lời Mở đầu
Nghị quyết đại hội Đảng lần VI đã tạo ra bước ngoặt đối với nền kinh tế của đất nước. Từ đây, nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần Nghị quyết, các doanh nghiệp được toàn quyền quyết định các vấn đề cơ bản của sản xuất là sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào; nhà nước cũng không ấn định giá như trước kia nữa mà do quan hệ cung- cầu trên thị trư
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí, nâng cao kết quả kinh doanh tại Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội - Chi nhánh Thanh Quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng quyết định. Nhà nước chỉ nắm giữ độc quyền một số ngành nghề then chốt như: ngành điện lực, ngành bưu chính viễn thông, ngành dầu khí, ngành tài chính- ngân hàng và một số ngành khác. Nhưng cho đến nay thì ngành tài chính- ngân hàng không phải là ngành độc quyền nữa mà đã là ngành đa sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu nước ngoài. Nó được xác định là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế, cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh trên thị trường, mỗi ngân hàng đều phải giải quyết bài toán hiệu quả kinh doanh. Trong đó lợi nhuận được đưa lên hàng đầu, là chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trên thực tế mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác như ngành bưu điện, ngành bảo hiểm, công ty tài chính ... Lợi nhuận giống như một miếng bánh lớn và mỗi chủ thể tài chính chiếm được một phần miếng bánh nhỏ. Độ lớn của miếng bánh nhỏ này tuỳ thuộc vào khả năng kinh doanh của chính đơn vị kinh tế đó. Tâm lý chung của người kinh doanh là muốn cho phần lợi nhuận của mình năm sau lớn hơn năm trước hay tối thiểu cũng phải giữ được bằng năm trước. Để mong muốn trở thành thực tế thì không phải ai cũng làm được. Xuất phát từ yêu cầu thực tế cũng như những băn khoăn trăn trở trên, sau khi kết thúc chương trình học tập tại Học Viện Ngân Hàng và 3 tháng được đi vào thực tế, em xin được lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí, nâng cao kết quả kinh doanh tại Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội- chi nhánh Thanh Quan”
ặ Đề tài được kết cấu với ba chương
Chương I: Cơ sở lý luận chung về ngân hàng thương mại và cơ chế tài chính của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng thu nhập,chi phí tài chính và xác định kết quả kinh doanh của NHTM cổ phần nhà Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp để góp phần tăng thu nhập tiết kiệm chi phí để nâng cao kết quả kinh doanh tại chi nhánh Thanh Quan
ặ Phạm vi nghiên cứu là số liệu trong ba năm gần đây nhất.
ặ Phương pháp nghiên cứu là phương pháp thống kê, so sánh và phân tích từng khoản mục với nhau và các số liệu giữa các năm với nhau để thấy được những biến động của từng khoản mục và mức độ ảnh hưởng của nó tới tình hình thu nhập, chi phí của chi nhánh Thanh Quan.
Tuy nhiên trong thời gian nghiên cứu ngắn, kinh nghiệm thực tế và khả năng bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em kính mong nhận được sự góp ý chân tình của các thầy cô để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Đinh Thanh Hà
cHƯƠNG i
Cơ sở lý luận chung về ngân hàng thương mại và hoạt động tài chính của nHTM
Khái quát về NHTM.
1.1.1: Lịch sử ra đời của NHTM
NHTM là một trong năm loại hình ngân hàng trung gian mà các nhà nghiên cứu đã tổng kết được, đó là: NHTM, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát triển, các tổ chức tín dụng và hợp tác. Và đây cũng là loại hình chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt trong nền kinh tế. Tuy ở mỗi quốc gia có các quan điểm khác nhau về khái niệm NHTM nhưng nhìn chung họ đều thống nhất với nhau: NHTM là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Theo quan điểm của các nhà ngân hàng nước ta về NHTM được ghi trong luật các tổ chức tín dụng ban hành tháng 5 năm 1990 như sau: “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán .”
Theo các nhà nghiên cứu thì mầm mống sơ khai của ngân hàng có từ thời trung cổ mà tiền thân của nó là những hiệu kim hoàn. Thời đó những người giầu thường mang tiền bạc tới những tiệm kim hoàn và gửi ở đó để đảm bảo an toàn cho tài sản của họ. Họ sẽ được nhận một chứng thư xác nhận quyền sở hữu về những tài sản đi gửi nhưng đổi lại họ phải trả một mức phí cho hiệu kim hoàn đó. Lúc đầu, những ông chủ đúc vàng dự trữ 100% để chi trả cho khách hàng. Sau một thời gian dài họ nhận thấy rằng luôn luôn có một lượng tiền vàng tồn ở trong kho họ giữ vì bên cạnh những người rút tiền thì cũng có những người khác đem tiền vào gửi. Mặt khác, không phải ai cũng có tiền nhàn rỗi để gửi vào mà có rất nhiều người đang cần vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Từ đó, các chủ hiệu kim hoàn nghĩ ra một kiểu kinh doanh mới là chỉ giữ lại một số lượng nhất định để đáp ứng yêu cầu rút tiền của khách hàng, phần còn lại họ sẽ cho người cần vốn vay. Dần dần thì hoạt động cho vay ngày càng phát triển, vì vậy thay vì thu phí giữ tiền, họ lại trả cho những người gửi một số tiền nhất định nào đó. Hoạt động này ngày càng phát triển và được coi là nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng, và các tiệm kim hoàn dần dần phát triển và hình thành nên ngân hàng.
ở thời kỳ đầu, khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó chính là trung gian thanh toán và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỷ 18, cuộc cách mạng kinh tế của các nước Tây Âu đã tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ. Như vậy, một mặt nó đòi hỏi phải có khối lượng vốn lớn, mặt khác nó thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển. Các nghiệp vụ của ngân hàng như “đi vay”và “cho vay”, làm trung gian thanh toán giữa các chủ thể kinh tế cũng như phát hành giấy bạc ngân hàng diễn ra hết sức sôi nổi. Tuy nhiên các ngân hàng đều có quyền phát hành ra loại giấy bạc của riêng mình đã làm cho có quá nhiều loại tiền lưu thông cùng một lúc. Hơn nữa nhà nước không thể quản lý được khối lượng tiền được phát hành. Trong quá trình phát triển của mình ngân hàng đã được phân hoá thành hai hệ thống.Thứ nhất là nhóm ngân hàngđược phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau gọi là NHTW. Thứ hai là nhóm ngân hàng không được phép phát hàng tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế, và được gọi là ngân hàng trung gian .
Thời kỳ đầu khi hệ thống ngân hàng mới được phân hoá thì các ngân hàng trung gian thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng mà ngân hàng đó có khả năng đáp ứng như : nhận tiền gửi và cho vay, làm trung gian thanh toán. Sau này khi nền kinh tế phát triển hơn thì hoạt động ngân hàng cũng từng bước được hoàn thiện. Dựa vào tính chất kinh doanh và mục đích hoạt động mà người ta chia ra ngân hàng trung gian thành 5 loại :
Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng phát triển.
Ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng chính sách.
Các tổ chức tín dụng và hợp tác.
Trong 5 loại này thì NHTM là loại hình phổ biến nhất, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế của quốc gia. ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng được khai sinh theo sắc lệnh 15 ngày 6/5/1951 của chủ tịch nước. Mặc dù được ra đời muộn hơn rất nhều so với sự ra đời của các ngân hàng trên thế giới nhưng mô hình tổ chức của nó thì vẫn theo mô hình cũ, lạc hậu, đó là mô hình ngân hàng một cấp. Chỉ đến khi nền kinh tế nước ta được xác định là nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội thì mô hình tổ chức của ngân hàng mới được thay đổi. Sự thay đổi đó được đánh dấu ở Nghị định 53 ra ngày 26/3/1988, theo đó hệ thống Ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng hai cấp: Cấp NHTW đảm nhiệm chức năng độc quyền phát hành tiền; quản lý nhà nước về tiền tệ và tín dụng; và là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối của nhà nước. Cấp thứ hai là các NHTM trực thuộc NHTW có chức năng hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng trực tiếp đối với nền kinh tế. Pháp lệnh NHNN 5/1990 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Từ đây hệ thống NHTM Việt Nam bước sang một trang sử mới.
1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường
NHTM là nơi thu hút tiền nhàn rỗi và cung ứng vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế, không chỉ có riêng ngân hàng làm nhiệm vụ thu hút lượng tiền nhàn rỗi và cung cấp vốn cho các chủ thể thiếu vốn, nhưng NHTM vẫn là tổ chức thực hiện công việc này hiệu quả nhất. Và đây được coi là chức năng cơ bản nhất của ngân hàng, đồng thời tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Khi thực hiện các chức năng làm trung gian tín dụng NHTM giống như chiếc cầu để nối giữa những người có vốn mà chưa có ý tưởng kinh doanh và những người có ý tưởng kinh doanh nhưng chưa có vốn. Hay nói cụ thể hơn là ngân hàng “đi vay ” để “cho vay”. Ngân hàng thực được việc này dựa trên cơ sở ngân hàng là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ và tín dụng, có khả năng nhận biết khả năng cung và cầu vốn trên thị trường, và đặc biệt là có uy tín khá cao. Dựa vào uy tín của ngân hàng mà những người có tiền đem vào đó để gửi, họ vừa đạt được mục đích là đảm bảo an toàn cho tài sản của mình mà lại vừa có thu nhập. Trên cơ sở đó ngân hàng đã tập hợp được khối tiền nhàn rỗi và cho những người cần vốn vay. Như vậy NHTM đã giúp góp phần tạo được lợi ích cho tất cả các bên. Đối với người vay tiền sẽ thoả mãn được vốn để kinh doanh một cách nhanh nhất, chi phí về thời gian và tiền bạc thấp nhất. Đối với bản thân NHTM thì sẽ kiếm được lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay. Cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh trên thị trường, lợi nhuận này sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Và đối với tổng thể nền kinh tế, chức năng trung gian tín dụng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì các thành phần kinh tế có vốn kịp thời để đáp ứng yêu cầu sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Ngoài ra khi có mặt của NHTM thì quá trình luân chuyển hàng hoá diễn ra nhanh hơn. Như vậy hoạt động “đi vay ”để “cho vay” của NHTM chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Và khi thực hiện tốt chức năng này thì sẽ tạo ra nền tảng vững chắc để NHTM thực hiện các chức năng khác.
NHTM là cầu nối giữa thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
NHTM là đơn vị có chi nhánh rộng khắp không chỉ trong nội bộ một quốc gia mà còn cả ở nước ngoài. Và lợi thế như vậy NHTM dễ dàng thu hút và mở rộng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Đối với những người muốn đầu tư vào nước khác có hai cách: một là đầu tư trực tiếp và hai là đầu tư gián tiếp. Hình thức đầu tư trực tiếp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng đổi lại người ta phải nghiên cứu nhiều yếu tố như: môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, cơ sở vật chất hạ tầng... và khả năng thất bại cũng rất cao. Hình thức đầu tư nước ngoài được ưa chuộng hơn là đầu tư gián tiếp, có nghĩa là các nhà đầu tư mua bán cổ phiếu , trái phiếu ... trên thị trường chứng khoán. Mà NHTM là chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán ấy, nếu họ hoạt động tích cực sẽ làm cho thị trường chứng khoán sôi động, và như vậy họ không chỉ lôi kéo người đầu tư trong nước đầu tư mà cả người đầu tư nước ngoài.
Mạng lưới hoạt động vượt qua biên giới quốc gia của các NHTM đem lại một lợi thế rất quan trọng khác. Đó là họ có điều kiện để am hiểu về môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, cơ sở vật chất hạ tầng ... của nước sở tại họ hoạt động, từ đây họ có thể cung cấp thông tin đó cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước nhà. Đa phần các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước bị thiếu thông tin hoặc có thông tin nhưng không đầy đủ và hoàn hảo nên dẫn đến có quyết sách sai lầm. Vì vậy, đối với họ những thông tin mà ngân hàng cung cấp sẽ giúp ích cho họ trong quá trình kinh doanh. Không chỉ các doanh nghiệp có lợi mà qua đó các chi nhánh NHTM hoạt động ở nước ngoài vừa thu được phí tư vấn và vừa nâng cao được uy tín. Khi nền kinh tế phát triển thì vai trò này sẽ được đề cao hơn nữa.
Vai trò trung gian thanh toán .
Vai trò này thực hiện được thì phải dựa trên cơ sở là Ngân hàng làm thủ quỹ cho xã hội. Theo đó thì các NHTM mở tài khoản tiền gửi, thực hiện quản lý tài khoản và tiến hành thu, chi theo lệnh của khách hàng. Nếu càng có nhiều đơn vị, cá nhân mở tài khoản ở ngân hàng thì việc thu chi sẽ càng được thực hiện nhiều ngay trên tài khoản và lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm. Việc giảm lượng tiền mặt trong lưu thông đem lại lợi ích cho nhà nước mà người dân cũng được hưởng ích lợi đó. Mặt khác khi việc thanh toán qua ngân hàng tăng lên sẽ làm cho tốc độ luân chuyển vốn và hàng hoá tăng lên; vốn nhàn rỗi sẽ được tập trung nhiều hơn ở ngân hàng để đầu tư cho nền kinh tế; tăng cường được sự quản lý của nhà nước đối với các chủ thể kinh tế ... Phương thức TTKDTM ra đời không chỉ khắc phục được nhược điểm của phương thức thanh toán bằng tiền mặt mà còn có ý nghĩa to lớn khác. Chính vì thế mà phương thức thanh toán qua ngân hàng là xu hướng phổ biến hiện nay. Nó cũng được coi là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn minh của đất nước. Người ta thấy rằng càng ở những nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ trọng TTKDTM càng lớn
1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yéu của NHTM.
