hạn.
1.1.2. Hàng hoá
a.Tín phiếu kho bạc ( Treasury Bill-TB )
Là giấy nhận nợ ngắn hạn do Chính phủ ( kho bạc Nhà nước ) phát hành nhằm bù đắp thiêu hụt ngân sách nhà nước và để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Tín phiếu kho bạc được phát hànhvới kỳ hạn thanh toán 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Chúng có tính khả mại cao, được phát hành dưới dạng phiếu nợ hoặc ghi sổ, không có phiếu lãi suất nghĩa là được phát hành dưới dạngtín phiếu chiết khấu.
TB là loại công cụ quan trọng nhất trên thị trường tiền tệ có tính lỏng cao và được mua bán thường xuyên nhất, với khối lượng lớn nhất, nó đựoc các tổ chức tài chính trung gian, các tổ chức phi tài chính cũng như dân cư và các Ngân hàng thương mại các nước sử dụng phổ biến.
TB là loại công cụ không bị đánh thuế vì chúng không được coi là tài sản vốn, thu nhập từ TB là phần chênh lệch giữa giá mua và giá thanh toán được coi là phần thu nhập bình thường chứ không phải là lãi vốn.
Tuỳ thị trường mỗi nước, nhưng tín phiếu kho bạc chủ yêus là do các Ngân hàng thương mại nắm giữ, còn lượng nhỏ do dân cư, các doanh nghiệp, các công ty và những công ty tài chính khác nắm giữ.
b.Chứng chỉ tiền gửi ( certificate of deposit – CD )
Chứng chỉ tiền gửi ( CD ) là một công cụ vay nợ do Ngân hàng bán cho người gửi tiền, được thanh toán lãi hàng năm theo lãi suất đã định trước và khi đáo hạn sẽ được hoàn trả hết giá mua ban đầu.
Thông thường CD không bán lại cho người khác được, nên người sở hữu chúng phải chờ đáo hạn mới lĩnh được tiền ra khỏi Ngân hàng. Tuy nhiên thời gian gần đâymột số Ngân hàngcủa một số quóc giađã phát hành lại CD có mệnh giá lớn hơn và có thể chuyển nhượng được. Khả năng chuyển nhượng được của CD thể hịên rõ rệt sự phát triển của mộtcông cụ đã được chuyên môn hoá nhằm mở ra một nguồn vốn mới bên cạnh nguồn vốn truyền thống của các Ngân hàngthương mại là các loại tiền gửi có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn.
Ơ một số nước CD thường có lãi suất cao hơn lãi suất của các tín phiếu lho bạc ngắn hạn, trong khi có khả năng thanh toán rất cao. Do vậy Cd rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư, họ sẵn sàng chấp nhận một người vaycó uy tín tín dụng thấp hơn Kho bạc để đổi láy lợi nhuận cao hơn.
Lãi suất của CD do ngân hàng phát hành ấn định, tuy nhiên phần lớn được quyêt định bởi ảnh hưởng của thị trường có tính đến mứclãi suất ngắn hạntổng quát cũng như uy tín của ngân hàng phát hành. Trái ngược với phần lớn các công cụ khác trên thị trường tiền tệ là những công cụ được giao dịch trên cơ sở chiết khấu trừ lãi, CD được trả lãi sau theo kỳ hạn ( trừ trường hợp các CD có kỳ hạn trên một nămthì sược trả lãi sáu tháng một lần ).
c. Thương phiếu ( Commercial Paper – CP )
Thương phiếu là giấy nhận nợ ngắn hạn do công ty và ngân hàng thương mại phát hành mhằm vay vốn tạm thời của các đối tác khác nhau trên thị trường. Ơ các nước tiên tiến, những doanh nghiệp lớn, công ty nổi tiếng đều phát hành CP - ( loại này gọi là CP công nghiệp) và các công ty cổ phần có ít nhất một công ty con là ngân hàng phát hành ( nhưng không phải do ngân hàng thương mại được thành lập bởi công ty phát hành ). CP công ty là giấy nhận nợ không đượcđảm bảo có kỳ hạn rất ngắn. Mặc dù không tuân theocác quy định áp dụng cho chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng, CP thường được phát hành vơi mệnh giá tối thiểu nhất định, song việc quy định cụ thể mức giá tối thiểu của từng tổ chức phát hành có khác nhau.
Thông thường để giải quyết nhu cầu tiền mặtđột xuất trong thương mại vì hàng hoá của doanh nghiệp chưa bán kịp hoặc nhu cầu nhập hàng mới, các công ty thương mại hoặc các doanh nghiệp lớn có thể ký quỹ và xin phép ngân hàng bảo trợ để phát hành CP vay tiền. Công ty hoặc doanh nghiệp được phát hành một số lượng CP trong giới hạn tài sản ròng của họ. Trong trưòng hợp khi đáo hạn công ty không trả được tiền cho người mua CP và để thu hồi CP về, ngân hàng thương mại sẽ căn cứ theo luật thực hịên trả tiền cho dân bằng cách mua lại CP đồng thời phát mãi tài sản để thu nợ.
CP cho phép các công ty lớn giải quyết thiếu vốn tức thời. Họ có thể nhờ một côngty môi giới, ngân hàng hoặc chính nó phát hành.CP được mua bán dễ dàngtrên thị trường trước khi đáo hạn. Lãi suất của CP thường cao hơn lãi suất của CD có kỳ hạn tương đương, nhưng mức đọ rủi ro đối với CP cao hơn.
CP được bán trên cơ sở khấu trừ lãi và khối lượng CP được phát hành bởi nhà giao dịch sẽ được công bố theo định kỳ.CP có hạn chế là thị trường thứ cấp rất hẹp. Các nhà giao dịch chỉ mua lại CP được phát hành qua họ và với giá có thể cao hơn thị trường.
d. Giấy chấp nhận của Ngân hàng ( Banker’s Acceptance- BA)
BA thực ra là các hối phiếu do công ty phát hành, có thời hạn ngắn. BA sẽ đượcthanh toán trong tương lai và được ngân hàng thương mại đóng dấu chấp nhận lên hối phiếu. Muốn được ngân hàng chấp nhận, công ty phát hành hối phiếu đó phải gửi món tiền bắt buộc vào tài khoản của họ ở ngân hàng đủ đảm bảo khả năng trả tiền của hối phiếu. Nếu ngân hàng không yêu cầu khách hànglàm điều đó rất có thể ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Nếu được ngân hàng chấp nhận hối phiếu thì công ty có thể dùng hối phiếu đó khi mua hàng ở nước ngoài. Các hối phiếu đã được chấp nhận này thường được bán lại ở thị trường thứ cấp với giá nhỏ hơn mệnh giá của nó, như vậy nó được lưu hành và có tác dụng như tín phiếu kho bạc nhà nước. BA được nắm giữ nhiều như tín phiếu Kho bạc nhà nước.
BA được ra đời như sau: trong thực tế thì không phải lúc nào người ta cũng bán được hàng hoá và thu đủ tiền ngay theo kiểu “tiền trao cháo múc”, mà thường trả tiền sau khi nhận hàng hoá. Loại giấy nợ thường được sử dụng cho việc trả chậm này gọi là “hối phiếu trả chậm” hay “hối phiếu hẹn trả”. Đối với “hối phiếu trả chậm” bên trả tiền ra lệnh cho ngân hàng trả một số tiền nhất định cho những người hưởng lợi vào ngày đáo hạn. Ví dụ: một nhà xuất khẩu có thể nhận được một hối phiếu có kỳ hạn mà trong đó nhà nhập khẩu ra lệnh cho ngân hàng phục vụ mình trr một số tiền nhất định vào ngày đến hạn. Đối với nhà xuất khẩu thì UB thực chất là một khoản phải thu chính thức từ nhà nhập khẩu. Nhà xuất khẩu giữ UB này nếu có nhu cầu về tiền mặt trước ngày đến hạn của hối phiếu thì có thể mang hối phiếu đến ngân hàng yêu cầu ngân hàng thương mại chấp nhận thanh toán và chịu trả một mức khấu trừ trên hối phiếu đó. Khi ngân hàng chấp nhận hối phiếu, nghĩa là ngân hàng đã cam kết sẽ trả tiền cho người thụ hưởng khi tới hạn thanh toán. Việc chấp nhận như vậy đã làm cho UB trở thành phiếu chấp nhận thanh toán của ngân hàng ( BA). Khi đó từ UB là một lệnh trả tiền của người không có uy tín trên thị trường đã trở thành cam kết trả tiền của một ngân hàng thương mại có danh tiếng. Do đó khả năng chuyển nhượng BA có thể được bán lại hoặc chiết khấu trên thị trường. Trong thực tế, BA thường được chiết khấu tại ngân hàng chấp nhận, ngân hàng này có thể mang bán lại hoặc xin tái chiết khấu.
Thực chất một ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu BA trên thị trường vàviệc huy động vốn theo cách này không phải tuân theo các quy định về dự trữ bắt buộc và chi phí bảo lãnh, nên lãi suất của BA chỉ cao hơn một chút sovới lãi suất của tín phiếu kho bạc và thấp hơn lãi suất của CD.
e. Hợp đồng mua lại ( Repurchase agreement – RP)
Các RP thực ra là những món vay ngắn hạn ( thường với kỳ hạn thanh toán là Ê 2 tuần ) với tín phiếu kho bạc làm tài sản đảm bảo.
Một RP được tạo ra như sau: Công ty Cocacola có một số vốn nhàn rỗi trong tài khoản ngân hàng, ví dụ là 100 tỷ USD, muốn đem cho vay ngắn hạn, công ty dùng 100 tỷ USD để mua các tín phiếu kho bạc ở một ngân hàng nào đồng ý sẽ mua lại chúng vào hôm sau với giá cao hơn một chút so với giá mà công ty đã mua. Tác dụng của RP này ở chỗ công ty cho ngân hàng vay 100 tỷ USD và công ty giữ số tín phiếu kho bạc 100 tỷ USD của ngân hàng cho đến khi ngân hàng mua lại số tín phiếu này để thanh toán hết món nợ.
Người sở hữu chứng khoán có thể sử dụng làm vật thế chấp để vay vốn trên thị trường tiền tệ. Nhất là các nhà giao dịch chứng khoán cần vốn để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình. Nhu cầu này làm phát sinh công cụ tài trợ chuyên biệt gọi là khế ước mua lại ( RP ). Vì các chứng khoán chính phủ chiếm tỷ lệ lớn nhất trên thị trường tiền tệ, nên các nhà giao dịch chứng khoán chính phủ là những người sử dụng truyền thống công cụ này như một nguồn tài trợ vốn.
Trong mỗi RP chứng khoán được bán cho người đi vay thường là công trái. Tuy nhiên người đi vay cam kết sẽ mua lại chứng khoán này theo giá cũ cộng thêm một khoản lãi. Kỳ hạn của RP có thể được ấn định hoặc thoả thuận tự do. Phần lớn RP là giao dịch qua đêm, tuy nhiên các thoả thuận với kỳ hạn một tuần hay 6 tháng cũng phổ biến trên thị trường.
Thông thường các ngân hàng thương mại là những nhà cung cấp vốn lớn cho những nhà giao dịch chứng khoán chính phủ dưới dạng RP. Mặc dù vậy, một phần lớn các RP của các ngân hàng thương mại được giữ dưới dạng chứng khoán chính phủ và họ cũng thích sử dụng RP như một nguồn tài trợ vốn.
RP đã cung cấp cho các ngân hàng thương mại một phương thức huy động vốn tích cực. Nguồn vốn này không áp dụng các quy định về dự trữ bắt buộc và mức khống chế trần lãi suất, do vậy chi phí về RP thấp hơn so với CD. Đối với một ngân hàng thương mại RP thường được coi là nguồn vốn rẻ nhất. Mặt khác kỳ hạn của RP có thể được lựa chọn phù hợp với nhu cầu của ngân hàng nên RP có rất nhiều ưu điểm.
1.1.3.Chủ thể
a.Ngân hàng thương mại
Trong hệ thống tài chính, ngân hàng thương mại là một trung gian hoạt động chính trên thị trưòng tiền tệ. Mục đích tham gia thị trường nàylà để duy trì khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại khi cần thiết, hoặc nhằm tận dụng triệt để vốn tạm thời trong nền kinh tế để sinh lợi tối đa, cũng như vay vốn cần thiết với mức chi phí thấp nhất để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh. Sự tham gia của các ngân hàng thương mại với các nghiệp vụ tổng hợp của nó sẽ là động ực chính để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ.
