Lời mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới luôn luôn đặt ra cho mỗi quốc gia một yêu cầu là phải luôn đổi mới và phát triển kinh tế thì mới có thể tồn tại trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và theo kịp với các cường quốc khác. Chính vì vậy mà trong suốt thời gian qua chúng ta đã phải tiến hành đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường và theo hướng công nghiệp hoá hịên đại hoá, kết quả là chúng ta đã thu được những thành công nhất đ
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các Ngân hàng Thương mại CP trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh như: tốc độ tăng trường GDP vài năm thường từ 7.5% trở lên, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn chỉnh, đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong nước và ngoài nước tăng mạnh, khu vực kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng mạnh và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hệ thống các trung gian tài chính (ngân hàng, bảo hiểm…) ngày càng được mở rộng về quy mô và chất lượng hoạt động …. Những thành tựu kinh tế kể trên đã tạo tiền đề cho việc ra đời và phát triển một TTCK ở Việt Nam - một kênh huy động và phân bổ vốn trung dài hạn quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy một TTCK phát triển, minh bạch, công khai với sự tham gia sôi động của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với sự hưng thịnh của nền kinh tế đất nước. Cũng theo kinh nghiệm của các nước phát triển thì trên TTCK các Ngân hàng tham gia rất sôi động vào TTCK ở mọi khía cạnh: là tổ chức kinh doanh đầu tư chứng khoán, trung gian tài chính và là chủ thể phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán…. mà các ngân hàng của họ lại chủ yếu là các ngân hàng thương mại cổ phần. TTCKVN đã đi vào hoạt động được gần 5 năm và 5 năm ấy là cả một quá trình nỗ lực cố gắng của UBCKNN, NHNN, Chính phủ, và các cơ quan hữu quan khác nhằm xây dựng và phát triển TTCK và bước đầu TTCKVN đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, TTCKVN còn rất nhiều hạn chế như: quy mô thị trường còn quá nhỏ bé, chất lượng thị trường đặc biệt là chất lượng hàng hoá chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư tham gia trên thị trường. Sự tham gia của các chủ thể trên thị trường còn hời hợt đặc biệt là sự tham gia với tư cách là chủ thể phát hành chứng khoán, sự tham gia của các định chế tài chính đặc biệt là các ngân hàng mới chỉ đơn thuần là chủ thể trung gian trên TTCK mà chưa tích cực tham gia phát hành và niêm yết trên TTCK. Như vậy, vấn đề quan trọng nhất hiện nay đối với sự phát triển của TTCK là đẩy mạnh công tác tạo hàng hoá cung cấp cho TTCK đặc bịêt là loại hàng hoá có chất lượng cao. Muốn cho TTCK phát triển trước tiên chúng ta phải cung cấp cho thị trường những loại chứng khoán có uy tín, chất lượng cao đủ để hấp dẫn người đầu tư tham gia thị trường vì thực tế cho thấy là chất lượng chứng khoán niêm yết trên TTCKVN còn rất thấp, tiến trình cổ phần hoá các DNNN - nguồn cung chứng khoán chủ yếu cho TTCK còn gặp nhiều bất cập. Trong khi đó, ở Việt Nam tồn tại một hệ thống các NHTMCP, mà các NHTMCP này đã được chấn chỉnh sắp xếp lại và bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, ổn định, ngày càng chiếm được cảm tình của người dân. Do vậy, có thể nói hệ thống NHTMCPVN có thể là nguồn cung chứng khoán có chất lượng cao để niêm yết trên TTCK một cách nhanh nhất mà lại mang lại hiệu quả cao nhất. Sự tham gia phát hành và niêm yết chứng khoán của các NHTMCP trên TTCK sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến việc thúc đẩy TTCK phát triển, nó sẽ tạo ra cho TTCK VN một nguồn sinh khí mới, nâng cao vị thế, hình ảnh và chất lượng của TTCKVN. Tuy nhiên sự tham gia với tư cách là chủ thể phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTGDCK của các NHTMCPVN hiện nay hầu như chưa xuất hiện.
Nhận thức được sự cần thiết của việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK, em đã chọn đề tài : “Giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên Thị trường chứng khoán Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. Trong khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp, em mong được góp một phần vào việc làm rõ tính cấp bách của việc đưa chứng khoán của các NHTMCPVN lên niêm yết trên TTCK trong điều kiện hiện nay để thúc đẩy TTCK phát triển.
2. Đối tượng nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận tập trung vào nghiên cứu hoạt động của các NHTMCPVN trên TTCK với tư cách là chủ thể phát hành và niêm yết chứng khoán nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá và nâng cao chất lượng TTCKVN.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCPVN đặc biệt là một số ngân hàng có hoạt động kinh doanh hiệu quả, là điển hình cho khối NHTMCPVN như : ACB, Sacombank, EXimbank,VPBank,…
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với phân tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu so sánh trên cơ sở phân tích tình hình thực tế của TTCKVN so với kinh nghiệm xây dựng và phát triển TTCK của các nước trên thế giới từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp cụ thể.
5. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận được chia làm 3 chương lớn:
Chương 1: Sự cần thiết tham gia niêm yết của Ngân hàng thương mại cổ phần trên Thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng tham gia niêm yết của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương1
sự cần thiết tham gia niêm yết của ngân hàng thương mại
cổ phần trên thị trường chứng khoán
1.1. Những vấn đề cơ bản về Thị trường chứng khoán
Khái niệm về TTCK
TTCK là một định chế cơ bản của thị trường tài chính, nơi phát hành và giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn gồm cổ phiếu, trái phiếu chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng khoán khác từ đó hình thành nên giá cả chứng khoán.
Những dấu hiệu của một TTCK sơ khai đã xuất hiện từ thời trung cổ xa xưa.Vào giữa thế kỉ 15 tại những thành phố lớn ở các nước phương tây các thương gia gặp gỡ tiếp xúc với nhau trong quán cà phê, câu lạc bộ để tiến hành thương lượng về các loại hàng như: nông sản, khoáng sản, ngoại hối….Thời kỳ đầu các cuộc thương lượng chỉ bao gồm những nhóm nhỏ và được tiến hành tại các khu chợ phân tán ở nhiều địa phương. Cho đến cuối thế kỉ 15 các khu chợ này đã trở thành một thị trường với số lượng người tham gia lớn hơn, thường xuyên hơn. Trải qua những bước thăng trầm, TTCK đã có những thời kì huy hoàng như giai đoạn 1875-1913, nhưng cũng không tránh khỏi những lúc khủng hoảng như giai đoạn 1923 hay 1987 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính. Tuy nhiên đến nay, TTCK đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường.
Sở dĩ như vậy vì TTCK là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, nó đặc biệt cần thiết đối với bất kì một quốc gia nào, là kênh huy động vốn trung, dài hạn đầu tư cho nền kinh tế, là công cụ tăng tiết kiệm quốc gia, cung cấp tính thanh khoản cho các chứng khoán và đặc biệt nó là nơi có thể cho phép đánh giá một cách chính xác gía trị tài sản của doanh nghiệp cũng như sức khoẻ của nền kinh tế. Kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế phát triển cho thấy TTCK là một thành phần không thể thiếu với sự phát triển của đất nước vì nếu không xây dựng được một TTCK hoạt động hiệu quả thì không thể thực hiện được việc huy động vốn một cách linh hoạt và không tiến hành đầu tư có hiệu quả để phát triển kinh tế đất nước. Các nhà đầu tư lớn của thế giới từ lâu đã khẳng định: “Không thể triển khai các dự án tiến bộ kinh tế vào sản xuất nếu không tập hợp được những nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng những mục tiêu trung và dài hạn". Như vậy, TTCK là yếu tố căn bản của nền kinh tế thị trường hiện đại.
1.1.2. Cơ cấu của TTCK
Theo tính chất đăng kí TTCK được chia làm 2 loại:
- Sở giao dịch chứng khoán (còn gọi là TTCK tập trung) là thị trường chính thức ở đó thực hiện việc mua, bán các chứng khoán được niêm yết trong danh sách của thị trường. Đây là một tổ chức có tư cách pháp nhân thành lập theo quy định của pháp luật, có thực thể hiện hữu và là một thị trường có tính minh bạch cao.
- Thị trường OTC là thị trường không có địa điểm giao dịch cụ thể, là thị trường thương lượng của các công ty môi giới chứng khoán thực hiện các giao dịch thông qua hệ thống điện thoại, vi tính đã được nối mạng giữa các thành viên trong cả nước hay một khu vực. Hàng hoá của thị trường OTC là các chứng khoán niêm yết hoặc các chứng khoán chưa niêm yết. Tuy nhiên, hàng hoá của thị trường này có rủi ro cao hơn so với thị trường tập trung.
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Trên TTCK có nhiều chủ thể tham gia với nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể trung gian chứng khoán, chủ thể quản lí giám sát hoạt động của TTCK và các tổ chức có liên quan khác.
* Chủ thể phát hành: Là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán bán cho người đầu tư và những người kinh doanh chứng khoán. Theo nghị định 144/2003/NĐ_CP tổ chức phát hành là tổ chức đăng kí phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của nghị định này. Họ có thể là:
- Chính phủ và chính quyền địa phương: Các tổ chức này phát hành trái phiếu khi họ có nhu cầu huy động vốn nhằm bù đắp bội chi ngân sách hay tài trợ cho các dự án quốc gia của địa phương.
- Doanh nghiệp: Phát hành ra các loại cổ phiếu (nếu đó là công ty cổ phần) và các loại trái phiếu công ty. Đây là lực lượng hoạt động thường xuyên và đông đảo trên TTCK nhằm nhiều mục đích khác nhau như huy động vốn, thành lập công ty, sát nhập, giải thể, cổ phần hoá…
- Các tổ chức tài chính: Tổ chức bảo hiểm, công ty tài chính, NHTM đặc biệt là các NHTMCP phát hành ra các chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán phái sinh…
* Chủ thể đầu tư: Là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào TTCK bằng cách mua bán chứng khoán trên TTCK nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Họ có thể là nhà đầu tư có tổ chức hoặc là nhà đầu tư cá thể.
* Chủ thể trung gian chứng khoán: Là các chủ thể có vai trò chủ yếu là kinh doanh, môi giới, bảo lãnh TTCK, tư vấn, quản lý quỹ, giao dịch mua bán chịu chứng khoán.
* Chủ thể giám sát và quản lí hoạt động của thị trường: ở các nước khác nhau chủ thể này có tên gọi khác nhau: Mỹ được gọi là Uỷ ban chứng khoán và giao dịch (SEC), ở Anh thì gọi là UBCK và đầu tư( SIB), Pháp là Uỷ ban các nghiệp vụ chứng khoán ( COB )…và ở Việt Nam gọi là UBCKNN. Tuy có tên gọi khác nhau nhưng các tổ chức này đều có chức năng, nhiệm vụ là quản lí, giám sát hoạt động của TTCK nhằm duy trì sự ổn định và phát triển thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích cho nhà đầu tư.
* Các tổ chức khác có liên quan: SGDCK, tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán, tổ chức dịch vụ sang tên và đăng kí lại quyền sở hữu, công ty tín thác đầu tư…
1.1.4. Hàng hoá trên TTCK
Cũng giống như bất kì một thị trường nào khác, TTCK cũng có hàng hoá riêng để giao dịch, đó là các chứng khoán. TTCK là nơi giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Vậy chứng khoán là gì?
Có nhiều định nghĩa về chứng khoán được quy định trong các bộ luật có liên quan ở từng nước. Có thể hiểu khái quát chứng khoán là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử (bút toán ghi sổ) xác nhận quyền hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán và có thể được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên TTCK.
Theo nghị đinh 144/2003/NĐ_CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và TTCK thì chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Nói đến hàng hoá trên TTCK thì phải quan tâm đến hai vấn đề là: Chủng loại hàng hoá và chất lượng hàng hoá trên TTCK
1.1.4.1. Các loại hàng hoá trên TTCK
Tuỳ từng loại chứng khoán khác nhau, quyền lợi của người sở hữu chứng khoán khác nhau. Thông thường chứng khoán gồm 3 loại: Chứng khoán vốn ( cổ phiếu- Equity securities), chứng khoán nợ ( trái phiếu – Debt securities) và chứng khoán phái sinh (Derivatives).
- Cổ phiếu là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành để hình thành nên vốn điều lệ khi mới thành lập hoặc tăng vốn để sản xuất kinh doanh. Cổ phiếu là phương tiện chia sẻ rủi ro đến cùng. Có nhiều loại cổ phiếu như: Cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi…
- Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ bao gồm vốn gốc và lãi của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hứu trái phiếu. Trái phiếu có mệnh giá và là phương tiện chia sẻ rủi ro có mức độ. Có các loại trái phiếu sau: Trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng
- Chứng khoán phái sinh: Được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Có các loại chứng khoán phái sinh sau: Chứng quyền, quyền mua cổ phần, quyền lựa chọn, các hợp đồng tương lai, hợp đồng kì hạn.