1.1.3.1 Các nghiệp vụ thuộc tài sản nợ và vốn.
Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng. Từ sau cuộc suy thoái kinh tế thế giới 1929-1930, phần lớn các NHTM trên thế giới đều chú trọng đến việc quản lý tài sản Có. Tuy nhiên, tới năm 1960 người ta đã giành sự quan tâm đến việc quản lý tài sản Nợ. Người ta nghiên cứu và chia bên tài sản Nợ thành 3 nghiệp vụ như sau:
* Nghiệp vụ tiền gửi :
w Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn hay còn được gọi là tiền gửi thanh toán mà đặc tính của nó là khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào. Đối với loại tiền gửi này mục đích chính của khách hàng là bảo đảm an toàn cho tài sản của họ và sử dụng các tiện ích trên tài khoản đó. Do đó mức lãi suất tiền gửi mà ngân hàng đưa ra hầu như không ảnh hưởng đến số dư và sự biến động trên tài khoản. Đây là nguồn vốn rẻ nhất của ngân hàng vì trước đây ngân hàng không trả lãi cho loại tiền gửi này, ngày nay hầu hết các ngân hàng đều trả lãi, tuy nhiên đó chỉ là lãi suất khuyến khích nên rất thấp.
w Tiền gửi có kỳ hạn
Với loại này khách hàng được rút tiền ra sau một thời hạn nào đó mà khách hàng đã cam kết với ngân hàng ví dụ như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng ... Trước đây, nếu khách hàng đến rút trước thời hạn dù chỉ là một ngày thì ngân hàng không trả lãi. Khi sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cao, để thu hút khách hàng thì các ngân hàng đã cho khách hàng rút trước hạn hưởng lãi suất không kỳ hạn. Mức lãi suất là nhân tố hấp dẫn, quyết định đến lượng tiền gửi vào ngân hàng vì mục đích của khách hàng là hưởng lãi suất. Chi phí trả lãi cao nhưng nguồn vốn này ổn định, ngân hàng có thể chủ động lập kế hoạch sử dụng vốn .
w Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi. Cũng giống như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Mục đích của người gửi tiền là hưởng lãi suất cho nên càng đưa ra mức lãi suất cao thì ngân hàng càng có thể thu hút được nhiều vốn hơn. ở Việt Nam có 3 loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : về bản chất thì giống tiền gửi không kỳ hạn tuy nhiên khách hàng không được hưởng các dịch vụ thanh toán (trên tài khoản loại này ) nên số dư của nó ít biến động và khách hàng được hưởng mức lãi suất nhất định .
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút tiền sau một thời hạn nhất định. Cũng giống như tiền gửi tiết kiệm, yếu tố lãi suất sẽ quyết định đến lượng vốn huy động, lãi suất cao sẽ kích thích người dân tiết kiệm tiêu dùng để gửi vào ngân hàng.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích : thường là loại tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích lớn như: xây nhà ở, mua ô tô xịn ... Ngân hàng còn đưa ra một số ưu đãi cho loại hình tiền gửi này là ngoài việc được hưởng lãi, khách hàng còn được hỗ trợ thêm tiền nếu có nhu cầu.
Xét trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì bộ phận tiền gửi chiếm một tỷ trọng lớn. Bộ phận này có ý nghĩa rất quan trọng vì ngoài ưu thế là chi phí rẻ và nguồn vốn tương đối ổn định thì tỉ trọng của nó còn thể hiện uy tín của ngân hàng. Tất cả các ngân hàng đều quan tâm đến phát triển nghiệp vụ này.
*Nghiệp vụ đi vay
wPhát hành GTCG
Để thu hút được tối đa nguồn vốn từ hình thức này các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại hình đó là: phát hành theo mệnh giá; phát hành theo hình thức chiết khấu. Trong từng loại ngân hàng còn chia nhỏ ra theo kỳ hạn trả lãi khác nhau để phù hợp với mọi đối tượng khách hàng
Cùng với nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ này cũng thuộc nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng. Khi áp dụng hình thức phát hành GTCG để huy động vốn thì ngân hàng sẽ có ba điểm thuận lợi. Thứ nhất là ngân hàng không phải duy trì DTBB nếu chỉ phát hành GTCG có thời hạn dưới một năm. Thứ hai là ngân hàng sẽ chủ động về khối lượng vốn huy động hơn là nhận tiền gửi. Thứ ba là khi phát hành GTCG ngân hàng đã ấn định thời gian đáo hạn của nó cho nên ngân hàng cũng giữ vị thế là người chủ động về thời gian huy động. Thông thường việc phát hành GTCG là để phục vụ một mục đích đặt ra trước đó của ngân hàng. Nhận thấy các ưu điểm trên nên càng ngày các ngân hàng càng chú trọng đến nghiệp vụ huy động vốn loại này.
wVay từ NHTW
Đây là nguồn vốn thường xuyên nhưng hết sức cần thiết đối với các NHTM. Nguồn vốn này đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM khi không vay được từ các nguồn khác, đôi khi nó là phao cứu hộ khi các NHTM đang ở bên bờ vực sụp đổ. Thông qua các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG, cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các GTCG ngắn hạn khác ... NHTW thực hiện tái cấp vốn đối với các NHTM. Đây là một nguồn để NHTM tạo nguồn vốn cho mình nhưng thông qua đó NHTW quản lý vĩ mô đối với các NHTM và thực hiện chính sách tiền tệ đã đặt ra.
wVay từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác
Chi phí cho nguồn vốn này rất đắt, các ngân hàng chỉ vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng khi không thể huy động từ các nguồn khác. Nguồn vốn này không chỉ có chi phí cao mà thường kém ổn định nên đối với loại này ngân hàng thường vay trong thời gian ngắn, phổ biến là vay qua đêm. Trong quá trình hoạt động của mình thì các đều phải sử dụng nghiệp vụ này, tuy nhiên mức độ sử dụng nhiều hay ít lại phụ thuộc vào từng ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể nhưng nói chung càng sử dụng ít càng tốt.
wCác nguồn vốn khác của ngân hàng
Đó là đi vay từ các ngân hàng nước ngoài, vay từ những công ty mẹ của ngân hàng( những công ty nắm giữ ngân hàng ); phát hành hợp đồng mua lại ... ở các nước phát triển thì nghiệp vụ này mới phát sinh, còn các NHTM ở những nước đang phát triển như Việt Nam thì hầu như không có và nếu có cũng không đáng kể.
* Vốn của ngân hàng
Cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động trên thị trường thì phải tự tạo cho mình một lượng vốn nào đó, mức vốn này được gọi là VTC. Tuỳ từng ngành nghề và tuỳ từng quốc gia mà pháp luật quy định chủ doanh nghiệp phải có hay không phải có một lượng vốn tối thiểu nào đó. Riêng với ngành ngân hàng thì tất cả các quốc gia đều quy định phải có vốn pháp định. Vốn pháp định là một phận của VTC vì VTC còn bao gồm cả quỹ dự trữ và vốn coi như tự có. Quỹ dự trữ của ngân gồm có quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Quỹ dự trữ này được trích ra từ lợi nhuận sau thuế của ngân hàng với hai mục đích: mục đích thứ nhất là đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh vì đây chính là nguồn bù đắp khi ngân hàng thực sự gặp rủi ro; mục đích thứ hai là làm tăng thêm nguồn VTC cho ngân hàng. Đây là một trong số các chỉ tiêu để đánh giá uy tín của một ngân hàng. Còn vốn coi như tự có bao gồm lợi nhuận chưa chia, các quỹ khác chưa sử dụng như quỹ khấu hao TSCĐ, quỹ khen thưởng phúc lợi, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ.
VTC của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết nó quyết định đến sự ra đời của một ngân hàng, tiếp nữa nó quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng, là tiếng nói góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trong quá trình thu hút tiền gửi, cung cấp tiền vay cũng như các sản phẩm dịch vụ ngân hàng khác.
1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản Có
Nếu nghiệp vụ tài sản Nợ tạo nguồn vốn cho ngân hàng thì nghiệp vụ tài sản Có là cách thức mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình. Để tạo được nguồn vốn đã là khó nhưng phải sử dụng và quản lý nó làm sao có hiệu quả thì càng khó hơn. Các nhà ngân hàng đã xác định được nghiệp vụ tài sản Có bao gồm các nghiệp vụ cơ bản sau:
a Nghiệp vụ ngân quỹ
Đây chính là khoản dự trữ của ngân hàng để vừa đáp ứng nhu cầu thanh khoản, tín dụng của ngân hàng và vừa đảm bảo được hoạt động kinh doanh tiền tệ có hiệu quả. Nghiệp vụ này bao gồm các loại sau:
wTiền mặt tại quỹ: gồm tiền giấy và tiền làm loại được quản lý tại ngân hàng lượng tiền mặt nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô hoạt động của ngân hàng và thời gian kinh doanh. Loại này không mang lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng các ngân hàng bắt buộc phải duy trì vì nó đảm bảo nhu câu rút tiền, nhu cầu tín dụng của khách hàng. Nếu tiền tồn quý không hợp lý sẽ mang lại tai hại cho ngân hàng hoặc là không đáp ứng được khả năng thanh khoản, hoặc là dự trữ dư thừa sẽ mất đi khả năng sinh lời của đồng tiền. Vì vậy, các ngân hàng phải xác định để mức độ duy trì tiền mặt tồn quỹ là hợp lý.
wTiền gửi tại các ngân hàng khác.
Mục đích của hoạt động này là duy trì hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng, giao dịch ngoại tệ, mua bán chứng khoán. Ngoài ra thì ngân hàng gửi còn được hưởng lãi, dù lãi suất thấp nhưng với lượng tiền với lượng tiền gửi lớn như ngân hàng thì nó cũng tạo một khoản thu nhập và có hiệu quả hơn là để tại quỹ.
wTiền gửi ở NHTW: gồm tiền DTBB và tiền gửi thanh toán tại NHTW. Lượng tiền gửi ở NHTW liên tục biến động do hoạt động nhận tiền và trả tiền (đối với riêng một ngân hàng) nhưng bao giờ cũng phải giữ lớn hơn hay bằng tiền gửi DTBB, nếu không ngân hàng thương mại sẽ bị phạt.
Ba bộ phận chính tạo nên phần dự trữ của ngân hàng nhưng mọi ngân hàng đều phải duy trì, tuy nhiên mức độ bao nhiêu thì phụ thuộc vào tình hình hoạt động của từng ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động tốt là biết xác định dự trữ hợp lý.
b Nghiệp vụ cho vay
Đây là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân ngân hàng trực tiếp cho các nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thỏa mãn những điều kiện vay vốn của ngân hàng. Hoạt động cho vay chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong nghiệp vụ tài sản có, nhưng mức độ rủi ro của nó rất lớn. Ngày nay, các NHTM có xu hướng nâng dần tỷ trọng hoạt động dịch vụ. Điều này, không có nghĩa các ngân hàng không chú trọng tới hoạt động cho vay nữa mà thực chất là chỉ cho vay những dự án thực sự đem lại lợi nhuận. Ngân hàng thông qua các hình thức sau để cấp tín dụng cho nền kinh tế.
wCho vay ứng trước: là loại hình cho vay theo hợp đồng tín dụng, trong đó người đi vay được phép sử dụng trong hạn mức và có thời hạn nhất định.
Cho vay bằng chiết khấu thương phiếu: là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó ngân hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán của khách hàng với số tiền bằng thương phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí.
wCho vay thuê mua: là hình thức tín dụng trung và dài hạn được thực hiện qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và bất động sản khác.
wCho vay vượt chi: là hình thức đặc biệt của tín dụng ứng trước theo đó người vay được phép sử dụng quá số tiền trên tài khoản tiền gửi của mình ở một hạn mức nhất định và trong một thời gian xác định.
wTín dụng bằng chữ ký: trong hình thức này ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay nhưng dùng chữ ký (uy tín) của mình để tạo điều kiện cho khách hàng di vay vốn ở nơi khác.
wCho vay tiêu dùng: là cho vay để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Loại cho vay này có rủi ro cao nên lãi suất cho vay cao.
c Nghiệp vụ đầu tư
Hoạt động đầu tư chủ yếu của ngân hàng là đầu tư chứng khoán. Mục đích khi ngân hàng đầu tư là nhằm sinh lợi cho tài sản của mình. Thứ hai là đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ hay đa dạng hoá danh mục đầu tư. Thứ ba là để phòng ngừa rủi ro. Hoạt động của ngân hàng được xem là có mức độ rủi ro cao nhất. Vì vậy, việc phòng ngừa rủi ro là hết sức cần thiết.