Trên thị trường tiền tệ ngân hàng thường sử dụng các công cụ tài chính như: chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, chấp nhận hối phiếu, chiết khấu kỳ phiếu thương mại, khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng thương mại … nhằm phục vụ cho các hoạt động tín dụng của mình thông qua các nghiệp vụ ngân hàng.
b.Ngân hàng Trung ương
Mỗi thị trường có các loại cong cụ đặc trưng, thị trường tiền tệ của các nước khác nhau cũng có những đặc thù khác nhau và mức độ tham gia thị trường của ngân hàng Trung ương các nước cũng khác nhau. Nhưng nhìn chung, thị trường tiền tệ của tất cả các nước đều đặt dưới sự kiểm tra giám sát của ngân hàng Trung ương. Với chức năng, quyền lợi và nhiệm vụ của mình, Ngân hàng Trung ương là người đưa ra các thiết chế, điều luật cho thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động hoạt động có hiệu quả, trôi chảy và có tổ chức. Như vậy khác với mục đích tham gia thị trường tiền tệ của ngân hàng thương mại, ở đây ngân hàng Trung ương không nhắm đến việc kinh doanh tiền tệ để kiếm lời, cũng không tham gia thị trường để đảm bảo khả năng thanh toán mà chủ yếu để quản lý thị trường, điều hành thị trường.
c.Các tổ chức phi tài chính
Các tổ chức phi tài chính như: cính phủ, chính quyền địa phương, các công ty thương mại và công nghiệp – những người đã tạo ra thị trường của các công cụ riêng biệt như: tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu thương mại, trái phiếu công ty… Các chủ thể này tham gia thị trường với các mục đích khác nhau. Chẳng hạn, đối với các doanh nghiệp và công ty, giống như các ngân hàng thương mại, họ tham gia thị trường tiền tệ với mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng đầu. Ngoài ra, còn các mục tiêu khác như: thoả mãn nhu cầu vốn trong kinh doanh và để đảm bảo khả năng thanh toán. Các chủ thể này tham gia thị trường với tư cách là người vay vốn – bằng việc phát hành các công cụ vay vốn ngắn hạn như trái phiếu công ty. Cũng có thể họ tham gia như một nhà đầu tư kiếm lời – thông qua việc mua các công cụ tài chính trên thị trường. Muốn tham gia tích cựcvới tư cách người vay vốn trên thị trường tiền tệthì các tổ chức phi tài chính phải có uy tín cao hoặc phải được ngân hàng thương mại hay tổ chức tài chính trung gian có uy tín bảo lãnh.
Đối với Chính phủ, chính quyền địa phương: chủ thể này tham gia thị trường tiền tệ không phải là mục tiêu lợi nhuận và cũng không tham gia với tư cách là người cho vay- nhà đầu tư. Ơ đây, họ tham gia với tư cách vay vốn, nhằm bù đắp phần thâm hụt ngân sách hàng năm. Muốn vay vốn của dân cư thì Chính phủ, chính quyền địa phương sẽ phát hành trái phiếu kho bạc ngắn hạn bán ra để thu tiền về nhằm huy động vốn một cách thuận lợi và tiết kiệm nhất cho chi tiêu ngân sách.
Ơ Việt Nam, hoạt động này thường do Kho bạc nhà nước đứng ra đảm nhận bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc nhà nước. Đây là phương pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước ưu việt nhất vừa tận dụng mọi nguồn tiềnnhàn rỗi trong dân cư, vừa tránh phải vay nợ nhà nước.
d.Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng như quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm, công ty tài chính… Đây là những thành viên tham gia rất tích cực ở thị trường này vì họ có nguồn vốn rất dồi dào về cơ cấu, về số lượng, về thời gian, nguồn vốn này càng lớn thì thị trường càng sôi động, linh hoạt và phát triển vì chúng là nguồn tiếp sức cho việc mua đi bán lại các công cụ trên thị trường. Là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, các tổ chức này thường đầu tư vào tất cả các loại công cụ trên thị trường tiền tệ một cách đa dạng vừa phân tán rủi ro vừa đạt lợi nhuận bình quân tối ưu.
e.Cá nhân, hộ gia đình
Các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thường tham gia thị trường với tư cách là người đầu tư – chủ thể cho vay. Dù họ trực tiếp mua giấy nợ ngắn hạn hay gửi tiền vào ngân hàng dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi có kỳ hạn ngắn, để rồi nó trở thành nguồn vốn của ngân hàng. Ngân hàng thương mại lại cho họ vay lại thì đó cũng là hoạt động cho vay của loại chủ thể này. Ơ hầu hết các nước phát triển, mọi người dân đều có tài khoản tại ngân hàng và trên tài khoản đều có số dư vì điều này khiến họ trở thành người cho vay trên thị trường. Họ có thể nắm giữ tiền mặt hay giấy tờ có giá tuỳ thuộc vào động cơ là phục vụ cho mục đích giao dịch như thanh toán tiền mua hàng hoặc cho mục đích phòng ngừa rủi ro hay cho mục đích đầu cơ kiếm lời từ sự biến động lãi suất trên thị trường. Trên cơ sở xác định lãi suất, mức độ rủi ro và uy tín của các ngân hàng thương mại, các quỹ…mà các cá nhân có thể đặt lòng tin đầu tư vào nơi đó, để có lời, an toàn và đảm bảo được vốn của mình.
f.Nhà môi giới
Trong thực tế thì không phải nhà kinh doanh nào cũng có thể gặp được những đối tác để đôi bên có thể thực hịên việc mua bán. Không phải người muốn đầu tư một loại chứng khoán nào đó cũng có thể nhanh chóng có những hiểu biết, và thong tin cần thiết để tìm được cho mình nơi mua chứng khoán phù hợp cho lượng tiền mình có với lãi suất và thời gian đáo hạn đúng ý muốn. Do những hạn chế này và cộng thêm với việc tạo các điều kiện tiện lợi khác cho các bên mua bán, trên thị trường tiền tệ đã xuất hiện các nhà môi giới với nhiệm vụ chính là mối lái để hai bên mua bán gặp nhau theo nguyện vọng của cả hai.
1.1.4.Quá trình ra đời và phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam
Trong nền kinhtế thị trường, hệ thống ngân hàng các nước trên thế giới phát triển theo hướng phân rõ trách nhiệm giữa một bên là ngân hàng trung ương với vai trò quản lý, giám sát thị trường tiền tệ cũng như thực hiện vai trò điều hành chính sách tiền tệ của đất nước, một bên là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, trong khuôn khổ pháp luật và dưới sự giám sát của ngân hàng Trung ương.
Để đổi mới hệ thóng ngân hàng Việt Nam, ngày 26/03/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định số 53 (53/1988/NĐ-HĐBT) mở đường cho việc tổ chức lại hệ thống Ngân hàng, tách chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ được giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Tiếp đó với hai pháp lệnh ngân hàng ban hành năm 1990 (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính), rồi tới hai Luật ngân hàng ra đời (Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng), hệ thống ngân hàng Việt Nam đã dần phân rõ thành hai cấp và hoạt động phù hợp với xu hướng chung trên thế giới. Mô hình này ngày càng được hoàn thiện và phát triển theo quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam với mạng lưới rộng khắp và thành phần rộng đa dạng (quốc doanh, cổ phần, nước ngoài, liên doanh) đã thực sự đi vào kinh doanh tiền tệ, huy động vốn và đi vay để cho vay là chủ yếu, chấm dứt tình trạng trông chờ vào nguồn vốn của ngân hàng Trung ương để rồi sau đó ban phát với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp. Điều này có được trước hết là nhờ những thành tựu trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, trên cơ sở đó thực hiện chính sách lãi suất thực dương, song song với công cuộc đổi mới các doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung.
Nhưng trong thực tế, nhất là từ năm 1993 trở về trước, chỉ duy nhất có thị trường tín dụng truyền thống hoạt động, các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng còn rất đơn điệu, đơn thuần chỉ có hoạt động huy động tiền gửi và tiết kiệm. Trong khi nhu cầu vốn cho nền kinh tế thị trường là rất lớn, vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, các doanh nghiệp còn rất tiềm tàng, nhưng vì hình thức huy động còn quá đơn điệu, mặt khác thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy nợ ngắn hạn… chưa được hình thành và đi vào hoạt động.Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà nước chưa được thực hiện nên nguồn vốn huy động của các ngân hàng còn rất mỏng, không đáp ứng nổi cho nền kinh tế. Trước sự đòi hỏi cấp bách của thị trường về vốn, cần có sự đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cần phải thành lập và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong đó cái gốc là phải thành lập và hoàn thiện thị trường tiền tệ. Bởi vậy năm 1993, thị trường nội tệ liên ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động. Năm 1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động. Năm 1995, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thành lập và đi vào hoạt động. Các thị trường này là một bộ phận cấu thành thị trường tiền tệ ở Việt Nam.
Như vậy, bên cạnh thị trường tín dụng truyền thống, thị trường liên ngân hàng nội tệ và ngoại tệ đã được tỏ chức. Những phiên đấu giá tín phiếu kho bạc đầu tiên cũng như việc phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước đã tạo nên những công cụ đáng tin cậy cho thị trường tiền tệ có điều kiện phát triển hơn nữa.
1.1.5.Các loại thị trường tiền tệ ở Việt Nam
a.Thị trường tín dụng
Thị trường truyền thống này hiện vẫn giữ vị trí quan trọng nhất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, thể hiện qua các nghiệp vụ đi vay và cho vaycủa các ngân hàngvới các khách hàng của họ.
Nghiệp vụ huy động vốn thể hiện qua các hoạt động bên tài sản nợ, tạo nên nguồn vốn của các ngân hàng, chủ yếu là các loại tiền gửi ngân hàng. Trong những năm qua, các ngân hàng Việt Nam đã áp dụng nhiều hình thức tiền gửi ngày càng phong phú như:
Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm với các kỳ hạn khác nhau
Tiền gửi vốn chuyên dùng
Tiền gửi của các tổ chức và người nước ngoài
Tiền giữ hộ và đợi thanh toán
Tiền gửi Kho bạc nhà nước
Bên cạnh việc nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam, các ngân hàng thương mại còn nhận tiền gửi bằng ngoại tệ với các loại như: tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ của các cá nhân và tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệcủa các tổ chức kinh tế và cá nhân.
Bên cạnh nguồn vốn tiền gửi, các ngân hàng còn xúc tiến phát hành một số giấy tờ có giá như các loại kỳ phiếu nội tệ và ngoại tệ. Đây là công cụ có lãi suất thường cao hơn lãi suất tiết kiệm và được phép chuyển nhượng, vì vậy tạo sự linh hoạt cho công cụ và tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng. Tuy nhiên vấn còn sử dụng hình thức chứng chỉ đích danh và mới chỉ phát triển thị trường sơ cấp đến hết tháng 6 năm 2000, trong khi thị trường thứ cấp chưa được tổ chức một cách chính thức. Vì vậy, việc chuyển nhượng cũng chưa dễ dàng và thuận lợi cho người mua kỳ phiếu, do đó họ phải tự tìm kiếm bên có nhu cầu mua lại kỳ phiếu. Việc chuyển sang hình thức sử dụng các chứng chỉ vô danh và chứng từ ghi sổ để dễ chuyển nhượng giữa các thành viên tham gia thị trường tín dụng là điều cần quan tâm mà hệ thống ngân hàng dần dần phải thực hiện.
Bên phía sử dụng vốn, hay còn gọi là nghiệp vụ bên tài sản có bao gồm một số các hoạt động “đầu ra” của ngân hàng thương mại, nhưng chủ yếu là nghiệp vụ cho vay đem lại hơn 90% thu nhập cho các ngân hàng. Cho vay là việc ngân hàng với số vốn huy động được giao cho người vay một số tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định, khi hết hạn người vay phải trả cho ngân hàng khoản tiền cho vay cộng thêm khoản lợi tức cho vay theo quy định của ngân hàng. Nghiệp vụcho vay này phục vụ cho rất nhiều đối tượng có mục đích sử dụng vốn khác nhau, vì vậy ngân hàng thường phân chia nghiệp vụ này ra làm nhiều loại. Khi thực hiện các nghiệp vụ này, ngân hàng phân công cho các phòng nghiệp vụ của mình theo dõi chuyên trách từng lĩnh vực hoặc từng nhóm tách biệt nhằm mục đích quản lý chặt chẽ và đòi nợ khi đáo hạn một cách triệt để nhằm bảo toàn vốn cho vay và thu lãi.
