Lời mở đầu
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho nền kinh tế nước ta có những chuyển biến to lớn. Từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế thị trường như một luồng gió mới thổi vào từng doanh nghiệp, mang lại cho doanh nghiệp nhiều thuận lợi, giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát huy cao độ những tiềm năng của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó không phải không có những khó khăn. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn chịu sự tác động của những qui luật khắc nghiệt vốn có của nền kinh tế đó. Do vậy, nếu không nhận thức được các qui luật kinh tế, không có kiến thức cơ bản về quản lý doanh nghiệp sẽ thất bại. Các nhà quản lý doanh nghiệp cần có tầm nhìn chiến lược, biết phản ứng linh hoạt với sự thay đổi của thị trường, có đầu óc năng động, sáng tạo và có thể đưa ra các quyết định quản lý chính xác, kịp thời nhằm đem lại hiệu quả cao trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như đem lại nguồn lợi nhuận cao nhất. Vậy làm thế nào để tăng được lợi nhuận cho mỗi doanh nghiệp? Đây quả là một vấn đề cần thiết mà mỗi một doanh nghiệp phải quan tâm trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Như vậy, lợi nhuận là động lực là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp phải vươn tới nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng.
Mặt khác, lợi nhuận được tạo ra là kết quả của tổng hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là kết quả của việc kết hợp hài hòa các yếu tố sản xuất, là sản phẩm của sự tìm tòi, sáng tạo và mạo hiểm. Nó đòi hỏi mỗi nhà doanh nghiệp phải có sự phát triển toàn diện, khả năng tư duy, nhạy bén và sự năng động. Vì vậy, nghiên cứu về lợi nhuận giúp cho chúng ta - đặc biệt là các nhà tài chính doanh nghiệp có một cái nhìn toàn diện hơn về các hoạt động của doanh nghiệp, về quản trị kinh doanh và đặc biệt là quản trị tài chính sao cho đồng vốn đem lại nhiều lợi nhuận nhất.
Hoạt động sao cho có lợi nhuận và tìm mọi biện pháp làm tăng lợi nhuận luôn là vấn đề bức bách của các Doanh nghiệp, là nỗi trăn trở, là tâm huyết của các Doanh gia.
Là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt kim, Công ty Dệt kim Đông Xuân cũng không nằm ngoài quy luật này. Cùng với sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên và sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tổng công ty dệt may Việt Nam, Công ty Dệt kim Đông Xuân đã từng bước vươn lên, khắc phục khó khăn và đạt được những thành công nhất định. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Công ty, cũng giống như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, đó là hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lợi nhuận và lợi nhuận tăng đều trong các năm bên cạnh việc đảm bảo các mục tiêu về xã hội, môi trường... Tuy nhiên, mức tăng lợi nhuận hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng của Công ty. Thêm vào đó, Công ty đang phải đối đầu với những thách thức của xu thế hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Những lý do chủ yếu trên đây giải thích vì sao việc tăng lợi nhuận là một đòi hỏi bức xúc của Công ty.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã chọn đề tài "Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân" làm chuyên đề tốt nghiêp.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm phân tích, đánh giá tình hình lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân, những kết quả đạt được và hạn chế trong thời gian qua, từ đó tìm ra giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty.
Phương pháp luận được sử dụng để nghiên cứu và tiếp cận đề tài gồm:
Phương pháp chung: phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng.
Phương pháp cụ thể: gồm các phương pháp thống kê, so sánh để phân tích số liệu qua các thời kì; phương pháp logic, lịch sử để phân tích đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của vấn đề.
Kết cấu của chuyên đề này gồm:
Lời mở đầu.
Chương I. Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II. Thực trạng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân trong những năm qua.
Chương III. Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
Kết luận.
Do trình độ còn hạn chế và phạm vi đề tài rộng, em chỉ đề cập đến giải pháp tăng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Em rất mong nhận được nhiều góp ý và nhận xét của các thầy cô và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính, dặc biệt là cô giáo - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo đã nhiệt tình hướng dẫn em trong quá trình thực hiện chuyên dề. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô, các anh chị công tác tại phòng tài chính kế toán của công ty Dệt Kim Đông Xuân đã quan tâm giúp dỡ em trong thời gian thực tập tại công ty.
Hà Nội, ngày 7/ 4/ 2003.
Sinh viên
Nguyễn Thị Cẩm Thanh.
mục lục
Lời nói đầu 1
chương i : Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường……………………………………….6
i. lơi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiêp trong nền kinh tế thị trường ……………………………………..……………………………………… 6
1.1 Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ………….………6
1.1.1 Đặc trưng của kinh tế thị trường ……………………………………...…...6
1.1.2 Doanh nghiệp……………………………………………………………...7
1.1.3 Hoạt động của doanh nghiệp ………………………………………….…..7
1.2 Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế
………………………………………………………………………….………..9
1.2.1 Những đặc điểm về lợi nhuận và nguồn gốc của lợi nhuận……………. …9
1.2.1.1 Khái niệm về lợi nhuận …………………………………………………9
1.2.1.2 Nguồn gốc của lợi nhuận ………………………………………………10
1.2.2 Vai trò của lợi nhuận …………………………………………………….11
1.2.2.1 Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp…………………………. ..12
1.2.2.2 Vai trò của lợi nhuận đối với xã hội…………………………………... 13
i. Phương pháp xác định lợi nhuận và các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận……………………………………………………………………………………………….13
2.1 Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp………………………..13
2.1.1 Xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh…………………………….15
2.1.2 Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính………………………………..18
2.1.3 Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường ……………………………. 19
2.1.4 Tỷ suất lợi nhuận ………………………………………………………...20
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp ………………...…22
Chương ii : thực trạng lợi nhuận của công ty dệt kim đông xuân hà nội……………………………………………………….29
I mộT Số NéT KHáI QUáT Về CÔNGty……………………………………………………29
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty……………………………….31
1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty Dệt Kim Đông Xuân………………………….31
1.2.1 Tổ chức bộ máy quản lý …………………………………………………31
1.2.2 Tổ chức bộ máy kế toán………………………………………………….34
1.2.3 Quá trình sản xuất sản phẩm……………………………………………..35
1.3 Khái quát hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của công ty……….37
1.3.1 Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm………………………………..37
1.3.2 Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây…….40
1.3.3 Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty …..….41
II Thực trạng về lợi nhuận của công ty Dệt Kim Đông Xuân Hà Nội…...43
2.1 Thực trạng về lợi nhuận từ hợp đồng sản xuất kinh doanh của công ty..43
2.1.1 Lợi nhuận hợp đồng sản xuất kinh doanh xuất khẩu ………………….54
2.1.2 Lợi nhuận hợp đồng sản xuất kinh doanh trong nước….………………57
2.2 Đánh giá tình hình lợi nhuận của công ty Dệt Kim Đông Xuân………59
2.2.1 Kết quả đạt được ……………………………………………………….59
2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân………………………………….…………….63
2.2.2.1 Hạn chế………………………………………………….……………..63
2.2.2.2 Nguyên nhân…………………………………….………………….…63
chương iii : giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở công ty dệt đông xuân………………………………….……………66
I. Định hướng hoạt động kinh doanh trong những năm tới………………..66
II. Giải pháp nhằm tăng doang thu …………………………………………67
2.1Đẩy mạnh tiêu thụ ở khu vực nội địa ……………………………….………67
2.2.Đẩy mạnh tiêu thụ khu vực xuất khẩu…………….………………………..69
III. Giải pháp nhằm giảm chi phí ……………………………………………….71
3.1.Giảm chi phí sản xuất………………………………………………………71
3.2. Giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh ………………………………………72
VI. Một số giải pháp khác ……………………………………………………73
V. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện giải pháp đề ra ……….73
5.1.Kiến nghị với Nhà nước…………………………….………………………73
5.2.Kiến nghị với tổng công ty…………………………………………………75
Kết luận……………………………………………..………………………76
Chương I : Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1 Đặc trưng của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, với các đặc trưng cơ bản sau :
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Nhà nước chỉ định ở tầm vĩ mô, quản lý bằng hành lang pháp lý. Đây là dặc trưng quan trọng nhất.