1.1.4.2. Chất lượng hàng hoá trên TTCK
a, Quan niệm về chất lượng chứng khoán
Với bất kì một thị trường nào khác, chất lượng hàng hoá luôn được đánh giá bằng giá trị sử dụng và mức độ phù hợp giữa giá cả và giá trị của hàng hoá đó. Tuy nhiên với TTCK lại khác, hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt nên việc đánh giá chất lượng chứng khoán không thể dựa vào các yếu tố trên. Xuất phát từ bản chất của chứng khoán là có tính sinh lời, tính rủi ro, và tính thanh khoản nên việc đánh giá chất lượng chứng khoán chính là việc đánh giá mức sinh lời và rủi ro của chứng khoán đó. Bên cạnh đó như ta vẫn thường thấy ở các loại hàng hoá khác, giá cả hàng hoá luôn phù hợp với chất lượng hàng hoá. Với chứng khoán cũng vậy, sự tăng trưởng và ổn định giá của một chứng khoán chứng tỏ chứng khoán đó có chất lượng càng cao trong điều kiện thị trường chứng khoán là hoàn hảo. Do vậy, chất lượng hàng hoá trên TTCK còn được đánh giá thông qua sự biến động giá chứng khoán đó.
Theo quan điểm của các nhà đầu tư thì mức sinh lời của một khoản đầu tư là phần chênh lệch giữa kết quả đạt được sau một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu tư đó phải bỏ ra ban đầu. Như vậy, mức sinh lời của chứng khoán là khoản chênh lệch giữa toàn bộ khoản thu nhập nhận được sau một thời gian nắm giữ chứng khoán đó (bao gồm cổ tức hoặc trái tức và phần chênh lệch giá) với giá mua ban đầu của chứng khoán đó. Mức sinh lời của chứng khoán đó càng cao thì càng hấp dẫn nhà đầu tư trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Rủi ro trong đầu tư chứng khoán là khả năng xảy ra nhiều kết quả ngoài dự kiến hay mức sinh lời thực tế nhận được trong tương lai của chứng khoán có thể khác so với dự tính ban đầu. Theo lí thuyết đầu tư chứng khoán của Mazkowit thì rủi ro của chứng khoán bao gồm 2 bộ phận là rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống. Rủi ro hệ thống là rủi ro do yếu tố thị trường mang lại, nó mang tính chất hệ thống và là yếu tố rủi ro không thể loại trừ với bất kì một chứng khoán nào. Rủi ro không hệ thống là rủi ro gắn với chủ thể phát hành ra chứng khoán đó đặc biệt khi nói đến loại rủi ro này người ta không thể không nói đến rủi ro thanh toán. Đó là rủi ro xảy ra khi mà tổ chức phát hành ra chứng khoán bị vỡ nợ, không có khả năng thanh toán các khoản gốc và lãi của các đợt phát hành trái phiếu hoặc không có khả năng chi trả cổ tức cho cổ đông của công ty. Với một nhà đầu tư thì trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì rủi ro của chứng khoán càng cao thì càng kém hấp dẫn họ và ngược lại.
Tuy nhiên, một quy luật trong đầu tư chứng khoán cho thấy là với những chứng khoán có mức sinh lời càng cao thì độ rủi ro của nó cũng không nhỏ và ngược lại. Hay nói khác đi là một mức sinh lời cao hơn sẽ là phần thưởng cho những ai dám chấp nhận rủi ro cao hơn, với những nhà đầu tư ngại rủi ro thì họ chỉ dám đầu tư vào những chứng khoán có độ an toàn cao do vậy mức sinh lời mà họ nhận được sẽ thấp hơn. Do vậy, để đánh giá chất lượng của chứng khoán ta không thể chỉ căn cứ vào riêng mức sinh lời hay rủi ro của chứng khoán đó mà ta phải dựa vào mức độ phù hợp giữa sinh lời và rủi ro, tương quan giữa sinh lời và rủi ro trong từng loại chứng khoán. Tức là với mức độ rủi ro của chứng khoán đang xét thì mức sinh lời của nó đã phù hợp chưa, đã đủ để hấp dẫn nhà đầu tư hay chưa và phù hợp với mức ngại rủi ro của họ hay chưa?
Tuy nhiên, một yếu tố không kém phần quan trọng để quyết định chất lượng của chứng khoán là sự biến động giá chứng khoán đó. Theo lí thuyết thị trường hiệu quả thì trong một thị trường hoàn hảo (thông tin hoàn hảo) thì giá chứng khoán đã phản ánh toàn bộ những thông tin cần thiết hiện có liên qua đến tổ chức phát hành. Do vậy, giá chứng khoán phản ánh chính xác chất lượng chứng khoán đó và sự biến động giá chứng khoán trên TTCK chỉ là do nó phản ứng với những thông tin mới trên thị trường. Vì vậy, với một thị trường chứng khoán phát triển, thông tin minh bạch thì chất lượng chứng khoán được thể hiện chính xác qua giá cả và sự biến động của giá cả chứng khoán trên TTCK.
Từ những kết luận trên ta có thể thấy chất lượng chứng khoán trên TTCK phụ thuộc vào các yếu tố sau:
b, Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chứng khoán
* Những yếu tố thuộc về nền kinh tế
TTCK là một kênh huy động vốn và đầu tư cho nền kinh tế do đó sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế có ảnh hưởng rất sâu sắc tới sự phát triển của TTCK trong đó có chất lượng hàng hoá trên TTCK. Cụ thể là:
- Tình hình chính trị và pháp luật: Chính trị và pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới TTCK những thay đổi chính trị và pháp luật như chế độ thuế khoá, phương thức cải cách, vị trí bầu cử… có tác động rất lớn tới sự biến động giá chứng khoán trên TTCK như tin tức bầu cử tổng thống của Ronald Reagon (5/11/1980) đã làm giá cổ phiếu tăng, chỉ số trung bình công nghiệp Down Jone tăng hơn 17 điểm trong vòng 2h cuối cùng trước khi mức tăng giá này được xác định 15.96 điểm vào cuối phiên giao dịch…hay sự kiện 11/09/2001 đã làm đồng USD bị giảm giá và cổ phiếu Mỹ bị rớt giá vì nguyên liệu đầu vào tăng mà gía hàng hoá lệ thuộc vào xăng dầu, do đó đã tạo ra những biến động trong giá chứng khoán trên TTCK.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao phản ánh triển vọng tăng thu nhập của các công ty do đó có tác động rất lớn tới giá cổ phiếu. Hơn nữa, với một nền kinh tế phát triển cao chứng tỏ các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Điều này đối với nhà đầu tư chứng khoán là rất quan trọng vì nó cho họ thấy rằng chất lượng chứng khoán mà họ nắm giữ tăng lên rõ rệt và sự lựa chọn của họ với chứng khoán đó là hoàn toàn đúng đắn.
- Lãi suất thị trường và tỉ lệ lạm phát: Sự thay đổi của lãi suất thị trường ảnh hưởng không nhỏ tới giá cả chứng khoán trên TTCK, khi lãi suất các ngân hàng đưa ra cao sẽ hấp dẫn người gửi tiền nhiều hơn, lúc này nếu các khoản thu từ chứng khoán không theo kịp lãi suất tiền gửi thì một điều chắc chắn là giá chứng khoán sẽ bị giảm. Hơn nữa, nếu một tỉ lệ lạm phát cao hơn sẽ ảnh hưnởng đến thu nhập thực tế của người đầu tư sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết định lựa chọn của nhà đầu tư từ đó có thể ảnh hưởng đến sự biến động giá chứng khoán.
- Cung cầu trên thị trường: Cũng giống như bất kì hàng hoá nào, giá cả hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của cung cầu chứng khoán. Tuy nhiên, hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt nên không phải ai có nhu cầu về một loại chứng khoán nào đó là có thể mua ngay được vì cung có giới hạn. Khi cầu quá cao sẽ làm giá chứng khoán tăng cao, trong khi cung chưa muốn bán vì đợi tăng thêm, sự tăng giá sẽ tiếp tục đến khi người mua cảm thấy giá quá cao, họ sẽ rút lui vì nản chí và hậu quả là giá chứng khoán sẽ sụt giảm …
- Tâm lí thị trường: Đây cũng là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng chứng khoán trên TTCK vì khi người đầu tư lạc quan, tin tưởng vào thị trường và loại chứng khoán mình lựa chọn thì sẽ có tác động rất tốt tới loại hàng hoá mà họ đã lựa chọn và ngược lại. Trên thực tế cho thấy có những trường hợp do những thông tin sai lệch trên thị trường đã có ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin của nhà đầu tư trên thị trường và dẫn tới việc mua vào hoặc bán ra một cách ồ ạt một loại chứng khoán nào đó và gây nên sự xáo trộn trên thị trường. Đó chính là tâm lí “bầy đàn” trong đầu tư chứng khoán.
* Yếu tố thuộc về chủ thể phát hành
ở phần trên ta thấy các yếu tố của nền kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới TTCK và chất lượng hàng hoá trên TTCK. Tuy nhiên, khi nói đến hàng hoá trên TTCK thì một yếu tố không thể tách rời khỏi nó đó là chủ thể phát hành. Mỗi chứng khoán do một chủ thể phát hành ra nó. Do vậy, chất lượng hàng hoá trên TTCK sẽ do chất lượng của chủ thể phát hành ra nó quyết định. Và chất lượng của chủ thể phát hành chứng khoán sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau :
- Năng lực tài chính của tổ chức phát hành: Thông thường với hầu hết các TTCK khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư người ta thường dùng phương pháp phân tích cơ bản tức là dựa vào các báo cáo tài chính của chủ thể phát hành để lựa chọn chứng khoán. Người ta sẽ phải đánh giá xem năng lực tài chính của doanh nghiệp đó có tốt không cụ thể là:
Về vốn tự có (VTC): Với tổ chức phát hành có VTC càng cao chứng tỏ có năng lực tài chính càng tốt và đệm phòng đỡ rủi ro càng cao. Hơn nữa, VTC của tổ chức phát hành còn ảnh hưởng không nhỏ tới các tỉ lệ như: ROA, ROE cũng như lợi nhuận, lợi tức của tổ chức phát hành và cổ tức của các cổ đông.
Về thu nhập của công ty, kết quả sản xuất kinh doanh của công ty: Công ty làm ăn tốt, thu nhập của chứng khoán đó bao gồm cổ tức và phần chênh lệch giá cổ phiếu đó cao. Do vậy, những công ty có mức cổ tức bền vững và tăng trưởng luôn có được sự trung thành và phản ứng có lợi của các cổ đông. Sự ổn định và mức tăng trưởng cổ tức hợp lý sẽ tăng lòng tin của các nhà đầu tư, giảm tính bất ổn định và góp phần duy trì một mức định giá cao đối với cổ phiếu của công ty.
Triển vọng ngành nghề kinh doanh và tốc độ phát triển của tổ chức phát hành so với ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh: Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng vì nó chứng tỏ rằng trong tương lai doanh nghiệp có đứng vững trong cạnh tranh được hay không. Một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề đã quá lạc hậu hay một doanh nghiệp kinh doanh trong ngành nghề có tiềm năng phát triển cao nhưng lại không theo kịp các doanh nghiệp khác trong cùng ngành đều không có khả năng hấp dẫn người đầu tư và chứng khoán do doanh nghiệp đó phát hành sẽ không thể thu hút nhà đầu tư trên TTCK .
Tình hình hoạt động của doanh nghiệp, định hướng kinh doanh của doanh nghiệp: Nhà đầu tư trước khi lựa chọn cổ phiếu để đầu tư họ luôn phải xem xét xem hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các phương án kinh doanh, định hướng kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai để thấy được tiềm năng của doanh nghiệp, tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh rồi mới quyết định lựa chọn cổ phiếu. Nếu một doanh nghiệp hoạt động có tiềm ẩn nhiều rủi ro phiền toái như: Đình công, chính trị gay gắt, chịu áp lực theo luật lệ, hay phương án kinh doanh nhà đất trên vùng đất thuộc quy hoạch của nhà nước …thì cổ phiếu của doanh nghiệp đó sẽ bị giảm giá ngay lập tức trên TTCK.
Năng lực quản trị của công ty: Một ban quản trị tốt sẽ giúp doanh nghiệp có một định hướng kinh doanh đúng đắn, có phương án kinh doanh khả thi và có khả năng hoàn thành tốt, đúng kế hoạch các dự án của mình và mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho doanh nghiệp. Hơn nữa, khi nhìn vào một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, kỉ luật trật tự tốt, ổn định về nhân sự thì nhà đầu tư sẽ rất yên tâm về loại cổ phiếu mà họ đang nắm giữ.