Hoạt động vay mượn tại các ngân hàng là nghiệp vụ hàng ngày, để đảm bảo lợi ích của khách hàng và ngân hàng, ngân hàng đưa ra các quy định theo các nguyên tắc vay mượn bắt buộc cả hai bên đều phải tuân thủ nghiêm ngặt. Các nguyên tắc đó thường được lập ra dựa trên cácquy định quản lý và giám sát của các ngân hàng Nhà nước áp dụng chung đối với các ngân hàng.
Sau khi hai Luật ngân hàng ra đời: Luật ngân hàng Nhà nước (Luật số: 01/97/QH10) và luật các tổ chức tín dụng (Luật số: 02/97/QH10), Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Vịêt Nam đã ban hành nhiều nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn thi hành luật để củng cố và phát triển thị trường.
b.Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Khi hệ thống ngân hàgn phát triển đa dạng với nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác có những thế mạnh khác nhau, thì các ngân hàng không chỉ có nhu cầu mở rộng dịch vụ với dân cư và các doanh nghiệp mà còn mở rộng phạm vi hoạt động bằng các dịch vụ cho vay lẫn nhau. Từ đó làm nảy sinh một loại dịch vụ mới đó là các dịch vụ tín dụng giữa các ngân hàng. Trong đó thị trường mà các ngân hàng giao dịch vay và cho vay với nhau bằng đồng bản tệ gọi là thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Trên thực tế, vào cùng một thời điểm không phải mọi tổ chức tín dụng đều có thể sử dụng hết số vốn huy động, nhưng các ngân hàng khác lại thiếu vốn để cho vay và khi đó các ngân hàng có thểthực hiện tín dụng cho nhau theo lãi suất thoả thuận. Do đó, các ngân hàng ứ đọng vốn có khả năng giải toả rất nhanh, thu thêm lợi nhuận để có thể bù đắp vào việc thanh toán tiền gửi của khách hàng, mặt khác các ngân hàng đang thiếu vốn để cho vay sẽ được đáp ứng đủ lượng vốn cần thiết để thực hiện tín dụng và thanh toán chi trả kịp thời cho khách hàng, bảo đảm được uy tín của mình với khách hàng.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam chính thức đi vào hoạt độngtừ tháng 7/1993. Mục tiêu của thị trường nội tệ liên ngân hàng là nhằm hỗ trợ các ngân hàng fthương mại bổ sung vốn cho nhau, đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn trong thanh toán sau khi thực hiện thanh toán bù trừ với nhau tại các trung tâm. Hoạt động của thị trườngnội tệ liên ngân hàng tuy mới ở quy mô nhỏ, nhưng bước đầu đã tạo ra sự chu chuyển nguồn vốn giữa các ngân hàng, tận dụng nguồn vốn khả dụng sẵn có trước khi cần đến tiền trung ương phát hành mới.
Thành viên thị trường nội tệ liên ngân hàng bao gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàgn thương mại cổ phần, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt đọng trên lãnh thổ Việt Nam. Các ngân hàng này muốn được chấp nhận tham gia thị trường nội tệ liên ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Là thành viên của một trung tâm thanh toán bù trừ.
+ Có tài khoản tiền gửi và tiền vay tại sở giao dịch ngân hàng Nhà nước.
+Có hệ thống thông tin nội bộ và nối mạng từ hội sở chính tới trung tâm giao dịch thị trường.
+Chấp hành nghiêm chỉnh quy chế, nội quy của thị trường nội tệ liên ngân hàng và phải đóng góp kinh phí theo quy định.
Ngân hàng Nhà nước vừa là thành viên, vừa là người quản lý và điều tiết thị trường.
Tại thị trường nội tệ liên ngân hàng thực hiện hai loại cho vay: cho vay bù đắp do thiếu hụt trong thanh toán bù trừ – gọi là cho vay thanh toán, và cho vay để mở rộng tín dụng ngắn hạn – gọi là cho vay ngắn hạn. Việc cho vay này có thể là ngân hàng nhà nước cho các thành viên vay hoăc các thành viên cho vay lẫn nhau. Khả năng cho vay của thành viên trên thị trường nội tệ liên ngân hàng tuỳ thuộc vào số tiền vượt khả năng chi trả trong thanh toán, còn mức cho vay ngắn hạn của ngân hàng nhà nước tuỳ thuộc vào yêu cầu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và mức dư cợ thanh toán bù trừđối với ngân hàng Nhà nước của các thành viên cho vay, cũng như chu cầu mở rộng tín dụng của thành viên đó. Ngân hàng Nhà nước không cho vay đói với các ngân hàng không phải là thành viên thị trường nội tê liên ngân hàng.
Thời hạn cho vay thanh toán có thể từ một ngày đến năm ngày. Thời hạn cho vay ngắn hạn do thành viên vay và cho vay thoả thuận. Ngân hàng Nhằnớc cho vay theo lãi suât quy định của thống đốc ngân hàng Nhà nước. Các thành viên cho vay lẫn nhau theo lãi suất được hình thành t._.rên thị trường nội tệ liên ngân hàng trong khung lãi suất do Thống đốc quyết định. Nếu phát sinh nợ quá hạn sẽ áp dụng lãi suất phạt nợ quá hạn.
Đối với các thành viên là chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng liên doanh với nước ngoài, việc cho vay trên thị trường nội tệ liên ngân hàng chỉ được phép thực hiện bằng đồng Việt Nam.
Cho tới nay, việc cho vay tại thị trường nội tệ liên ngân hàng chủ yếu là không có thế chấp nên còn chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt đối với ngân hàng thương mại cổ phần. Vì vậy, giao dịch giữa các ngân hàng rất khó phát triển, còn trông cậy vào sự bảo lãnh của ngân hàng Nhà nước. Hiện nay thị trường tín phiếu kho bạc đã đi vào hoạt động và các ngân hàng có thể sử dụng tín phiếu kho bạc làm thế chấp trong quan hệ vay mượn trên thị trường nội tệliên ngân hàng.
Một yếu tố quan trọng nữa khiến cho các hoat động trên thị trường nội tệ liên ngân hàng kém linh hoạt là do phần lớn các ngân hàng có dự trữ vượt mức, trong khi đó một số ngân hàng không đủ thế chấp đã cản trở tham gia vào thị trường. Mặt khác, thị trường vốn qua đem chưa được phát triển vì hệ thống thanh toán hiện nay không đảm bảo việc xử lý các khoản vốn trong một ngày. Đó cũng chính là một trong những yếu tố gây khó khăn cho thị trường phát triển.
c.Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn
Trên thị trường tiền tệ loại giấy tờ có giá được sử dụng phổ biến ở nước ta hiện nay vẫn là tín phiếu kho bạc.
Sau một thời gian nghiên cứu và được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính và tín dụng quốc tế (IFM, ADB, WB…), với sự phối hợp của bộ tài chính, vào những tháng đầu năm 1995 ngân hàng nhà nước đã hoàn chỉnh đề án, quy chế và thông tư liên bộ về thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc.
Trên cơ sở đó, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc ở Việt Nam đã bước đầu đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 1995. Trên thị trường này , tín phiếu kho bạc có các loại kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 9 tháng do kho bạc phát hànhthông qua ngân hàng Nhà nước làm đại lý và đưa ra đấu giá công khai. Lãi suất áp dụng tuỳ thuộc kết quả áp dụng của đợt phát hành. Hình thức phát hành có thể là tín phiếu loại ghi sổ, các chứng chỉ vô danh hoặc các chứng chỉ đích danh. Phương thức phát hành là chiết khấu , tức giá bán thấp hơn mệnh giá và thanh toán theo mệnh giá khi đến hạn.
Thành viên tham gia thị trường gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài , công ty tài chính. Công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân tại Việt Nam. Đối với các ngân hàng và các công ty tài chính thì phải có tài khoản VND và các tài khoản tín phiếu kho bạc mở tại ngân hàng Nhà nước đồng thời có vốn pháp định tối thiểu 20 tỷ đồng. Đối với các đối tượng khác phải có tài khoản VND mở tại ngân hàng là thành viên thị trườngvà có tài khoản tín phiếu kho bạc mở tại ngân hàng Nhà nước.
Những phiên đấu giá tín phiếu tín kho bạc đầu tiên đã diễn ra rất thành công, bước đầu làm giảm chi phí vay nợ của ngân hàng nhà nước, đồng thời đưa lại cho các ngân hàng một công cụ mới trong việc quản lý vốn một cách linh hoạt. Tín phiếu ho bạc còn là một công cụ mà các ngân hàng có thể sử dụng làm thế chấp để phát triển các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
d.Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Tháng 10 năm 1994, ngân hàng Nhà nước đã chính thức khai trương thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một phần quan trọng trong thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay, thị trường tiền tệ có mối quan hệ khăng khít song hành với các nghiệp vụ khác của thị trường tiền tệ. Những mục tiêu cơ bản của việc tổ chức thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân hàng làm cơ sở cho việc triển khai một thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam theo tinh thần của hai luật ngân hàng. Thông qua hoạt động của thị trường, NHNN tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế xác định tỷ giá theo hướng thị trường. Hơn nữa, thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN sử dụng quỹ bình ổn hối đoái như là người mua, bán ngoại tệ cuối cùng để can thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chính sách hối đoái của NHNN và bình ổn tỷ giá hối đoái.
Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng liên doanh với nước ngoài và chi nhánh các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Một số chi nhánh của các ngân hàng trên, do trụ sở chính đề nghị và được sự chấp thuận của NHNN cũng có thể tham gia thị trường. NHNN tham gia thị trường như các thành viên khác, đồng thời can thiệp nhằm mục tiêu quản lý khi cần thiết.
Điều kiện để ngân hàng thương mại trở thành thành viên của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là:
+Phải được phép kinh doanh ngoại tệ.
+Có tài khoản ngoại tệ và tiền đồng gửi tại NHNN.
+ Có hệ thống thông tin nội bộ nối mạng với NHNN.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động tất cả các ngày làm việc trong tuần và bước đầu chỉ thực hiện các giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn thông thường – kỳ hạn do các thành viên giao dịch tự thoả thuận. Các đồng tiền tham gia giao dịch có thể là USD, GBP, JPY, HKD, VND nhưng cơ bản loại tiền được sử dụng nhiều trong giao dịch tại thị trường vẫn chủ yếu làVND và USD.
Phương thức giao dịch trên thị trường phi tập trung là thông qua hệ thống telex, fax, điện thoại và mạng vi tính. Việc cam kết trên các phương tiện trên là bất di bất dịch không thay đổi và việc chuyển tiền thực hiện bằng điện.
Đối với tỷ giá giao dịch, trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố đầu ngày, các ngân hàng thương mại được phép giao dịch với nhau trong một biên độ nhất định quanh tỷ giá chính thức. Nếu trong biên độ này mà cung cầu không cân bằng thì NHNN sẽ mua hoặc bán để can thiệp.
Thời hạn thanh toán áp dụng cho các giao dịch giao ngay là T+2 ngày và cho các giao dịch kỳ hạn là theo thời hạn ghi trong hợp đồng.
Thời gian đầu, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động không thực sự tích cực. Nhưng từ đầu năm 1995 trở lại đây NHNN đã thực hiện cân bằng thị trường hàng ngày và thị trường hoạt động nhộn nhịp hơn với doanh số tăng mỗi ngày.
Bên cạnh các giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng trong nước, NHNN cũng như các ngân hàng thương mại đã bắt đầu vươn ra thị trường hối đoái quốc tế, nhằm đáp ứng nhu cầu cho khách hàng hoặc nhu cầu quản lý dự trữ ngoại tệ.
Như vậy, thị trường hối đoái tại Việt Nam đã hình thành và không ngừng được củng cố và hoàn thiện, mặc dù chưa thực sự hoàn chỉnh nhưng cũng đã đóng góp một vai trò lớn trong hoạt động trên thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay. NHNN đang dần củng cố và phát triển thị trường này.
1.2.Lãi suất
1.2.1. Khái niệm
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.
Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá trị hơn đồngtiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụngvốn cho người khác có nghĩa là anh ta hy sinh quyền ssử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hy vọng có được lượng tiền tệ lớn hơn vào ngày mai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm đó hoặc là nó không đủ để bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.
Với ý nghĩa như vậy, lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân trong việc hình thành tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Lãi suất cũng ảnh hưởng đến các quyết định phân bổ vốn đầu tư của các doanh nghiệp và hộ gia đình: nên đàu tư vào nhà xưởng máy móc hay gửi tiết kiệm. Xét ở phạm vi toàn xã hội, các quyết định này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiẹp của mỗi quốc gia.
1.2.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1.2.2.1. Lãi suất phản ánh chi phí cơ hội của người tiêu dùng
Ta biết rằng, chi phí cơ hội theo quan điểm của kinh tế học là các lợi ích (vật chất và phi vật chất) bị mất đi do không sử dụng tài nguyên theo phương án có lợi nhất. Trong lĩnh vực tiền tệ, chi phí cơ hội chính là việc hy sinh những lợi ích hiện tại để thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai. Lãi suất là sự phản ánh rõ nét nhất chi phí cơ hội trong các quyết định tiêu dùng, tiết kiệm hay đầu tư. Thông thường, các cá nhân, tổ chức kinh tế và đôi khi là Chính phủ cá các khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu gọi là tiết kiệm. Việc sử dụng khoản tiết kiệm này cần phải tính đến chi phí cơ hội.
Lãi suất tiền gửi càng cao khuyến khích cung tiền gửi, khuyến khích dân cư, các doanh nghiệp hy sinh tiêu dùng hiện tại để có thể tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Phần thưởng cho sự hy sinh tiêu dùng và dành quyền sử dụng khoản tiền đó cho chủ thể cung vốn là lãi suất.
Ngược lại, lãi suất tiền gửi càng thấp càng làm tăng cầu của ngân hàng về tiền gửi nhưng những người có tiền tiết kiệm lại tiêu dùng nhiều hơn hoặc các doanh nghiệp có thể dùng tiền đầu tư vào thị trường tài chính như mua trái phiếu chứ không gửi vào ngân hàng để hưởng lãi vì chi phí cơ hội với họ quá cao (lợi ích mà họ nhận đượcdo tiêu dùng hiện tại lớn hơn lợi ích trong tương lai).
Cung tiết kiệm
i
(%năm)
S(Tiết kiệm)
Vì vậy, có thể khẳng định lãi suất tác động đến việc phân bổ các khoản tiêu dùng, tiết kiệm. Đối với những người gửi tiết kiệmthì lãi suất là tiền thưởng cho việc giảm bớt tiêu dùng hiện tại, chờ đợi tiêu dùng tương lai và lãi suất kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế.
1.2.2.2. Lãi suất phản ánh chi phí vốn đầu tư
Đối với những người dư thừa vốn, lãi suất phản ánh phần thưởng mà họ nhận được do hy sinh tiêu dùng hiện tại thì đối với những người cần vốn, lãi suất là khoản phí phải trả cho chi tiêu hiện tại thay vì tiêu dùng tương lai.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với hoạt đông sản xuất kinh doanh là vốn. Thực tế cho thấy gần như không một cá nhân nào dốc toàn bộ vốn mà mính có vào hoạt động sản xuất kinh doanh bởi nhiều lý do khác nhau như: rủi ro cao, hệ số đòn bẩy tài chính thấp dễ dẫn đến lãng phí nguồn lực, làm ăn không hiệu quả. Vì vậy, họ cần quan tâm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng hợc tín dụng thương mại. Với mức cho vay hợp lý sẽ kích tích nhà đàu tư vay vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên với tư cách là người mua quyền sử dụng vốn người đầu tư bao giờ cũng muốn mua với giá rẻ, còn người bán muốn bán với giá cao. Vì vậy dãn đến lãi suất biến động lệch so với lãi suất cung cầu.
Nếu lãi suất tăng cao trước hết nó tác động đến tam lý của nhà đầu tư, làm thay đổi kỳ vọng của họ, thậm chí gây hoang mang, rối loạn thị trường. Thêm vào đó chi phí vốn tăng cao làm cho hiệu quả đầu tư giảm bớt.
Trong trường hợp lãi suất ở mức thấp so với lãi suất cân bằng cung cầu cũng có thể ảnh hưởng đến đầu tư, dẫn đến đầu tư quá mức, phân bổ nguồn lực không hiệu quả, tăng trưởng quá nóng.
Như vậy có thể khẳng định lãi suấttín dụng là công cụ kích thích đầu tư, phát triển kinh tế. Nhưng cần chú ý, lãi suất thực (lãi suất danh nghĩa trừ lạm phát) phản ánh chính xác chi phí vốn đầu tư.
Lãi suất
% năm
Vốn đầu tư (I)
Đường cầu đầu tư
1.3.Cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ
1.3.1. Khái niệm
chính sách lãi suất là một phần trong tổng thể hệ thống chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Chính sách lãi suất là chủ trương kế hoạch thực hiện nhằm đạt được các mức lãi suất hợp lý tạo nên sự phát triển hài hoà vững chắc cho nền kinh tế. Mục tiêu của chính sách lãi suất không cố định mà thay đổi theo sự biến đổi các điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ.
Cơ chế lãi suất là tổng hợp các biện pháp mà người điều hành lãi suất áp dụng với đối tượng bị điều chỉnh nhằm thực hịên mục tiêu lãi suất hợp lý kích thích sự tăng trưởng, tiết kiệm, đầu tư và tổng cầu trong nền kinh tế.
Nếu như lãi suất hình thành chủ yếu do quan hệ cung cầu một cách khách quan trên thị trường thì cơ chế lãi suất phản ánh ý muốn chủ quan của chủ thể tác động ( ở đây là NHTW) tuỳ theo mục tiêu hướng tới.
Trong một nền kinh tế kém phát triển, chính sách lãi suất mang nặng ý chí chủ quan của Nhà nước và không tuân theo xu hướng vận động của nền kinh tế, do đó các biện pháp áp dụng cũng mang tính hành chính trực tiếp: các quy định cụ thể về lãi suất, chi tiết với các đối tượng bị điều chỉnh ( theo thời gian sử dụng vốn, theo loại hình sở hữu, theo ngành nghề kinh tế và theo nhiều tiêu thức khác).
Cùng với sự phát triển kinh tế và thay đổi trong nhận thức, mục tiêu các biện pháp quản lý lãi suất cũng đổi mới theo hướng giảm dần các quy định lãi suất cụ thể, quy định lai suất bao quát hơn như trần lãi suất, chênh lệch lãi suất… sau đó đến thưch hiện dần dần từng bước tự do hoá lãi suất như hiện nay. Đó cũng là các bước cơ bảncủa tiến trình tới lãi suất thị trường song song với nó là các công cụ gián tiếp: dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở…để tác động đến lãi suất thông qua thay đổi phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Mỗi nước tuỳ vào đièu kiện kinh tế – xã hội, khả năng phát triển, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường mà có bước đi nhanh hay chậm để thực hiện tiến trình tự do hoá lãi suất sao cho tránh nhữn đột biến không mong muốn và đạt được hiệu quả cao nhất.
Giữa chính sách lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất có mối quan hệ khăng khít, một mặt chính sách lãi suất là cơ sở để tồn tại cơ chế điều hành lãi suất, mặt khác cơ chế lãi suấtcụ thể hoá chính sách lãi suất. Đây là hai phân đoạn của một quá trình thống nhất-quá trình điều hành lãi suất.
1.3.2. Tính tất yếu của việc thực hiện kiểm soát lãi suất
Lãi suất là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố chủ yếu như: quan hệ cung cầu vốn, mức độ rủi ro, tỷ lệ lạm phát, tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế, mức độ biến động tỷ giá, lãi suất thị trường quốc tế, chi phí quản lý kinh doanh bình quân của các tổ chức tín dụng, sự điều chỉnh lãi suất của NHTW, các chính sách của Nhà nước. Theo cơ chế thị trường thì vấn đề cung cầu là quan trọng nhất, có nghĩa là lãi suất phải thực sự khách quan, thoả mãn những lợi ích mong muốn của cả lai đối tượng những người thừa vốn và những người thiếu vốn. Về nguyên tắc, NHNN là cơ quan quản lý vĩ mô về lĩnh vực tiền tệ sẽ không thể quy định các biểu lãi suất cụ thể đối với từng đối tượng khách hàngcủa NHTM và các TCTD, đây là nhiệm vụ của bản thân các ngân hàng để đáp ứng yêu cầu hiệu quả trong kinh doanh.
Trên bình diện vĩ mô, lãi suất cân bằng tối ưu phải là lãi suất tương ứng với sự cân bằng trên thị trường hàng hoá. Tuy nhiên, khi lãi suất trên thị trường tiền tệ dao động quá xa so với lãi suất đảm bảo cân bằng của thị trường hàng hoá thì NHNN tác động thu hẹp mức giao động đó thông qua các công cụ điều hành gián tiếp, những công cụ gián tiếp sẽ tác động lên lãi suất ngân hàng với vai trò mục tiêu hoạt động.
Tóm lại, lãi suất tác động đến mọi mặt của nền kinh tế, mọi chủ thể trong nền kinh tế ít nhiều chịu sự tác động của lãi suất. Dưới góc độ cơ quan quản lý vĩ mô vấn đề tiền tệ trong nền kinh tế, NHTW không thể không quan tâm đến sự biến động của lãi suất và sự tác động của nó đến tổng thể nền kinh tế nói chung cũng như hệ thống Ngân hàng nói riêng. Chính sách tiền tệ là một trong bốn chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình thfực hiện kiểm soát khối lượng tiền cung ứng (hoặc kiểm soát lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm. Lãi suất là một công cụ đặc biệt hết sức nhạy cảm trong tay NHNN để hoạch dịnh và điều hành CSTT.
Thực vậy, khi NHNN muốn thúc đẩy tốc độ gia tăng phát triển của nền kinh tế thì một chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ được thực hiện, tức chính sách tăng khối lượng tiền cung ứng đi đôi với chính sách lãi suất thấp để khuyến khích các tổ chức tín dụng,NHTM mở rộng cho vay với nền kinh tế, làm cho tín dụng trở nên sẵn sàng hơn kích thích sản xuất phát triển.
Trường hợp ngược lại, khi NHNN muốn hạn chế tốc độ phát triển nền kinh tế thì chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cho các mức lãi suất thị trường ở mức cao, khả năng tiếp cận tín dụng giữa NHTM với NHNN cũng như giữa khách hàng và TCTD trở nên khó khăn hơn, hạn chế đầu tư.
1.3.3. Phân biệt cácloại cơ chế kiểm soát lãi suất của NHTW
a. Cơ chế kiểm soát lãi suất
i. Khái niệm
Cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp được hiểu là việcNHTW trực tiếp quản lý lãi suất kinh doanh của các NHTM, các tổ chức tín dụng thông qua ấn định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay hết sức cụ thể, chi tiết, khống chế chênh lệch lãi suất đầu vào – ra, trần lãi suất, lãi suất cơ bản cộng với biên độ dao động cụ thể… NHTW muốn tác động điều tiết trực tiếp hoạt động tín dụng trong nền kinh tế nhằm khống chế sự biến động của mục tiêu trung gian đặt trước. Một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của cơ chế kiểm soát lãi suất là việc dự đoán mức cầu tiền của nền kinh tế.
Bởi vì NHTW không trực tiếp thực hiện các khoản tín dụng với các doanh nghiệp, các nhân trong nền kinh tế mà các TCTD và NHTM mới trực tiếp cho vay đối với nền kinh tế. Nhưng NHTW muốn kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nên việc đưa ra các mức lãi suất chi tiết theo từng đối tượng, theo từng thời hạn, từng ngành, khu vực… Hình thức kiểm soát lãi suất trựctiếp cùng với các công cụ trực tiếp như: tỷ giá, hạn mức tín dụng… được áp dụng khá phổ biến ở các NHTW trong giai đoạn đầu thành lập, cũng như các nước có nền kinh tế kém phát triển và đang phát triển trên thế giới.
Để đạt được thành công của cơ chế kiểm soát trực tiếp lãi suất, các chính sách mang nặng tính hành chính cũng được áp dụng như chính sách tín dụng, chính sách quản lý ngoại hối.
ii.Điều kiện áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp
Thứ nhất: Đó là trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát cao ( lạm phát phi mã) thì việc sử dụngcơ chế kiểm soát lãi suất tín dụng trựctiếp kết hợp hạn mức tín dụng có thể giúp NHTW khống chế ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.