- Trên thị trường hàng hóa rất phong phú. Quan hệ giữa người mua và người bán là bình đẳng và họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Sự đa dạng về chủng loại và số lượng hành hóa trên thị trường một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường.
- Giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán và được hình thành ngay trên thị trường. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hóa, người bán muốn bán hàng hóa với giá cao nhất có thể và người mua muốn mua hàng hóa với giá thấp nhất có thể. Đối với người mua giá cả được quyết định bởi khả năng thanh toán. Đối với người bán, giá cả phải bù đắp được chi phí và có lợi nhuận.
- Cạnh tranh là tất yếu của kinh tế thị trường. Đó là sự ganh đua của các chủ thể kinh tế nhằm giành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường của hoạt động kinh doanh, nó đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.
Nền kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hóa phát triển và luôn luôn khuyến khích, thu hút mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra của cải và lợi ích cho xã hội. Và là một trong những thành phần đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế thị trường đó là các Doanh nghiệp.
1.1.2. Doanh nghiệp :
Doanh nghiệp hiểu theo nghĩa chung nhất là một đơn vị kinh doanh, là một tế bào kinh tế có nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội để đạt được lợi nhuận tối đa, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại rất nhiều loại hình doanh nghiệp như : Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh...và hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, từ hoạt động sản xuất cho tới hoạt động kinh doanh thương mại.
* Doanh nghiệp Nhà nước : là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
* Doanh nghiệp tư nhân : là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ số tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Công ty ( công ty TNHH và công ty cổ phần) : là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp.
1.1.3 Hoạt động của doanh nghiệp :
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là sản xuất và kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng có nhu cầu trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có nhằm thu được lợi nhuận nhiều nhất, nâng cao thu nhập người lao động, góp phần tăng thu nhập quốc dân, nâng cao tích lũy nhằm đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ từ các yếu tố sản xuất được xã hội cung cấp, người tiêu dùng mua hàng hóa và dịch vụ này. Như vậy, doanh nghiệp đã góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế xã hội và được đo lường bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân( GNP). Đồng thời, để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay các bán thành phẩm từ các nhà sản xuất khác, do đó tạo ra nhu cầu đối với sản lượng của các doanh nghiệp khác. Như vậy daonh nghiệp cùng tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế.
Muốn phát triển, mọi doanh nghiệp đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản : quyết định sản xuất cái gì, quyết định sản xuất như thế nào và quyết định sản xuất cho ai.
Quyết định sản xuất cái gì
Nhu cầu thị trường về hàng hóa và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày một tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhưng trên thực tế nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn trong khi khả năng thanh toán có hạn, xã hội và con người phải lựa chọn từng loại nhu cầu có lợi nhất cho mình. Tổng các nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội, của người tiêu dùng cho ta biết được nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Nhu cầu này là căn cứ, là xuất phát điểm để định hướng cho các chính phủ và các doanh nghiệp quyết định việc sản xuất và cung ứng của mình. Trên cơ sở nhu cầu thị trường, chính phủ và các doanh nghiệp tính toán khả năng sản xuất của nền kinh tế, của các doanh nghiệp và các chi phí sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định sản xuất cung ứng cái mà thị trường cần để có thể đạt được thu nhập quốc dân và lợi nhuận tối đa. Việc lựa chọn để quyết định sản xuất cái gì là quyết định sản xuất những loại hàng hóa, dịch vụ nào, với số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, khi nào cần sản xuất và cung ứng. Cung, cầu, cạnh tranh trên thị trường tác động qua lại với nhau, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định giá cả thị trường và số lượng hàng hóa cần cung cấp trên thị trường. Giá cả thị trường là thông tin có ý nghĩa quyết định đối với việc lựa chọn sản xuất và cung ứng những hàng hóa, dịch vụ nào có lợi nhất cho cả cung và cầu trên thị trường. Giá cả thị trường là bàn tay vô hình để điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa chọn và quyết định sản xuất.
Quyết định sản xuất như thế nào
Sau khi đã lựa chọn cần sản xuất cái gì, chính phủ, các nhà kinh doanh phải xem xét và lựa chọn việc sản xuất những hàng hóa và dịch vụ đó như thế nào để sản xuất nhanh, nhiều với chi phí thấp nhất, đem lại lợi nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn đầu vào với chi phí thấp nhất, lựa chọn các phương pháp tổ chức sản xuất có hiệu quả nhất. Nói một cách cụ thể là phải lựa chọn và quyết định sản xuất hàng hóa dịch vụ này bằng nguyên vật liệu gì, thiết bị dụng cụ nào, công nghệ sản xuất ra sao để đạt lợi nhuận cao nhất. Để đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ công nhân và lao động quản lý nhằm tăng hàm lượng chất xám trong hàng hóa và dịch vụ là vấn đề có ý nghĩa quyết định sự sống còn trong cạnh tranh và chiếm lĩnh trên thị trường.
Quyết định sản xuất cho ai
Thị trường quyết định giá cả các yếu tố sản xuất đầu vào, do đó thị trường cũng quyết định giá cả hàng hóa, dịch vụ bán ra. Vấn đề mấu chốt là những hàng hóa dịch vụ sản xuất phân phối cho ai để vừa có thể kích thích mạnh mẽ sự phát triển kinh tế có hiệu quả, vừa đảm bảo công bằng xã hội. Nói một cách cụ thể là thu nhập quốc dân, thu nhập thuần túy của doanh nghiệp sẽ được phân phối cho xã hội, cho tập thể và cho cá nhân như thế nào để tạo động lực kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, thỏa mãn được nhu cầu công cộng và các nhu cầu xã hội khác.
Theo ngôn ngữ kinh tế học thì ba vấn đề kinh tế cơ bản nói trên được giải quyết trong mọi xã hội, dù một công xã, một bộ tộc, một nghành, một doanh nghiệp. Việc tăng thu nhập quốc dân, lợi nhuận và tích lũy của mỗi nước mỗi nghành, mỗi doanh nghiệp tùy thuộc vào chính quá trình lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề kinh tế cơ bản nói trên. Đối với doanh nghiệp việc lựa chọn đúng ba vấn đề kinh tế cơ nói trên có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra khả năng lợi nhuận, vì mục tiêu của sự lựa chọn kinh tế tối ưu trong doanh nghiệp là tăng hiệu quả kinh tế, tăng lợi nhuận.
1.2. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế
1.2.1. Những quan điểm về lợi nhuận và nguồn gốc của lợi nhuận
1.2.1.1. Khái niệm về lợi nhuận .
Trước khi xem xét nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận chúng ta phải hiểu lợi nhuận là gì?
Để thực hiện quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, nhà sản xuất phải ứng trước một lượng tiền để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân. Hàng hóa được sản xuất ra mang hai thuộc tính : Giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hóa sản xuất ra được biểu hiện bằng công thức :
Gt = C + V + M
Trong đó :
Gt : Là giá trị hàng hóa.
C : Chi phí nhà sản xuất bỏ ra để mua TLSX
V : Chi phí thuê nhân công
M : Giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân làm thuê sáng tạo ra. Như vậy trong quá trình sản xuất, sức lao động đã sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn phần giá trị sức lao động và phần dôi ra là giá trị thặng dư.
Các nhà kinh tế học cổ điển trước C. Mac cho rằng " Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận ".