Như ta đã thấy sự tăng trưởng và ổn định về giá chứng khoán sẽ phản ánh tương đối chính xác chất lượng hàng hoá trên TTCK. Vì vậy, khi những nhân tố trên bất lợi sẽ ảnh hưởng và gây biến động không nhỏ trong giá chứng khoán, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng chứng khoán đặc biệt là các yếu tố liên quan đến chủ thể phát hành vì đó là những yếu tố mang tính chất quyết định tới chất lượng và giá cả chứng khoán trên TTCK. Do vậy, với mỗi tổ chức phát hành phải luôn tìm cách nâng cao năng lực taì chính, hiệu quả kinh doanh và quản trị điều hành của mình để không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá do mình cung cấp cho TTCK.
1.2. Sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP
Như trên ta đã nói hàng hoá trên TTCK là một bộ phận quan trọng của TTCK và chất lượng hàng hoá trên TTCK sẽ quyết định mức độ sôi nổi của thị trường. Tuy nhiên, chất lượng hàng hoá trên TTCK lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà phần lớn là phụ thuộc vào chủ thể phát hành. Những tổ chức có uy tín, năng lực tài chính vững mạnh, có triển vọng phát triển cao sẽ cung cấp cho thị trường những loại chứng khoán có chất lượng cao. Và các NHTMCP là một trong những doanh nghiệp có đầy đủ những yêu cầu trên
1.2.1. Khái niệm về NHTMCP
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi để cho vay, chiết khấu, và đáp ứng các phương tiện thanh toán. Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan". Theo tính chất và mục tiêu hoạt động có các loại hình ngân hàng : NHTM, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác, và các loại hình ngân hàng khác.
NHTMCP là loại hình ngân hàng được thành lập từ trước khi có pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, và công ty tài chính và sau đó nó đã được khẳng định địa vị pháp lý: “NHTMCP là Ngân hàng thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần trong đó một cá nhân hay một tổ chức không được sở hữu số cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do NHNN nước quy định”
Như vậy, NHTMCP cũng giống như một công ty cổ phần, có quyền được phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết cổ phiếu trên TTCK .
1.2.2. Sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP
Việc tham gia niêm yết của các NHTMCP có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với TTCK nói chung mà còn với cả NHTMCP và các chủ thể khác tham gia TTCK nói riêng.
1.2.2.1. Đối với TTCK
Theo thông lệ quốc tế, hệ thống ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng trên TTCK cả dưới giác độ là chủ thể phát hành, niêm yết trên TTCK và chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, ở thị trường sơ cấp ngân hàng thương mại trực tiếp phát hành chứng khoán, ở thị trường thứ cấp, ngân hàng thương mại tham gia mua - bán chứng khoán và thực hiện các nghiệp vụ trung gian như môi giới, tư vấn, bảo lãnh, quản trị và thanh toán chứng khoán. Ngoài ra còn có vai trò ổn định TTCK, kiểm tra hoạt động của các công ty niêm yết …Để TTCK ổn định và phát triển cần phải có sự tham gia tích cực của các ngân hàng vì ngân hàng như một cầu nối giữa người đầu tư với TTCK, là chủ thể tạo nên cung hàng hoá cho TTCK. Sự tham gia của các NHTMCP trên TTCK có đóng góp rất nhiều vào việc nâng cao chất lượng thị trường và thúc đẩy thị trường hoạt động ngày càng sôi động hơn vì ngân hàng là những tổ chức kinh doanh có bài bản, luôn đặt sự an toàn lên trên hết nên hiệu quả kinh doanh thường cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp. Do vậy, sự tham gia của các NHTM trên TTCK với tư cách là chủ thể phát hành và niêm yết chứng khoán sẽ tạo ra cho TTCK những loại hàng hoá có uy tín, chất lượng. Đặc biệt trong một TTCK còn thiếu hàng hoá có chất lượng cao thì sự tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK là một giải pháp hữu hiệu hàng đầu giúp khắc phục được tình trạng trên. Trong khi đó NHTMCP là một bộ phận quan trọng của hệ thống ngân hàng và có địa vị pháp lý như một công ty cổ phần, có quyền được tham gia niêm yết và phát hành chứng khoán trên TTCK. Do vậy, việc đưa cổ phiếu của các NHTMCP lên niêm yết trên TTCK là một việc làm vô cùng cần thiết nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng hàng hoá cho TTCK.
* Về mặt quy mô
NHTMCP trước hết là một ngân hàng nên nó có hoạt động chính là huy động vốn để cho vay. Do tính chất xã hội trong hoạt động ngân hàng nên ngân hàng thường có vốn rất lớn, do đó một ngân hàng có thể cho rất nhiều doanh nghiệp vay vốn và so với một doanh nghiệp thì vốn của ngân hàng sẽ lớn hơn rất nhiều so với vốn của một doanh nghiệp. Hơn nữa, để đảm bảo an toàn cho khách hàng gửi tiền, đảm bảo yêu cầu an toàn tối thiểu mà chính phủ quy định các ngân hàng phải có vốn tự có lớn đủ đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Do đó vốn cổ phần của các NHTMCP thường rất cao, và nếu các NHTMCP thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng thì sẽ cung cấp một lượng hàng hoá rất lớn cho TTCK. Mặt khác, vì ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Chính phủ, NHNN, hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nên trong quá trình hoạt động các ngân hàng luôn luôn phải tìm cách để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Do vậy, có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức kinh doanh lành mạnh và có hiệu quả, các chứng khoán mà ngân hàng có thể cung cấp cho thị trường là những chứng khoán có chất lượng cao. Thêm vào đó, vì ngân hàng là một trong những tổ chức đầu tiên có thực hiện các nghiệp vụ phái sinh nên hàng hoá mà các ngân hàng cung cấp cho TTCK không chỉ đơn thuần là trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, mà còn có một khối lượng lớn đa dạng, phong phú các chứng khoán phái sinh như: Hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai,….
Như vậy, việc các NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCK sẽ đồng nghĩa với việc có một khối lượng hàng ngàn tỷ đồng hàng hoá niêm yết và giao dịch trên TTCK đa dạng về chủng loại góp phần TTCK tạo nên sự sôi động của thị trường. Đặc biệt là trong điều kiện một thị trường còn khan hiếm hàng hoá có chất lượng thì với sự tham gia phát hành và niêm yết chứng khoán của các NHTMCP sẽ là một đòn bẩy thúc đẩy TTCK phát triển.
* Về chất lượng
Chất lượng hàng hoá trên TTCK là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự bền vững và sôi động của thị trường. Như ta đã thấy chất lượng hàng hoá trên TTCK phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là yếu tố liên quan đến chủ thể phát hành như tình hình tài chính, năng lực quản trị nhân sự,… Căn cứ vào các tiêu chuẩn trên ta thấy sự tham gia niêm yết của các NHTMCP sẽ có tác động rất mạnh mẽ tới việc nâng cao chất lượng hàng hoá trên TTCK vì cổ phiếu của các NHTMCP là một loại cổ phiếu có chất lượng cao:
- Theo kinh nghiệm của các nước thì sự tham gia mạnh mẽ của các định chế tài chính trong đó có các ngân hàng là một dấu hiệu tốt chứng minh cho một TTCK phát triển. Điều này không chỉ thể hiện ở việc làm tăng s._.ố lượng hàng hoá cho TTCK mà còn làm tăng uy tín cho thị trường bởi vì ngân hàng là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế và gắn liền với đời sống doanh nghiệp, quyết định tính thực thi của phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự tham gia của các NHTM trên TTCK là một biện pháp hữu hiệu để kéo các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả lên niêm yết trên TTGDCK bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng đã tiềm ẩn rất nhiều rủi ro mà ngân hàng vẫn chấp nhận những rủi ro khi tham gia niêm yết để được niêm yết trên TTCK. Hơn nữa, với sự tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK sẽ thu hút được một khối lượng lớn các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư nước ngoài. Với sự tham gia sôi động của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp này chắc chắn uy tín của TTCK sẽ nhanh chóng được nâng lên. Đối với một nền kinh tế mà các doanh nghiệp còn yếu kém thì sự tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới cho thị trường.
- Ngân hàng là một ngành dịch vụ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với cả thị trường, là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế, là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế tác động đến sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế đất nước. Ngân hàng là một trong những trung gian tài chính huy động được một khối lượng tiền nhàn rỗi lớn nhất để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế nên khả năng thu được lợi nhuận từ nhiều hoạt động, lĩnh vực đầu tư là rất lớn và NHTMCP cũng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống ngân hàng nên nó cũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Ngành ngân hàng là một ngành có triển vọng phát triển cao: Với bất kì một quốc gia nào nếu muốn có một nền kinh tế phát triển cao thì không thể thiếu các trung gian tài chính trong đó phải kể đến các ngân hàng thương mại. Một nền kinh tế càng phát triển cao thì sự tồn tại của các ngân hàng càng trở nên quan trọng vì nền kinh tế càng phát triển cao thì thu nhập của dân cư tăng đồng thời nhu cầu đầu tư, thanh toán qua ngân hàng của họ cũng tăng lên. Do đó, ngành ngân hàng sẽ có một môi trường rất thuận lợi để phát triển. Hơn nữa, khi ngày nay hầu hết các quốc gia đều đi theo cơ chế thị trường thì sự xuất hiện và tồn tại của các NHTMCP thay vì các NHTM trực thuộc nhà nước là một vấn đề tất yếu khách quan. Do vậy, có thể nói kinh tế phát triển càng cao thì triển vọng phát triển của các NHTMCP càng cao.
- Hầu hết các NHTMCP đều có vốn điều lệ lớn nên độ an toàn rất cao, uy tín hình ảnh của các NHTMCP lớn hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp vì trên thực tế các ngân hàng còn có quyền thẩm định về doanh nghiệp và quyết định dự án của doanh nghiệp có được vay vốn hay không, ngân hàng còn là người đánh giá xếp loại doanh nghiệp. Đây cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên chất lượng chứng khoán mà các NHTMCP cung cấp cho TTCK .
- Báo cáo tài chính của các NHTMCP minh bạch: Một điều rất quan trọng mà nhà đầu tư chứng khoán đòi hỏi đối với tổ chức phát hành chứng khoán là phải công bố công khai, minh bạch, trung thực, chính xác các báo cáo tài chính. Do bản thân ngân hàng là một tổ chức chịu sự thanh tra giám sát thường xuyên của không chỉ ngân hàng cấp trên mà còn của chính phủ và toàn bộ công chúng gửi tiền. Sở dĩ như vậy vì do tính chất hệ thống trong hoạt động ngân hàng nên nếu một ngân hàng trong hệ thống làm ăn không tốt và có nguy cơ phá sản sẽ ảnh hưởng rất xấu tới hình ảnh chung của toàn ngành ngân hàng thậm chí kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống ngân hàng từ đó ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Để đảm bảo hoạt động của các ngân hàng được thông suốt, an toàn các ngân hàng cấp trên cùng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn phải giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng để đảm bảo ngân hàng luôn tuân thủ các quy định về tỷ lệ an toàn. Mặt khác, hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính xã hội hoá cao vì ngân hàng đứng ra nhận tiền gửi của khách hàng để cho vay, đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh có một cách có hiệu quả nên hoạt động của ngân hàng phải chịu sự giám sát rất chặt chẽ của công chúng. Vì thế, mỗi ngân hàng luôn phải thực hiện kiểm toán độc lập và tuân thủ các quy định về lập và nộp báo cáo tài chính cho nên các báo cáo tài chính của các ngân hàng thường rất minh bạch và với các NHTMCP cũng vậy. Vì vậy, các nhà đầu tư khi đầu tư vào cổ phiếu của NHTMCP thì có thể hoàn toàn yên tâm về tính minh bạch, kịp thời của các báo cáo tài chính do ngân hàng đó cung cấp.
- Các NHTMCP là những ngân hàng có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại và đội ngũ nhân viên có trình độ cao. Do ngân hàng là một lĩnh vực hoạt động nhạy cảm nên việc hiện đại hoá công nghệ trong ngân hàng là rất quan trọng. Để có thể cạnh tranh được với các trung gian tài chính khác như bảo hiểm, bưu điện, công ty tài chính…các ngân hàng phải không ngừng nâng cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cung cấp các sản phẩm mang nhiều tiện ích để nâng cao khả năng cạnh tranh. Với các NHTMCP thì điều này lại càng quan trọng hơn vì xưa nay khi nói đến các Ngân hàng thương mại Nhà nước người ta thường cảm thấy yên tâm hơn so với các NHTMCP vì đứng đằng sau các Ngân hàng thương mại Nhà nước thường có sự hỗ trợ rất lớn của yếu tố nhà nước. Do vậy, để có thể cạnh tranh được với các Ngân hàng thương mại Nhà nước và các tổ chức khác không còn cách nào khác là các NHTMCP phải hiện đại hoá công nghệ, cung cấp những sản phẩm vừa tiện lợi, vừa an toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Chính vì lẽ đó đã làm cho chất lượng của các NHTMCP tăng lên rất nhiều .