Thứ hai: Trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động lãi suất, các chủ thể kinh tế phản ứng rất chậm chạp với sự thay đổi lãi suất một cách tự phát trên thị trường.Vì vậy, việc quy định lãi suất sẽ trở thành tất yếu để điều chỉnh hành vi tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế theo hướng mong muốn của NHTW.
Chẳng hạn, lãi suất tiền gửi càng cao sẽ càng khuyến khích cung tiền gửi tức thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng và trung gian tài chính, TCTD, đồng thời hạn chế tiết kiệm. Ngược lại, lãi suất tiền gửi thấp càng làm tăng cầu của ngân hàng về tiền gửi.
Lãi suất cho vay được quy định ở mức thấp thì càng khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân vay vốn để thực hiện đầu tư, mở rộng sản xuất. Ngược lại, lãi suất cho vay cao mặc dù có thể khuyến khích ngân hàng hoạt động mạnh để cho vay nền kinh tế song lại không khuyến khích được hoạt động đầu tư của nền kinh tế.
Thứ ba: NHTW gặp khó khăn khi khống chế kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng(dự trữ vượt mức) của hệ thống NHTM. Nguyên nhân bởi sự yếu kém về hệ thống thông tin cũng như các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ như: hoạt động thanh toán để theo dõi tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, giữa ngân hàng và ngân hàng, giữa NHTM và NHNN.
Thứ tư: Mức độ độc lập trong hoậch địch và điều hành CSTT của NHTW còn rất yếu.Trong điều kiện NHNN nằm dưới sự điều hành của Chính phủ thì các quyết định về thay đổi lãi suất cũng như hạn mức tín dụng có thể là vì yêu cầu của nhà nước, chính phủ hơn là vì mục tiêucủa CSTT.
iii.Ưu nhược điểm của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp
Ưu điểm
Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp cùng với ấn dịnh tỷ giá, quy định hạn mức tín dụng trở thành biện pháp có hiệu quả cao nhất của NHTW trong việc:
+ Điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế
NHTW hoạch định lãi suất trước, sau đó dùng quyền lực và ảnh hưởng của mình để tạo ra quy luật cung – cầu tiền tệ nên lượng tiền cung ứng có thể biến động theo mong muốn của NHTW.
+ Kiềm chế lạm phát ( đặc biệt là lạm phát phi mã )
Dựa vào mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá cả tiền tệ và giá cả của hàng hoá. Lãi suất cao thì thường dẫn đến thu hẹp đầu tư bởi nó ảnh hưởng đến chi phí vốn của các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế và vì vậy dẫn đến giảm tổng cầu, tỷ lệ lạm phát cũng theo đó mà được giảm xuống.
+ Hỗ trợ đắc lực cho các chính sách phát triển kinh tế của chính phủ
Chẳng hạn, Chính phủ muốn tập trung phát triển các ngành, vùng, khu vực nào đó thì sẽ ấn định lãi suất thấp và ngược lại. Các khoản cho vay theo chỉ định hoặc các khoản tín dụng ưu đãi sẽ dễ dàng thực hiện hơn trong cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp.
+ Nhược điểm
Bên cạnh những tác động tích cực của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp ta còn nhận thấy rất rõ những hạn chế của nó:
Là một công cụ kiểm soát trực tiếp, ấn định lãi suất cũng như quy định mức dư nợ tối đa cho nền kinh tế, ấn định tỷ giá đã ngày càng trở nên thiếu linh hoạt, cứng nhắc thậm chí đi ngược lại với biến động thị trường. Nếu NHTW ấn định lãi suất quá cao có thể đẩy mặt bằng lãi suất lên quá cao so với mức cân bằng cung cầu, đồng thời hạn chế hoạt động sản xuất kinh doanh về lâu dài có thể dẫn đến suy thoái. Ngoài ra, việc áp dụng lãi suất cao chỉ là một biện pháp tình thế tức thời theo sau biến động thị trường chứ không thể được sử dụng như một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
Làm giảm tính cạnh tranh giữa các NHTM và các định chế tài chính khác. Lãi suất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của NHTM, nếu nó được hình thành theo quan hệ cung cầu và NHTM có thể điều chỉnh lãi suất đầu vào, đầu ra hợp lý đảm bảo có lợi nhuận. Song nếu nó được quy định bởi NHNN buộc các NHTM phải tuân theo, khiến nhiều ngân hàng thiếu vốn mà khó huy động được vì lãi suất huy động quá thấp hoặc bị ứ đọng vốn không cho vay ra được do lãi suất cho vay quá cao. Tính thời cơ và cạnh tranh trong hoạt động tài chính tín dụng bị hạn chế đáng kể.
Hiệu lực tác động của CSTT bị hạn chế, trong cơ chế lai suất trực tiếp hầu như NHNN chỉ trông chờ vào kênh truyền dẫn như kênh lãi suất hay kênh tín dụng nhằm ảnh hưởng đến sự biến động của lượng tiền cung ứng thông qua khối lượng tiền vay ngân hàng. Song hậu quả của dẫn truyền lãi suất đến cá chỉ tiêu này lại phụ thuộc vào sự trông đợi cả thị trường, nhu cầu vay của nền kinh tế- những chỉ tiêu mà NHNN rất khó kiểm soát được. Hơn nữa, những kênh truyền dẫn ưu việt hơn như: kênh giá tài sản, kênh tỷ giá hầu như chưa thể vận dụng được.
b. Cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp
i.Khái niệm
NHNN gián tiếp kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM, TCTD thông qua việc công bố các lãi suất lãi suất chủ đạo mang tính định hướng như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm.
Việc áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp này thường xuất hiện sau cơ chế kiểm soát trực tiếp cùng với quá trình dần dần bỏ các quy định hành chính đối với lãi suất kinh doanh của NHTM và TCTD. Theo đó, các định chế tài chínhcó thể tự do ấn định lãi suất cho vay và lãi suất huy động trên cơ sở thoả thuận với khách hàng nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh một cách tối ưu, song vẫn bị giới hạn bởi các lãi suất chủ đạo mà NHNN đưa ra. Đây là cơ chế kiểm soát lãi suất vừa thực hiện đượctự do hoá lãi suất hình thành chủ yếu dựa trên quan hệ cung cầu tiền tệ, vừa có tác dụng kiềm soát ở tầm vĩ mô của NHNN. Nói cách khác, khi áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp thì có thể dung hoà được hai khía cạnh trong quản lý đó là vừa thả nổi và vừa kiểm soát.
Nếu như trong cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp việc ấn định lãi suất cụ thể, chi tiết gần như là công cụ duy nhấtcủa CSTT thì cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp cho phép sử dụng được một hệ thống các công cụ gián tiếp hiệu quả như: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách tái cấp vốn ( gồm hạn mức tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc). Trong cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp, NHNN không chỉ đặt ra các mục tiêu về lượng ( như GDP danh nghĩa, cầu tiền ) mà còn cần khả năng bao quát sự thay đổi của các biến số kinh tế vĩ mô cũng như sự biến động của hệ thống lãi suất, giá tài sản, lãi trong nền kinh tế.Việc đưa ra hệ thống lãi suất chủ đạo phải xuất phát từ cơ sở khoa học và diễn biến thực tế.
ii.Điều kiện áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp
- Thứ nhất: Cần có một thị trường tài chính – tiền tệ phát triển đến một mức độ nhất định. Sự thay đổi của lãi suất chủ đạo được kiểm soát bởiNHNN có thể định hướng đến các mức lãi suất ngắn hạn ( lãi suất trên thị trường tiền tệ), sau đó là lãi suất trung dài hạn khác nhau theo nguyên lý cấu trúc kỳ hạn của lãi suất phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển đồng bộ cũng như khả năng phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận của thị trường tài chính tiền tệ. Trong đó, thị trường thứ cấp – thị trường mua đi bán lại các công cụ tài chính đã phát hành – trở thành một bộ phận ngày càng quan trọng. Bởi vì, một thị trường tài chính đa dạng cá giấy tờ có giá trị được trao đổi thông qua các nghiệp vụ sẽ làm cho khả năng khai thác triệt để diễn biến theo nhau giữa công cụ này với công cụ khác, giữa thị trường này với thị trường khác trở nên hiện thực hơn so với khi thị trường còn nghèo nàn hàng hoá và mối liên hệ giữa các thị trường còn lỏng lẻo.
- Thứ hai: Các công cụ của CSTT cũng như hệ thống lãi suất phối kết hợp một cách hiệu quả. Trong đó, NVTTM đã và đang ngày càng chiếm ưu thế với vai trò là công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT của NHNN. Lãi suất hình thành thông qua nghiệp vụ mua bán trên thị trường mở phản ánh rõ nét hơn quan hệ cung cầu thị trường cùng với lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, lãi suất tiền tệ liên ngân hàng sẽ trở thành những chỉ báo quan trọng về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của NHTM, TCTD và hành vi tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm của các chủ thể trongnền kinh tế.
- Thứ ba: Cầu tiền nhạy cảm với lãi suất: Cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của công cụ gián tiếp nhưng đến lượt nó các công cụ gián tiếp lại bị ảnh hưởng của việc nhạy của cầu tiền, đầu tư với lãi suất. Chẳng hạn, khi lãi suất có xu hướng tăng nếu công chúng và các doanh nghiệp phản ứng nhanh với lãi suất thu hẹp cầu tiền, giảm các khoản vay dẫn đến giảm cung tiền, vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng tăng lên. Điều này buộc ngân hàng tham gia thực hiện nghiệp vụ mua giấy tờ có giá trên thị trường mở. Khi lãi suất giảm, ngân hàng sẽ cho vay được nhiều hơn có thể dẫn đến thiếu vốn khả dụng và NHNN điều tiết bằng cách mua giấy tờ có giá trên thị trường mở nhằm tăng cung tiền. Nếu công chúng, tổ chức kinh tế, nhà đầu tư không nhạy cảm lãi suất thì cơ chế kiểm soát thông qua lãi suất gần như bất lực.
- Thứ tư: khi chuyển sang thực hiện cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp vấn đề không thể không quan tâm là phải thiết kế hoàn thiện phát triển hệ thống kênh dẫn truyền CSTT sao cho cá mức lãi suất chủ đạo có thể tác động tới lãi suất ngắn hạn và các biến số kinh tế. Bên cạnh kênh lãi suất truyền thống, các kênh tỷ giá, kênh giá cổ phiếu, kênh giá tài sản ngày càng quan trọng để đảm bảo thành công của CSTT nói chung và cơ chế kiểm soát lãi suất nói riêng.
Công cụ chính sách tiền tệ
Chính sách tái cấp vốn
DTBB
Nghiệp vụ TTM
DTNH
Lãi suất liên NH
Lãi suất thị trường
Lãi suất thực
Chi tiêu cho khu vực nhạy cảm lãi suất
Tỷ giá
Xuất khẩu ròng
Giá tài sản
Cơ cấu lại DMDT
Tín phiếu
Trái
phiếu
Trái
phiếu
TS thế chấp
Tổng cầu AD
áp lực lạm phát
Chi tiêu cho đồ dùng lâu bền
- Thứ năm: Hệ thống NH hoạt động lành mạnh, cạnh tranh hiệu quả bởi chỉ có hệ thống ngân hàng lành mạnh mới có thể đưa ra hệ thống lãi suất phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Thực tế cũng như lý luận chỉ ra những ngân hàng hoạt động yếu kém, hiệu quả thấp, khả năng quản lý rủi ro kém lại là những ngân hàng đưa ra mức lãi suất cho vay khá cao và để đáp ứng yêu cầu vay các ngân hàng này cũng chào lãi suất huy động khá cao.Như vậy sự lựa chọn đối nghíchẽ xảy ra và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người gửi tiền và niềm tin của công chúng đối với ngân hàng, làm biến dạng sự tác động của lãi suất chủ đạo tới hệ thống lãi suất trong nền kinh tế nói chung. Chính vì ảnh hưởng lan rộng và sâu sắc của hệ thống ngân hàng trong toàn bộ nền kinh tế nên việc cải tổ, hoàn thiện hệ thống ngân hàng trở nên cần thiết trong cơ chế kiểm soát lãi suất lãi suất gián tiếp.