Theo C. Mac thì " Giá trị thặng dư hay phần trội lên trong toàn bộ giá trị của hàng hóa, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hóa thì tôi gọi là lợi nhuận "
Các nhà kinh tế học hiện đại như P.A. Samuelson và W. D. Nordhaus cho rằng : " Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi hay cụ thể hơn Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí ". Theo David Begg, Stanley Fisher và Busch thì " Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí ".
Nhìn tổng quát những quan niệm trên ta nhận thấy rằng tất cả các định nghĩa đều thống nhất: Lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra.
Như vậy, Lợi nhuận của một doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu bán sản phẩm hàng hóa dịch vụ trừ đi tổng chi phí bỏ ra tương ứng để tạo ra được hàng hóa dịch vụ đã tiêu thụ bao gồm cả phần nộp thuế cho Nhà nước.
1.2.1.2. Nguồn gốc của lợi nhuận.
Trên cơ sở kế thừa những gì tinh túy nhất do các nhà kinh tế học tư sản cổ điển để lại, kết hợp với việc nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa C. Mac đã kết luận một cách đúng đắn rằng " Giá trị thặng dư là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra như vậy mang hình thái biến tướng là lợi nhuận".
Dựa vào lý luận về lợi nhuận của C. Mac, kinh tế học hiện đại đã phân tích khá sâu sắc về nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp. Thật vậy, khi tiến hành sản xuất kinh doanh ai cũng muốn thu được lợi nhuận cao. Để thu được lợi nhuận cao một doanh nghiệp phải nhìn thấy được những cơ hội mà người khác bỏ qua, phải phát hiện ra sản phẩn mới, tìm ra phương pháp sản xuất mới tốt hơn để có chi phí sản xuất thấp, hoặc phải liều lĩnh, mạo hiểm hơn mức bình thường. Nhưng nói chung để tiến hành tốt các hoạt động sản xuất, kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhất thì chi phí thấp nhất là nguồn gốc để tạo ra và tăng lợi nhuận trong mỗi doanh nghiệp.
Nhưng trên thực tế còn được xem xét như phần thưởng đối với doanh nghiệp có khả năng tiến hành các hoạt động sáng tạo, đổi mới và mạo hiểm để tổ chức sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà xã hội mong muốn. Ngoài ra những doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao nhờ kiểm soát được thị trường, độc quyền kinh doanh về một loại sản phẩm hàng hóa dịch vụ nhất định. Nói tóm lại, lợi nhuận của một doanh nghiệp được bắt nguồn từ hai yếu tố :
* Thu từ các nguồn lực chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
* Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo, đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự độc quyền trong cung ứng sản xuất sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
Đối với nước ta đang trên con đường thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì mục tiêu là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhằm buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, coi lợi nhuận tối đa là mục tiêu kinh tế quan trọng nhất. Nguồn gốc của lợi nhuận trong các doanh nghiệp được tạo ra bằng cách sử dụng hợp lý các nguồn lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tận dụng có hiệu quả các điều kiện của môi trường kinh doanh. Rõ ràng, lợi nhuận là mục tiêu chung cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phân biệt các thành phần kinh tế hay đang tồn tại dưới bất kỳ một chế độ xã hội nào.
1.2.2. Vai trò của lợi nhuận
Trong nền kinh tế bao cấp, vai trò của lợi nhuận không được chú ý đến, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của Nhà nước. Nhà nước bao cấp về giá vật tư hàng hóa, về lãi tín dụng, về vốn kinh doanh...kết quả hoạt động cuối cùng lỗ hay lãi không ảnh hưởng trực tiếp hay quyết định đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải thực hiện hạch toán kinh doanh thì lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp, lợi nhuận có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung.
1.2.2.1. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
* Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu kinh tế là để kiếm lợi nhuận.Trong nền kinh tế thi trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Họ mong muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là để bù đắp lại những chi phí bỏ ra, ngoài ra họ còn muốn phần thừa để mở rộng và phát triển sản xuất, trả cổ tức, thưởng cho các nhà quản lý, cho công nhân viên và cho các chủ cổ phiếu - tức là họ muốn có lợi nhuận. Nếu các doanh nghiệp không thể tạo ta được lợi nhuận thì họ cũng không muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu của xã hội về các hàng hóa dịch vụ đó. Do đó, động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định sáng tạo ra sự hoạt động thắng lợi của thị trường hàng hóa dịch vụ.
* Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức cung ứng hàng hóa dịch vụ ra thị trường. Nó phản ánh về cả mặt lượng và mặt chất của quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều và khi lợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng để đầu tư, tái sản xuất mở rộng, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Ngược lại, làm ăn kém hiệu quả sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản là tất yếu. Vì vậy có thể nói rằng lợi nhuận tói đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
* Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng kích thích người lao động đẩy mạnh sản xuất nâng cao năng suất lao động. Vai trò đòn bẩy kinh tế được thông qua quá trình hình thành, phân phối và sử dụng lợi nhuận. Qua quá trình đó góp phần giải quyết mối quan hệ giữa ba mặt lợi ích : lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động nhằm nâng cao đời sống vật chất cho người lao động, thúc đẩy mọi người quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh do
1.2.2.2. Vai trò của lợi nhuận đối với xã hội
* Lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ là bộ phận quan trọng của thu nhập thuần túy của doanh nghiệp mà đồng thời là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước và là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân mỗi nước.ở đây, ta lại thấy được vai trò của lợi nhuận không những quan trọng đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà cả xã hội. Bởi lẽ, mỗi doanh nghiệp không chỉ hoạt động kinh doanh riêng lẻ, tách rời, mà nó là một mắt xích trong chuỗi xích liên hệ giữa các doanh nghiệp , giữa các con người.Mặt khác lợi nhuận còn góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, lợi nhuận còn góp phần nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nói riêng trong mỗi gia đình nói chung thông qua việc thành lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, trên cơ sở đó khuyến khích mỗi người lao động không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
* Lợi nhuận của doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư sản xuất, sử dụng các yếu tố đầu vào, chỉ tiêu chi phí và giá thành, các chỉ tiêu đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia.
II. Phương pháp xác định lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
2.1. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều phải xây dựng cho riêng mình một phương hướng đúng đắn để tận dụng tối đa tiềm lực tài chính và những mối quan hệ kinh tế, chính trị sẵn có của mình nhằm vào mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy tùy theo từng nghành nghề từng lĩnh vực kinh doanh, mỗi doanh nghiệp lựa chọn một vài lĩnh vực đặc thù riêng cho mình để tận dụng tối đa khả năng sẵn có. Nhưng tựu chung lại thì xu hướng đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đa phương hóa trong các mối quan hệ trên thương trường đã trở thành xu hướng tất yếu. Điều đó có nghĩa là hoạt động của các doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh các hàng hóa dịch vụ theo đúng nghành nghề kinh doanh mà còn tiến hành nhiều hoạt động khác mang tính chất khong thường xuyên, không chủ yếu. Đó là các hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường. Căn cứ trên mỗi mảng hoạt động, doanh nghiệp xác định các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận tương ứng. Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ là tổng đại số của các lợi nhuận bộ phận trong từng mảng hoạt động. Như vậy cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận :
Lợi nhuận thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ.
Lợi nhuận thu từ hoạt động tài chính.
Lợi nhuận thu từ các hoạt động bất thường.
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh khác nhau và thuộc các môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau
Thứ nhất : Cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông thường khác với các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tín dụng, ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường, hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính.Vì vậy, trong cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thì lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Khác với doanh nghiệp thông thường, cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. ở các doanh nghiệp này thì hoạt động tài chính là hoạt động kinh doanh chủ yếu, bởi lẽ lĩnh vực kinh doanh của họ không giống như các doanh nghiệp thông thường- kinh doanh tiền tệ.