Như vậy, việc tham gia niêm yết của các NHTMCP sẽ tạo ra cho TTCK một khối lượng lớn hàng hoá có chất lượng cao, có tính thanh khoản tốt, uy tín, đáng tin cậy hấp dẫn đối với nhà đầu tư chứng khoán và đặc biệt sẽ tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư khi họ tham gia vào TTCK.
1.2.2.2. Đối với các NHTMCP
Như ở trên ta đã thấy vai trò quan trọng của việc tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP đối với TTCK nói chung còn với các NHTMCP thì sao? Có thể trả lời câu hỏi này là việc tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP sẽ mang lại cho các NHTMCP rất, rất nhiều lợi ích:
- Việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên TTCK sẽ cung cấp cho các NHTMCP một kênh huy động vốn có hiệu quả cho phép ngân hàng huy động được một khối lượng vốn lớn của nền kinh tế trong một thời gian ngắn, giúp các NHTMCP triển khai nhanh chóng và thuận lợi các mục tiêu. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng càng ngày càng trở lên gay gắt và một trong những chỉ tiêu để đo lường khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng là chỉ tiêu tốc độ tăng vốn chủ sở hữu (ROE), ROE càng cao chứng tỏ ngân hàng đó có năng lực tài chính càng cao do vậy khả năng cạnh tranh càng cao. Vì vậy, để đứng vững trong cạnh tranh các NHTMCP phải không ngừng nâng cao tỷ lệ ROE của mình bằng mọi biện pháp. Một trong những biện pháp nhanh nhất, có lợi nhất để làm điều đó là phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK vì phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK là một kênh quan trọng để các NHTMCP thu hút vốn trung dài hạn của các nhà đầu tư qua đó tăng vốn điều lệ và có vốn để phát triển kinh doanh.
- Việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK sẽ giúp các NHTMCP mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp cận dần với chuẩn mực quốc tế. Vì khi NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCK thì việc huy động vốn của các NHTMCP trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, khi đó ngân hàng sẽ có vốn để đầu tư xây dựng thêm các chi nhánh, mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động, nâng cấp cơ sở hạ tầng và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng tiến dần đến với các tiêu chuẩn quốc tế.
- Việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK sẽ giúp NHTMCP nâng cao uy tín, hình ảnh của mình trên thị trường vì khi cổ phiếu của ngân hàng được niêm yết trên TTCK sẽ có nhiều người biết đến ngân hàng hơn. Hơn nữa, chứng khoán niêm yết là một loại chứng khoán tập trung, mọi giao dịch mua, bán chứng khoán đó sẽ được tập trung lại tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Khi các chứng khoán được giao dịch trên SGDCK thì chắc chắn một điều là chất lượng của chứng khoán đó sẽ được khẳng định dưới sự phân tích kĩ lưỡng của các nhà đầu tư chứng khoán. Do vậy, vị trí, hình ảnh của mỗi ngân hàng sẽ được xác định một cách chính xác thông qua chứng khoán mà ngân hàng đó cung cấp cho thị trường. Chính vì thế có thể coi đây là phương thức quảng bá hữu hiệu thương hiệu của một NHTMCP đối với đông đảo quần chúng nhân dân.
- Việc tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP sẽ tạo ra cho chứng khoán của NHTMCP tính thanh khoản tốt hơn vì các chứng khoán này được giao dịch trên SGDCK nên việc mua bán chúng dễ dàng hơn. Do vậy, nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán có thể dùng chúng để đi vay thế chấp, mà không chịu sự ép giá…
Ngoài ra, việc niêm yết trên TTCK của các NHTMCP còn có những lợi ích khác như: các thông tin tài chính được công khai minh bạch, khách hàng sẽ có đầy đủ thông tin xác thực về ngân hàng, thêm vào đó là các quy chế kỉ luật về thông tin do chính phủ ban hành sẽ giúp các NHTMCP tránh được những rủi ro do những tin đồn thất thiệt gây nên cho ngân hàng hay một số lợi ích khác như nó tạo cho ngân hàng có nhiều bạn hàng hơn, nhiều đối tác làm ăn hơn, ban quản trị ngân hàng phải làm việc tích cực hơn, nghiêm chỉnh hơn, và đôi khi còn được hưởng nhiều ưu đãi như ưu đãi về thuế, phí, lệ phí…
Như vậy, việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK không chỉ có ý nghĩa đối với riêng NHTMCP mà nó còn có ý nghĩa với toàn bộ thị trường. Nó chính là một phương tiện góp phần đưa TTCK phát triển lên một bậc cao hơn và các NHTMCP sẽ ngày càng mở rộng quy mô, nâng cao uy tín hình ảnh của mình để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, có thể nói việc đưa cổ phiếu của các NHTMCP lên niêm yết trên TTCK là một việc làm rất cần thiết để phát triển TTCK. Đặc biệt với những nước mà TTCK còn kém phát triển, hàng hoá trên thị trường còn khan hiếm và đơn điệu, sự tham gia của các nhà đầu tư còn hời hợt thì sự tham gia niêm yết của NHTMCP sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới cho thị trường.
Phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho NHTMCP nhưng cũng phải có những điều kiện phù hợp. Bên cạnh đó, các NHTMCP khi tham gia niêm yết trên TTCK cũng đứng trước những thách thức nhất định. Những thách thức đó là:
- Thách thức từ phía thông tin thị trường: Trên TTCK thông tin của doanh nghiệp niêm yết là yếu tố quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng trực tiếp tới giao dịch cổ phiếu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy sự thay đổi giá cổ phiếu của một doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thông tin công bố. Trong trường hợp thông tin không chính xác, bị sai lệch hoặc bị lộ thông tin…giá cổ phiếu có thể lên hoặc xuống bất thường (có thể lên rất cao hoặc xuống rất thấp so với giá trị thực của nó). Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp gặp những rủi ro lớn, đe doạ sự tồn tại của doanh nghiệp, và càng đặc biệt nguy hiểm hơn khi doanh nghiệp là ngân hàng. Điều này có thể tạo làn sóng lớn dân chúng bán tháo cổ phiếu của ngân hàng làm giá cổ phiếu giảm hoặc dân chúng đến rút tiền hàng loạt. Điều quan trọng hơn nữa do đặc điểm của hoạt động ngân hàng là tính rủi ro hệ thống lớn nên nếu xảy ra rủi ro đối với một ngân hàng thì không chỉ bản thân ngân hàng đó rơi vào tình trạng khó khăn mà còn có thể kéo theo cả hệ thống sẽ bị khủng hoảng.
- Dễ bị cổ đông lớn thâu tóm: Trong điều kịên hiện nay hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn đang phổ biến bên cạnh những thuận lợi được hưởng khi niêm yết Ngân hàng luôn luôn bị cổ đông, cơ quan báo chí, cơ quan quản lý quan tâm, theo dõi sát sao những hoạt động của ngân hàng. Hơn nữa, thông qua "chế độ tham dự" trong việc mua cổ phiếu của ngân hàng rất dễ tạo nên hiện tượng mua cổ phiếu để khống chế ngân hàng.
Do vậy nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các cơ quan, ban ngành trong việc tạo lập một cơ sở vững chắc chuẩn bị cho việc thực hiện niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK.
Chương2
Thực trạng tham gia niêm yết của các Ngân hàngthương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt nam
2.1. Những nét cơ bản về TTCK Việt Nam
Ngày 20/07/2000 đã diễn ra một sự kiện đáng nhớ - khai trương Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (TTGDCKTPHCM) đã chính thức đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt Nam. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nước ta vì nó đã tạo ra một kênh huy động và phân bổ vốn trung dài hạn quan trọng trong phát triển kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tính đến nay TTCKVN đã trải qua gần 5 năm hoạt động và trong gần 5 năm đó TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm khác nhau. Năm năm chưa phải là một thời gian dài nhưng nó cũng đủ để ta nhìn nhận những kết quả đạt được của thị trường so với mục tiêu đặt ra trong giai đoạn hoạt động ban đầu đồng thời rút ra kinh nghiệm và những thiếu sót, yếu kém và đề ra phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển thị trường trong thời gian tới.
2.1.1. Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1.1. Chủ thể tham gia thị trường
Tính đến hết ngày 05/04/2005 toàn thị trường đã có 28 cổ phiếu của 28 công ty niêm yết trên TTGDCKTPHCM, 13 công ty chứng khoán, 5 ngân hàng lưu kí chứng khoán, 1 công ty quản lý quỹ, và 1 ngân hàng chỉ định thanh toán và hơn 2000 nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch. Trong thời gian đầu, TTCKVN mang tính chất hướng nội với sự tham gia hạn chế của các nhà đầu tư nước ngoài nhưng đến nay số lượng tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng do những biến động có lợi cho họ và đặc biệt là do sự nới lỏng trong các quy định đối với người nước ngoài tham gia vào TTCK VN như: Quy định về tỉ lệ nắm giữ tối đa (30%), quy định về thuế chuyển đổi lợi tức ra nước ngoài… Chính những sự thay đổi đó đã tạo ra một sự sôi nổi trên TTCKVN trong thời gian qua. Theo dõi diễn biến của TTCKVN mấy tháng vừa qua ta thấy rất rõ rằng mặc dù các nhà đàu tư trong nước đôi khi chững lại trước diễn biến của thị trường nhưng trong khi đó thì giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài thì luôn đạt tới giới hạn tối đa (30%). Như vậy, có thể nói rằng đến nay, về chủ thể tham gia TTCKVN đã có sự mở rộng rất nhiều so với trước. Không chỉ gia tăng trong số lượng chủ thể tham gia thị trường mà chất lượng của các chủ thể tham gia cũng ngày càng được nâng cao rõ rệt. Điều đó được thể hiện ở sự gia tăng các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là những tổ chức đầu tư có tính chuyên nghiệp rất cao và khả năng phán đoán thị trường rất chính xác.
2.1.1.2. Hàng hoá trên TTCK VN
Theo nghị định 144/2003/NĐ- CP hàng hoá trên TTCK là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán với tài sản hoặc vốn của chủ thể phát hành. Bao gồm 3 loại là: Cổ phiếu, trái phiếu, và chứng chỉ quỹ đầu tư.