- Thứ sáu: Hệ thống thông tin tương xứng. Thông tin không tương xứng là vấn đề toàn cầu của mọi ngành, mọi lĩnh vực. Đó là thông tin về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng, tình hình thanh toán, cung cầu vốn khả dụng trong toàn hệ thống cần phải được thường xuyên cập nhật đảm bảo độ chính xác cao hỗ trợ đắc lực cho các quyết định về lãi suất của NHNN.
iii. Ưu nhược điểm của cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp
Ưu điểm
Thực hiện thành công cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp tức NHNN có khả năng kiểm soát và điều hành mặt bàng lãi suất thị trường tiền tệ một cách chủ động ( thông qua kiểm soát lãi suất ngắn hạn được lựa chọn làm môi trường hoạt động ), hoàn thiện cơ bản cơ chế tác động thông qua lãi suất gồm 3 khâu: đầu tiên và quan trọng nhất là sự tác động trực tiếp của NHNN tới các mức lãi suất ngắn hạn được lựa chọn làm môi trường hoạt động, tiếp theo là giai đoạn thể hiện sự tác động của lãi suất ngắn hạn tới mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, khâu cuối cùng là tác động của lãi suất thị trường tới hành vi tiêu dùng và đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế từ đó tác động đến tổng cầu.
Việc các NHTM, TCTD, định chế tài chính chủ động đưa ra lãi suất tiền gửi, tiền vay phù hợp để đạt được mục đích của mình. Ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất cao để có thể huy động được lượng vốn lớn và muốn tăng doanh số cho vay thì ngân hàng cần tính toán để đưa ra lãi suất cho vay cạnh tranh, nhưng dù sao thì lãi suất cho vay phải cao hơn lãi suất huy động và phải ._.i hoạt động cho vay qua đêm (theo quyết định 1085/2002/QĐ-NHNN) và lãi suất cho số dư tiền gửi thường xuyên của các TCTD tại NHNN (theo quyết định 1284/QĐ-NHNN). NHNN cũng đã chủ trương sử dụng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở làm lãi suất mục tiêu nằm trong giới hạn điều tiết của cặp lãi suất tái cấp vốn đã được nới rộng biên độ từ tháng 2/2003.
Diễn biến phức tạp của lãi suất thị trường thời gian qua và sự đe doạ của nó tới an toàn của hệ thống ngân hàng đòi hỏi NHNN phải thiết kế một hệ thống kiểm soát lãi suất hiệu quả nhằm chủ động chi phối mặt bằng lãi suất khi cần thiết. Trước hết, cần xem lại sự lựa chọn mức lãi suất mục tiêu của NHNN và xây dựng lộ trình phối hợp hệ thống lãi suất chủ đạo theo một mô hình thích hợp để kiểm soát mức lãi suất đó.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động thích hợp hơn việc sử dụng lãi suất hợp đồng mua lại trong các giao dịch NVTTM. Mặc dù mức lãi suất này, hiện nay, NHNN có thể kiểm soát và chi phối được nhưng nếu xét tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động thì lãi suất hợp đồng mua lại không phù hợp ở những khía cạnh sau:
i. Khả năng chi phối mặt bằng lãi suất của nó kém hơn lãi suất liên ngân hàng vì doanh số giao dịch của NVTT rất nhỏ bé. Theo số liệu thống kê của Sở giao dịch NHNN từ quý III/2000 đến quý I/2003, tổng doanh số giao dịch NVTTM chỉ dao động trên dưới 9000 tỷ VNĐ/năm, thậm chí trong năm 2002, có tới 30% phiên giao dịch không có doanh số trung thầu. Trong khi đó, doanh số giao dịch thị trường liên ngân hàng đã tăng lên tới hàng trăm nghìn tỷ VNĐ hàng năm từ năm 1998 đến nay;
ii. Số lượng người tham gia NVTTM rất hạn chế, hầu hết các phiên giao dịch chỉ giới hạn trong phạm vi 4 NHTMNN
iii. Tần số giao dịch NVTTM mới tăng lên 2 phiên/tuần mà chưa được thực hiện hàng ngày vì thế lãi suất hợp đồng mua lại không thể đo lường và phản ánh tình trạng CSTT hàng ngày.
Bảng: Quy mô thị trường liên ngân hàng Việt Nam
(Đơn vị: nghìn tỷ VNĐ)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2004
6 tháng 2002
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Tín dụng đối với các TCTD
Nội tệ
52,9
5,2
60,2
2,8
66,5
7
80,6
10,
43,5
11
Ngoại tệ
43
3,6
0,89
0,08
2,9
0,788
8
0,933
11,7
1,1
Tiền gửi tại các TCTD
Nội tệ
44
4,9
63
7
74,7
9,2
87
12,6
58,6
11,7
Ngoại tệ
0,79
0,21
37,6
3,2
46,6
7,9
45,3
8,89
16,8
8,9
Tổng số
140,7
13,9
161,7
13,08
190,7
24,9
220,9
32,7
130,8
32,8
Nguồn: Vụ tín dụng, NHNN Việt Nam, Tổng hợp tình hình giao dịch LNH từ báo cáo của các TCTD. Từ 1998-6/2002
Lãi suất liên ngân hàng trong thời gian đầu chỉ được coi như một chỉ tiêu bổ sung song song với việc duy trì sự kiểm soát của NHNN đối với khối tiền cơ sở (MB). Nó sẽ trở thành mục tiêu hoạt động chính khi thị trường liên ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới cùng với việc cải thiện năng lực quản lý vốn khả dụng của hệ thống các TCTD.
Mô hình kiểm soát lãi suất mục tiêu phù hợp nhất đối với điều kiện cụ thể của thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay là mô hình kiểm soát lãi suất liên ngân hàng thông qua NVTTM đang được sử dụng phổ biến tại Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản… Theo mô hình này, NHTW phải xác định được một mức mục tiêu cho lãi suất liên ngân hàng và sử dụng NVTTM một cách thường xuyên để duy trì mức lãi suất thị trường liên ngân hàng phù hợp với giá trị mục tiêu đó. Lãi suất chiết khấu được quy định thấp hơn lãi suất liên ngân hàng nhưng kèm theo các điều kiện chiết khấu chặt chẽ, một mặt nhằm cung ứng vốn khả dụng trong trường hợp cần thay đổi điều kiện tiền tệ, mặt khác buộc các ngân hàng phải khai thác triệt để các nguồn vốn khả dụng trước khi đến cửa sổ chiết khấu.
Các mô hình sử dụng phương tiện thường xuyên (úc, Canada, New Zealand) và mô hình sử dụng phương tiện thường xuyên kết hợp với NVTTM (ECB) chưa phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt Nam vì hoạt động của các phương tiện thường xuyên chưa phổ biến. Hiện nay, các hình thức cho vay đáp ứng nhu cầu thanh toán khẩn trương của các NHTM đang được thực hiện dưới hình thức cho vay thanh toán bù trừ và thấu chi nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán bù trừ tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và nhu cầu thanh toán liên hàng điện tử mới hình thành. Cần có thời gian để thống nhất phương thức thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng và sử dụng đồng bộ phương thức thanh toán liên hàng điện tử trong phạm vi toàn hệ thống, tạo nền tảng cho việc sử dụng các phương tiện cho vay và tiền gửi thường xuyên.
Trước mắt, để có thể thiết lập cơ chế kiểm soát lãi suất liên ngân hàng theo mô hình sử dụng nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với Việt Nam, cũng cần có sự điều chỉnh. Bởi NVTTM mới được áp dụng, với quy mô và khả năng can thiệp hiện nay, nó chưa thể hiện điều tiết một cách chủ động lãi suất liên ngân hàng phù hợp với mục tiêu nên việc hình thành một khung lãi suất chủ đạo, kết hợp với NVTTM trong việc điều tiết lãi suất LNH là cần thiết. Các mức lãi suất tái cấp vốn có thể được thiết lập thành khung lãi suất nhằm khống chế biên độ giao động của lãi suất liên ngân hàng. Trong đó, lãi suất tái cấp vốn được sử dụng như lãi suất trần và lãi suất tái chiết khấu được sử dụng như lãi suất sàn. Để có thể khống chế lãi suất liên ngân hàng một cách hiệu quả, việc phân định chức năng của từng hình thức cho vay là rất quan trọng. Hình thức cho vay tái cấp vốn sử dụng các chứng từ có giá làm vật thế chấp, lãi suất cao hơn lãi suất liên ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn khả dụng ngắn hạn trong trường hợp cung cầu thị trường căng thẳng; cụ thể là khi lãi suất thị trường liên ngân hàng đã bằng hoặc cao hơn lãi suất tái cấp vốn hiện hành. Như vậy, loại hình cho vay này không khống chế hạn mức, và NHNN phải sẵn sàng cung ứng vốn khi có nhu cầu. Hình thức cho vay tái chiết khấu, ngược lại, lãi suất quy định thấp hơn lãi suất liên ngân hàng cùng kỳ hạn nhằm tạo nên một nguồn cung ứng vốn khả dụng thường xuyên trong phạm vi một hạn mức. Các điều kiện vay khắt khe của hình thức này sẽ hạn chế sự ỷ lại của các NHTM vào nguồn vốn rẻ và buộc họ phải khai thác triệt để cơ hội vay trên thị trường LNH. Thực chất, khả năng tạo nên một mức lãi suất sàn với ý nghĩa khống chế sự giảm thấp quá mức của lãi suất liên ngân hàng cũng không thực hiện được bằng việc áp dụng hình thức tái chiết khấu. Lãi suất liên ngân hàng vẫn có thể giảm thấp hơn lãi suất tái chiết khấu khi có hiện tượng dư cung trên thị trường liên ngân hàng. Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó chỉ ra giới hạn biến động của lãi suất liên ngân hàng theo mục tiêu của NHNN. Vì thế, việc sử dụng phối hợp NVTTM để điều tiết thường xuyên lãi suất liên ngân hàng sẽ giữ để duy trì nó trọng khung chỉ đạo. Với cơ chế này, việc thay đổi khung lãi suất chỉ đạo sẽ cho biết chiều hướng của chính sách tiền tệ: nới rộng hay thắt chặt.
Thiết kế cơ chế kiểm soát lãi suất ngắn hạn cùng với việc lựa chọn mức lãi suất ngắn hạn phù hợp làm mục tiêu tác động được coi là khâu quan trọng nhất quyết định mức độ hiệu quả của cơ chế tác động bằng lãi suất. Tuy nhiên, hiệu quả cuối cùng của cơ chế tác động này còn phụ thuộc vào mức độ nhạy cảm của các quyết định chi tiêu và đầu tư đối với những biến động lãi suất. Điều này đến lượt nó, được quyết định bởi mức độ hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính, mức độ can thiệp của chính phủ và thực trạng tài chính của các chủ thể kinh tế. Vì thế, để chính sách tiền tệ phát huy hiệu lực tác động của nó, bên cạnh việc thiết kế cơ chế kiểm soát lãi suất cần khơi thông hệ thống kênh dẫn truyền tác động của CSTT.
3.2.3. Xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất phù hợp ở Việt Nam
Bên cạnh xác định lãi suất mục tiêu, việc xây dựng mô hình kiểm soát hệ thống lãi suất chủ đạo giữ vai trò quan trọng trong hoạch định và điều hành CSTT. Thông qua xác định lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động, mô hình kiểm soát lãi suất được coi là phù hợp nhất với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mô hình kiểm soát lãi suất liên ngành ngân hàng thông qua NVTTM đang được sử dụng phổ biến ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và một số nước thị trường mới nổi.
Theo mô hình này, NHTW sẽ xác định một mức mục tiêu cho lãi suất liên ngân hàng và sử dụng NVTTM thường xuyên để duy trì mức lãi suất mục tiêu này. Hoặc mô hình này cũng thường sử dụng lãi suất của phương tiện thường xuyên như lãi suất cho vay qua đêm làm lãi suất trần và lãi suất tiền gửi qua đêm làm lãi suất sàn để giới hạn sự biến động của lãi suất liên ngân hàng.
Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam cần có sự điều chỉnh mô hình này sao cho thích hợp nhất bởi những hạn chế như: NVTTM chưa thực sự sôi động, sự liên hệ giữa thị trường mở và thị trường liên Ngân hàng còn lỏng lẻo, các mức lãi suất hiện nay chưa hài hoà thuận chiều: lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi qua đêm mới ở giai đoạn sơ khai.