Thứ hai : Trong các môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng loại có sự khác biệt về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp mình. Chẳng hạn, cũng chính là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thông thường cơ cấu lợi nhuận bao gồm ba bộ phận, nhưng trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, các hoạt động tài chính năng động, hiệu quả thì mảng hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ phát triển với các hoạt động đa dạng về đầu tư tài chính. ở đây bộ phận tài chính sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể không kém gì hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, trong một nền kinh tế thị trường ở trình độ thấp, hoạt động của thị trrường tài chính, chứng khoán, chưa hoàn thiện, phổ biến trong doanh nghiệp là sự thiếu hụt vốn, mảng hoạt động tài chính trong doanh nghiệp còn rất hạn chế. Doanh nghiệp không có cơ hội đầu tư tài chính thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính đó. Trong trường hợp này, lợi nhuận hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp. Và nó lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp .
Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường bao gồm ba bộ phận: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính,và lợi nhuận hoạt động bất thường. Nhìn chung, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh ( đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính ) Luôn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quyết định trong tổng số lợi nhuận doanh nghiệp. Đặc điểm này cho ta một định hướng rõ nét khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp.
Về nguyên tắc khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp, chúng ta phải phân tích cả mọi bộ phận cấu thành lợi nhuận. Nhưng trong những điều kiện đặc thù đôi khi nguyên tắc đó có thể bị phá vỡ, điều kiện đó là việc phân tích lợi nhuận thực hiện với một doanh nghiệp kinh doanh thông thường trong một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp. Lúc này hoạt động tài chính của doanh nghiệp là rất hạn chế, còn lợi nhuận hoạt động bất thường thì rất ít quan trọng giống như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ đạo và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận cơ bản của d._.oanh nghiệp. Trong điều kiện đó sẽ thiết thực khi ta tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận lợi nhuận kinh doanh để tìm ra giải pháp tăng lợi nhuận doanh nghiệp .
Lợi nhuận doanh nghiệp = Lợi nhuận hoạt động kinh doanh + Lợi nhuận hoạt động tài chính + Lợi nhuận hoạt động bất thường
2.1.1. Xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh : là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng thuần và tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ đó và được thể hiện qua công thức:
n
LN = ồ Qi Pi - ( Qi Zi + Qi Cpi + QiTi )
i =1
LN : Là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh .
Qi : Là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ.
Pi : Giá bán đơn vị.
Zi : Giá thành hay giá vốn hàng bán.
Cpi : Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Ti : Thuế GTGT hoặc thuế TTĐB của sản phẩm thứ i
-
-
-
=
Lợi nhuận Tổng doanh thu chiết khấu giảm giá doanh thu hàng
HĐSXKD bán hàng bán hàng hàng bán bán bị trả lại
-
-
-
-
thuế GTGT (TTĐB) giá vốn chi phí chi phí quản lý
phải nộp hàng bán bán hàng doanh nghiệp
-
-
-
-
-
-
Doanh thu giá vốn chi phí chi phí quản lý
= thuần hàng bán bán hàng doanh nghiệp
=
Lãi gộp chi phí chi phí quản lý
bán hàng doanh nghiệp
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh : là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán sau khi trừ các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại.
* Xác định doanh thu thuần
Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ
- Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm trừ .
- Tổng doanh thu (doanh thu bán hàng) : Là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
- Các khoản giảm trừ :
+ Chiết khấu bán hàng : Là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng gồm chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương mại.
+ Giảm giá hàng bán : Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách.
+ Doanh thu hàng bán bị trả lại: Là phần doanh thu bị khách hàng trả lại do việc cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ không đúng như hợp đồng đã ký kết.
+ Các khoản thuế phải nộp như : Thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XK.
* Xác định tổng chi phí :
Tổng chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong kỳ được xác định:
Tổng chi phí Trị giá vốn + Chi phí bán hàng + Chi phí QLDN
hàng tiêu thụ phân bổ cho lượng phân bổ cho lượng
hàng tiêu thụ hàng tiêu thụ
+ Trị giá vốn hàng tiêu thụ :
Doanh nghiệp là đơn vị thương mại.
Giá vốn hàng = giá mua lượng + chi phí trực tiếp thu mua
tiêu thụ hàng tiêu thụ bảo quản sơ chế
Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất :
Giá vốn hàng = Giá thành sản xuất x S ố lượng đơn vị
tiêu thụ hàng tiêu thụ sản phẩm đã tiêu thụ
Trong đó , giá thành sản xuất đơn vị được xác định thông qua quá trình hạch toán giá thành sản xuất, gồm ba yếu tố:
- Chi phí NVL trực tiếp : là chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ. phí
- Chi nhân công trực tiếp bao gồm: Tiền lương, tiền công, các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ.
- Chi phí sản xuất chung: là chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất, chế biến của phân xưởng ( bộ phận kinh doanh) trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ như : chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao TSCĐ thuộc phân xưởng ( bộ phận kinh doanh ), tiền lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm công ty tế của nhân viên phân xưởng ( bộ phận kinh doanh ) theo quy định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phân xưởng (bộ phận kinh doanh ).
+ Chi phí bán hàng : là toàn bộ các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, bao gồm cả chi phí bảo hành sản phẩm.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp : là các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như : chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao TSCĐ phục vụ cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp : tiền lương, khoản trích nộp kinh phí quản lý tổng Công ty; chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền như tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định, các khoản trích dự phòng, các chi phí nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đổi mới công nghệ, chi sáng kiến, cải tiến, chi phí đào tạo, giáo dục, chi y tế cho người lao động của doanh nghiệp , chi phí bảo vệ môi trường, chi phí lao động nữ...
2.1.2. Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: là lợi nhuận thu được từ các hoạt động như tham gia góp vốn liên doanh; hoạt động đầu tư, mua, bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn; cho thuê tài sản; các hoạt động đầu tư khác; do chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và lãi tiền vay ngân hàng; cho vay vốn; bán ngoại tệ; hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá chứng khoán...
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận hoạt Thu nhập hoạt Chi phí hoạt
động tài chính = động tài chính - động tài chính
- Thu nhập hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại bao gồm các khoản thu kể trên.
- Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn gồm : chi phí về vốn góp liên doanh không tính vào giá trị vốn góp; lỗ liên doanh; lỗ do bán chữứng khoán; chi phí do đầu tư tài chính, chi phí liên quan tới cho vay vốn...
2.1.3. Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường là những khoản thu mà các doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn và thường xuyên các khoản thu của doanh nghiệp có thể do chủ quan của doanh nghiệp hay khách quan đưa tới gồm :
+ Thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ
+ Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng.
+ Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ.
+ Thu khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bị bỏ sót hay lãng quên chưa ghi sổ năm nay mới phát hiện ra.
+ Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và phải thu khó đòi.
- Chi phí bất thường là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan đưa tới gồm :
+ Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý, nhượng bán.
+ Chi phí thanh lý, nhượng bánTSCĐ.
+ Tiền phạt do vi phạm hợp đồng.
+ Bị phạt thuế truy nộp thuế.
+ Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
+ Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi(không đủ ) hoặc khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn chưa lập dự phòng.
Lợi nhuận hoạt = Thu nhập hoạt _ Chi phí hoạt
động bất thường động bất thường động bất thường
Nhìn chung, việc xác định thu nhập và chi phí của hoạt động tài chính và hoạt động bất thường tương đối dễ dàng hơn so với hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chỉ là các dòng tiền tệ không thường xuyên. Mội phát sinh thu nhập và chi phí của các hoạt động này được hạch toán gọn trong một kỳ kinh doanh.