Xét về tỷ trọng trong tổng lợi nhuận thì lợi nhuận từ nghiệp vụ đầu tư mang lại chỉ đứng sau nghiệp vụ cho vay. Khi nền kinh tế càng phát triển thì thu nhập mang lại từ nghiệp vụ này càng tăng.
1.1.3.3 Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng
ở nghiệp vụ này ngân hàng hoạt động trên ba mảng chính đó là dịch vụ trên thị trường chứng khoán; dịch vụ thanh toán; dịch vụ tư vấn. Ngày nay, nghiệp vụ này được các ngân hàng chú trọng đầu tư vì nó vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội tức là thị trường hoạt động rộng và rủi ro hoạt động thấp.
1.1.3.4 Nghiệp vụ ngoại bảng
Nghiệp vụ này không nằm trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng và nó có đặc điểm là khi một nghiệp vụ ngoại bảng phát sinh thì không trực tiếp làm biến động đến tài sản và nguồn vốn của ngân hàng. Nội dung của nghiệp vụ ngoại bảng có thể tóm tắt ở các điểm sau:
wBán món trao tay có trách nhiệm liên đới
wTái chiết khấu ở các ngân hàng khác
wMở thư tín dụng, thanh toán séc
wNghiệp vụ phái sinh
Hoạt động tài chính của NHTM
1.2.1 Hoạt động tài chính của NHTM
NHTM được xác định là một đơn vị kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Cũng giống như các doanh nghiệp khác hoạt động kinh doanh trên thị trường, hệ thống ngân hàng phải chịu sự quản lý của luật các doanh nghiệp, được quyền tự chủ trong kinh doanh và tự do cạnh tranh với nhau. Tuy nhiên, nó lại khác với các doanh nghiệp ở chỗ đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ. Mà đây lại là hàng hoá nhạy cảm nhất trong nền kinh tế. Vì vậy, ngoài các quy định chung như đối doanh nghiệp, các NHTM còn phải chịu sự quản lý chặt chẽ của NHTW. NHTW sẽ quy định tỷ lệ DTBB, khung lãi suất chỉ đạo, hệ số an toàn trong kinh doanh, và các thể chế khác cho NHTM để đảm bảo an toàn trong hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng là hệ thống có mối quan hệ phức tạp nhất trong nền kinh tế vì hoạt động nghiệp vụ của nó không chỉ liên quan đến mọi ngành nghề. Chính vì thế mà không có luật phá sản ngân hàng. Khi một ngân hàng nào đó gặp khó khăn thì NHTW phải đứng ra can thiệp để tránh sự đổ vỡ. Đây là sự đặc biệt lớn của ngành ngân hàng so với các ngành nghề kinh doanh khác.
NHTM cũng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu của các cổ đông ... nhưng dưới hình thức sở hữu nào thì khi thành lập chủ sở hữu phải đạt được yêu cầu vốn pháp định. So với tổng nguồn vốn của ngân hàng thì vốn pháp định chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, vốn huy động là chủ yếu. Vốn pháp định là một bộ phận của vốn tự có, vốn tự có là tấm đệm chống đỡ rủi ro cho ngân hàng, hơn nữa nó quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng. Ví như luật NHNN Việt Nam quy định không được cho vay đối với khách hàng quá 15%VTC, không được dùng quá 50% vốn tự có để đầu tư vào TSCĐ, huy động vốn nhỏ hơn 20 lần VTC. Các ngân hàng quản lý vốn theo nguyên tắc điều hoà trong toàn hệ thống, theo đó nơi thừa vốn sẽ chuyển sang nơi thiếu vốn và được hưởng lãi suất điều hoà, ngược lại nơi nhận vốn sẽ phải chịu mức lãi suất điều hoà. Mức lãi suất này do giám đốc ngân hàng quyết định và thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau.
Lợi nhuận của NHTM được xác định là lấy thu bù chi. Trong đó thu nhập bao gồm các khoản sau: thu từ hoạt động tín dụng, thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, thu từ góp vốn liên doanh liên kết, thu từ các dịch vụ ngân hàng và các khoản thu khác. Chi phí của ngân hàng chủ yếu là chi để huy động vốn, chi để cho vay vốn, chi phí quản lý, chi cho hoạt động dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ khác. Vì sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm mang tính chất dịch vụ, là sản phẩm vô hình và không thể tính giá thành trên một đơn vị sản phẩm được nên khi xác định thu chi rất khó. Cuối năm, các NHTM tự xác định kết quả kinh doanh của mình trên cơ sở tập hợp thu chi của các chi nhánh trong cùng hệ thống. Các chi nhánh trong hệ thống thì hàng tháng xác định lỗ lãi mang tính chất tạm tính. Phần chênh lệch giữa thu và chi của chi nhánh phản ánh kết quả kinh doanh của hoạt động chi nhánh đó. Sau khi thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, nó được dùng để trích lập các quỹ và chi lương cho nhân viên.
Đối với hoạt động ngân hàng thì bộ phận kiểm soát rất được chú ý, nó làm giảm thiều rủi ro xảy ra. Vì vậy ngoài hệ thống kiểm soát nội bộ thì các báo cáo tài chính thì các báo cáo tài chính của các ngân hàng cần phải được kiểm toán độc lập. Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính của NHTM phải được gửi cho cơ quan tài chính nhà nước và NHNN.
1.2.2. Các khoản thu nhập, chi phí của NHTM
1.2.2.1 Các khoản thu nhập
a Thu từ hoạt động tín dụng
Đối với các ngân hàng truyền thống tỷ trọng thu từ hoạt động tín dụng chiếm tới 70% trong tổng thu của ngân hàng. Còn ở các ngân hàng hiện đại thì tỷ trọng này giảm đi và thông thường chỉ chiếm khoảng 40- 50%. Số tiền thu được phụ thuộc vào các yếu tố như: quy mô tín dụng, các hình thức tín dụng, lãi suất và chất lượng của hợp đồng tín dụng. Thông thường các NHTM có các khoản thu từ hoạt động tín dụng như sau:
wThu lãi cho vay
Trong hoạt động tín dụng, nguồn thu từ cho vay là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng. Đây chính là thu nhập mà ngân hàng nhận được và là chi phí mà người nhận vốn phải trả để nhận được quyền sử dụng vốn. Mức lãi suất phải trả tuỳ thuộc vào chính sách tiền tệ quốc gia và tuỳ theo chiến lược của từng ngân hàng và thời hạn của khoản vay. Thông thường thì thời hạn của khoản vay càng dài thì mức lãi suất cho vay càng cao vì trong thời gian dài mức biến động kinh tế cũng lớn.
wThu lãi tiền gửi
Nghiệp vụ NHTM gửi tiền lẫn nhau và gửi tại NHTW mục đích không phải để hưởng lãi mà để đáp ứng yêu cầu quản lý của HNTW với các NHTM là yêu cầu thanh toán giữa các ngân hàng. Nguồn thu này thường là nhỏ và lãi suất rất thấp , đối với DTBB ngân hàng gửi tại NHTW thì không được hưởng lãi suất.
wThu từ hoạt động cho thuê tài chính, thu lãi chứng khoán, lãi bảo lãnh
Cho thuê tài chính là hình thức ngân hàng tạo điều kiện về vốn cho những doanh nghiệp thiếu vốn. Đổi lại ngân hàng sẽ thu được phí từ hoạt động ._.này. NHTM tham gia vào thị trường chứng khoán vừa với tư cách là người tạo thị trường vừa với tư cách của người kinh doanh, đầu tư chứng khoán. ở cả hai nghiệp vụ này NHTM đều có nguồn thu. Khi sản xuất hàng hoá phát triển thì việc mua bán không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia nữa mà nó trở thành mua bán toàn cầu. NHTM có uy tín cao trong thị trường, có chi nhánh chân rết ở hầu hết các quốc gia thường đứng ra bảo lãnh để quá trình mua bán giữa các chủ thể kinh tế được diễn ra. Khi đứng ra bảo lãnh ngân hàng nhận được phí bảo lãnh. ở những nước có nền kinh tế phát triển, các nghiệp vụ bảo lãnh đầu tư kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài chính rất phát triển vì thế mà nguồn thu của nó cũng lớn hơn so với ở những nước đang phát triển.
b Thu từ hoạt động dịch vụ
Hoạt động dịch vụ của ngân hàng bao gồm: dịch vụ thanh toán, dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ ngân quỹ, uỷ thác, bảo lãnh, nghiệp vụ tư vấn, dịch vụ bảo quản tài sản. Tất cả các hoạt động này đều đem lại khoản thu cho ngân hàng. Càng ngày tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động này càng được nâng lên trong tổng thu của ngân hàng. Doanh thu từ hoạt động dịch vụ chủ yếu phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu dịch vụ ngân hàng cung cấp, chất lượng dịch vụ đó và mức phí mà ngân hàng ấn định có hợp lý hay không.
c Thu từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc kim loại quý, đá quý
Từ hoạt động mua bán ngoại tệ vàng bạc kim loại quý đá quý ngân hàng thu được phần chênh lệch giữa số tiền bỏ ra và số tiền thu về. Do giá cả loại hàng hoá này thay đổi thường xuyên nên ngân hàng thường bị thua lỗ khi tham gia mua bán nó. Tuy nhiên, do yêu cầu của khách hàng mà đôi khi biết được không có lãi nhưng ngân hàng vẫn phải thực hiện mua bán.
d Thu từ hoạt động kinh doanh khác
Thu từ hoạt động kinh doanh khác gồm thu lãi mua bán chứng khoán, thu chênh lệch mua bán nợ và các loại kinh doanh khác. Khoản thu này không lớn nhưng nó góp phần làm tăng thu cho hoạt động ngân hàng.
e Thu lãi mua cổ phần liên doanh liên kết
Mặc dù ở các nước khác nhau thì pháp luật quy định khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất là giới hạn hoạt động này ở một mức độ. Lý do là để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng vu hoạt động này thường gặp nhiều rủi ro, có thể ngân hàng sẽ bị mất vốn. Thu từ liên doanh liên kết, lãi cổ phần không phải là nguồn thu chủ yếu song thường các NHTM vẫn tham gia để đa dạng hoá danh mục đầu tư và tối đa lợi nhuận.
f Thu khác
Tất cả những khoản mà ngân hàng thu được nhưng không thuộc các khoản thu đã kể trên trên thì được để vào nhóm thu khác hay thu bất thường. Nó có thể là thu phạt quá hạn, thu từ hoàn nhập dự phòng đã trích ... Thu khác không phải là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng song người quản lý cần phải quan tâm xem xét khoản thu này. Thu khác lớn chưa hẳn đã tốt và thu khác nhỏ chưa hẳn đã là xấu vì nếu thu khác lớn là do hoạt động quản lý yếu kém nên không quản lý được nguồn thu thì rõ ràng đây là không tốt. Vì vậy, trong các nguồn thu của ngân hàng thì người lãnh đạo phải đặc biệt chú ý đến nguồn thu này.
1.2.2.2 Các khoản chi phí của ngân hàng
Để có được các khoản thu thì ngân hàng phải đầu tư, đầu tư làm phát sinh chi phí cho ngân hàng. So với các khoản thu thì các khoản mục các khoản chi còn nhiều hơn nhiều vì ngân hàng có rất nhiều các khoản chi. Cụ thể như sau:
a Chi phí cho hoạt động tín dụng
Khoản chi này bao gồm:
wChi trả lãi tiền gửi
wChi trả lãi tiền vay
wChi trả lãi phát hành GTCG
wCác chi phí khác đến huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng
Có thể nói đây là khoản chi lớn nhất của ngân hàng vì trong nguồn vốn của ngân hàng, vốn huy động chiếm từ 70-80%. Nguồn vốn huy động tỷ lệ thuận chi phí huy động vốn, và không thể giảm bớt được vì đây là khoản chi thường xuyên và tất yếu của ngân hàng. Nếu muốn giảm chi phí huy động vốn trong điều kiện mức chênh lệch lãi suất giữa các ngân hàng không đáng kể thì chỉ còn cách giảm vốn huy động, mà nếu điều đó xảy ra thì ngân hàng sẽ không đủ nguồn vốn để kinh doanh. Thiếu vốn kinh doanh ngân hàng bỏ qua những cơ hội kinh doanh tốt và không thể tối đa hoá lợi nhuận được. Vì thế mà đây là khoản chi cần thiết và thường xuyên. Quy mô chi phí này về cơ bản phụ thuộc vào hai yếu tố: Thứ nhất là quy mô cơ cấu tính chất nguồn huy động. Thứ hai là mức lãi suất, các yếu tố có liên quan đến uy tín của ngân hàng. Trong các mục chi phí đã kể trên thì ngân hàng nên giảm mục tiền vay để từ đó giảm chi phí tiền vay vì mức lãi suất này cao hơn nhiều so với chi lãi suất tiền gửi.
b Chi về hoạt động dịch vụ
Đó là các khoản chi phí cho hoạt động thanh toán lệ phí tham gia hệ thống thanh toán, chi liên quan đến hoạt động đaị lý, chi hoa hồng, chi phí cho hoạt động ngân quỹ, vận chuyển bốc xếp đóng gói tiền. Các ngân hàng hiện nay nhận thấy rằng nhu cầu về dịch vụ của nền kinh tế rất lớn và hoạt động này ít rủi ro hơn nhiều hơn so với hoạt động tín dụng cho nên họ có xu hướng mở rộng dịch vụ này. Chất lượng dịch vụ được nâng lên rõ rệt thể hiện rõ nhất ở dịch vụ thanh toán: thời gian thanh toán nhanh, an toàn hơn, tiện lợi hơn, có nhiều loại hình thanh toán hơn: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán thẻ ... Mặc dù chi phí cho hoạt động dịch vụ có tăng nhưng mức tăng của chi phí vẫn nhỏ hơn mức tăng của doanh thu. Vì vậy đây là một mảnh đất màu mỡ mà các NHTM khai thác.
c Chi phí cho hoạt động kinh doanh ngoại hối
Đó là các khoản chi liên quan đến việc mua bán ngoại tệ, chế tác kim loại quý đá quý. Khoản chi này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí. Đối với các NHTM Việt Nam đây là khoản chi không đáng kể và rất mới.
d Chi nộp thuế, phí, lệ phí thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN
Cụ thể là: chi nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, thuế đất, phí chước bạ, lệ phí cho NSNN. Đây là khoản chi bắt buộc của các NHTM và gần như cố định.
e Chi hoạt kinh doanh khác
Đây không phải là khoản chi lớn, không phải là khoản chi thường xuyên nhưng không thể không có đối với bất kỳ NHTM nào. Đó có thể là khoản chi để cho:
+Chi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ vàng bạc.