TTCKVN khi mới bắt đầu đi vào hoạt động chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết trên TTCK với tổng giá trị niêm yết khoảng 270 tỷ đồng. Đến nay (04/2005) cả thị trường đã có 28 công ty niêm yết trên TTGDCKTPHCM với tổng mệnh giá là 1.462.920.310.000(đ) và 216 loại trái phiếu niêm yết gồm Trái phiếu chính phủ (TPCP) và Trái phiếu do Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam phát hành với tổng mệnh giá là 26.645.968.000.000(đ) và 1 loại chứng chỉ quỹ đầu tư với tổng mệnh giá là 300.000.000.000(đ)
Bảng 2.1: Tổng hợp tình hình niêm yết trên TTGDCKTPHCM
Năm
2004
2003
2002
2001
2000
Cổ phiếu
Số lượng niêm yết
Niêm yết mới
Giá trị niêm yết (triệu đồng)
25
3
1258991
22
2
1120011
20
9
999633
11
9
500117
5
5
321178
Trái phiếu
Số lượng niêm yết
Niêm yết mới
Giá trị niêm yết (triệu đồng)
200
67
22871038
103
62
11904338
41
23
4271338
18
14
2889338
4
4
1183070
Chứng chỉ quỹ
Số lượng niêm yết
Niêm yết mới
Giá trị niêm yết (triệu đồng)
1
1
300000
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
(Nguồn: TTGDCKTPHCM)
Bảng 2.2: Thông tin chứng khoán niêm yết ngày 05/04/2005
Cổ phiếu:
Tổng mệnh giá (đồng)
Giá trị thị trường (đồng)
28
1462920310000
4269296780000
Trái phiếu niêm yết:
Tổng mệnh giá (đồng)
216
26645968000000
Chứng chỉ quỹ niêm yết:
Tổng mệnh giá (đồng)
Giá trị thị trường (đồng)
01
300000000000
282000000000
(Nguồn: www.ssc.gov.Viet Nam)
Như ta đã thấy ở trên, trong gần 5 năm qua TTCKVN đã có rất nhiều sự thay đổi theo hướng ngày càng được mở rộng về phạm vi và quy mô (tăng chủ thể tham gia, tăng số lượng chứng khoán niêm yết, xây dựng thêm một thị trường chứng khoán OTC ở Hà Nội...). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trên, TTCKVN vẫn còn rất nhiều hạn chế. Đó là quy mô TTCKVN vẫn còn rất nhỏ bé, các chủ thể tham gia thị trường còn hời hợt, khan hiếm về hàng hoá, cơ cấu hàng hoá niêm yết chưa đa dạng phong phú và không phù hợp với nhu cầu của công chúng đầu tư. Đến nay đã gần 5 năm đi vào hoạt động mà cả thị trường mới chỉ có 13 công ty chứng khoán, 28 cổ phiếu niêm yết của 28 công ty niêm yết, và một chứng chỉ quỹ của một công ty quản lý quỹ niêm yết trên thị trường. Đây là một con số khá khiêm tốn so với đòi hỏi thực tế và tiềm năng hàng trăm doanh nghiệp có khả năng niêm yết đang chờ bên ngoài thị trường. Đến thời điểm hiện nay đã là năm 2005 mà số lượng chứng khoán niêm yết trên TTGDCKVN vẫn chưa bằng số lượng chứng khoán niêm yết trên TTCK của một số nước trong khu vực vào những năm 1990 như: Thái Lan (năm 1990 có 209 công ty niêm yết), Hàn Quốc (năm 1993 có 694 công ty niêm yết).... Như vậy, thử hỏi không biết trong bao nhiêu năm nữa số lượng công ty niêm yết trên TTCKVN mới bằng số lượng công ty niêm yết trên TTCK Thái Lan năm 1990? Không chỉ ít về số lượng hàng hoá mà cơ cấu hàng hoá cũng chưa đa dạng phong phú. Hiện nay, hàng hoá trên thị trường mới chỉ có 3 loại chính là cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư trong đó cổ phiếu có 28 loại, trái phiếu có 216 loại, và 1 loại chứng chỉ quỹ đầu tư. Hơn nữa, trên thị trường, cổ phiếu – loại hàng hoá chủ đạo và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư chưa tương xứng với vai trò của nó trên thị trường chứng khoán. Hiện nay, tỷ trọng trái phiếu đặc biệt là trái phiếu chính phủ trên thị trường chiếm tỷ lệ quá lớn. Điều đó thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3: Cơ cấu hàng hoá trên TTCKVN đến thời điểm 31/12/2003
Toàn TT
Cổ phiếu
TPCP
TPCT
TPĐP
Tổng số CKNY
Tỷ trọng
125
100%
22
17.6%
100
80%
2
1.6%
01
0.8%
TổngKL CKNY
Tỷ trọng
231044460
100%
112001080
48.48%
114966330
49.76%
1577050
0.68%
2500000
1.08%
Giá trị CKNY
Tỷ trọng
13024349
100%
1120011
8.6%
11496633
88.27%
157705
1.21%
250000
1.92%
GDP(2003)
(nghìn tỷ đồng)
536098
tỷ trọng gtrị NY/GDP
2.43%
0.21%
2.14%
0.03%
0.05%
(Nguồn: www.vcbs.com.Viet Nam)
Nhìn vào bảng trên ta thấy tổng giá trị niêm yết toàn thị trường đến ngày 31/12/2003 còn chiếm tỷ lệ quá nhỏ, chỉ khoảng 2.43%GDP, trong khi đó giá trị niêm yết cổ phiếu chiếm 8.6% còn lại là trái phiếu 88.27% trong tổng số giá trị niêm yết chứng khoán toàn thị trường. Điều này thực sự không phù hợp với một TTCK năng động bởi vì hiện nay các công ty tài chính, bảo hiểm, ngân hàng có dư tiền gửi đang bí đầu ra hiệu quả cao này đang tìm mua những trái phiếu có lãi suất cao kia không những quá an toàn lại hiệu quả hơn. Trong khi đó đáng lẽ ra những khách hàng này phải là những khách hàng chính đầu tư vào cổ phiếu, cung cấp vốn cho bao nhiêu công ty đang thiếu vốn. Như vậy, sự khan hiếm hàng hoá, sự chưa đa dạng phong phú trong hàng hoá cùng với sự thiếu hợp lý trong cơ cấu hàng hoá trên TTCKVN đã phần nào tạo nên sự chưa sôi động và phát triển của thị trường, biến TTCKVN chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn và phân bổ vốn đầu tư trung và dài hạn hiệu quả ở Việt Nam.
2.1.2. Chất lượng thị trường
Chất lượng của một TTCK thường được đánh giá bởi hiệu qủa hoạt động của thị trường, việc thực hiện nghiêm túc các chế độ quy định của cơ quan quản lý thị trường đối với các chủ thể tham gia thị trường và đặc biệt là chất lượng hàng hoá trên thị trường đó.
Một điểm có thể thấy rất rõ ở TTCKVN trong thời gian qua khung pháp lý cho TTCK đã dần hoàn thiện: UBCKNN đã ban hành nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn giúp TTCK hoạt động nghiêm túc, hiệu quả và thông suốt. Đặc biệt phải kể đến sự ra đời của Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK thay thế cho Nghị định 48, đã cho thấy TTCKVN ngày càng được Chính phủ và Nhà nước quan tâm nhiều hơn. Bên cạnh đó, việc quản lý giám sát hoạt động cuả thị trường của các cơ quan chức năng liên quan đến TTCKVN ngày càng chặt chẽ hơn, các chế tài xử phạt vi phạm trên TTCK cũng ngày càng nghiêm khắc hơn đã buộc các chủ thể tham gia thị trường phải thực hiện một cách nghiêm túc hơn các quy định trên TTCK. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó giúp tăng tính minh bạch cho thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường một cách tốt hơn.
Bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK, chất lượng hàng hoá trên TTCK cũng được nâng lên rõ rệt. Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện tốt các quy định về công bố thông tin trên TTCK và chú trọng nâng cao chất lượng quản trị công ty. Sau gần 5 năm kể từ ngày TTCK đi vào hoạt động, các công ty niêm yết đã dần đi vào hoạt động ổn định và bắt đầu hoạt động kinh doanh có hiệu quả, và đã bước đầu tạo được hình ảnh, uy tín của mình trên thị trường. Hơn nữa, cùng với công tác cổ phần hoá DNNN là việc đưa cổ phiếu của các công ty cổ phần lên niêm yết trên TTCK đã góp phần rất lớn vào việc tạo cơ hội cho nhà đầu tư lựa chọn chứng khoán để đầu tư một cách có hiệu quả hơn. Mặt khác, do TTCK ngày càng phát triển nên các yêu cầu, đòi hỏi đối với thị trường ngày càng cao do vậy yêu cầu chất lượng hàng hoá trên TTCK cũng cần phải đáp ứng được những yêu cầu đó. Trên TTCK, vị trí của chất lượng chứng khoán cũng như chất lượng của các công ty niêm yết sẽ được xác định một cách chính xác nhất. Do vậy, các công ty niêm yết luôn phải cố gắng hoạt động một cách có hiệu quả để có thể tồn tại trên thị trường. Chính điều đó đã làm cho chất lượng chứng khoán niêm yết trên TTCK ngày càng được nâng cao một cách rõ rệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận trong việc nâng cao chất lượng chứng khoán niêm yết thì ta vẫn phải khẳng định một điều là chất lượng thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của một TTCK năng động. Điều này được thể hiện rất rõ qua các các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) và sự biến động của giá chứng khoán.
2.1.2.1. Chất lượng doanh nghiệp niêm yết trên TTCKVN
Một yếu tố rất quan trọng tạo nên TTCK là hàng hoá trên TTCK, chất lượng hàng hoá trên TTCK sẽ quyết định phần lớn chất lượng của TTCK. Mà mỗi chứng khoán lại do một chủ thể khác nhau phát hành ra nên chất lượng của mỗi chứng khoán sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của chủ thể phát hành ra nó. Trên TTCK tập trung chất lượng của mỗi chứng khoán niêm yết sẽ do chất lượng của doanh nghiệp phát hành và niêm yết chứng khoán đó quyết định. Vì thế mà chất lượng doanh nghiệp niêm yết có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng chứng khoán trên TTCK nói riêng và chất lượng của TTCK nói chung. Tuy nhiên, nhìn vào TTCKVN, một thực tế cho thấy là hầu như các DNNY trên TTCKVN chưa phải là những doanh nghiệp mạnh, nó thể hiện trên 3 khía cạnh là về vốn của DNNY, hiệu quả hoạt động của DNNY và về tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường.
* Về vốn
TTCKVN có 20 loại cổ phiếu niêm yết của 28 DNNY mà những doanh nghiệp này có quy mô vốn chưa phải là lớn không thể đại diện cho nền kinh tế Việt Nam để cho phép nhà đầu tư có thể nhìn nhận đánh giá sức khoẻ cũng như triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong số 28 DNNY thì đại đa số các doanh nghiệp đều có số vốn điều lệ (VĐL) 100 tỷ đồng. Mặc dù tiêu chuẩn về vốn của một công ty niêm yết trên TTCK chỉ là 5 tỷ đồng song cổ phiếu của một doanh nghiệp có vốn nhỏ thì sẽ không thể có sức hút đối với nhà đầu tư được. Bởi vì ngoài những DNNY ra còn có rất nhiều những doanh nghiệp không niêm yết có vốn rất cao có khả năng đánh bật DNNY ra khỏi thị trường do có lợi thế về quy mô. Do vậy, có thể nói là các DNNY trên TTCKVN chưa thực sự là những đại diện cho hàng nghìn doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam :
Bảng 2.4: Các doanh nghiệp niêm yết trên TTCKVN
STT
Tên công ty
Mã CK
Vốn điều lệ(tỷ đồng)
CTCP xuất nhập khẩu thuỷ sản An Giang
AGF
41.7913
CTCP bánh kẹo Biên Hoà
BBC
56
CTCP Bông Bạch Tuyết
BBT
68.4
CTCP Bao bì Bỉm Sơn
BPC
38
CTCP Bê tông 620_Châu Thới
BT6
58.8269
CTCP Cơ khí và xây dựng Bình Triệu
BTC
12.61345
CTCP Đồ hộp Hạ Long
CAN
35
CTCP Hoá An
DHA
35
CTCP Nhựa Đà Nẵng
DPC
15.8728
CTCP Sản xuất kinh doanh Xuất khẩu Bình Thạnh
GIL
25.5
CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển
GMD
200
CTCP Giấy Hải Phòng
HAP
20.08
CTCP Xây lắp bưu điện Hà Nội
HAS
12
CTCP Xuất nhập khẩu Khánh Hội
KHA
20.9
CTCP chế biến hàng xuất khẩu Long An
LAF
19.0984
CTCP cơ khí xăng dầu
PMS
32
CTCP Cơ điện lạnh
REE
225
CTCP cáp và vật liệu viễn thông
SAM
180
CTCP hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu SAVIMEX
SAV
45
CTCP khách sạn Sài Gòn
SGH
17.663
CTCP kho vận giao nhận ngoại thương
TMS
33
CTCP nước giải khát Sài Gòn
TRI
45.4836
CTCP nhiên liệu Sài Gòn
SFC
17
CTCP chế biến thực phẩm Kinh Đô miền Bắc
NKD
50
CTCP Thuỷ sản số 4
TS4
15
CTCP Viễn thông VTC
VTC
17.9774
CTCP Hàng Hải Hà Nội
MHC
120
CTCP giống cây trồng Miền Nam
SSC
60
(Nguồn:www.vcbs.com.Việt Nam)
Bảng 2.5: Cơ cấu công ty niêm yết trên TTCKVN
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Số lượng cty NY
5
11
20
22
25
28
Tỷ trọng cty NY có Vốn dưới 50 tỷ(%)
60
73.7
75
78.3
76
67.8
(Nguồn: TTGDCKTPHCM)
* Về hiệu quả hoạt động
Hầu hết các doanh nghiệp niêm yết trên TTCKVN đều là các DNNN cổ phần hoá, với xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là sở hữu nhà nước, các DNNN dựa chủ yếu vào hệ thống các Ngân hàng thương mại quốc doanh để vay vốn hoạt động. Mặc dù đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường và cổ phần hoá trong một thời gian đáng kể song cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, tâm lý lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp này vẫn còn rất phổ biến khiến cho các doanh nghiệp này hầu như không quan tâm đến hiệu quả của việc sử dụng vốn mà chỉ lo việc giữ giá hoặc tăng giá cổ phiếu của mình bằng các biện pháp phi thị trường nhưng lại được khuyến khích. Trong khi đó, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả, có chiến lược kinh doanh tốt thì lại không có cơ hội lên niêm yết còn các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết thì hoặc là ngại không lên niêm yết vì sợ phải công khai tài chính hoặc là có lên niêm yết nhưng hiệu quả kinh doanh lại không cao. Ta có thể kể ra đây một vài trường hợp về làm ăn không hiệu quả của công ty niêm yết:
- Trường hợp thứ nhất: Vụ gian lận thuế VAT tại CANFOCO đã buộc cổ phiếu CAN phải ngừng giao dịch từ ngày 8 đến ngày 16/10/2004. Liên quan đến vụ này đã có 4 cán bộ nhân viên của CAN phải lãnh án 36 tháng tù treo đến 16 năm tù và phải bồi thường số tiền là 5.7 tỷ đồng và tổng số tiền thuế mà CAN phải trả là 4.9 tỷ đồng. Nguyên nhân của vụ này một phần là do sự quản lý chưa chặt của UBCKNN nhưng phần lớn là do ban quản lý của CANFOCO chưa thực sự nghiêm túc chấp hành các quy định của pháp luật trong kinh doanh .