Như vậy, việc xác định lợi nhuận doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh phải xuất phát từ việc xác định lợi nhuận bộ phận của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp là một bộ phận độc lập với môi trường và thống nhất trong nội bộ. Bởi vậy, việc phân bổ chi phí chung cũng như việc phân định chi phí riêng cho từng bộ phận hoạt động thực sự là công việc khó khăn nhất trong việc xác định lợi nhuận. Việc này nếu không làm tốt sẽ dẫn tới sự phản ánh không trung thực chi phí sản xuất kinh doanh ( trùng lặp hoặc bỏ sót) làm sai lệch chỉ tiêu lợi nhuận.
2.1.4 Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau bởi vì :
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận doanh nghiệp cũng không giống nhau.
- Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém, nhưng số lợi nhuân thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn.
Vì vậy, để đánh giá so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận ( hoặc doanh lợi ).
Tỷ suất lợi nhuận cao cho ta thấy hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Hơn nữa tỷ suất lợi nhuận còn cho ta thấy hai mặt : Một là tổng lợi nhuận tạo ra do các tác động của toàn bộ chi phí đã chi ra tốt hay xấu, hai là số lợi nhuận tạo ra trên một đơn vị chi phí cao hay thấp. Do yêu cầu nghiên cứu phân tích và đánh giá khác nhau của từng doanh nghiệp mà có nhiều phương pháp tính tỷ suất lợi nhuận khác nhau, dưới đây là một số chỉ tiêu phổ biến nhất trong số các chỉ tiêu
2.1.4.1. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm hay còn gọi là tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ. Nó phản ánh lợi nhuận sau thuế có trong một trăm đồng doanh thu.
Công thức tính :
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = x 100
2.1.4.2. Tỷ suất lợi nhuận giá thành
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế chia cho giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa tiêu thụ. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất. Cụ thể 100 đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận .
Tỷ suất lợi nhuận giá thành = x 100
Hiển nhiên có thể thấy rằng, tỷ suất lợi nhuận giá thành càng cao càng tốt. Bởi lẽ mục tiêu của doanh nghiệp là tăng lợi nhuận và tiết kiệm chi phí, lợi nhuận và chi phí luôn có quan hệ ngược chiều với nhau.
2.1.4.3. Doanh lợi vốn tự có
Chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn tự có :
Doanh lợi vốn tự có = x 100
Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự có và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp.
2.1.4.4. Doanh lợi vốn
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế để so sánh với tổng tài sản có.
- Với doanh nghiệp sử dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường dùng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài sản
Doanh lợi vốn = x 100%
- Với doanh nghiệp không sử dụng nợ :
Doanh lợi vốn = x 100%
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên 100 đồng giá trị tài sản.
Như vậy, nhóm chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận phản ánh một cách tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng ĐếN lợi nhuận của doanh nghiệp
Để tối đa hóa lợi nhuận thì một điều kiện tiên quyết là các doanh nghiệp phải luôn luôn xem xét và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm kích thích hoặc hạn chế những nhân tố có ảnh hưởng tới lợi nhuận.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của tất cả các mặt, các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như tìm hiểu nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất hàng hóa và tiêu thụ trên thị trường của tất cả các yếu tố và điều kiện tham gia vào quá trình kinh doanh. Nhưng trước hết, lợi nhuận chịu sự tác động trực tiếp của cung - cầu và giá cả thị trường. Nói một cách cụ thể hơn là : lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của đầu vào, đầu ra và giá cả thị trường. Nhưng các yếu tố này lại chịu tác động trực tiếp của tất cả các khâu trong quá trình kinh doanh. Điều đó chứng tỏ lợi nhuận chịu sự tác động tổng hợp của nhiều nhân tố kinh tế, kỹ thuật, tổ chức và xã hội, thị trường thế giới, thị trường trong nước, tình hình kinh tế xã hội của đất nước, của nghành điạ phương và từng đơn vị doanh nghiệp. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu liên quan chặt chẽ đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhân tố 1 : Quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị trường.
Cung cầu là những phạm trù không thể không đề cập tới khi nói đến bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào.
Cầu là lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức giá nhất định, trong một thời gian nhất định với giả thiết là các nhân tố khác không thay đổi.
Cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn bán ở một mức giá nhất định, trong một thời gian nhất định với giả thiết là các nhân tố khác không thay đổi.
Nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ của thị trường sẽ quyết định vấn đề cung của doanh nghiệp trên cơ sở xác định qui mô sản xuất tối ưu.Nếu nhu cầu có khả năng thanh toán đối với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp càng lớn sẽ tạo khả năng tăng qui mô sản xuất kinh doanh, bán được nhiều hàng hóa, dịch vụ với gái cao thì lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại nhu cầu về hàng hóa dịch vụ thấp sẽ dẫn đến tổng mức lợi nhuận thấp. Như vậy chúng ta có thể thấy mối quan hệ cung - cầu có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đáng lưu ý ở đây là nhà kinh doanh luôn luôn muốn bán được khối lượng hàng hóa lớn và do đó họ sẽ định ra giá cả sản phẩm hợp lý mà tại mức giá đó cả người mua và người bán đều chấp nhận được. Có thể nói rằng, quan hệ cung cầu hàng hóa, dịch vụ là nhân tố quyết định qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà việc quyết định tối ưu về qui mô sản xuất cũng chính là quyết định tối ưu về lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhân tố 2 : Việc tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố lao động, vật tư, kỹ thuật...để chế tạo ra sản phẩm hàng hóa. Quá trình này tiến hành tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tạo ra số lượng sản phẩm, đặc biệt là chất lượng sản phẩm và chi phí sử dụng các yếu tố để sản xuất ra hàng hóa đó. Vấn đề được dặt ra ở đây là sau khi đã lựa chọn tối ưu được qui mô sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần tiếp tục lựa chọn vấn đề kinh tế cơ bản không kém phần quan trọng là sản xuất nó như thế nào để có các chi phí đầu vào và chi phí đầu ra thấp nhất, đảm bảo chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Việc quyết định sản xuất như thế nào đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn đầu vào : lao động, vật tư, thiết bị, công nghệ có chất lượng và với giá mua thấp. Các đầu vào được lựa chọ tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và giá thành giảm từ đó có cơ sở tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vấn đề thứ hai mà các doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp thích hợp để kết hợp tối ưu các đầu vào trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Như vậy nhân tố có liên quan chặt chẽ tới quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ và có ảnh hưởng tới lợi nhuận là giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán là một trong những nhân tố quan trọng chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận vì nhân tố này có quan hệ tác động ngược chiều đén lợi nhuận. Nếu giá vốn hàng bán giảm sẽ làm lợi nhuận tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Nhân tố giá vốn hàng bán thực chất phản ánh kết quả quản lý các yếu tố chi phí trực tiếp như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. ta dễ dàng nhận thấy rằng ảnh hưởng của nhân tố này phần nhiều mang tính chủ quan. Vì vậy để khai thác thế mạnh ở nhân tố này những nhà quản lý doanh nghiệp một mặt phải chú ý đến những biện pháp mang tính tình huống để tăng sản lượng và giá bán, mặt khác phải chú ý đầu tư chiều sâu để giảm chi phí sản xuất mà trước hết là các chi phí trực tiếp.
Nhân tố 3 : Việc tổ chức tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
Sau khi hàng hóa, dịch vụ đã được sản xuất ra theo những quyết định tối ưu về sản xuất thì vấn đề tiếp theo của quá trình kinh doanh là phải tổ chức bán hết, bán nhanh , bán với giá cao những hàng hóa dịch vụ đó để có thể tái sản xuất mở rộng. Lợi nhuận chỉ có thể thu được sau quá trình tiêu thụ và thu được tiền về. Việc tổ chức tốt công tác tiêu thụ sẽ làm cho thu nhập tiêu thụ tăng, chi phí tiêu thụ giảm và do đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng. Để tổ chức tốt công tác tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, các doanh nghiệp cần tiến hành tốt các hoạt động về quảng cáo, tổ chức tốt công tác marketing, phương tiện vận chuyển và phương thức thanh toán...