+Chi cho hoạt động mua bán chứng khoán
+Chi cho nghiệp vụ cho thuê tài chính
+Chi cho việc mua bán nợ
+Chi cho hoạt động mua bán thanh lý tài sản ...
Tuỳ từng NHTM mà khoản chi này lớn hay nhỏ, và điều quan trọng không phải là quy mô mà là việc quản lý nó ra sao vì khoản chi này rất phức tạp.
f Chi cho nhân viên
Khoản chi này gồm: Chi lương, chi phụ cấp, trợ cấp cho cán bộ ngân hàng. Đấy là khoản chi chủ yếu trong chi phí cho nhân viên, ngoài ra còn chi phí cho công tác xã hội như: BHXH,BHYT, trang phục, chi cho nhân viên là khoản chi phí tất yếu và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của ngân hàng. Nhân viên là người trực tiếp tạo bộ mặt cho ngân hàng nên khi có chính sách chi cho nhân viên hợp lý sẽ tạo động lực thúc đẩy người lao động hết mình với công việc hơn.
g Chi tài sản
Chi tài sản gồm: Chi khấu hao TSCĐ; sửa chữa lớn TSCĐ; chi cho tài sản khác. Ngành ngân hàng là một ngành ít phải đầu tư TSCĐ so với các ngành sản xuất vì sản phẩm ngân hàng là sản phẩm dịch vụ. TSCĐ của ngành chủ yếu là nhà làm việc và hệ thống máy tính, két sắt. Đây là khoản chi phí thường xuyên của ngân hàng vì quá trình hoạt động TSCĐ bị hao mòn đi. Để có thể tiếp tục kinh doanh và bảo tồn được TSCĐ trong kỳ kinh doanh tiếp theo các NHTM cần phải tiến hành trích khấu hao cho nó. Tỷ lệ trích khấu hao do pháp luật quy định, các NHTM chỉ được trích khấu hao ở một tỷ lệ cho phép.
h Chi cho quản lý và công cụ
Khoản chi này dùng để bù đắp cho người đứng ra quản lý ngân hàng và các công cụ, vật liệu cần thiết trong quá trình hoạt động như giấy tờ, vật liệu in văn phòng ... Giá trị của mỗi lần chi nhỏ nhưng thường xuyên vì thế mà người có trách nhiệm dễ lạm dụng khi chi.
i Chi bảo hiểm tiền gửi và chi cho dự phòng
Đây là khoản chi bắt buộc và định kỳ của các ngân hàng. Mục đích của khoản chi này là đảm bảo an toàn cho hoạt động vủa ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi an tâm hơn vì khi ngân hàng không còn khả năng thanh toán tiền gốc và lãi thì khoản tiền gửi nguồn này sẽ được sử dụng. Còn chi dự phòng là để tạo quỹ dự phòng, quỹ này có nhiệm vụ bù đắp những tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro thật sự sảy ra. Theo định kỳ NHTM sẽ đánh giá mức độ rủi ro của từng khoản mục sau đó xác định dự phòng chung của toàn ngân hàng, nếu dự phòng phải trích lớn hơn dự phòng đã trích thì ngân hàng sẽ tiến hành trích thêm, còn nếu nhỏ hơn thì ngân hàng sẽ hoàn nhập dự phòng.
Các khoản chi của ngân hàng được tổng kết trên các mục chủ yếu nhưng trên thực tế hoạt động các khoản chi rất phức tạp. Như chúng ta đã biết hoạt động của ngân hàng có nhiều nghiệp vụ song các nghiệp vụ có liên quan đến nhau vì vậy mà nhà ngân hàng không thể tính toán được chi phí cho hoạt động kinh doanh ngoại hối là bao nhiêu, chi cho phát hành GTCG là bao nhiêu .. Điều này đã gây khó khăn cho việc tính toán giá cả của sản phẩm dịch vụ. Nếu nhà quản lý định giá sản phẩm ngân hàng thấp thì hoạt động ngân hàng không có lãi hoặc lãi rất thấp, nếu định giá cao thì sẽ không có khách hàng. Yêu cầu đặt ra là phải quản trị được các khoản chi phí để tính toán giá sản phẩm hợp lý.
Mặc dù các khoản thu nhập được tổng kết trên sáu mục trên và chi phí được tổng kết trên chín mục trên nhưng trên thực tế hoạt động thu chi của ngân hàng rất đa dạng và phức tạp. Các luồng thu và chi liên tục diễn ra chứ không giống như các ngành kinh doanh khác, do đó sắc xuất dẫn đến sai sót rất lớn. Vì vậy muốn tối đa hoá lợi nhuận hoạt động kinh doanh ngân hàng thì nhà quản lý phải quản trị tốt khoản thu, chi. Quản trị tốt các khoản thu và chi không đơn thuần là phản ánh đầy đủ chính xác kịp thời sự vận động của tiền mà hơn thế phải biết tìm ra mọi biện pháp để tăng thu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu qủa hoạt động kinh doanh.
1.2.3. Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong NHTM
Lợi nhuận trong NHTM được xác định bằng tổng thu trừ tổng chi. Niên độ kế toán bắt đầu từ 01/01 đến ngày 31/12 của năm. Tất cả các khoản thu chi( kể cả dự thu dự chi hay thực thu thực chi) đều được hạch toán hết trong năm. Các NHTM chỉ xác định kết quả kinh doanh một lần trong năm thường là vào thời điểm 31/12 của năm đó. Mỗi NHTM là một đơn vị hạch toán độc lập các chi nhánh xác định kết quả kinh doanh theo mức khoán đã nhận. Tuy nhiên để có thể duy trì được hoạt động kinh doanh trong năm thì hàng quý NHTM tạm tính kết quả hoạt động kinh doanh theo kế hoạch lợi nhuận quý. Cuối năm sau khi xác định kết quả kinh doanh thực tế sẽ thanh toán phần tạm chi lương và tạm trích quỹ.
Việc phân phối lợi nhuận theo quy định của Việt Nam sẽ như sau:
Nộp thuế thu nhập 28%
* Đối với các NHTM nhà nước
1Trích lập 5% lợi nhuận sau thuế vào quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, mức tối đa của quỹ này không được vượt mức vốn điều lệ thực của NHTM.
2Bù lỗ năm trước( nếu có)
3Nộp tiền thu vể sử dụng vốn NSNN
4Trừ các khoản tiền phạt của ngân hàng đó
5Sau khi trừ các khoản trên lợi nhuận còn lại được coi là 100% sẽ được phân phối tiếp vào các quỹ: Quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng phúc lợi, nếu còn lợi nhuận thì sẽ đưa vào quỹ phát triển nghiệp vụ.
* Đối với NHTM cổ phần và TCTD khác
1Lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ (5%), bù lỗ năm trước (nếu có), nộp các khoản phạt vi phạm
2Lợi nhuận còn lại (coi như 100% ) được phân phối vào các quỹ : quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp mất việc làm, số còn lại do NHTM cổ phần tự quyết định.
Do mục đích và nội dung kinh tế của các loại quỹ khác nhau nên trong quá trình quản lý và sử dụng quỹ phải đảm bảo các nguyên tắc sử dụng quỹ theo quy định.
Nhân tố ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của NHTM
Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố, để thấy rõ sự tác động đó ta chia ra các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1.3.1 Các nhân tố bên trong
1.3.1.1 Nguồn lực tài chính
wYếu tố thứ nhất: quy mô vốn tự có. Quy mô của vốn tự có lớn thì trước hết ngân hàng sẽ có điều kiện để mở rộng quy mô cho vay, quy mô vốn huy động, và một số hoạt động kinh doanh khác. Khi đó ngân hàng sẽ tăng được doanh thu cho mình, đây chính là điều kiện cần để ngân hàng tăng thêm lợi nhuận. Hơn nữa, quy mô VTC còn phản ánh uy tín của ngân hàng, một khi ngân hàng đã xây dựng được uy tín trên thị trường thì sẽ có nhiều khách hàng đến quan hệ với ngân hàng. Thông qua đó ngân hàng sẽ tăng thu và nâng cao được kết quả kinh doanh.
wYếu tố thứ hai: là khả năng huy động vốn của ngân hàng. Vốn huy động chính là nguồn mà ngân hàng sẽ sử dụng để kinh doanh. Ngân hàng trong quá trình huy động vốn thì phải xem xét mối quan hệ giữa quy mô với tính ổn định của nó. Nếu quy mô vốn lớn nhưng nguồn vốn không ổn định thì ngân hàng không thể tài trợ cho những dự án sinh lời lớn được hoặc dễ dẫn đến tình trạng mất cân bằng giữa tài sản Có và tài sản Nợ. Đối với những nguồn vốn có tính ổn định cao thì chi phí thường là lớn. Vì vậy mà ngân hàng cần phải xem xét thêm mối tương quan giữa quy mô và mặt bằng lãi suất trên thị trường.
wYếu tố thứ ba là chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng hiện nay là tỷ lệ NQH. Như chúng ta đã biết nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ sinh lời chiếm tỷ trọng cao của ngân hàng đồng thời rủi ro mà nó mang lại cũng rất lớn. Ngân hàng rất dễ bị mất vốn khi không quản lý tốt khoản cho vay của mình hay nói cách khác là duy trì tỷ lệ NQH ở mức cao. Tỷ lệ NQH có thể chấp nhận được là =< 1%. ở Việt Nam tỷ lệ NQH của các NHTM quốc doanh còn khá cao, từ 4- 5%. Để có thể có kết quả kinh doanh tốt thì các NHTM Việt Nam nên xử lý triệt để khoản nợ vay xấu này để có thể làm sạch bảng cân đối tài sản của mình.
1.3.1.2 Nguồn nhân lực
wNguồn nhân lực: bao gồm những nhà quản trị và đội ngũ người lao động. Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng bởi vì họ là những chủ thể trực tiếp hay gián tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh. Chất lượng của những nhà quản trị được đánh giá trên các phương diện sau: kỹ năng tư duy nhận thức, kỹ năng quan hệ, kỹ năng kỹ thuật. Đây là những phẩm chất mà quản trị viên cần có để đảm bảo thực hiện tốt công việc của mình. ở mỗi cấp độ quản lí khác nhau thì mức độ đòi hỏi các kỹ năng trên cũng khác nhau và nó ảnh hưởng đến chất lượng quản trị các hoạt động của ngân hàng. Khi đó nó gián tiếp tác động đến tình hình thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng.
wNhân viên ngân hàng: là người trực tiếp tác động vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ học vấn, đạo đức nghề nghiệp và mức độ trung thành của nhân viên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công việc và thông qua đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Vì vậy trong quá trình hoạt động ban lãnh đạo luôn luôn chú trọng đến công tác đào tạo và đào tạo lại cho nhân viên, đồng thời tạo điều kiện thăng tiến tốt để mọi người gắn bó với công việc và doanh nghiệp họ đang làm.