*Điểm cơ bản nhất trong việc hình thành khung lãi suất chủ đạo là lựa chọn lãi suất trần và lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng cũng như lựa chọn lãi suất điều tiết thị trường theo mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ.
*Giai đoạn 1: Mô hình kiểm soát lãi suất liên ngân hàng thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Trước mắt, các mức lãi suất tái cấp vốn có thể được sử dụng để hình thành khung lãi suất nhằm khống chế biên độ dao động của lãi suất liên ngân hàng, trong đó:
- Lãi suất tái cấp vốn có thể được xem xét điều chỉnh để trở thành lãi suất trần trên thị trường liên NH. Tái cấp vồn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của NHTW để cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng là thành viên trên thị trường liên NH nhằm thực hiện mục tiêu CSTT và hỗ trợ thực hiện chính sách tín dụng của NN. Theo điều 17- Luật NHNN quy định “NHNN thực hiện việc tái cấp vốn cho các NH theo những hình thức sau: i) cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; ii) Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy từ có giá ngắn hạn khác; iii) Cho vay có đảm bảo rằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Nhưng thực tế cho đến nay cho vay lại theo hồ sơ tín dụng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên phổ biến nhất chỉ có hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác (theo quyết định 251/QĐ-NHNN ngày 30/3/2001). Vì vậy có thể coi lãi suất áp dụng cho nghiệp vụ cho vay có đảm bảo rằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ ngắn hạn là lãi suất trần trên thị trường để phân biệt với lãi suất chiết khấu.
- Lãi suất của hình thức tái cấp vốn do NHNN quy định và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu CSTT từng thời kỳ. Hình thức này không khống chế hạn mức mà NHNN sẵn sàng cung ứng khi các NH có nhu cầu. Tuy nhiên với vai trò là lãi suất trâng trên thị trường tiền tệ liên NH nhằm điều tiết, chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường và bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho NH trong trường hợp cung cấp căng thẳng nên NHNN không sử dụng quá thường xuyên, buộc các NH phải chủ động vay trên thị trường liên NH, thị trường mở trước khi tiếp cận kênh tái cấp vốn.
- Lãi suất tái chiết khấu có thể được sử dụng như lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng. Hiện nay, nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN với các NH thành lập và hoạt động theo Luật TCTD được thực hiện theo quyết định 898QĐ-NHNN ngày 22/3/2003 thay thế cho quyết định 906/2002/QĐ-NHNN. Giấy tờ có giá mà NHNN áp dụng chiết khấu bao gồm: Tín phiếu kho bạc NN, trái phiếu KBNN, tín hiệu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác do thống đốc quy định trong từng thời kỳ.
- Trước đây, lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ chiết khấu là lãi suất trúng thầu phiên gần nhất hoặc lãi suất của kỳ phát hành gần nhất của giấy tờ có giá trị ngắn hạn (chủ yếu là lãi suất đấu thầu tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN) nhưng đến nay lãi suất này do NHNN công bố tham chiếu một số thông số như lãi suất trúng thầu tín phiếu KBNN cũng như lãi suất của một số loại giấy tờ có giá khác; cung cầu thị trường vốn nội địa và quốc tế, đặc biệt chú ý lãi suất thị trường vốn và tỷ giá ngoại tệ.
Để thể hiện là lãi suất sàn trên thị trường, lãi suất chiết khấu sẽ được quy định ở mức thấp nhất trong hệ thống lãi suất chủ đạo. Mặc dù nó không thể khống chế sự giảm thấp quá mức của lãi suất liên NH (khi có hiện tượng dư cung trong hệ thống NH) song lãi suất tái chiết khấu sẽ giới hạn sự biến động của lãi suất liên NH theo mục tiêu của CSTT từng thời kỳ.
Vấn đề ở đây là thiết kế lãi suất tái chiết khấu sao cho vẫn đảm bảo vai trò người cho vay cuối cùng của NHN, tránh việc ỷ lại quá mức của các NHTM vào nguồn vốn rẻ mà buộc họ phải khai thác triệt để vốn vay trên thị trường liên NH. Đồng thời điều kiện tiếp cận của các NH với nguồn vốn này cũng nên hạn chế để thể hiện rằng NHNN sẵn sàng tái chiết khấu giấy tờ có giá để tái tạo nguồn vốn cho NHTM nếu và chỉ nếu các NH này đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu theo quy định. Đồng thời NHNN cũng xác định hạn mức tái chiết khấu yêu cầu theo quy định. Đồng thời NHNN cũng xác định hạn mức tái chiết khấu và chỉ thực hiện chiết khấu trong hạn mức, qua đó vừa giúp NH có nguồn vốn ổn định đảm bảo khả năng thanh toán vừa tăng khả năng chủ động về nguồn vốn. Lãi suất tái chiết khấu sau thời gian được điều chỉnh tăng từ 0,35% lên 4,2%/năm, hiện nay đã giảm xuống mức 3,00%/năm (tháng 8/2003) để phát tín hiệu về một chính sách tiền tệ nới lỏng và ngăn chặn sự tăng lên quá mức của lãi suất trong nền kinh tế. Chúng ta sẽ chờ xem tác động của động thái lãi suất mới này như thế nào.
- Đối với lãi suất NVTTM có thể được hình thành trên cơ sở lãi suất đấu thầu tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN (do NHNN công bố trong đấu thầu khối lượng) nhưng phổ biến hơn vẫn là lãi suất trúng thầu theo đấu thầu lãi suất. Cụ thể đó là lãi suất dự thầu cao nhất trong trường hợp NHTM mua giấy tờ có giá nhằm cung ứng khả năng thanh toán, lãi suất thấp nhất trong trường hợp NHNN bán giấy tờ có giá nhằm hấp thụ khả năng thanh toán. Thông qua hoạt động NVTTM 2 năm vừa qua lãi suất NVTTM luôn ở mức cao hơn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Song một khi khung lãi suất chủ đạo được hình thành thì việc xác định lãi suất NVTTM sẽ thực hiện linh hoạt theo các nguyên tắc thị trường và định hướng CSTT. Lãi suất NVTTM sẽ nằm ở khoảng giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất chiết khấu và gần tương đương với lãi suất cùng kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất NVTTM sẽ được hình thành trên cơ sở lãi suất liên NH đồng thời được sử dụng để điều tiết thường xuyên lãi suất liên NH trong khung lãi suất chỉ đạo. Như vậy trong cơ chế kiểm soát lãi suất này, lãi suất NVTTM và lãi suất thị trường liên NH sẽ có quan hệ mật thiết, chi phối chặt chẽ lẫn nhau. Nền tảng hoạt động của NVTTM là sự phát triển của thị trường liên NH nội tệ và ngoại tệ. Ngược lại sự phát triển của thị trường mở với vai trò là công cụ chủ yếu của CSTT sẽ là động lực hỗ trợ mạnh mẽ hoạt động của thị trường liên NH.
- Lãi suất thị trường liên NH là lãi suất mục tiêu ưu việt và một khi được NHNN lựa chọn và công bố thì NHNN sẽ sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu dự trữ hoặc hấp thụ lượng vốn dư thừa để nhằm duy trì mức lãi suất mục tiêu đó trong khung lãi suất quy định.
* Cơ chế vận hành của mô hình.
Trước mắt, NHNN sẽ công bố một cách công khai theo ngày lãi suất cho vay và đi vay bình quân theo từng thời hạn khác nhau căn cứ mức lãi suất chào cho vay của một số NHTM ( khoảng 10 ngân hàng có chất lượng hoạt động tốt) hình thành nên lãi suất cho vay và đi vay của thị trường liên NH. Mức lãi suất này sẽ luôn thay đổi dao động xung quanh lãi suất cuẩ NVTTM và là lãi suất trần của thị trường tiền tệ trong ngày. Mức lãi suất này sẽ dao động xung quanh lãi suất NVTTM và có thể thay đổi bất kỳ lúc nào.
Đồng thời lãi suất thị trường liên Ngân hàng sẽ được dao động trong biên độ lãi suất trần và sàn quy định nhằm giữ vững cho lãi suất liên Ngân hàng phù hợp với mức mục tiêu. Đây là cơ sở để các NHTM cộng thêm vào mức phụ phí khác để tính ra lãi suất huy động và cho vay với khách hàng của mình theo nguyên tắc: lãi suất huy động thấp hơn lãi suất thị trường liên Ngân hàng và cao hơn lãi suất tái chiết khấu, chiết khấu. Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tái cấp vốn và cao hơn lãi suất thị trường liên Ngân hàng. Lãi suất liên Ngân hàng gắn liền với cung cầu khả dụng của hệ thống ngân hàng do đó nó sẽ là một chỉ tiêu mang tính tổng hợp hơn chỉ dẫn chính xác hơn về chi phí vốn của Ngân hàng, lãi suất huy động và lãi suất cho vay sẽ được hình thành một cách khách quan hơn, phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường.
* Điểm chú ý của mô hình này là:
- Để tạo thành khung lãi suất thì phải nâng cao chênh lệch giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Đầu năm 2003, với sự giảm xuống của hai lãi suất này khoảng chênh lệch đã được mở rộng lãi suất tái cấp vốn là 5% / năm, lãi suất tái chiết khấu là 3%/năm, chênh lệch là 2%/năm. (mức này ở Mỹ là 9%/năm).
- Lãi suất liên ngân hàng do NHNN công bố sẽ căn cứ vào những tiêu chí sau:
+) Cung cầu vốn khả dụng của hệ thống NH
+) Mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ
+) Diễn biến tiền tệ
+) Diễn biến kinh tế vĩ mô
+) Giá cả tài sản trên thị trường vốn
+) Lãi suất trên thị trường quốc tế
+) Tỷ giá ngoại tệ.
Như vậy mô hình kiểm soát lãi suất liên Ngân hàng thông qua NVTTM sẽ được mô tả như sau:
3.2.4. Giai đoạn tiếp theo
Khi hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân Hàng được thực hiện rộng rãi trong toàn quốc, thị trường tiền tệ được hoàn thiện và phát triển đồng thời hệ thống lãi suất của phương tiện cơ bản gồm lãi suất cho vay qua đêm (theo quyết định 1085/2002 QĐ-NH NN) và lãi suất tiền gửi thường xuyên của TCTD tại NHNN (theo quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN) thực sự đi vào cuộc sống thì mô hình kiểm soát lãi suất sẽ hoàn hảo hơn. Đó có thể là mô hình kết hợp giữa phương tiện thường xuyên và nghiệp vụ thị trường mở, theo đó lãi suất cho vay qua đêm của NHNN có thẻ là lãi suất trần và lãi suất trên gửi tại NHNN có thể là lãi suất sàn, khi đó biên độ dao động của lãi suất liên Ngân hàng sẽ được nới rộng ra hơn. Bởi lãi suất cho vay qua đêm sẽ cao hơn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi qua đêm sẽ thấp (them chí 0%). Vì lãi suất trần và sàn có khoảng cách khá rộng, việc sử dụng công cụ NVTTM đa dạng hơn cho phép duy trì lãi suất liên Ngân hàng gần với mức lãi suất NVTTM trong từng thời kỳ.
3.3. Những giải pháp nhằm củng cố và nâng cao vai trò điều hành và kiểm soát lãi suất của NHNN Việt Nam
3.3.1.Lộ trình hoàn thiện cơ chế lãi suất
a. Thứ nhất: Bãi bỏ auy định khống chế lãi suất tiền giử tối đa bằng USD của pháp nhân tại các TCTD, tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền giử ngoại tệ.