- Trường hợp thứ 2: Vụ thiếu minh bạch trong công khai thông tin tài chính tại BIBICA đã cho thấy hệ thống tài chính kế toán của BIBICA còn rất yếu kém, thông tin giữa các báo cáo tài chính chênh lệch nhau quá nhiều: Tháng 4/2003 báo cáo quyết toán sơ bộ năm 2002 của BBC với lợi nhuận luỹ kế là 8.9 tỷ đồng nhưng đến ngày 23/5/2003 báo cáo kế toán năm 2002 được công bố là lỗ 5.4 tỷ đồng và 26/9/1003 BBC công bố báo cáo kiểm toán lần 2 với kết quả hoạt động kinh doanh lỗ 9.1 tỷ đồng.
- Trường hợp thứ 3: Sự khủng hoảng nhân sự tại BBT cho thấy 2 quý liên tiếp sau niêm yết BBT liên tục lỗ (quý 2/2004 lỗ 407 triệu đồng và quý 3/2004 lỗ 1.55 tỷ đồng) và chỉ sau có vài tháng kể từ khi chính thức giao dịch trên TTGD (15/3/2003-30/11/2004) BBT đã 3 lần thay đổi nhân sự chủ chốt (thành viên Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, kế toán trưởng)
- Trườnghợp thứ 4: Công ty cơ khí Bình Triệu (BTC) liên tục thua lỗ từ năm 2003 đến 30/11/2004. Tổng số lỗ tích luỹ của công ty đến đến nay là 5.78 tỷ đồng, báo cáo tài chính của BTC cho thấy Vốn chủ sở hữu của công ty còn khoảng 7.182 tỷ đồng trong khi vốn điều lệ của công ty là 12.6 tỷ đồng, khả năng sinh lời của công ty đang giảm cực mạnh, giá trị sổ sách của cổ phiếu của công ty còn khoảng 5700đ/cp. Đặc biệt đến ngày 11/4/2005 vừa qua cổ phiếu của công ty này chính thức bị ngừng giao dịch vì hoạt động kinh doanh của công ty trong 2 năm liên tiếp (2003 và 2004) bị thua lỗ.
- Trường hợp 5: Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết do lựa chọn thời điểm đầu tư sai lầm và không bắt kịp xu thế của thị trường nên đã dốc vốn quá lớn và đầu tư không hiệu quả vào dây chuyền sản xuất băng vệ sinh và bông y tế nên sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, hàng tồn kho tăng lên cao nên 6 tháng đầu năm 2004 lợi nhuận sau thuế chỉ đạt khoảng 104 triệu đồng so với kế hoạch lợi nhuần năm 2004 là 14 tỷ đồng.
- Trường hợp thứ 6: Kết quả kinh doanh của công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) năm 2002 giảm 23% do nhiều công trình bị thua lỗ nghiêm trọng và các khoản đầu tư vào cổ phiếu trên TTCK giảm mạnh.
Như vậy, chỉ với 6 trường hợp trên đây đã đủ cho ta thấy rất rõ rằng hiệu quả hoạt động của các DNNY trên TTCKVN còn rất hạn chế. Ngay một đơn vị đầu tiên niêm yết như REE (một trong những đơn vị niêm yết sớm nhất và luôn có mức tăng trưởng vốn là 700% trong vòng 7 năm liền) mà vẫn còn gây cú sốc cho thị trường thì thử hỏi những công ty còn lại sẽ như thế nào? Điều này chứng tỏ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCKVN còn rất hạn chế, việc thực hiện các quy định, chế độ kiểm toán còn chưa nghiêm túc, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhà đầu tư trên thị trường và chưa thể là những đại diện chính thức cho tất cả những doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam cũng như nền kinh tế Việt N._.phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Chuẩn hoá đội ngũ nhân viên ngân hàng đặc biệt là với các NHTMCP... tạo điều kiện cho các giao dịch phái sinh phát triển.
3.2.1.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng
TTCK còn là một vấn đề rất mới mẻ đối với người dân Việt Nam, các kiến thức về chứng khoán và TTCK lại rất khó hiểu và phức tạp. Để TTCK phát triển và ổn định, an toàn cho các chủ thể tham gia thì đòi hỏi niềm tin của công chúng vào thị trường phải cao. Tuy nhiên, để có được lòng tin của công chúng thì trước hết công chúng phải am hiểu về chứng khoán và TTCK, có cái nhìn đúng đắn và sâu sắc, khoa học, logic về các diễn biến trên thị trường. Khi có được những điều đó rồi thì mỗi sự thay đổi trên TTCK sẽ được những nhà đầu tư phân tích theo đúng quy luật của nó, sẽ không có những cái hiểu sai lầm ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tham gia nhất là đối với chủ thể phát hành. Khi NHTM tham gia niêm yết thì vấn đề này lại càng trở lên cần thiết vì chỉ cần một cái hiểu sai lệch về mối quan hệ giữa hoạt động ngân hàng với hoạt động của TTCK cũng có thể làm cho ngân hàng đó sụp đổ. Vì một thực tế cho thấy là khi giá chứng khoán giảm xuống quá thấp có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng vì người dân có thể kéo đến ngân hàng để rút tiền hàng loạt trong một thời gian ngắn do họ chưa nhận thức một cách đúng đắn vê hoạt động của các ngân hàng cũng như mối quan hệ giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động của TTCK. Vì vậy, để giúp các NHTMCP tránh được những rủi ro do thiếu sự hiểu biết của công chúng về chứng khoán và TTCK, UBCKNN phối hợp với NHNN cùng các cơ quan tuyên truyền cần phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho quần chúng nhân dân giúp họ có cái nhìn toàn diện về TTCK và nắm bắt được những quy luật trên TTCK thông qua hình thức phát triển trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
3.2.1.6. Tạo điều kiện cho các tổ chức đứng ra bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các NHTMCP
NHNN và UBCKNN cần có quy chế hướng dẫn, quy định tổ chức đứng ra bảo lãnh phát hành khi các NHTMCP có ý định phát hành và niêm yết trên TTCK. Vì một thực tế cho thấy là vốn tự có của các NHTM rất cao trong khi đó vốn tự có của các công ty chứng khoán lại thấp không đủ khả năng đứng ra bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán của các NHTMCP. Vì vậy, cần phải có quy định rõ ràng, cụ thể về tổ chức bảo lãnh phát hành cho các đợt phát hành chứng khoán để huy động vốn cho các NHTMCP.
3.2.1.7. Nâng cấp hệ thống quản lý thông tin thị trường
Thông tin trên TTCK rất quan trọng đối với không chỉ nhà đầu tư mà còn đối với các chủ thể phát hành chứng khoán. Thông tin minh bạch sẽ góp phần đảm bảo tính công bằng cho thị trường. Trên TTCK, khi có những thông tin sai lệch có thể gây nên rủi ro cho nhà đầu tư và chủ thể phát hành. Với người đầu tư có thể bị lỗ vốn, còn với các chủ thể phát hành có thể bị giảm uy tín, hình ảnh, thậm chí có thể bị phá sản. Với các NHTMCP, uy tín và hình ảnh rất quan trọng trong khi các ngân hàng rất dễ gặp phải những rủi ro đối với các ngân hàng khi tham gia niêm yết trên TTCK. Vì vậy, thông tin thị trường phải minh bạch, công bằng, xác thực để ngân hàng dễ dàng nắm bắt được diễn biến trên thị trường để kịp thời đối phó. Mặt khác, hệ thống thông tin thị trường minh bạch, hiện đại sẽ giúp giảm bớt các tin đồn thất thiệt trên TTCK.
3.2.2. Giải pháp đối với các NHTMCP
Để có thể có những chứng khoán có chất lượng cao do các NHTMCP niêm yết trên TTGDCK không chỉ cần những giải pháp từ phía các cơ quan quản lý vĩ mô về TTCK mà nó đòi hỏi phải có những giải pháp từ phía các NHTMCP với các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh từ đó nâng cao uy tín, chất lượng chứng khoán cung cấp cho thị trường. Theo ông Kiều Hữu Dũng, Vụ trưởng vụ các ngân hàng thì không phải ngân hàng nào muốn lên tham gia niêm yết thì đều được chấp nhận và cũng không phải là bất cứ một NHTMCP nào đủ tiêu chuẩn niêm yết đều muốn lên niêm yết trên TTGDCK. Do vậy các giải pháp từ phía các NHTMCP là rất quan trọng.
3.2.2.1. Thực hiện phát hành chứng khoán nhằm tăng quy mô vốn điều lệ, mở rộng quy mô ngân hàng
Các NHTMCP muốn được tham gia niêm yết trên TTCK thì phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về vốn của tổ chức niêm yết (doanh nghiệp là 5 tỷ đồng). Hơn nữa, việc tăng vốn điều lệ sẽ gíup tăng tiềm lực tài chính của ngân hàng, mang lại cho ngân hàng vị thế cạnh tranh, giúp các ngân hàng đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt. Việc tăng vốn điều lệ còn giúp ngân hàng đảm bảo có được vòng đệm rủi ro tốt, đảm bảo an toàn vốn tối thiểu. Do vậy, việc các NHTMCP thực hiện tăng vốn điều lệ trước khi tham gia niêm yết trên TTCK là một việc làm rất cần thiết.
3.2.2.2. Xây dựng chiến lược kinh doanh an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động
Trong tiêu chuẩn của một tổ chức niêm yết có tiêu chuẩn là phải là làm ăn có lãi trong hai năm liên tục gần nhất kể từ thời điểm xin niêm yết, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay liên tục trong hai năm gần nhất nhỏ hơn 3%, không được vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động NH và các quy định khác của pháp luật...Do vậy, để tham gia niêm yết trên TTCK các NHTMCP phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình thông qua các biện pháp:
Một là, phải có chiến lược kinh doanh an toàn và hiệu quả
Các NHTMCP phải xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh mới, tập trung vào các lĩnh vực mà NH có lợi thế thay vì các hoạt động mang tính chất truyền thống, phát triển các sản phẩm dịch vụ về thanh toán trong nước và quốc tế, tăng cường các sản phẩm tiện ích cung cấp cho khách hàng… Bởi vì, so với các NHTMNN hoạt động tín dụng của hầu hết các NHTMCP còn chiếm tỷ lệ rất thấp do các NHTMNN có được sự ưu đãi nhất định nên lãi suất cho vay thường thấp hơn so với lãi suất cho vay của NHTMCP. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay các nhu cầu về thanh toán ngày càng cao, các NHTMCP lại có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực này lớn, thu được doanh thu và lợi nhuận lớn. Vì vậy, các NHTMCP phải tập trung vào các hoạt động mũi nhọn và thuộc ưu thế của mình.
Hai là, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng
Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm đảm bảo nhanh chóng, an toàn và tiện lợi, mở rộng mạng lưới chi nhánh để tăng số lượng khách hàng góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho khách hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng bằng cách thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định cuả NHNN trong cho vay, quy trình tín dụng, phân tích thẩm định khách hàng trước khi cho vay, xem xét và giám sát chặt chẽ khoản vay để giảm thiểu các khoản nợ vay có vấn đề thực hiện cơ cấu lại nợ, xử lý tốt các khoản nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu, nợ chờ xử lý để đáp ứng đủ tiêu chuẩn niêm yết.
Ba là, đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng
Các NHTMCP phải trở thành những NH đa năng bên cạnh việc thực hiện các hoạt động truyền thống như hoạt động tín dụng, thanh toán các NHTMCP cần phải phát triển các hoạt động khác như thành lập công ty chứng khoán, tham gia TTCK với tư cách là nhà đầu tư có tổ chức, trung gian tài chính (tổ chức bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết, lưu ký và thanh toán chứng khoán) nhằm giảm thiểu rủi ro, tăng thu nhập, mang lại hiệu quả kinh doanh cao góp phần nâng cao chất lượng chứng khoán cuả NH trên TTCK.
Bốn là, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào hoạt động NH giúp cho hoạt động của NH được thông suốt, an toàn. Đưa vào các sản phẩm dịch vụ mới mang tính hiện đại cao đặc biệt là hoạt động nghiệp vụ thẻ, các dịch vụ NH, triển khai tin học hoá trên toàn hệ thống...