1.3.1.3 Trình độ tổ chức
Trình độ tổ chức thể hiện ở hiệu quả bộ máy tổ chức và hệ thống thông tin quản lí của ngân hàng.
wVề hiệu quả của bộ máy tổ chức: Một bộ máy được coi là hữu hiệu khi số lượng nhân viên là ít nhất nhưng các quyết định đưa xuống được triển khai nhanh nhất và sự phối kết hợp của các bộ phận tốt nhất. Ngân hàng nào xây dựng cho mình được bộ máy tổ chức hữu hiệu thì ngân hàng đó sẽ không bị bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh tốt và như thế hiệu quả hoạt động kinh doanh càng cao.
wVề hệ thống quản lý thông tin: Người ta đánh giá hệ thống quản lý thông tin của ngân hàng thông qua khả năng thu thập, phân tích đánh giá các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh, đánh giá đối thủ cạnh tranh và khách hàng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. ở Việt Nam ngân hàng nào cũng có hệ thống quản lý thông tin nhưng khả năng cập nhật thông tin là yếu cho nên rủi ro trong hoạt động kinh doanh còn cao.
1.3.1.4 Phải đánh giá cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc, trình độ công nghệ, mạng lưới chi nhánh của ngân hàng.
Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc, trình độ công nghệ được gọi chung là cơ sở vật chất kỹ thuật có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi ngân hàng có cơ sở vật chất tốt thì sẽ tạo điều kiện cho nhân viên hoàn thành tốt công việc được giao. ở những trụ sở chính thì ngân hàng còn phải xem các chi nhánh hoạt động có hiệu quả không, nếu không thì nên thu gọn các chi nhánh thành phòng giao dịch để giảm chi phí. Thông qua những hoạt động đó thì ngân hàng có thể tăng thu nhập giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Các nhân tố bên ngoài
Ngân hàng cũng giống như các đơn vị kinh tế khác, khi tiến hành hoạt động kinh doanh thì không thể tách biệt với môi trường kinh doanh bên ngoài. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng gồm có môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh tế vi mô. Cụ thể trong môi trường kinh tế vĩ mô gồm có yếu tố môi trường kinh tế, môi trường chính trị và pháp luật, môi trường công nghệ, môi trường quốc tế. Môi trường kinh tế vi mô bao gồm các nhân tố như đối tượng cạnh tranh hiện tại, đối tượng cạnh tranh tiềm ẩn, khách hàng tiêu thụ sản phẩm đầu ra, khách hàng cung cấp sản phẩm đầu vào, tốc độ tăng trưởng chung của ngành, sự khác biệt hoá sản phẩm v.v ... Các nhân tố bên ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi hay cản trở sự phát triển của đơn vị kinh doanh và qua đó tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị đó.
Chương II
Thực trạng hoạt động thu, chi tài chính và xác định kết quả kinh doanh của Habubank- Chi nhánh Thanh Quan
2.1 Một số nét về Habubank và Chi nhánh Thanh Quan
2.1.1 Một số nét về Habubank
Habubank được ra đời theo quyết định 6719-QĐ/UB ngày 02/01/1989 của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Đây là NHTM cổ phần với 100% vốn do các cổ đông trong nước đóng góp. Tiền thân của nó là Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và một số các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Mục đích ban đầu của ngân hàng là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà ở. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng đã đóng góp rất nhiều cho kiến trúc đô thị thành phố.
Tháng 10 năm 1992 thống đốc NHNN cho phép thực hiện thêm một số hoạt động: kinh doanh ngoại tệ, tiền gửi tiết kiệm, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1995 đánh dấu một bước chuyển lớn trong mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Ngoài hoạt động hỗ trợ xây dựng nhà ở thì ngân hàng còn chú trọng mở rộng các hoạt động nhằm vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân và các tổ chức khác. Thêm vào đó là cơ cấu cổ đông cũng thay đổi, có nhiều cá nhân doanh nghiệp tư nhân lẫn quốc doanh tham gia đầu tư đóng góp cổ phần. Khi mới thành lập vốn điều lệ của ngân hàng chỉ có 5 tỷ, với 16 cán bộ. Sau hơn 15 năm hoạt động và trưởng thành vốn điều lệ đã tăng lên đến 200 tỷ VND và số cán bộ là 217 người, trong đó trên 70% có trình độ đại học và trên đại học. Đối với địa bàn hoạt động, hiện nay Habubank có trụ sở chính đặt tại B7 Giảng Võ- Hà Nội và tám chi nhánh ở những địa bàn kinh tế trọng điểm bao gồm: chi nhánh Thanh Quan, chi nhánh Hoàng Quốc Việt, chi nhánh Hàm Long, chi nhánh Xuân Thuỷ, chi nhánh Quảng Ninh, phòng giao dịch số 1 Quảng Ninh, chi nhánh Bắc Ninh, chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy số lượng các chi nhánh, phòng giao dịch không nhiều song Habubank có mối quan hệ với hàng nghìn các đại lý trong và ngoài nước. Trong bốn năm qua ngân hàng luôn được đánh giá là ngân hàng loại A. Có được thành công như vậy là do ngân hàng đã xây dựng được chiến lược kinh doanh hơp lý và ngân hàng luôn coi sự lớn mạnh của khách hàng là sự lớn mạnh của ngân hàng. Mục tiêu mà ngân hàng đặt trong thời gian tới là trở thành ngân hàng đa năng, hiện đại, kinh doanh an toàn hiệu quả và trở thành một trong những ngân hàng tốt nhất Việt Nam.
2.1.2 Một số nét về chi nhánh Thanh Quan.
2.1.2.1 Môi trường kinh doanh của chi nhánh Thanh Quan
Chi nhánh Thanh Quan được đặt tại số 57 Hàng Cót- Quận Hoàn Kiếm-Hà Nội. Nằm ở ngay giữa trung tâm thành phố Hà Nội, trung tâm kinh tế văn hoá chính trị của cả nước, chi nhánh đã có lợi thế về địa lý rất lớn. Trước hết, đó là những thuận lợi do cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng nói chung của thành phố và trình độ nhận thức của đại đa số nhân dân nơi đây cao hơn hẳn so với các nơi khác. Điều này khiến cho hoạt động thu hút vốn nguồn nhân lực có trình độ cao dễ dàng hơn là những chi nhánh khác. Thứ hai, với số lượng dân cư đông đúc như Hà Nội thì nhu cầu tiết kiệm cũng như tiền vay là rất lớn. Đó là chưa kể đến số lượng đông đảo các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn này. Có thể nói, Hà Nội là một trong các thành phố tập trung nhiều doanh nghiệp nhất mà đây lại là đối tượng hút vốn lớn nhất của nền kinh tế. Ta có thể dễ dàng thấy rằng đây chính là điều kiện vô cùng thuận lợi để chi nhánh Thanh Quan nói riêng và Habubank mở rộng hoạt động tín dụng, dịch vụ ngân hàng, kinh doanh ngoại hối ...
Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì điều kiện khách quan trên cũng tạo ra không ít khó khăn cho chi nhánh. Hà Nội cũng là nơi tập trung nhiều ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng nhất, cho nên mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng rất cao. Chi nhánh không chỉ phải cạnh tranh với các chi nhánh khác cùng hệ thống hoạt động trên cùng địa bàn mà còn phải cạnh tranh gay gắt với các chi nhánh của các NHTM trong nước và chi nhánh của các NHTM nước ngoài. Habubank nói chung và chi nhánh Thanh Quan nói riêng không có lợi thế về vốn như các NHTM nhà nước, cũng không có lợi thế về công nghệ như các NHTM nước ngoài và ngân hàng liên doanh cho nên trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay ngân hàng đã phải nỗ lực rất nhiều. Từ một phòng giao dịch nhỏ bé với số lượng nhân viên và cán bộ quản lý vẻn vẹn chỉ có sáu người, nay đã được nâng cấp thành chi nhánh Thanh Quan với số lượng là mười bảy người. Điều này chứng tỏ sự lớn mạnh dần lên của chi nhánh nói riêng và của Habubank nói chung.
Ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào khi hoạt động trên địa bàn một quốc gia thì đều phải chịu sự quản lý của pháp luật của quốc gia đó. Như vậy pháp luật đóng một vai trò rất quan trọng và trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của các chủ thể kinh doanh.Trước đây hệ thống pháp luật của chúng ta được đánh giá là lỏng lẻo, chồng chéo. Nhưng hiện nay do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống này cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Hàng loạt các Nghị định, Quyết định đã được ra đời để sửa đổi bổ sung các văn bản cũ đã lỗi thời lạc hậu, và nội dung của những văn bản này cũng đã cụ thể hơn, dễ áp dụng vào thực tế hơn. Chính vì thế mà không chỉ riêng chi nhánh Thanh Quan mà tất cả các chi nhánh ngân hàng khác đều được hoạt động trong môi trường pháp luật tốt.
Nói chung môi trường hoạt động của chi nhánh Thanh Quan vừa có những thuận lợi lại vừa hàm chữa những khó khăn. Vì vậy mà bản thân chi nhánh cần phải phân tích rõ môi trường kinh doanh để nắm bắt được cơ hội và vượt qua thách thức.
2.1.2.2 Chức năng của chi nhánh Thanh Quan
Chi nhánh Thanh Quan là một đơn vị kinh doanh tiền tệ trực thuộc NHTM cổ phần nhà Hà Nội, là một đơn vị nhận khoán tài chính của ngân hàng cấp chủ quản. Nó thực hiện tất cả các chức năng của một NHTM, trong đó chức năng huy động vốn và cấp tín dụng cho nền kinh tế là chức năng chủ yếu, chức năng làm trung gian thanh toán giữa các ngân hàng được xem là chức năng quan trọng, còn chức năng làm cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trương quốc tế chủ yếu được thực hiện ở hội sở chính, chi nhánh Thanh Quan thực hiện rất hạn chế.
Cụ thể ở chức năng thu hút tiền gửi và tín dụng đối với nền kinh tế, chi nhánh thực hiện việc nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm các kỳ hạn của tất cả các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, thực hiện cho vay theo các kỳ hạn khác nhau cho tất cả các thành phần kinh tế. ở chức năng trung gian thanh toán chi nhánh thực hiện việc chuyển tiền điện tử, thu chi tiền mặt, chiết khấu GTCG ... Ngoài ra, chi nhánh phải thực hiện nhiệm vụ hạch toán báo cáo tình hình thu chi lên hội sở chính, sau đó sẽ thực hiện phân phối lợi nhuận theo quy định.
2.1.2.3 Mô hình tổ chức
Giám đốc chi nhánh
P.Giám đốc chi nhánh
kiêm kế toán trưởng
Phòng kinh doanh
Phòng
tín
dụng
Phòng
thanh toán quốc
tế
Phòng bảo vệ
Phòng
kế
toán
Phòng ngân quỹ
Phòng hành chính
Chi nhánh Thanh Quan hiện có mười bảy người trong đó có một giám đốc chi nhánh, một là phó giám đốc chi nhánh kiêm kế toán trưởng, hai người làm bảo vệ còn lại được phân bổ vào phòng hành chính, phòng kế toán ngân quỹ, phòng kinh doanh ngoại hối và phòng tín dụng. Mỗi bộ phận được phân công những nhiệm vụ cụ thể để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chung của chi nhánh. Cụ thể các bộ phận được phân công như sau:
wPhòng kế toán- ngân quỹ.
+Quản lý và xây dựng các quỹ chuyên dùng theo quy định của pháp luật và cấp chủ quản.
+Xây dựng và thực hiện kế hoạch tài chính quyết toán thu chi.
+Thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
+Quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm về cơ sở trang thiết bị đã được cấp.
+Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong nước.
+Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao cho.
wPhòng thanh toán quốc tê.
Thực hiện công tác thanh toán nước ngoài của chi nhánh đảm bảo quá trình thanh toán nhanh, an toàn và chính xác.
wPhòng tín dụng
+Quản lý hồ sơ khách hàng vay vốn kinh doanh và trực tiếp cho vay vốn.
+Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, lựa chọn biện pháp cho vay có hiệu quả và an toàn.
+Tiếp nhận và thực hiện các chương trình dự án thuộc nguồn vốn trong nước và quốc tế, trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác Chính phủ, tổ chức và cá nhân.
+Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn,tìm nguyên nhân và có biện pháp giúp lãnh đạo chi nhánh quản lý tốt hoạt động tín dụng.
+Tổng hợp báo cáo, kiểm tra chuyên đề theo quy định.
wPhòng hành chính.
+Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh.
+Lưu trữ văn bản có liên quan đến ngân hàng, quản lý con dấu, thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa TSCĐ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên.
+Xây dựng chương trình công tác tháng, quý của chi nhánh. thường xuyên đôn đốc việc thực hiện các chương trình đã được giám đốc chi nhánh phê duyệt.
wPhòng bảo vệ: Đảm bảo an toàn về tài sản cho chi nhánh cũng như tài sản của khách hàng.
wPhòng kiểm soát
+Kiểm tra việc chấp hành quy trình nghiệp vụ kinh doanh, công tác điều hành của chi nhánh.
+Kiểm tra độ chính xác của báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán, việc tuân thủ nguyên tắc và chế độ của nhà nước.