Từ cuối năm 1998 đến nay, nhằm góp phần tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối, hạn chế các TCTD găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi để hưởng lãi suất cao và tránh rủi ro về tỉ giá, NHNN đã qui định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ đối với pháp nhân tại TCTD. Mức lãi suất này thường thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư cùng kỳ hạn. Tuy nhiên, do mức lãi suất tiền gửi thấp, nên có thời điểm một số tổ chức kinh tế không muốn gửi tiền tại các TCTD của Việt Nam, mà mang gửi tại các TCTD nước ngoài để hưởng mức lãi suất cao hơn, gây mất nguồn ngoại tệ trong nước. Với cơ chế điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối hiện nay, tỷ giá được xác định theo thị trường hàng ngày, tương đối ổn định, không gây đột biến, tỷ lệ kết nối bằng không, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ giảm, lãi suất USD trong hai năm gần đây liên tục giảm, nên tâm lý găm giữ ngoại tệ của các tổ chứ kinh tế không như thời gian trước đây. Vì vậy, đây là thời điểm hoàn thành thích hợp để bãi bỏ quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của pháp nhân tạo các TCTD, nhằm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
b. Thứ hai: Tách hoàn toàn hoạt động cho vay chính sách ra khỏi các hoạt động cho vay của các NHTM, nhằm thực hiện việc xoá bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Xoá bỏ các hình thức lãi suất chô vay theo chính sách và cho vay ưu đãi trong hệ thống NHTM là tất yếu trong quá trình tự do hoá lãi suất. Theo kinh nghiệm tự do hoá lãi suất của các nước, thì việc xoá bỏ các mức lãi suất ưu đãi trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là quá muộn. Các nước thường tiến hành việc xoá bỏ kiểm soát này vào thời kỳ đầu của quá trình tự do hoá lãi suất. Sở dĩ như vậy là vì, việc tồn tại các mức lãi suất ưu đãi có ảnh hưởng tới các mức lãi suất cho vay thương mại của các tổ chức trung gian tài chính. Thông thường các NHTM hiện nay vẫn dùng nguồn vốn tự huy động để cho vay ưu đãi theo các mục tiêu chỉ định. Nhưng việc cấp bù phần chênh lệch lãi suất cho vay chưa được thực hiện đầy đủ (khi kết quả kinh doanh của ngân hàng bị lỗ). Trong trường hợp như vậy, lãi suất cho vay thương mại sẽ bị đẩy lên cao, để bù đắp cho các khoản cho vay ưu đãi. Bên cạnh đó, việc cho vay ưu đãi thường gắn với rủi ro tín dụng, do người vay gây ra, nhưng cũng có thể do chính NHTM gây ra, vì họ cho rằng các khoản cho vay đó đã được Nhà nước bảo lãnh nên không quan tâm đến hiệu quả đầu tư, giám sát quá trình sử dụng vốn vay.
Việc tồn tại quá lâu các hình thức cho vay ưu đãi đã ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động đầu tư tín dụng, làm hạn chế động cơ nâng cao trình dộ chuyên môn, trình độ thẩm định, giám sát vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của NHTM.
Ngân hàng chính sách xã hội đã đi vào hoạt động từ đầu năm 2003 trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo và tách hợt động chính sách của các NHTM nhà nước, hoạt động tín dụng cảu Kho bạc Nhà nước. Song từ kết quả nghiên cứu các năm qua, chúng tôi vẫn đề cập để đảm bảo tính khoa học và lôgic của kết quả nghiên cứu của mình. Đồng thời cần xem xét chuyển các chức năng cho vay chính sách của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển vào Ngân hàng chính sách. Bên cạnh đó các loại ưu đãi lãi suất khác cho các doanh nghiệp Nhà nước, cho vay giảm 15% đối với vùng II và giảm 30% lãi suất cho vay cùng III cần được tập trung vào Ngân hàng chính sách xã hội. Được biết cho đến nay, việc cho vay giảm lãi suất đối với vùng II và vùng III vẫn còn nhiều vướng mắc nên chưa bàn giao được cho Ngân hàng chính sách xã hội, vì với dư nợ hiện hành của khoản cho vay này lên tới khoảng 7.000 tỷ đổng, nếu bàn giao thì vốn Ngân sách Nhà nước phải chuyên trả số tương ứng đó cho NHNo & PTNT Việt nam. Rõ ràng là Ngân sách khó mà cân đối được số vốn lớn đó để chuyên trả; đồng thời nếu NHNo & PTNT Việt nam tiếp tục làm đại lý giải ngân cho vay loại ưu đãi này thì phải tính thoả đáng phí giải ngân,... Song vì mục tiêu hoàn thiện cơ chế lãi suất thoả thuận, thì khoản cho vay này cần sớm dứt khoát phải tách ra khỏi NHNo & PTNT Việt Nam. Tạm thời Ngân hàng chính sách xã hội trả lãi hàng thánh số vốn 7000 tỷ đồng đó cho NHNo & PTNT Việt Nam theo lãi suất bình quân đầu vào của hệ thống ngân hàng đó.
c. Thứ ba: Tự do hoá hoàn toàn lãi suấtcho vay bằng đồng Việt Nam gắn với việc hoàn thiện các loại lãi suất của NHTW, gồm: Lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc,... Như vậy đã hoàn tất quá trình tự do hoá lãi suất. Lãi suất được hình thành hoàn toàn dựa trên quan hệ cung - cầu về vốn tín dụng trên thị trường. Khi đó, thị trường tiền tệ hoạt động thường xuyên và thông suốt hơn, với sự vận hành đầy đủ và có hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường liên ngân hàng, cho vay tái chiết khấu và tái cấp vốn,... Thị trường chứng khoán cũng sẽ phát triển lên một giai đoạn mới.
Song để đạt được mục tiêu cuối cùng đó, trước hết cần lựa chọn các lãi suất của NHNN làm khung lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất điều tiết thị trường theo mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ làm cơ sở tham khảo. Theo chúng tôi, nên nghiên cứu có thể lựa chọn lãi suất sàn cảu thị trường liên ngân hàng. Khi hệ thống thanh toán và thị trường tiền tệ phát triển thì lãi suất tiền gửi tại NHNN có thể là lãi suất sàn. Theo đó, lãi suất thị trường mở sẽ là lãi suất điều tiết thị trường của NHNN, hình thành trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, NHNN thường xuyên điều tiết tác động đến vốn khả dụng của các TCTD và lãi suất thị trường.
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng của Việt Nam thực hiện cơ chế quản trị và điều hành lãi suất trong hệ thống của mình không hoàn toàn giống nhau. NHNo & PTNT hàng tháng công bố lãi suất điều hoà vốn trong hệ thống của mình (lãi suất chi nhánh thừa chuyển cho trung tâm điều hành và ngược lại, chi nhánh thiếu phải nhận vốn của Trung tâm điều hành). Trên cơ sở đó, giám đốc chi nhánh hoàn toàn chủ động thực hiện lãi suất cho vay và quy định lãi suất huy động vốn tại chi nhánh.
Ngân hàng công thương Việt Nam thì tính trả lãi suất cho chi nhánh thừa vốn trên cơ sở lãi suất huy động vốn bình quân của đơn vị cộng với một khoản chi phí hợp lý. Ngân hàng Ngoại thương thì tính lãi suất tiền gửi cho các chi nhánh gửi tại mình.
Sự khác nhau nói trên là do tính đặc thù của từng hệ thống TCTD, chúng tôi xin đưa ra giải pháp hoàn thiện tiếp theo:
a. Quản trị và điều hành lãi suất của mỗi TCTD phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống, từ hội sở chính đến các chi nhanh của mình. Lãi suất huy động vốn và cho vay được quy định thống nhất và linh hoạt từng ngày trên cơ sở diễn biến vốn khả dụng, sự thay đổi của thị trường tiền tệ, dự thay đổi của thị trường tiền tệ, vận dụng lãi suất của NHNN công bố, lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế, dự đoán nhu cầu cho vay và khả năng thu hút tiền gửi,…
b. TCTD cần thành lập một bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu và đề xuất về lãi suất. Chức năng này cũng có thể giao cho bộ phận quản lý vốn khả dụng. Bộ phận này có một quyền năng đặc biệt, hàng ngày làm iệc trực tiếp với Tổng giám đốc, hoặc Phó Tổng giám đốc phụ trách, để luôn có quyết sách kịp thời.
c. TCTD cần xác định lãi suất điều hoà vốn nội bộ. Đồng thời giao cho giám đốc chi nhánh một phạm vi tự chủ nhất định trong một biên độ cho phép, linh hoạt lãi suất tiền gửi không kỳ hạn với số lượng lớn, tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Chủ động quyết định lãi suất cho vay cụ thể đối với các khách hàng tốt nhất trong phạm vi hạn mức tín dụng được quyền phán quyết.
ở nước ta, để nâng cao năng lực cạnh tranh, thời gian qua các NHTM đã chú trọng mở rộng mạng lưới; thành lập thêm chi nhánh ở các khu vực tiềm năng. Chỉ riêng ở TP. Hồ Chí Minh trong năm 2002 và có 6 tháng đầu năm 2003, các NHTM đã mở thêm 30 chi nhánh trực thuộc, ở Hà Nội có thêm khoảng 10 chi nhánh. Đồng thời các NHTM đẩy mạnh trạng bị cơ sở giao dịch khang trang và hiện đại; đa dạng hoá dịch vụ, nhất là mở tài khoản cá nhân, làm dịch vụ chi trả lương qua ngân hàng, dịch vụ thẻ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, tăng thêm giờ giao dịch buổi trưa, cuối ngày, làm thêm ngày lễ và ngày thứ 7, tăng cường tuyên truyền và quảng cáo theo thông lệ quốc tế, làm cải thiện bộ mặt và tăng danh tiếng của ngân hàng, khuyến mại khách hàng,… Đây là xu hướng hợp quy luật và hợp với tình hình chung, tuy rằng hiệu quả chưa nhiều, cần kiên trì và điều chỉnh kỹ năng cho sâu sắc để đạt hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, bài học được giới thiệu hàng quốc tế rút ra là phải thiết lập hàng rào kiểm soát, che chắn rủi ro, thực hiện nghiêm các quy chế và quy trình nghiệp vụ, triệt để tiết kiệm chi phí hành chính giảm thiểu những cuộc họp hành kém hiệu quả, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Về lâu về dài, các NHTM cần có chiến lược thực hiện có bài bản và khoa học hơn ngiệp vụ quản trị điều hành vốn khả dụng và lãi suất. NHNN cũng cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác thanh tra về lãi suất. Đồng thời phát huy vai trò hiệp hội Ngân hàng trong hợp tác về lãi suất, cho vay, huy động vốn giữa các NHTM.
3.3.3. Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ
Chúng ta không thể hoàn thiện được cơ chế lãi suất cơ bản cũng như chuyển sang cơ chế tự do hoá hoàn toàn lãi suất, nếu như thị trường tiền tệ kém phát triển.
Nhìn nhận lại thực tế có thể thấy, mặc dù thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường cũng đã hình thành ở mức độ nhất định. Đó là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi thực hiện vay mượn, điều tiết vốn lẫn nhau giữa các NHTM. Hoạt động cho vay của NHTM dưới các hình thức tái cấp vốn…; hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ SWAP, hoạt động mua bán lại các loại giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm mục đích điều tiết, cung ứng vốn khả dụng ngắn hạn nội tệ - Đồng Việt Nam (VND) cho các ngân hàng.
Song cũng không thể phủ nhận, tình trạng có tới hàng chục loại lãi suất cho vay chênh lệch nhau rất lớn trong một biên độ rộng từ 0,68%/tháng đến 1,3%/tháng giữa các NHTM, tình trạng lãi suất cơ bản của NHTM giờ đây ít có tác động đến lãi suất cho vay không tăng thậm chí lại giảm,… Tình trạng cạnh tranh đó có nguyên nhân chính la thị trường tiền tệ còn quá yếu kém.
Các giải pháp cụ thể phát triển thị trường tiền tệ được đề xuất như sau:
a. Trước hết, NHNN cần thực hiện ngay các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận. Nếu vẫn duy trì việc công bố lãi suất cơ bản như nêu trên, thì cần phải tính toán lãi suất này cho sát với thực tế cho vay của các TCTD.
b. Thứ hai là cần phải phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của thị trường tiền tệ; đồng thời NHTW phải làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng với mục đích can thiệp trên thị trường này.
Về phía các NHTM để chủ động tham gia thị trường tiền tệ, cần phải thành tập một bộ phận quản lý thanh toán và nguồn vốn, có một vị trí đặc biệt. Bộ phận này luôn tính toán để đủ số vốn dự phòng cần thiết, bảo đảm khả năng thanh toán cho tất cả các chi nhanh trong toàn quốc tại mọi thời điểm. Cần phải đa dạng hoá nguồn vốn của từng chi nhánh thông qua các nguồn có thể vay hay cho vay, các kỳ hạn, các loại đồng tiền và các công cụ chuyển đổi vốn.
c. Thứ ba là, để tăng cường phạm vị, hiệu quả điều tiết, thị trường tiền tệ của NHNN, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế, cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển đổi, điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, công cụ của thị trường tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT27.DOC