Năm là, nâng cao năm lực, trình độ đội ngũ nhân viên ngân hàng
Đào tạo đội ngũ quản trị viên giỏi có khả năng xử lý mọi tình huống khi xảy ra rủi ro trên cơ sở tình hình tài chính lành mạnh và áp dụng công nghệ hiện đại trong điều hành quản trị tập trung. Đặc biệt là bộ máy kiểm soát và kiểm toán nội bộ cuả NH phải đẩy mạnh để hạn chế tới mức tối thiểu những rủi ro nội bộ, từng bước minh bạch hoá tài chính, xây dựng những kênh thông tin chính xác, đầy đủ và thường xuyên. Bên cạnh đó phải đào tạo một đội ngũ nhân viên NH có phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn góp phần tạo hình ảnh và uy tín trong lòng khách hàng cũng như trên TTCK.
Sáu là, điều hoà tốt thanh khoản để đề phòng, đối phó tốt với rủi ro có thể xảy ra.
3.2.2.3. Đẩy mạnh công tác huy động vốn trung và dài hạn
Một trong những giải pháp hữu hiệu để huy động nguồn vốn trung và dài hạn cho các NHTMVN đặc biệt với các NHTMCP. Trong thời gian tới nhu cầu về vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển kinh tế là rất lớn, việc huy động vốn qua TTCK của doanh nghiệp còn gặp nhiều vấn đề phức tạp nên các doanh nghiệp vẫn dựa chủ yếu vào nguồn tín dụng trung và dài hạn cuả các NHTM. Mặt khác, hiện nay các NHTM đang đứng trước nguy cơ rủi ro do việc sử dụng tỷ lệ quá lớn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn nên việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTCK là một trong những kênh huy động vốn cho phép NHTMCP huy động được một khối lượng vốn trung và dài hạn trong một thời gian ngắn sẽ được các NH khai thác trong những năm tới. Hơn nữa, do các NHTMCP không được sự bảo trợ của nhà nước như các Ngân hàng thương mại Nhà nước nên việc huy động vốn qua kênh huy động tiền gửi sẽ rất khó khăn. Vì vậy, việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTCK đối với các NHTMCP là rất quan trọng và cần thiết.
3.2.2.4. Tổ chức tốt hệ thống thông tin của ngân hàng
Khi ngân hàng chỉ đơn thuần hoạt động kinh doanh tiền tệ, thông tin đã là một vấn đề quan trọng vì trên cơ sở những thông tin về định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, định hướng chính sách tiền tệ...thu thập được ngân hàng sẽ đưa ra các mức lãi suất cho vay, lãi suất huy động phù hợp vừa đảm bảo bù đắp chi phí vừa có lãi. Khi NHTM thực hiện niêm yết trên TTCK thì vấn đề thông tin lại càng trở lên quan trọng. Việc nắm bắt kịp thời diễn biến trên thị trường tiền tệ và TTCK sẽ giúp các NHTMCP đối phó kịp thời với những diễn biến bất lợi. Vì vậy, hệ thống thông tin của ngân hàng phải được tổ chức thật tốt, hiện đại, thông suốt và được kết nối với hệ thống thông tin của TTGDCK, SGDCK, các công ty chứng khoán...để đảm bảo ngân hàng luôn nắm bắt được diễn biến tâm lý của thị trường, phát hiện những thông tin sai lệch để kịp thời điều chinh.
3.2.2.5. Chuẩn bị tâm lý tốt cho các cổ đông trước khi lên niêm yết
Khi tham gia niêm yết trên TTCK thì các cổ đông hiện có của ngân hàng sẽ là người đầu tiên bị ảnh hưởng do bị loãng quyền sở hữu. Nếu như tâm lý của cổ đông không tốt sẽ ảnh hưởng rất xấu tới ngân hàng. Vì vậy, trước khi lên niêm yết ngân hàng cần giải thích rõ cho các cổ đông của mình hiểu lợi ích của việc tham gia và chuẩn bị sẵn tinh thần lên niêm yết.
3.3.Một số kiến nghị
Để triển khai thành công định hướng chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010 nói chung và thúc đẩy việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK nhằm phát triển hàng hoá có chất lượng cho TTCK nói riêng, bài viết xin có một số kiến nghị sau:
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Một là, Chính phủ cần chỉ đạo thống nhất việc thực hiện chiến lược tổng thể về phát triển TTCK trong đó có sự tham gia của Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính, NHNN và UBCKNN. Trước mắt, cần ban hành luật chứng khoán và hoàn thiện các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các chủ thể tham gia TTCK đặc biệt trong luật chứng khoán phải có các điều khoản quy định về việc NHTMCP lên niêm yết trên TTCKVN một cách bao quát, đầy đủ, rõ ràng.
Hai là, mặc dù Phó thủ tướng chính phủ đã có quyết định 172/1999/QĐ-TTg ngày 19/8/1999 về việc thành lập công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán, quyết định 787/2004/QĐ_NHNN theo đó các NHTMCP được phép phát hành và niêm yết trên TTGDCK. Tuy nhiên, chủ trương trên vẫn chưa được triển khai trong thực tiễn. Vì vậy, Chính phủ cùng với NHNN và UBCKNN cần phối hợp để sớm thống nhất ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc NHTMCP được tham gia niêm yết và phát hành chứng khoán .
Ba là, Chính phủ cần có chính sách tiếp tục ưu đãi nhiều hơn nữa đối với các tổ chức niêm yết nói chung cũng như với các NHTMCP nói riêng. Vì rằng một trong những động lực thúc đẩy các NHTMCP lên niêm yết là những ưu đãi mà ngân hàng này sẽ được hưởng khi tham gia niêm yết trong đó phải kể đến ưu đãi về thuế. Do vậy, Chính phủ có thể tăng cường hơn nữa các ưu đãi về thuế thu nhập với các NHTMCP tham gia niêm yết như: Kéo dài thời gian ưu đãi, giảm thuế, phí và lệ phí tham gia niêm yết…
Bốn là, xoá bỏ chí ít cũng giảm bớt những rào cản về niêm yết chứng khoán của các NHTMCP, giảm thiểu các bước không cần thiết mà ngân hàng phải thực hiện trước khi lên niêm yết, đơn giản hoá thủ tục hành chính, và các yêu cầu đối với hồ sơ niêm yết, giảm bớt các yêu cầu về việc tuân thủ giới hạn sở hữu cổ phần, thời gian hoạt động...
3.3.2. Kiến nghị với NHNN
Thực tế cho thấy là mặc dù UBCKNN đã chấp thuận việc cho phép một số NHTMCP làm ăn có hiệu quả tham gia niêm yết trên TTGDCK và đã có một số ngân hàng sẵn sàng tham gia niêm yết như: Sacombank, ACB. Tuy nhiên, các ngân hàng này vẫn còn đang chờ quyết định của NHNN cho phép. Như vậy là trong các NHTMCP vẫn còn sự can thiệp quá sâu của thành phần Nhà nước mà đại diện là NHNN. Chính sự can thiệp quá sâu này đang cản trở tiến trình tham gia niêm yết của các NHTMCP. Sở dĩ như vậy là vì NHNN lo ngại các NHTMCP khi tham gia niêm yết có thể bị ảnh hưởng bởi 2 nguyên nhân (khi giá chứng khoán giảm người dân sẽ kéo đến rút tiền hàng loạt gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng và tình trạng thâu tóm của các cổ đông lớn trong ngân hàng). Tuy nhiên những lo ngại đó có thể được xoá bỏ nếu như NHNN thực hiện : - NHNN phải có sự giúp đỡ các NHTMCP khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn không thể khắc phục được: Khi giá cổ phiếu của ngân hàng giảm quá mạnh, người dân đến rút tiền hàng loạt và ngân hàng đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán thì NHNN có thể thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM bằng cách cho các NHTMCP vay thông qua hình thức chiết khấu …
- NHNN khống chế một thể nhân chỉ được nắm giữ tối đa là 10% cổ phiếu của một ngân hàng có thể hạn chế cổ đông thâu tóm, tổng số cổ phiếu của các cá nhân và pháp nhân nước ngoài phải không được vượt quá 30%.
- NHNN cần tăng cường chế độ giám sát đặc biệt đối với NHTMCP niêm yết. Hiện tại các NHTMCP chỉ chịu sự gíam sát của Thanh tra NHNN theo quy chế về gíam sát từ xa theo hệ thống chỉ tiêu CAMEL. Khi tham gia vào TTCK, hoạt động của các NHTMCP sẽ chịu ảnh hưởng từ những thay đổi trên thị trường mà TTCK lại là một thị trường rất nhạy cảm với thông tin trung thực được tung ra thị trường thì nhà đầu tư sẽ có thể bán tháo hoặc mua vào ồ ạt cổ phiếu của ngân hàng. Khi đó rất có thể người gửi tiền sẽ kéo đến rút tiền hàng loạt gây nên rủi ro cho ngân hàng. Do vậy, vấn đề đo lường độ nhạy cảm của ngân hàng niêm yết với rủi ro thị trường là cần thiết để cảnh báo trước các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, giúp ngân hàng đề ra biện pháp phòng tránh kịp thời nhằm tăng cường sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Theo đó Thanh tra NHNN cần đưa thêm chỉ tiêu S (Sensibility to market) - sự nhạy cảm đối với rủi ro thị trường, vào hệ thống chỉ tiêu CAMEL.
- Thay đổi biểu phí bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thương mại. Bảo hiểm tiền gửi là hình thức bảo đảm an toàn và nâng cao uy tín trong hoạt động của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu rủi ro đạo đức khi ngân hàng hoạt động bất cẩn. Việc đóng phí bảo hiểm tiền gửi theo tỷ lệ phân biệt sẽ buộc các ngân hàng thi đua hoạt động tốt hơn vì trước đây phí bảo hiểm tiền gửi được áp dụng thống nhất cho toàn hệ thống ngân hàng mà không tính đến mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Do vậy, việc thay đổi biểu phí bảo hiểm tiền gửi sẽ giúp ta đánh giá chính xác hơn mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Mà trên TTCK việc đánh gía được mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng là một trong những yếu tố quyết định chất lượng hàng hoá. Đối với các NHTMCP niêm yết nếu được áp dụng tỷ lệ phí thấp là một chỉ báo hấp dẫn người đầu tư vì điều đó chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động an toàn và hiệu quả cao. Điều này cũng khuyến khích các NHTMCP hoạt động một cách an toàn và hiệu quả hơn rất nhiều.
- Nới lỏng và tiến tới loại bỏ các quy định về việc chấp thuận của NHNN về việc tăng (giảm) vốn điều lệ, và phát hành giấy tờ có giá của các NHTMCP. Tuy nhiên, các quy định về đảm bảo an toàn tài chính và hoạt động của ngân hàng vẫn phải được đảm bảo.
- Tổ chức tốt công tác đánh giá, xếp hạng ngân hàng. Vì trên TTCK, trước khi một doanh nghiệp muốn lên niêm yết, doanh nghiệp đó cần phải được định giá. UBCKNN sẽ căn cứ vào kết quả đánh giá của các tổ chức định mức tín nhiệm để quyết định xem doanh nghiệp có được lên niêm yết hay không. Với các NHTMCP, UBCKNN sẽ căn cứ vào kết quả xếp loại ngân hàng do NHNN thực hiện để lựa chọn những ngân hàng đủ tiêu chuẩn lên niêm yết. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi lên niêm yết cũng như sự an toàn, ổn định của TTCK, NHNN phải thực hiện tốt công tác đánh giá, xếp hạng ngân hàng tức là công tác xếp hạng ngân hàng phải thực hiện đúng quy tắc, trung thực, chính xác, và đảm bảo công bằng.
- NHNN cần tiếp tục chấn chỉnh sắp xếp lại hệ thống các NHTMCP nhằm duy trì những ngân hàng có hiệu quả hoạt động tốt, ít rủi ro, có uy tín có khả năng cung cấp những chứng khoán có chất lượng cao cho TTCK, giải thể, sáp nhập các ngân hàng hoạt động yếu kém, không lành mạnh .
3.3.3. Kiến nghị với UBCKNN
UBCKNN là cơ quan quản lý TTCKVN do vậy UBCKNN cần phối hợp với NHNN và các cơ quan chức năng khác để có thể đưa cổ phiếu của các NHTMCP lên sàn một cách nhanh nhất bắt đầu từ việc hoàn thiện cơ sở pháp lý chuẩn bị cho việc tham gia niêm yết của một số ngân hàng đến việc lựa chọn mốt số ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động kinh doanh hiệu quả, an toàn thí điểm lên niêm yết trên TTGDCK, tiếp tục rút kinh nghiệm và hoàn thiện các văn bản pháp lý, áp dụng rộng rãi trong toàn hệ thống. Cụ thể là:
* Hoàn thiện cơ sở pháp lý
UBCKNN và NHNN cần thống nhất ban hành các văn bản hướng dẫn về việc NHTMCP niêm yết chứng khoán trên TTGDCK một cách rõ ràng, cụ thể về vốn , thời gian hoạt động kinh doanh, kết quả kinh doanh, hệ số cooke, tỷ lệ nợ quá hạn và các quy định khác về cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ, bộ máy quản trị điều hành trong ngân hàng… Cụ thể như :
- Vốn điều lệ là 200 tỷ
- Thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm và liên tục trong 2 năm gần nhất hoạt động kinh doanh có lãi
- Hệ số cooke >=8%
- Tỷ lệ nợ xấu /tổng dư nợ cho vay <5%
- Bộ máy quản trị, kiểm soát điều hành hoạt động có hiệu quả
- Không vi phạm pháp luật về tổ chức hoạt động ngân hàng
- Có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại
* UBCKNN cần có quy định về chuyển nhượng cổ phiếu trong giai đoạn đầu
Chưa nên cho phép một số đối tượng được đăng kí giao dịch như cổ phiếu của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc trong thời gian đương nhiệm, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập trong thời hạn 3 năm đầu kể từ khi thành lập.