Mục tiêu của việc thực hiện công tác tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường là nhằm tăng tổng doanh thu tiêu thụ. Vì doanh thu tiêu thụ là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, doanh thu tiêu thụ có quan hệ cùng chiều với lợi nhuận doanh thu tăng thì lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại. Sự biến động của doanh thu chịu sự tác động của các nhân tố sau :
* Khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Sản lượng sản phẩm tiêu thụ có quan hệ tác động tỷ lệ thuận với lợi nhuận, sản lượng tiêu thụ tăng bao nhiêu lần sẽ làm lợi nhuận tiêu thụ tăng bấy nhiêu lần và ngược lại.
ảnh hưởng của nhân tố này đến lợi nhuận mang tính chủ quan vì sản lượng tiêu thụ tăng hay giảm có thể do rất nhiều các nguyên nhân khác nhau ảnh hưởng đến như số lượng, chất lượng, mẫu mã, thời hạn sản xuất sản phẩm, giá bán, địa điểm bán hàng cũng như các biện pháp yểm trợ hàng bán như quảng cáo, dịch vụ vận chuyển lắp đặt bảo hành, chiết khấu, giảm giá...nhưng vì mục tiêu lợi nhuận doanh nghiệp cần phải tăng sản lượng tiêu thụ và nó có thể tác động điều chỉnh ở tất cả các khâu trên.
* Kết cấu mặt hàng tiêu thụ
ở đây kết cấu tiêu thụ được nhìn nhận ở góc độ doanh thu. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ là quan hệ về tỷ trọng doanh thu của tất cả các mặt hàng tiêu thu trong kỳ.
Mỗi mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao, thấp khác nhau, nếu kết cấu mặt hàng tiêu thụ thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ trọng của những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao, giảm tỷ trọng của những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thấp thì sẽ làm tăng lợi nhuận tiêu thụ và ngược lại.
ảnh hưởng của nhân tố này vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ có ý nghĩa rất quan trọng đối với những người làm công tác quản lý bên trong doanh nghiệp, đặt biệt là những người làm công tác chiến lược sản phẩm và điều hành sản xuất. Một mặt giúp họ tránh được sự nóng vội chủ quan áp đặt duy ý chí trong việc thay đổi cơ cấu mặt hàng để cơ cấu đó không có sức cạnh tranh. Mặt khác, đối với những mặt hàng có khả năng tiêu thụ như nhau thì doanh nghiệp nên ưu tiên tập trung các nguồn lực sản xuất sẵn có cho việc sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao. Bằng sự ưu tiên để chuyển dịch cơ cấu mặt hàng này không cần tăng chi phí nhưng cũng đem lại nguồn lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp.
* Giá bán sản phẩm
Theo cách xác định của chỉ tiêu lợi nhuận thì giá bán có quan hệ tác động cùng chiều với lợi nhuận. Nhưng đó chỉ là sự biểu hiện bên ngoài đơn thuần về toán học. Về bản chất vận động kinh tế bên trong, giá bán và sản lượng tiêu thụ thường không song hành cùng hướng nếu như không có sự thay đổi lớn về nhu cầu và khả năng tiêu thụ. Do vậy, khi giá tăng ( hay giảm ) một mặt trực tiếp tác động làm tăng ( hay giảm ) lợi nhuận thông quan chênh lệch giá, mặt khác lại gián tiếp làm giảm ( hay tăng ) lợi nhuận thông qua sự tác động của giá làm sản lượng giảm ( hay tăng)
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp hoặc đối với những mặt hàng do nhà nước thống nhất quản lý giá thì sự thay đổi giá dối với doanh nghiệp có thể được xem là yếu tố khách quan. Doanh nghiệp không cần có một quyết định nào về giá. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với đặc trưng nổi bật nhất là sự cạnh tranh mãnh liệt giữa các doanh nghiệp, các sản phẩm thì yếu tố giá càng trở nên phức tạp. Nó vừa là yếu tố ảnh hưởng mang tính khách quan lại vừa mang tính chủ quan. Lợi dụng tính phức tạp của yếu tố giá mà các doanh nghiệp sở dụng giá không chỉ là yếu tố góp phần làm tăng lợi nhuận mà còn là vũ khí rất lợi hại trong cạnh tranh. Với vai trò là vũ khí lợi hại trong điều kiện cạnh tranh, yếu tố giá được sử dụng linh hoạt nhưng phải luôn bám vào và chịu sự chi phối bởi những mục tiêu chiến lược cũng như những mục tiêu sách lược cụ thể của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm trong từng thời kỳ.
Nhân tố 4 : Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh là rất quan trọng có ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quảtình quản lý bao gồm các khâu cơ bản như : định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh, xây dựng các phương án kinh doanh, tổ chức các hoạt động kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu của quá trình quản lý hoạt động kinh doanh làm tốt sẽ làm tăng sản lượng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ giảm được chi phí quản lý và chi phí bán hàng. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp : là các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ hàng hóa và quản lý doanh nghiệp. Các chi phí này phát sinh sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và chúng có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận . Khi chi phí tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Đây là các khoản chi phí có ảnh hưởng tương đối lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại ). Vì vật vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp làm giảm hai loại chi phí này bằng việc giám sát quản lý chặt chẽ, căn cứ vào tình hình nhu cầu thực tế và mục tiêu lợi nhuận, xây dựng nên các định mức cho từng khoản mục chi phí cụ thể. Có làm được như vậy doanh nghiệp mới có khả năng đảm bảo thu được lợi nhuận cao.
Nhân tố 5 : Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, hoạt động của nó không chỉ chịu tác động của các quy luật kinh tế thị trường mà còn chịu sự chi phối của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như : chính sách thuế, tín dụng, tiền tệ, các văn bản, quy chế quản lý tài chính...Tất cả các điều đó đều gây ảnh hương trực tiếp hoặc gián tiếp đến khă năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp. và một trong những nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của doanh nghiệp đó chính là chính sách thuế.
* Chính sách thuế
Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định và không hoàn trae trực tiếp đối với mọi tổ chức kinh tế và mọi công dân cho Nhà nước.
Thuế phải nộp = Thuế suất x Giá trị cơ sở của thuế.
Tùy theo tính chất, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau : thuế môn bài, thuế nhà đất, thuế tài nguyên... Các loại thuế này được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có một số loại thuế gián thu doanh nghiệp thu hộ Nhà nước như VAT, thuế TTĐB, thuế này được tính trong giá bán và đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng. Ngoài các khoản thuế doanh nghiệp còn phải nộp một số khoản phí và lệ phí.
Đây là nhân tố khách quan do Nhà nước qui định tùy thuộc vào doanh thu tính thuế và thuế suất từng mặt hàng. Bởi vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải tính theo dõi, giám sát sao cho đúng vì khi có những thay đổi về thuế phí và lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp cũng thay đổi và do đó kéo theo sự thay đổi của lợi nhuận.
* Chính sách lãi suất
Thông thường để thực hiện việc sản xuất kinh doanh ngoài vốn tự có doanh nghiệp phải vay thêm vốn. Doanh nghiệp có thể vay thêm vốn bằng cách phát hành trái phiếu, vay Ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc tổ chức cá nhân khác và doanh nghiệp phải trả cho người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay cho từng thời kỳ nhất định.
Tiền lãi được tính dựa trên cơ sở lãi suất, số tiền gốc và thời gian vay. Lãi suất cho vay bị giới hạn bởi lãi suất trần do NHNN qui định. Khi NHNN thay đổi lãi suất trần sẽ tác động trực tiếp đến lợi nhuận doanh nghiệp. Bởi lẽ, lãi suất vay ngân hàng được xem là chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặt khác, nếu doanh nghiệp vay của các đơn vị không phải là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng thì lãi suất tối đa được coi là chi phí hợp lý hợp lệ không quá tỷ lệ lãi suất trần do NHNN Việt Nam qui định cho các tổ chức tín dụng.