1.2.2. Cơ chế tài chính của NHTM cổ phần Nhà Hà Nội
Habubank là HNTM cổ phần đầu tiên của Việt Nam với 100% vốn cổ phần do cổ đông trong nước nắm giữ. Habubank được thành lập theo quyết định số 6719-QĐ/ UB ngày 02/01/1989 của uỷ ban nhân thành phố Hà Nội. Habubank được xác định là pháp nhân kinh tế, được tự chủ về tài chính, chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình và thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN và các quy định của pháp luật. Cũng giống như các ngân hàng khác, Habubank thực hiện điều hoà vốn trong toàn hệ thống theo đó các chi nhánh thiếu vốn sẽ nhận vốn điều chuyển từ những chi nhánh thừa vốn và phải trả lãi suất điều hoà và nơi thừa vốn sẽ nhận được lãi suất điều hoà. Trụ sở chính của ngân hàng sẽ đứng ra đóng vai trò là trung tâm điều hoà vốn và thu phí điều hoà. Mức phí điều hoà vốn và lãi suất điều hoà được tổng giám đốc quy định trong từng thời kỳ, còn cách tính lãi suất thì dựa vào số dư từng tài khoản chi tiết theo phương pháp tích số như tính lãi tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng.
Niên độ kế toán bắt đầu từ 01/01 đến 31/12 của năm và các khoản thu chi được hạch toán hết trong năm kể cả dự thu, dự chi. Cấp chủ quản ( hội sở chính) chịu trách nhiệm hoạt động tài chính, kết quả kinh doanh của toàn hệ thống còn các đơn vị thành viên hạch toán nội bộ, chịu trách nhiệm về hoạt động tài chính và kết quả kinh doanh của đơn vị mình. Ngân hàng đã thực hiện theo cơ chế khoán tài chính đối với các đơn vị thành viên. Vào ngày 31 hàng tháng các đơn vị thành viên tổng hợp các khoản thu: thu từ hoạt động tín dụng, thu từ dịch vụ, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối ... và tổng hợp các khoản chi như: chi phí tiền gửi , chi phí đi vay vốn, chi cho hoạt động dịch vụ, chi cho hoạt động thanh toán quốc tế, chi lương ... sau đó kế toán lập một bảng báo gửi lên cấp chủ quản. Trên cơ sở đó cấp chủ quản sẽ xác định lỗ lãi hàng tháng cho các đơn vị, nếu hoạt động lãi sẽ có thưởng, còn nếu hoạt động lỗ thì sẽ theo dõi xem đó là nguyên nhân khách quan hay chủ quan, biện pháp xử lý như thế nào. Nhưng thông thường thì hoạt động kinh doanh của Habubank là có lãi vì hoạt động quản lý ở đây rất chặt chẽ. Vào đầu các quý thì các đơn vị trực thuộc phải gửi kế hoạch về nguồn vốn, sử dụng vốn của đơn vị mình, kế hoạch này phải chi tiết tới từng khoản mục nhỏ. Đây cũng là căn cứ để cuối quý ngân hàng đánh giá chung hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Lợi nhuận của ngân hàng cũng được xác định bằng tổng thu trừ đi tổng chi. Sau khi trích 28% để nộp thuế ngân hàng sẽ phân phối và sử dụng lợi nhuận theo quy định của pháp luật, tức là trích lập vào các quỹ và sử dụng các quỹ đúng theo mục đích.
2.2 Tình hình kinh doanh của chi nhánh Thanh Quan.
2.2.1 Về hoạt động nguồn vốn
Nguồn vốn là một yếu tố vô cung quan trọng đối với mọi ngân hàng vì nếu không có nguồn vốn thì ngân hàng không thể tiến hành hoạt động kinh doanh được. Ngoài ra quy mô của nguồn vốn còn quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh. Chính vì lẽ đó mà bất kỳ một ngân hàng nào cũng đều tìm mọi cách để cho nguồn vốn mình tạo được là lớn nhất có thể. NHCP Nhà Hà Nội- Chi nhánh Thanh Quan cũng nằm trong số đó. Trong hơn mười lăm năm qua, ngân hàng không ngừng làm gia tăng nguồn vốn của mình bằng nhiều biện pháp. Riêng bốn năm qua tình hình nguồn vốn được tổng kết qua bảng 1.
Nhìn vào bảng trên ta thấy công tác huy động vốn của Chi nhánh Thanh Quan luôn ở trạng thái tích cực vì nguồn vốn liên tục tăng qua các năm đặc biệt là trong ba năm gần đây nhất.
Bảng 1: Tìn._. phép nhưng trong thời gian tới thì thông tin về khách hàng cũng như hệ thống sổ cái sẽ được chuyển tải tức thời về trụ sở chính.
ôVề quỹ thu nhập: Quỹ thu nhập phản ánh kết quả kinh doanh của chi nhánh và là cơ sở xác định quỹ lương cho cán bộ công nhân viên trong ngân hàng. Vì vậy khi quỹ lương càng tăng thì đời sống của từng thành viên cũng được cải thiện. Đây được coi là động lực to lớn tác động đến thái độ làm việc của nhân viên. Khi chi nhánh đem lại cho họ một mức lương cao cùng cơ hội thăng tiến tốt thì dễ làm nhân viên gắn bó với ngân hàng hơn. Mục tiêu của chi nhánh là nâng tốc độ tăng trưởng của quỹ lương lên 20 %.
Trên đây là phương hướng kế hoạch của chi nhánh trong thời gian tới, để thực hiện được kế hoạch đó trong chi nhánh cần phải tìm ra các giải pháp cụ thể. Trong quá trình được học tập tại Học viện ngân hàng và qua thời gian tìm hiểu thực tế tại ngân hàng em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau đây
3.2 Giải pháp tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí
3.2.1 Giải pháp góp phần tăng thu nhập
v Mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng
Nhìn vào bảng thu nhập của ngân hàng thì thu từ hoạt động tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn nhất, nó quyết định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Dựa vào tình hình nền kinh tế Việt Nam thì hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định đến lợi nhuận của ngân hàng trong những năm tới. Để có thể tăng thu từ hoạt động này ngân hàng nên tiếp tục duy trì khách hàng cũng như thị trường truyền thống đồng thời khai thác thêm thị trường theo những hướng sau:
Theo bảng dư nợ tín dụng phân theo tiêu chí các thành phần kinh tế thì dư nợ đối với các DNNN chỉ dao động khoảng 6- 10%. Tỷ trọng này tương đối là nhỏ vì vậy chi nhánh cần xây dựng chiến lược cho vay đối với thành phần kinh tế này. Để có thể cho vay thì ngân hàng phải đánh giá năng lực tài chính của khách hàng và phân loại khách hàng theo các mức độ là khách hàng mạnh, khách hàng có tiềm năng và khách hàng yếu. Chi nhánh nên phân tích trên các phương diện: ngành nghề kinh doanh có hàm chữa nhiều rủi ro hay không, thị trường đầu ra và thị trường đầu vào, khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời ... để thấy được điều đó. Mở rộng tín dụng cho khách hàng DNNN ngân hàng không chỉ giảm bớt được rủi ro tín dụng mà còn có thể tận dụng được vốn tiền gửi của bộ phận này, có thể tăng thu cho một số hoạt động ngân hàng khác như sản phẩm ngân quỹ, chi lương theo yêu cầu của doanh nghiệp ...
Nếu số dư nợ của TPKT được chia theo thời gian nợ thì ta thấy tỷ trọng nợ trung và dài hạn còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Với nỗ lực trong thời gian qua chi nhánh đã nâng tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn song để đạt được mục tiêu đề ra chi nhánh cần chủ động hơn nữa trong quá trình tìm kiếm dự án đầu tư. Phần lớn đây là những dự án lớn cho nên chi nhánh cần đổi mới phương thức kinh doanh chuyển kinh doanh từ thế bị động sang thế chủ động. Có như thế chi nhánh mới mong có được những dự án đầu tư có lợi nhuận cao để góp phần tăng thu cho mình.
Để vừa tăng thu do việc mở rộng đối tượng khách hàng vừa có thể đảm bảo an toàn cho nguồn vốn. Chi nhánh cần phải nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng bằng nhiều biện pháp trong đó thiết lập một hệ thống chính sách hạn mức tín dụng trong hệ thống thông tin khách hàng nhằm dễ dàng phát hiện ra các rủi ro tiềm ẩn ví như một pháp nhân kinh tế đứng tên nhiều người để vay quá hạn mức tín dụng đối với một khách hàng. Mặt khác bộ phận nghiên cứu thị trường nên đi sâu phân tích ngành kinh tế nào đang có nhiều triển vọng ngành nào đang đi xuống. Những thông tin này sẽ giúp ích cho cán bộ tín dụng ra quyết định có cho vay hay không và mức độ tiềm ẩn rủi ro là cao hay thấp.
Nợ quá hạn chính là một trong các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng. Như vậy muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì chi nhánh phải làm tốt công tác quản lý nợ và giải quyết NQH. Cần triệt để tuân thủ các bước trong quy trình tín dụng , các nguyên tắc kiểm tra giám sát trước trong và sau khi cho vay.
vMở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối
Hoạt động kinh doanh ngoại hối đối với các NHTM là một hoạt động hấp dẫn có khả năng đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng, cơ hội kinh doanh của hoạt động này rất lớn song rủi ro của nó thì không phải là nhỏ. Đối với chi nhánh Thanh Quan đây không phải là hoạt động mới song thực sự nó chưa được phát triển. Chi nhánh cần quan tâm đến mảng nghiệp vụ này để đảm bảo vừa tăng thu vừa quản lý tốt rủi ro. Ví như thành lập một phòng ban hay bộ phận chuyên trách để phân tích sự biến động của tỷ giá nhằm dự đoán được sự biến động của tỷ giá trên thị trường để từ đó đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn. Chi nhánh cũng cần nghiên cứu để từng bước xoá bỏ sự chênh lệch giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen để khuyến khích việc giao dịch trên thị trường chính thức. Thông qua đó chi nhánh sẽ tăng được nguồn vốn ngoại hối để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình, từ đó giúp tăng thu.
v Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải liên tục cải tiến công nghệ và trang thiết bị để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Nhưng nói chung các doanh nghiệp đều bị hạn chế về vốn, họ thường tìm đến ngân hàng để có thể thoả mãn nhu cầu kinh doanh cuả mình. Ngân hàng có thể tài trợ vốn cho các doanh nghiệp bằng cách cho vay hoặc cho thuê tài chính. Trước đây ở Việt Nam nghiệp vụ cho thuê tài chính rất hạn chế, nhưng xu hướng hiện nay thì các doanh nghiệp đang rất ưa chuộng hình thức này. Cho nên ngay từ bây giờ chi nhánh nên thường xuyên tiếp xúc với các khách hàng là DNNN, các tổng công ty, các công ty đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nắm bắt được giai đoạn nào, thời điểm nào khách hàng cần đến dây chuyền sản xuất thiết bị máy móc để đáp ứng một cách nhanh chóng nhất cho hoạt động kinh doanh của khách hàng. Có như thế mới tạo được niềm tin và uy tín đối với khách hàng. Đây chính là cơ sở để chi nhánh có thể tăng thu trong tương lai.
v Mở rộng hoạt động đầu tư chứng khoán
Trước đây hoạt động đầu tư chứng khoán hầu như không có trong danh mục đầu tư của chi nhánh. Nhưng giờ tình hình kinh tế đã có bước biến đổi các doanh nghiệp được cổ phần hoá ngày càng nhiều đồng thời thị trường chứng khoán đã và đang được mở rộng. Dấu hiệu đáng vui mừng là ở Hà Nội đã có một thị trường chứng khoán đi vào hoạt động. Khi sự cạnh tranh trở nên gay gắt thì ngân hàng nào càng khai thác được thị trường mới càng tốt vì nó giúp cho ngân hàng đó giảm bớt chi phí do phải cạnh tranh quá nhiều. Vì vậy trong thời gian tới chi nhánh nên thâm nhập sâu hơn vào thị trường chứng khoán.
vHoàn thiện và mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Ngày nay mức độ cạnh tranh gay gắt trên thị trường tài chính đòi hỏi các ngân hàng phải luôn luôn tìm kiếm thị trường mới. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng không phải là thị trường mới song đây là thị trường tiềm năng mà các ngân hàng đang ra sức khai thác. Thứ nhất nhu cầu của thị trường này còn rất lớn, do đó thị trường này còn đang được mở rộng. Thứ hai đây là hoạt động mà ngân hàng ít gặp rủi ro nhất. Thứ ba đây là sản phẩm bổ trợ cho các sản phẩm truyền thống của ngân hàng là sản phẩm tiền gửi và sản phẩm tiền vay. Với những lợi thế này việc mở rộng và hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ là điều không thể không làm.