* UBCKNN cần có quy định về chuyển đổi mệnh gía cổ phiếu
Theo quy định của UBCKNN cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK đều có mệnh gía là 10000VNĐ trong khi đó mỗi ngân hàng hiện nay phát hành một loại cổ phiếu có mệnh giá khác nhau. Vì vậy, UBCKNN cần phải có quy định về việc chuyển đổi các cổ phiếu ghi tên hiện hành thành một loại cổ phiếu có mệnh giá phù hợp với yêu cầu niêm yết của UBCKNN và theo một mẫu thống nhất để tiện cho việc chuyển nhượng. Mặt khác, hiện nay trên TTCK tự do ta thấy rằng mệnh giá cổ phiếu của các ngân hàng thường rất lớn nên việc cơ hội mua cổ phiếu của ngân hàng chỉ có những tổ chức lớn hoặc những người có nhiều tiền mới có được. Trong khi đó, người đầu tư trên TTCKVN lại chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, với thu nhập chưa phải là cao nên việc tiếp cận với cổ phiếu của ngân hàng với họ là rất khó. Vì vậy, UBCKNN cần trao đổi với NHNN để chia nhỏ mệnh giá cổ phiếu của ngân hàng xuống tạo điều kiện cho các nhà đầu tư cá thể có thể đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng.
* UBCKNN cần phối hợp với NHNN, và các cơ quan chức năng khác để tổ chức quản lý tốt thị trường đặc biệt là trong tổ chức quản lý thông tin trên TTCK giúp cho thông tin trên thị trường được minh bạch, xác thực để các nhà đầu tư có được những thông tin chính xác nhất về chủ thể phát hành chứng khoán từ đó tránh được những rủi ro do tin đồn thất thiệt trên thị trường gây ra cho ngân hàng. Cần phải có sự thống nhất trong chế độ báo cáo thông tin giữa UBCKNN và NHNN để vừa đảm bảo tính minh bạch công khai của TTCK vừa đảm bảo tính bảo mật thông tin trong công tác quản lý của NHNN.
* Thu hút các nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia TTCK
Thông qua việc hình thành và phát triển các loại hình quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ, mở rộng giới hạn tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCKVN...để phát triển cơ sở nhà đầu tư cho TTCKVN. Bởi vì với sự tham gia của các tổ chức này, TTCKVN sẽ trở lên chuyên nghiệp hơn, hoạt động theo đúng quy luật hơn và hiệu quả hoạt động của mỗi tổ chức niêm yết sẽ được phản ánh chính xác hơn thông qua sự biến động của giá chứng khoán. Hơn nữa, với sự tham gia của các tổ chức đầu tư này TTCKVN sẽ trở lên sôi động hơn và an toàn hơn rất nhiều. Đây sẽ là một hấp dẫn lớn đối với các NHTMCP.
* UBCKNN phối hợp cùng với NHNN lựa chọn đưa một số NHTMCP đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết lên niêm yết trên TTGDCK
UBCKNN có thể dựa trên đánh gía xếp hạng các NHTM của NHNN để lựa chọn ra những NHTMCP có quy mô lớn, hoạt động kinh doanh hiệu quả, ít rủi ro, có uy tín và sẵn lòng tham gia niêm yết để niêm yết trên TTCK tạo điều kiện cung cấp hàng hoá có chất lượng cho thị trường, mở đường cho việc tham gia niêm yết của hệ thống các NHTMCP nói riêng và của các doanh nghiệp nói chung góp phần tăng cung trên TTCK. Hiện nay có một số ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết và cũng đã sẵn sàng niêm yết trên TTCK như: ACB, Sacombank, Eximbank… NHNN và UBCKNN cần phải nhanh chóng ban hành các quyết định cho phép các NHTMCP này lên niêm yết trên TTCKVN.
Trên đây là một số kiến nghị của bài viết với các cơ quan quản lý vĩ mô liên quan đến sự phát triển TTCK với mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc đẩy mạnh công tác tạo hàng hoá có chất lượng cho TTCKV
Kết luận
Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam, nhu cầu vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội ngày càng lớn không thể chỉ được đáp ứng bằng nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển thị trường tài chính trong đó có TTCK là vô cùng quan trọng và cần thiết. Đây là một kênh huy động và phân bổ vốn trung dài hạn hiệu quả nhất cho nền kinh tế. Giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động cuả TTCK luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới luôn luôn đòi hỏi các ngân hàng phải luôn tích cực trong việc nâng cao vị thế, hình ảnh của mình để có thể tồn tại trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng ngày nay không chỉ bao gồm các ngân hàng trong nước mà còn có các ngân hàng nước ngoài đặt ra nhiều thách thức cho các NHTMCP. Và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để thực hiện nhiệm vụ này là các NHTMCP thực hiện phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTGDCK. Điều này không chỉ có ý nghĩa với riêng các NHTMCP mà còn có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của TTCKVN.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, ngay từ khi TTGDCKTPHCM mới đi vào hoạt động, Chính phủ đã cùng với UBCKNN và NHNN thảo luận để tìm ra giải pháp nhằm nhanh chóng đưa cổ phiếu của các ngân hàng không chỉ bao gồm các NHTMCP mà còn có cả các ngân hàng thương mại nhà nước lên sàn giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, đây không phải là một việc mà một sớm một chiều có thể thực hiện được mà nó đòi hỏi cần có thời gian để thực hiện từng bước. Xuất phát từ yêu cầu trên, khoá luận đã thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, phân tích sự cần thiết tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng và khả năng tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCKVN trong thời gian qua.
- Thứ ba, đưa ra được một hệ thống giải pháp nhằm thúc đảy việc đưa các NHTMCP lên niêm yết trên TTCKVN.
Để hoàn thành khoá luận này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo: TS. Lê Thị Tuấn Nghĩa - người trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian qua, cùng các anh chị làm việc tại Trung tâm nghiên cứu khoa học đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán - UBCKNN và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Học viện Ngân hàng. Do còn có sự hạn chế về kiến thức thực tế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Mục lục
Đề mục Trang
Lời mở đầu
Chương 1: Sự cần thiết của việc tham gia niêm yết của NHTMCP trên TTCK
1.1. Những vấn đề cơ bản về TTCK
Khái niệm về TTCK
Cơ cấu TTCK
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
1.1.4. Hàng hóa trên TTCK
1.2. Sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP
1.2.1. Khái niệm NHTMCP
1.2.2. Sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP
Chương 2: Thực trạng về sự tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCKVN
2.1. Những nét cơ bản về TTCKVN
2.1.1. Quy mô thị trường
2.1.2. Chất lượng thị trường
2.2. Sự tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCKVN từ năm 2000 đến nay
2.2.1. Hoạt động của các NHTMCPVN
2.2.2. Thực trạng tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCPVN
2.3. Đánh giá về khả năng tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCKVN
2.3.1. Những thuận lợi
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Chương 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCKVN
3.1. Quan điểm, định hướng của Nhà nước trong việc thúc đẩy các NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCKVN
3.1.1. Định hướng phát triển TTCKVN đến năm 2010
3.1.2. Định hướng hoạt động của các NHTMCP nhằm thúc đẩy việc tham gia niêm yết trên TTCKVN
3.2. Giải pháp nhằm thúc đẩy các NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCKVN
3.2.1. Giải pháp vĩ mô
3.2.2. Giải pháp đối với NHTMCP
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.3.2. Kiến nghị với NHNN
3.3.3. Kiến nghị với UBCKNN
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục kí hiệu viết tắt
NHNN : Ngân hàng nhà nước
UBCKNN : Uỷ ban chứng khoán nhà nước
NH : Ngân hàng
TTCK : Thị trường chứng khoán
TTCKVN : Thị trường chứng khoán Việt Nam
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMCPVN : Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
Danh mục tài liệu tham khảo
Luật Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Nghị định 144/2003/NĐ- CP ngày....
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng - Học viện Ngân hàng.
Giáo trình Ngân hàng Trung ương- Học viện Ngân hàng.
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng- Học viện Ngân hàng.
Giáo trình Thị trường chứng khoán- Học viện ngân hàng.
Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán_TTNC,ĐT và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán.
"Một số suy nghĩ về việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên TTCK ở nước ta" - Ths. Ngô Minh Châu - Trang 27 -Thị trường tài chính tiền tệ 15/11/2004
"Niêm yết cổ phiếu của NHTMCP và cổ phần hoá NHTMNN - giải pháp quan trọng phát triển TTCK" - TS. Hà Quang Đào -Trang 22 - Thị trường tài chính tiền tệ 15/5/2004
"Niêm yết cổ phiếu của các NHTMCPVN - cơ hội và thách thức" - Đinh Anh Dũng - Trang 46 - Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 6 (11+12/2004)
"Thực trạng và xu hướng phát triển của các NHTMCP trước yêu cầu cạnh tranh và phát triển bền vững" - TS. Hà Quang Đào - Trang 18 - Tạp chí ngân hàng số 7/2004
"Tại sao việc tăng vốn điều lệ của hệ thống NHTMCP có xu hướng thuận lợi" - Ngô Minh Châu - Tạp chí ngân hàng số 12/2004
"Niêm yết và phát hành cổ phiếu của NHTMCP trên TTGDCK: điều kiện đã chín muồi" - Nguyễn Thị Kim Nhung - Trang 41 - Tạp chí tài chính tháng 4/2003
"Kết quả bước đầu của việc thực hiện chấn chỉnh, củng cố, sắp xếp lại NHTMCP ở nước ta" - Ths. Nguyễn Kiến Quân - Tạp chí ngân hàng số 7/2003
"Công tác tạo hàng cho TTCKVN - một số tồn tại và kiến nghị" - Vụ quản lý và phát hành chứng khoán - UBCKNN -Trang 19 - Chứng khoán Việt Nam số 7/2004
"Thúc đẩy các NHTMCP tham gia niêm yết" - Tin UBCKNN - Trang28- Chứng khoán Việt Nam số 2/2003
"Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động TTCK" - Trang 6 - Chứng khoán Việt Nam số 7 tháng 7/2003
"Sẽ có 2 ngân hàng niêm yết - NHNN ban hành quy chế niêm yết cổ phiếu ngân hàng" - Trần Kiên - Trang15 - Đầu tư chứng khoán
"Cơ hội mua cổ phiếu ngân hàng" - Dương Nguyễn - Trang15 - Đầu tư chứng khoán số 253 (11/10/2005)
"Những cú sốc thông tin" - Phúc Lân - Trang 17 - Đầu tư chứng khoán số 215,216
Nhận xét của giảng viên hướng dẫn
Họ và tên giảng viên: ….
Chức vụ: …
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Dịu
Lớp: 4042. - Khoa: Ngân hàng
Tên đề tài: "Giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam".
…
Điểm bằng số:
Điểm bằng chữ:
Giảng viên hướng dẫn
Danh mục bảng
Bảng 2.1: Tổng hợp tình hình niêm yết trên TTGDCK
Bảng 2.2: Thông tin chứng khoán niêm yết ngày 05/04/2005
Bảng 2.3: Cơ cấu hàng hóa trên TTCKVN đến thời điểm 31/12/2003
Bảng 2.4: Các doanh nghiệp niêm yết trên TTCKVN
Bảng 2.5: Cơ cấu công ty niêm yết trên TTCKVN
Bảng 2.6: Các NHTMCPVN trong thời gian qua
Bảng 2.7: Vốn điều lệ của các NHTMCPVN
Bảng 2.8: Nợ quá hạn của các NHTMCP
Bảng 2.9: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTMCPVN
Bảng 2.10: Tỷ lệ nợ quá hạn của một số ngân hàng điển hình
Bảng 2.11: Nhu cầu mua bán cổ phiếu ngân hàng chưa được thực hiện ngày 2/4/2005
Bảng 2.12: Dự kiến NHTMCP tham gia niêm yết
Bảng 2.13: Cơ cấu ngành niêm yết trên TTGDCK
Lời cam đoan
Em xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Mọi số liệu, dữ kiện được sử dụng trong khoá luận là chân thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Sinh viên
Nguyễn Thị Dịu
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36212.doc