* Kiểm soát giá
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả không do Nhà nước kiểm soát mà nó được hình thành trên thị trường do sự tác động giữa cung và cầu. Tuy nhiên trong mọt số trường hợp Nhà nước phải kiểm soát giá một số mặt hàng để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh thị trường ví dụ như : Xăng dầu, sắt thép, điện nước...Việc Nhà nước kiểm soát giá đối với một số mặt hàng có thể gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp khi kinh doanh hàng hóa đó.
Trong tất cả các nhân tố cơ bản đã được trình bày ở trên, mỗi nhân tố có vị trí quan trọng khác nhau và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong vấn đề tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mỗi nhân tố trên đều bao gồm các mặt kinh tế xã hội, tổ chức, kỹ thuật nhất định mà chúng ta cần nhận biết để phân tích, đánh giá một cách đầy đủ sự tác động của nó đến lợi nhuận và tìm biện pháp thích hợp nhằm tạo ra môi trường cho sự tác động đồng phương của chúng đối với việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chương II : Thực trạng lợi nhuận của công ty ĐệT KIM ĐÔNG XUÂN hà nội.
I. Một số nét khái quát về công ty
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển công ty
Công ty Dệt kim Đông Xuân là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân và chịu sự quản lí trực tiếp của Tổng công ty Dệt may Việt Nam.
Trụ sở giao dịch chính tại số 67 Ngô Thì Nhậm - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Ngành nghề kinh doanh: Sản xuất các sản phẩm dệt kim.
Trước những yêu cầu khôi phục và phát triển kinh tế của đất nước sau khi hoà bình lập lại, việc hình thành các cơ sở sản xuất lớn là nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong bước đi đầu tiên tiến tới việc xây dựng và phát triển nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Nhà máy Dệt kim Đông Xuân đã ra đời dưới sự giúp đỡ về trang thiết bị, công nghệ sản xuất hàng dệt kim của Trung Quốc, từ các khâu dệt, xử lí hoàn tất đến các khâu cắt may.
Nhà máy được xây dựng từ năm 1958 theo quyết định số 384 của Bộ công nghiệp nhẹ và chính thức được thành lập vào ngày 13/4/1959 tại địa điểm số 67 Ngô Thì Nhậm - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Trong những ngày đầu, cơ sở vật chất của nhà máy còn nghèo nàn, địa điểm chật hẹp, trang thiết bị dây chuyền sản xuất từ khâu dệt xử lí vải đến cắt may chỉ gồm 37 loại với 180 máy móc được chế tạo tại Trung Quốc, Anh, Tiệp Khắc. Trong tình trạng sản xuất còn thiếu đủ đường, nhiệm vụ ban đầu của Nhà máy là sản xuất ra các mặt hàng dệt kim nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phục vụ quân đội.
Từ năm 1963, Nhà máy được giao thêm nhiệm vụ làm hàng xuất khẩu sang Liên Xô, CHDC Đức, Mông Cổ, Lào...
Năm 1980, thực hiện NĐ 213/HĐBT ngày 01/7/1980 của Hội đồng Bộ trưởng, Nhà máy được mở rộng và đầu tư một số lớn máy móc thiết bị thay thế cho số thiết bị đã cũ, lạc hậu, mặt bằng nhà cửa được sửa chữa xây cất thêm. Lúc này thị trường tiêu thụ sản phẩm của nhà máy đã thay đổi về cơ bản, từ chủ yếu tiêu thụ nội địa sang lấy thị trường nước ngoài làm thị trường chính. Năm 1975 sản lượng xuất khẩu chiếm 30% giá trị tổng sản lượng của Nhà máy, hiện nay là khoảng 80%, sản phẩm tiêu thụ nội địa chủ yếu là sản phẩm xuống loại không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu hoặc theo những đơn đặt hàng nhỏ, đơn lẻ.
Từ năm 1987 đến nay, việc cải tạo, mở rộng Nhà máy được tiến hành với tốc độ nhanh và trên một quy mô rộng lớn. Từ chỗ chỉ có 5.620 m2 đến nay tổng diện tích đất xây dựng đã lên tới 21.740 m2 với trên 30.000 m2 nhà xưởng tại cơ sở 1 - số 67 Ngô Thì Nhậm, cơ sở 2 - số 250 Minh Khai và cơ sở 3 - số 5B Minh Khai- Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Hệ thống máy móc, thiết bị được nâng cấp và cải tạo cùng với đầu tư đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, đầu tư thêm khu vực xử lí vải, lắp đặt hệ thống lò hơi dầu Nhật Bản, hệ thống điện lạnh khu vực dệt và may, nâng cao công suất trạm biến áp điện, bổ sung, nâng cấp trên 600 máy móc các loại trên các dây chuyền. So sánh trong toàn ngành dệt may Việt Nam trình độ công nghệ và tính đồng bộ của máy móc, trang thiết bị của Nhà máy thuộc loại trung bình khá.
Thực hiện quyết định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc đăng ký lại doanh nghiệp, ngày 19/8/1992, Nhà máy Dệt kim Đông Xuân được đổi tên thành Công ty Dệt kim Đông Xuân với tên giao dịch là DOXIMEX. Hiện nay sản phẩm chính của Công ty là quần áo dệt kim các loại, áo may ô, áo T-shirt, Polo-shirt, ... với những mẫu mã kiểu dáng đẹp và phong phú. Công ty Dệt kim Đông Xuân có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng của từng mặt hàng mà khách hàng trong nước cũng như ngoài nước đòi hỏi. Công ty luôn đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt này.
1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
1.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý.
Bộ máy quản lí của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng, bao gồm ban lãnh đạo, các phòng ban trực thuộc quản lý sản xuất và phục vụ sản xuất.
Ban lãnh đạo gồm có:
+ Tổng giám đốc Công ty (ông Lê Nam Hưng), là người có quyền cao nhất, quyết định, chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và chịu ._. nghiệp khác 10 năm, trang thiết bị kỹ thuật tương đối hiện đại với dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh từ dệt, xử lý hoàn tất, cắt may, in, thêu của Nhật Bản, CHLB Đức, ý, ... Các sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng cao, đặc biệt là hàng dệt kim 100% cotton luôn được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng và giữ được uy tín trong suốt hơn 40 năm phát triển.
Tay nghề của công nhân đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất bởi để giữ được khách hàng thì chất lượng phải được đặt lên hàng đầu. Sản phẩm của Công ty có nhiều chi tiết hoàn toàn phải làm bằng tay đòi hỏi sự khéo léo và thành thạo trong công việc.
Cũng không thể không nói đến đóng góp của những người làm công tác quản lý của Công ty. Nhờ sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban từ việc thiết kế mẫu, ký kết hợp đồng, xây dựng giá thành ... đến theo dõi, tính toán hoạt động sản xuất của Công ty mà quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty được trôi chảy và thuận lợi.
- Tổ chức tốt hoạt động kinh doanh hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Với định hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, quy cách, mẫu mã sản phẩm đa dạng, thời hạn giao hàng nghiêm ngặt và khả năng cạnh tranh cao, Công ty đã không ngừng đầu tư về nhiều mặt để đáp ứng yêu cầu này. Hơn 10 năm qua, sản phẩm của Công ty đã khẳng định vị trí vững vàng trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là Nhật Bản, áo, Đức ... với các đơn đặt hàng có số lượng ngày càng tăng.