Hoàn thiện sản phẩm dịch vụ thanh toán
Dịch vụ thanh toán là dịch vụ truyền thống của các ngân hàng nên tất cả các ngân hàng đều cung cấp sản phẩm này. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu giao dịch giữa các chủ thể kinh tế càng tăng đồng thời khách hàng ngày càng mong muốn được cung cấp các sản phẩm thanh toán với chất lượng tốt nhất. Chất lượng thanh toán được thể hiện ở chỗ thái độ phục vụ của nhân viên, ở thời gian, thủ tục thanh toán và sắc xuất của sự sai sót trong thanh toán. Hiện nay công tác thanh toán của chi nhánh đạt được một số thành tựu song vẫn còn tồn tại một số bất cập như thời gian chuyển tiền chậm, dịch vụ chuyển tiền điện tử đã được triển khai nhưng chưa phát triển đặc biệt là chuyển tiền quốc tế. Vì vậy trong thời gian tới chi nhánh nên đổi mới công nghệ và hiện đại hoá mạng thanh toán giữa các ngân hàng để đảm bảo quá trình thanh toán nhanh chóng và chính xác. Đồng thời thông qua biện pháp quảng cáo tuyên truyền, tiếp thị ... chi nhánh có thể đưa sản phẩm này lại gần hơn với đời sống cuả dân cư, từ đó khuyến khích họ tiêu dùng.
Phát triển các sản phẩm dịch vụ mới
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của các sản phẩm truyền thống thì ngân hàng cũng nên chú trọng tới việc phát triển các dịch vụ ngân hàng mới như: dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ ngân hàng điện tử v.v...
Hiện nay việc thanh toán không còn bị bó hẹp trong một địa phương hay trong một nước mà là quan hệ mua bán toàn cầu. Thực tế này đã tạo thêm thị trường cho các ngân hàng hoạt động, chi nhánh Thanh Quan cũng nên nắm bắt cơ hội kinh doanh này bằng cách đa dạng hoá các hình thức bảo lãnh đồng thời cắt giảm những thủ tục rườm rà tránh gây tâm lí khó chịu cho khách hàng. Trên thế giới các dịch vụ ngân hàng điện tử như Home-banking, Internet- banking đã trở thành nghiệp vụ quen thuộc của các ngân hàng. Nhưng hiện tại ở Việt Nam cũng như ở chi nhánh Thanh Quan dịch vụ này chưa được triển khai vì đời sống của nhân dân còn thấp, trình độ công nghệ bị hạn chế . Tuy nhiên đây là dịch vụ mới có khuynh hướng phát triển nên trong thời gian tới chi nhánh nên có dự án xây dựng và cung cấp các dịch vụ này để có thể tăng thêm nguồn thu cho ngân hàng. Đây là hướng đi đúng đắn mà nhiều ngân hàng khác cũng đang lựa chọn.
v Phát triển một số dịch vụ khác
Dịch vụ tư vấn: Trong nền kinh tế thị trường phát triển nhu cầu tư vấn của các cá nhân doanh nghiệp ngày càng tăng. Dịch vụ tư vấn không chỉ mang lại cho ngân hàng nguồn thu mà còn nâng cao vị thế của ngân hàng cũng như tăng việc kiểm soát khách hàng. Tuy nhiên để làm tốt được dịch vụ này thì ngân hàng cần phối hợp với trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của NHNN, các ngân hàng đại lí để thu thập được thông tin một cách kịp thời và chính xác nhằm đáp ứng được yêu cầu của hoạt động tư vấn.
Dịch vụ kế toán và ngân quỹ: Hiện tại chi nhánh cũng cung cấp dịch vụ ngân quỹ nhưng thực sự hoạt động này không phát triển. Đây không phải là một hoạt động mới song chi nhánh cần phải đẩy mạnh việc giới thiệu tiện ích của sản phẩm này để thu hút khách hàng. Việc trả lương thay cho các công ty là một dịch vụ mới và chưa được triển khai tại chi nhánh. Thông qua việc trả lương chi nhánh vừa có thêm nguồn thu vừa có thể có thêm được nguồn vốn rẻ do các cá nhân mở tài khoản và chưa sử dụng hết tiền trên tài khoản.
Dịch vụ bảo quản ký gửi, dịch vụ môi giới làm đại lí phát hành ... Các dịch vụ này hầu như không có rủi ro mà vẫn đem lại khoản thu cho ngân hàng. Vì vậy chi nhánh nên mở rộng các dịch vụ này để tăng thêm nguồn thu cho mình.
3.2.2 Giải pháp góp phần tiết kiệm chi phí
v Đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư và các TCKT giảm vốn đi vay từ các TCTD khác, từ đó giảm chi phí huy động vốn
Để có thể tăng nguồn vốn huy động thì chi nhánh nên đưa ra đa dạng các loại hình huy động vốn để phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của mọi tầng lớp dân cư.
Huy động tiền gửi tiết kiệm bằng vàng và tiết kiệm được đảm bảo giá trị bằng vàng.
Theo thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư- tổng cục thống kê thì số tiền thu nhập của người dân được dùng vào việc mua vàng và ngoại tệ là44%, dùng để gửi vào ngân hàng là 17%. Như vậy lượng tiền vàng còn tồn trong dân là rất lớn mà khoản này lại được để dưới dạng dự trữ chứ không hề sinh lời. Nếu ngân hàng thu hút được lượng tiền vàng này thì sẽ đầu tư được thêm bao nhiêu công trình , dự án phát triển sản suất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế. Đối với người dân việc cất trữ vàng tại các TCTD an toàn hơn là để ở nhà mà được hưởng lãi suất trên lượng vàng đã gửi cũng như không phải mất đi một khoản tiền bằng chênh lệch giá mua vào, bán ra của vàng. Với hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm bằng vàng thì ngân hàng nên thực hiện các kỳ hạn dài bởi lẽ những người có thói quen mua vàng tích trữ thường ít có nhu cầu chi tiêu trong tương lai gần.
Tiết kiệm dưỡng lão:
Khi đời sống của dân cư ngày một nâng cao thì người ta quan tâm hơn đến tương lai của họ. Thấy được tâm lý này mà ngân hàng nên đưa ra loại hình tiết kiệm dưỡng lão. Đây chính là dạng kết hợp giữa sản ngành bảo hiểm và ngành ngân hàng, một loại hình “bảo hiểm nhân thọ” do ngân hàng cung cấp. Nó sẽ thích hợp hơn với đặc điểm của người Việt Nam nhờ vậy mà sẽ thu hút được nhiều người tham gia hơn. Khi cung cấp sản phẩm dịch vụ “tiết kiệm dưỡng lão” chi nhánh sẽ khai thác được ưu thế về mặt tài chính như: ngân hàng sẽ thu nhận việc quản lí được một nguồn tiền ổn định liên tục và lâu dài vì thông thường người gửi không rút ra trước hạn trừ trường hợp đột tử. Nhờ lợi thế này mà ngân hàng có thể toàn quyền quyết định để đầu tư trung và dài hạn nhằm đạt tỷ suất sinh lời cao hơn cho mình.
Tiền gửi tiết kiệm cho trẻ em:
Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là niềm hy vọng của mọi gia đình. Đến nay khi cái ăn cái mặc đã tạm ổn định thì tương lai của thế hệ trẻ được đặc biệt quan tâm. Nhiều gia đình mở tài khoản cho con em họ ở ngân hàng thay vì bỏ “lợn đất” như trước kia. Hình thức này không chỉ có lợi cho ngân hàng mà còn tạo thói quen giao dịch với ngân hàng của thế hệ trẻ. Đây chính là một trong những giải pháp để hạn chế lưu thông bằng tiền mặt trong nền kinh tế.
Tiền gửi tiết kiệm ở một nơi rút tại nhiều nơi:
Do nhu cầu phải thường xuyên di chuyển công tác hay là vì một lí do nào đó mà khách hàng phải di chuyển địa điểm. Nếu áp dụng hình thức gửi tiền nơi nào lĩnh nơi đó thì sẽ làm tốn nhiều thời gian của khách hàng đó. Vì vậy việc cải thiện hình thức giao dịch theo hướng gửi tiền một nơi rút nhiều nơi sẽ nới rộng phạm vi hoạt động của chi nhánh, đồng thời khuyến khích khách hàng mang tiền đến gửi tại chi nhánh.
Tiền gửi tiết kiệm nhà ở: Vấn đề bức xúc nhất hiện nay là vấn đề nhà ở của bộ phận trung lưu và những người dân lao động. Khi đưa ra hình thức tiết kiệm này ngân hàng đã mang lại cho bộ phận lớn dân cư có thu ổn định một công cụ để có thể biến ngôi nhà mơ ước của họ trở thành sự thật. Đối với ngân hàng khi cung ứng sản phẩm này sẽ tạo ra nguồn tiền ổn định để có thể cho vay hay đầu tư trung và dài hạn. Ngoài ra qua sản phẩm này ngân hàng còn phát triển hàng loạt các nghiệp vụ tín dụng như thuê mua, tư vấn kinh doanh, tư vấn bất động sản ...
3.2.3 Các biện pháp khác góp phần tăng thu nhập, giảm chi phí
v Nâng cao uy tín của ngân hàng
Uy tín của ngân hàng được thể hiện trên nhiều khía cạnh nhưng yếu tố quan trọng để đánh giá nó sự an toàn. Mục đích của người gửi tiền không chỉ là số lãi mà họ thu được trên khoản tiền họ gửi mà họ còn quan tâm đến việc ngân hàng có bảo đảm được an toàn cho tài sản của họ không. Khi ngân hàng có dấu hiệu xấu hay chỉ là một tin đồn không hay thì ngay ngày hôm sau dân chúng đã ùn ùn kéo đến trước cửa của ngân hàng để rút tiền. Yếu tố khác nữa tạo nên uy tín của ngân hàng là sự lớn mạnh của ngân hàng đó. Khách hàng luôn có tâm lý rằng chỉ khi ngân hàng đó làm an có hiệu quả thì quy mô hoạt động cũng như lợi nhuận của chi nhánh mới cao. Do vậy thông qua thị phần của ngân hàng thì khách hàng sẽ đánh giá uy tín ngân hàng đó. Ngược lại uy tín của ngân hàng sẽ là điều kiện để ngân hàng có thể dễ dàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy uy tín của ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để ngân hàng có thể tăng thu, giảm bớt được chi phí thì việc nâng cao uy tín của bản thân ngân hàng là một điều hết sức cần thiết.
v Có chính sách khách hàng hợp lí
Khách hàng của ngân hàng được phân theo thời gian gồm có khách hàng mới và khách hàng truyền thống. Một chính sách khách hàng là hợp lý là phải duy trì được mối quan hệ với các khách hàng truyền thống và thu hút được ngày càng nhiều lượng khách hàng mới. Đối với các khách hàng truyền thống như các doanh nghiệp, các công ty có quan hệ lâu năm, kho bạc nhà nước, bưu điện, chi nhánh điện ... luôn có số dư tiền gửi lớn thì ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất linh hoạt hợp lí, đặc biệt là dịch vụ thanh toán phải nhanh chóng chính xác, an toàn, tiện lợi. Ngoài ra thì vào những dịp lễ tết hay những ngày kỷ niệm của ngân hàng hay đơn vị đối tác thì ngân hàng cũng nên có những bưu thiếp chúc mừng hay là gọi điện chúc mừng. Những việc làm rất nhỏ ấy nhưng nó tạo mối quan hệ thân mật giữa khách hàng và ngân hàng và đây chính là điều kiện tốt để có thể tiếp tục duy trì bộ phận khách hàng này.
Đối với những khách hàng mới quan hệ với ngân hàng lần đầu hay khách hàng ở dạng tiềm năng chi nhánh nên đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng cáo để đưa hình ảnh của ngân hàng vào trong suy nghĩ của họ. Thúc đẩy sự tò mò của họ về ngân hàng, cao hơn nữa là biến nhu cầu của họ thành hành vi giao dịch.
Khi khách hàng đã đến giao dịch với ngân hàng thì bất kể đó là khách hàng quen hay là khách hàng mới giao dịch các nhân viên giao dịch phải có thái độ đón tiếp nhiệt tình, niềm nở, cởi mở. Mặc dù trước khi đến khách hàng đã có ý định sử dụng sản phẩm gì của ngân hàng song không thừa nếu giao dịch viên khéo léo tư vấn phù hợp với nhu cầu của khách hàng để họ có thể yên tâm hơn với quyết định của họ trước đó hoặc có thể khách hàng sẽ tìm thêm được một sản phẩm dịch vụ nào đó.
Hàng tháng giám đốc nên dành thời gian cố định nào đó để trực tiếp giải quyết những đơn từ và sự phản ánh về thái độ phục vụ khách hàng của nhân viên ngân hàng. Thông qua những buổi tiếp xúc này chi nhánh sẽ rút ra được những thiếu sót của mình để khắc phục đồng thời tiếp thu thêm những sáng kiến hoặc biết thêm những nhu cầu mới nảy sinh của khách hàng để từ đó cung cấp ra thị trường.
Chinh sách khuyến mại được coi là chất xúc tác cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thêm thành công. Đây là những lợi ích mới phát sinh sau những lợi ích sẵn có mà khách hàng đã giao dịch với ngân hàng. Tuy nó không phải là mục đích chính mà khách hàng giao dịch với ngân hàng song nếu có thêm chính sách khuyến mại tặng quà hợp lí thì khách hàng sẽ gắn bó hơn với ngân hàng. Vào những ngày kỷ niệm hay theo từng đợt chi nhánh nên có những hoạt động vui chơi với ngân hàng như quay sổ số trúng thưởng nhà, xe máy v.v... hoặc tặng những món quà nhỏ nhỏ cho khách hàng như tặng túi sách có biểu tượng ngân hàng ...
v Hiện đại hoá công nghệ, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật cho chi nhánh
Hiện đại hoá công nghệ: Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tốc độ phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin trong nền kinh tế như hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung cũng như ngân hàng nói riêng phải cải tiến công nghệ. Nói cách khác là sự thắng lợi sẽ thuộc về người nào có trình độ công nghệ cao hơn đối thủ cạnh tranh. Công nghệ ngân hàng có tác động trực tiếp đến chất lượng, kết quả hoạt động kinh doanh nói chung cũng như công tác huy động vốn nói riêng. Ví dụ như hệ thống thanh toán hiện đại sẽ tạo cho hoạt động thanh toán nhanh chóng chính xác và kịp thời. Khách hàng ưa thích sản phẩm thanh toán ở đây hơn những nơi khác cho nên sẽ mở tài khoản tại ngân hàng, giao dịch với ngân hàng nhiều hơn. Thông qua những hoạt động này mà ngân hàng có cơ hội nhận thêm nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động đầu tư. Song song với việc hiện đại hoá công nghệ chi nhánh nên đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng. Trong điều kiện các khoản thu không lớn mà các khoản chi lại nhiều thì chi nhánh có thể tận dụng những người biết giảng giải cho những người chưa biết. Có như thế việc hiện đại hoá công nghệ mới có ý nghĩa.
Nâng cấp cơ sở vật chất: Đối với hoạt động ngân hàng thì uy tín hình ảnh của ngân hàng là rất quan trọng. Khi khách hàng vào giao dịch với ngân hàng thì người ta chú ý trước tiên đến cơ sở vật chất của ngân hàng vì một trụ sở khang trang , đẹp đẽ, các phương tiện làm việc hiện đại sẽ tạo cảm giác an tâm hơn và dễ chịu hơn cho khách hàng đặc biệt là khách hàng gửi tiền. Tại chi nhánh Thanh Quan về cơ sở vật chất cũng như nền tảng công nghệ chỉ ở mức chấp nhận được chứ không phải ở mức độ hiện đại. Việc nâng cấp cơ sở vật chất tại chi nhánh bị hạn chế bởi kinh phí và không phải một lúc mà làm được. Vì vậy đòi hỏi bộ phận quản lí tài sản phải lập kế hoạch cụ thể rồi từng bước chi nhánh sẽ khắc phục dần. Để tiến hành công việc trên thì bắt buộc ngân hàng phải đầu tư, đầu tư sẽ làm chi phí tăng nhưng với điều kiện hoạt động tốt hơn chi nhánh sẽ mở rộng được hoạt động kinh doanh của mình, từ đó doanh thu cũng được nâng lên.
3.3 Kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với nhà nước và NHNN
v Nhà nước nên đẩy nhanh việc hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô đặc biệt là hệ thống pháp luật. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải hoạt động trong môi trường kinh tế vi mô và chịu sự tác động của môi trường ấy. ở nước ta vấn đề bức xúc nhất, được nhiều cấp ngành quan tâm nhất là hệ thống pháp luật. Bởi đây chính là công cụ mà nhà nước quản lí các ngành kinh tế, là hành lang cho phép doanh nghiệp được làm gì và không được làm gì thế nhưng nó lại quá chồng chéo, thiếu tính thực tế và cụ thể. Có trường hợp một ngành lại bị sự điều chỉnh của nhiều loại luật như ngành ngân hàng. Vẫn biết ngành ngân hàng là ngành trực tiếp kinh doanh tiền tệ cho nên phải quản lí chặt chẽ nhưng nếu hoạt động ngân hàng vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của tất cả các ngành luật (luật dân sự, luật doanh nghiệp, luật các TCTD, luật thương mại, luật đầu tư , luật thuế v.v ... ) như hiện nay thì các nhà ngân hàng khó có thể hoạt động đúng theo tất cả các luật này được. Vì ngay trong một hệ thống pháp luật còn có những quy định huống chi một vấn đề tranh chấp mà phải xem và thực hiện đúng như các luật là không thể. Vì vậy nhà nước cùng với ngân hàng nhà nước dự thảo ra một luật riêng cho các TCTD để họ có thể thực hiện theo luật đó, còn các hệ thống pháp luật khác chỉ đóng vai trò tham khảo mà thôi. Hơn nữa, các văn bản chỉ đạo của ngành cần được ban hành cụ thể hơn, những văn bản nào đã không còn phù hợp thì nhanh chóng thu hồi và đưa ra những văn bản khác để hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng
v Chính phủ và bộ tài chính nên chuẩn hoá ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán thế giới để tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể hội nhập với nền kinh tế thế giới. Khi lộ trình mở cửa theo hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng như AFTA đang đến gần thì nhà nước cần tạo điều kiện để cho các ngân hàng chủ động tham gia hội nhập cũng như cho họ một cơ chế hoạt động gần với thế giới để khi đó họ không thấy còn bỡ ngỡ.
NHNN cần nhanh chóng đưa hệ thống thông tin tín dụng toàn ngành đi vào hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Chúng ta đã có hai kho dữ liệu một đặt ở Hà Nội một đặt tại Sơn Tây- Hà Tây nhưng trên thực tế hai kho này chưa phát huy được hiệu quả của nó. Các ngân hàng cũng chưa có thói quen chia sẻ thông tin khách hàng cho nhau và có thói quen truy cập vào trung tâm thông tin tín dụng để xem thông tin về khách hàng. Vì vậy trong tương lai NHNN nên ban hành một quy chế bắt buộc các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ quốc gia phải chia sẻ thông tin về khách hàng và có quyền truy cập vào trung tâm thông tin để đánh giá khách hàng, từ đó có cơ sở ra quyết định tín dụng đúng đắn, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng thương mại cổ phần nhà
v Về vấn đề công nghệ ngân hàng Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngân hàng chưa được đồng đều cho nên không tạo được sự phát triển. Trong thời gian tới ngân hàng cần đẩy nhanh hơn nữa việc ứng dụng tin học hoá trong hệ thống ngân hàng, từ đó giúp các chi nhánh nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác và các TCTD phi ngân hàng.
v Về mức VTC Như đã phân tích ở trên VTC của ngân hàng còn ở mức thấp mà đây chính là nhân tố quan trọng quyết định quy mô huy động vốn cũng như quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Năm 1989 khi ngân hàng được thành lập thì mức VTC chỉ là 5 tỷ VND. Sau hơn mười lăm năm hoạt động và trưởng thành VTC của ngân hàng đã được nâng lên 200 tỷ VND. Trong năm 2005 ngân hàng dự định nâng VTC lên 210 tỷ VND tuy nhiên so với các ngân hàng thương mại khác thì mức vốn này vẫn còn thấp. Vì vậy trong tương lai hội đồng quản trị nên tiếp tục tăng VTC lên 300 tỷ để từ đó các chi nhánh có điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
3.3.3 Kiến nghị với chi nhánh Thanh Quan
v Chi nhánh nên thành lập một phòng marketing chuyên sâu chuyên nghiên cứu và phân tích môi trường kinh doanh của chi nhánh, dự báo sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Bên cạnh đó thì bộ phận này phải tìm ra các biện pháp đối phó với sự thay đổi đó để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động ngân hàng đồng thời không làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cuối kỳ của chi nhánh.
v Trang bị đồng phục cho nhân viên để tạo hình ảnh đẹp về ngân hàng cho khách hàng. Thường xuyên có buổi thi cán bộ ngân hàng giỏi về nghiệp vụ và tác phong làm việc. Thông qua đó sẽ tạo động lực thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các nhân viên với nhau
v Về công tác chăm sóc khách hàng Hiện nay công tác chăm sóc khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống của ngân hàng làm chưa được tốt thể hiện ở chỗ không có những buổi gặp mặt khách hàng lớn, cũng không có những món quà nhỏ hay thiệp chúc mừng nhân dịp kỷ niệm mười lăm năm thành lập ngân hàng. Vì vậy trong tương lai chi nhánh nên đưa ra những chính sách chăm sóc khách hàng tốt hơn.
v Cần tích cực triển khai hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế trên tất cả các mặt nghiệp vụ để có thể quản lí và kiểm soát, nâng cao uy tín với các khách hàng.
Trên đây là một số kiến nghị để góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng trong tương lai
kết luận
Trong nền kinh tế thị trường trừ một bộ phận nhỏ các đơn vị hoạt động phúc lợi xã hội thì bộ phận còn lại đặt mục tiêu là lợi nhuận để hoạt động. Bất kỳ doanh nghiệp nào sau một thời gian hoạt động đều muốn lợi nhuận mà mình nhận được là lớn nhất. Tuy nhiên việc giải quyết bài toán lợi nhuận thì không hề đơn giản và không phải doanh nghiệp nào cũng thành công. Mọi người đều biết muốn tăng được lợi nhuận thì bắt buộc chủ thể kinh doanh phải tìm ra được biện pháp để tăng thu, tiết kiệm chi phí nhưng thực tế hai yếu tố doanh thu và chi phí lại chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Đặc biệt trong ngành kinh doanh tiền tệ như ngân hàng thì sự phức tạp còn được tăng lên gấp bội vì việc định giá sản phẩm ngân hàng rất khó khăn, thêm vào đó là các khoản chi phí rất nhiều và không thể xác định chính xác chi cho hoạt động này là bao nhiêu hoạt động kia là bao nhiêu để từ đó thấy được những bất hợp lí trong các khoản chi. Bởi vậy việc tìm ra các biện pháp đã khó nhưng việc đánh giá biện pháp nào thì phù hợp với ngân hàng trong giai đoạn đó còn khó hơn.
Mặc dù biết đây là vấn đề rất phức tạp và khó khăn nhưng em vẫn mạnh dạn chọn đề tài này nghiên cứu sau khi kết thúc khoá học tại trường Học viện ngân hàng và ba tháng được đi vào thực tế. Trên cơ sở những luận cứ về lí luận và thực tiễn, áp dụng các phương pháp nghiên cứu bài viết của em đã hoàn thành được những nội dung sau:
X Phân tích làm rõ vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế đặc biệt là trong giai đoạn quá độ như hiện nay, đồng thời phân tích những nguyên nhân tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
X Trên cơ sở khái quát thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thanh Quan trong thời gian qua với nguồn số liệu được tổng kết trong ba năm gần đây nhất bài viết đã tìm ra được những mặt đã đạt được và những hạn chế chưa được khắc phục.
X Dựa trên những kết quả nghiên cứu ở phần thực trạng em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp góp phần tăng thu, tiết kiệm chi phí, từ đó nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
Với những hiểu biết của mình em đã cố gắng hoàn thành chuyên đề với nỗ lực cao nhất. Song để hoàn thành chuyên đề này em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Tiến sĩ Lê Văn Luyện, các thầy cô trong khoa ngân hàng- chuyên ngành kế toán- kiểm toán, các cô chú ở ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội chi nhánh Thanh Quan. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
mục lục
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được đưa ra đều xuất phát từ tình hình thực tế hoạt động tại nơi tôi thực tập: TM cổ phần nhà Hà Nội- Chi nhánh Thanh Quan.
Danh mục chữ viết tắt:
Habubank : Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
TSCĐ : Tài sản cố định
GTCG : Giấy tờ có giá
HĐTD : Hoạt động tín dụng
TTKDTM : Thanh toán không dùng tiền mặt
DTBB : Dự trữ bắt buộc
VTC : Vốn tự có
KKH : Không kỳ hạn
TGTK : Tiền gửi tiết kiệm
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Tình hình nguồn vốn của chi nhánh 34
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn của chi nhánh 35
Bảng 3: Quy mô vốn huy động tại chi nhánh 36
Bảng 4: Quy mô dư nợ tín dụng của chi nhánh 39
Bảng 5: Quy mô cho vay đối với các TCKT 41
Bảng 6: Quy mô dư nợ theo kỳ hạn của các TCKT 42
Bảng 7: Quy mô nợ quá hạn tại chi nhánh 43
Bảng 8: Kết quả kinh doanh ngoại tệ 45
Bảng 9: Tình hình thu nhập tại chi nhánh 48
Bảng 10: Tình hình chi phí của chi nhánh 51
Bảng 11: Kết quả hoạt động kinh doanh tại chi nhánh 53
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kế toán ngân hàng - Học viện ngân hàng
2. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng - Học viện ngân hàng.
3. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ - Học viện tài chính.
4. Luật Ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng
5. Nghị định 166/1999/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ tài chính của các tổ chức tín dụng.
6. Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về ban hành quy định phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi của NHNN và các tổ chức tín dụng.
7. Hệ thống tài khoản kế toán của NHNo&PTNT Việt Nam.
8. Tạp chí Ngân hàng các số 2002, 2003, 2004.
9. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ các số năm 2002, 2003, 2004.
10. Thời báo kinh tế năm 2001, 2002, 2003.
11. Các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 2002, 2003, 2004 của Hanbubank - Chi nhánh Thanh Quan.
12. Bảng cân đối kế toán tổng hợp các năm 2002, 2003, 2004 của Chi nhánh Thanh Quan.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0201.doc