Tuy vậy, Công ty vẫn luôn quan tâm đến thị trường trong nước, tham gia các hội chợ triển lãm để giới thiệu sản phẩm của mình, đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Và trong nhiều năm liền, sản phẩm của Công ty Dệt kim Đông xuân được người tiêu dùng bầu chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao.
- Những đổi mới về cơ chế quản lý của Nhà nước đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh và tự do mở rộng hoạt động sản xuất của mình trong điều kiện pháp luật cho phép.
Thật vậy, với quyết định cho phép doanh nghiệp được trực tiếp ký kết hợp đồng với các đối tác trong và ngoài nước, Nhà nước đã góp phần mở rộng thị trường hoạt động cho doanh nghiệp.
Nhà nước cũng có những biện pháp nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu như ưu đãi về thuế. Tại Nghị định 54 CP ngày 28/8/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại chương IV điều 16, mục 1 khoản E đã quy định rõ " Hàng tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu không phải nộp thuế xuất khẩu khi tái xuất khẩu và được hoàn lại thuế nhập khẩu tương ứng với số hàng thực tái xuất khẩu" và "Nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, nếu thực xuất khẩu trong thời hạn nộp thuế thì không phải nộp thuế nhập khẩu tương ứng với số hàng thực tế thực xuất". Theo nghị định này, sợi, hoá chất và phụ liệu may ... của Công ty là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu do vậy sẽ được miễn nộp thuế nhập khẩu trong thời gian quy định nếu đã sử dụng hết để sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Còn trong Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng có ghi "nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu đã ký với nước ngoài" là đối tượng không chịu thuế GTGT và "hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công xuất khẩu" có thuế suất thuế GTGT bằng 0%.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân.
2.2.2.1 Hạn chế trong tình hình lợi nhuận của công ty.
Mặc dù hoạt động của công ty luôn mang lại lợi nhuận khá cao nhưng qua phân tích trên ta có thể thấy rằng sự gia tăng lợi nhuận của công ty có sự sụt giảm đáng kể nhất là lợi nhuận của năm 2002 so với năm 2001 chỉ tăng 64 triệu đồng. tỷ trọng Lợi nhuận/Doanh thu thuần quá nhỏ bé (năm 2000:1,23%; năm 2001: 1,298%; năm 2000: 1,082%), điều này chứng tỏ các chi phí phát sinh còn cao và đây là một hạn chế cần khắc phục để có thể tăng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận theo lao động (=LNST/Tổng chi phí tiền lương) giảm từ 7,44% năm 2001 xuống còn 7,01% năm 2002 cho thấy việc quản lý và sử dụng lao động của Công ty kém hiệu quả hơn. Mặt khác, tốc độ tăng của quỹ lương (23,41%) nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng của giá trị số lượng sản phẩm (7,98%). Đây cũng điều không có lợi đối với sự phát triển lâu dài của Công ty.
2..2.2. Nguyên nhân của việc lợi nhuận thấp so với doanh thu.
Như đã trình bày ở trên, hạn chế lớn nhất đối với lợi nhuận của Công ty đó là mức chi phí còn quá cao dẫn đến lợi nhuận bị giảm thấp đi. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến việc tổng lợi nhuận đạt được còn quá thấp so với tổng doanh thu đạt được?
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh/Doanh thu thuần tương đối cao, năm 2001 là 13,27% và năm 2002 là 14,79%. Trong chi phí này phải nói đến khoản mục lãi vay ngân hàng. Tỷ lệ Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của 2 năm tương ứng là 66,14% và 60,04% cho thấy gánh nặng trả nợ của Công ty không phải là nhỏ và do vậy lãi vay trả hàng tháng cũng là một con số đáng kể. Ngoài ra lãi suất vay đầu tư của các Ngân hàng thời điểm Công ty thực hiện còn cao lại phải chịu chênh lệch tỷ giá hơn 30% do đầu tư bằng nguồn vốn vay thương mại đã ảnh hưởng đến hiệu quả sau đầu tư.
Tốc độ tăng của giá vốn hàng bán nhanh hơn tốc độ tăng của tổng doanh thu.
Tốc độ tăng của quỹ lương (23,41%) nhanh hơn tốc độ tăng của gía trị sản lượng sản phẩm (7,98) có nghĩa là chi phí thực tế tiền lương trong giá thành sản phẩm đã tăng. Đối với cán bộ công nhân viên của Công ty thì thu nhập được tăng nhưng đối với Công ty thì là tăng một khoản chi phí. Công ty chọn con đường giảm bớt lợi nhuận để nâng cao đời sống người lao động là một chủ trương đúng đắn nhưng không phải là biện pháp lâu dài bởi lợi nhuận bị thu hẹp có thể ảnh hưởng tới việc tái sản xuất.
VAT phải nộp năm 2002 tăng 144 triệu so với năm 2001. Như đã giải thích ở phần trên, ngoài nguyên nhân là Nhà nước ta chuyển từ thuế doanh thu sang thuế GTGT dẫn đến sự thay đổi về phương pháp tính thuế, mức thuế suất, ... phải kể đến hậu quả của những năm 80 để lại. Đó là lượng hàng xuất cho Đông Âu bị tồn đọng trị giá gần 30 tỷ đồng. Do không được khấu trừ VAT đầu vào khiến cho số VAT phải nộp tăng lên.
Và nguyên nhân khiến cho mức tăng trưởng của lợi nhuận bị chững lại là do: việc chọn phương án đảo chuyển sản xuất để giải quyết vấn đề môi trường tại cơ sở sản xuất chính cùng với việc tiếp quản phần đất Công ty Dệt 8/3 giao phải thoả thuận với Văn phòng Kiến trúc sư trưởng Thành phố về chỉ giới quy hoạch nên trong 5 năm qua chưa thể tiếp tục đầu tư để tăng về doanh thu và chất lượng sản phẩm. Đồng thời việc giải quyết các nguồn vốn ưu đãi để thực hiện các dự án đầu tư chiều sâu, giải quyết về môi trường của Công ty được Bộ công nghiệp nhẹ (trước đây) phê duyệt gặp nhiều khó khăn phải huỷ bỏ do đó đã trực tiếp hạn chế Công ty thực hiện chiến lược phát triển.
Điều quan trọng nhất trong các nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm của lợi nhuận là do giá bán sản phẩm trên thị trường giảm (đặc biệt là thị trường quốc tế) và sự sụt giảm về qui mô của thị trường xuất khẩu chủ lực là Nhật Bản (giảm cả về số lượng và kim ngạch). Và việc mất đi một số thị trường như áo, Đan Mạch . Thêm một nguyên nhân từ phía chủ quan nữa là do Hiệp định thương mại Việt Mỹ thực thi, như nhiều công ty khác trong ngành dệt may Việt Nam công ty đã chủ động sử dụng các nguồn lực, chuyển hướng sang thị trường nằy nhằm xây dựng chỗ đứng vững chắc tại đây, chính vì vậy mà thị trường Nhật và EU bị giảm.
Các nước Đông Âu trước đây vốn vận hành cơ chế phân phối, cung đáp ứng nhu cầu, mức độ hưởng thụ thấp hơn các nước tư bản. Sau khủng hoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, thị trường các nước này trở thành thị trường phi tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, nhãn hiệu, nguồn gốc, dễ dàng chấp nhận những sản phẩm có chất lượng thấp hơn. Tận dụng điều này các nước Tây á, Nam á giáp biên giới như ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Băng la đét, Trung Quốc ... đổ xô vào trong khi Việt Nam không thuận lợi về mặt địa lý, và những Công ty lớn như Doximex không thể làm như vậy được bởi độ an toàn không cao. Ngoài ra cơ chế thanh toán cũng là một trở ngại lớn đối với Công ty.
Tất cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đây đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty và căn cứ vào những nguyên nhân này để em đề ra giải pháp cũng như kiến nghị nhằm đạt được mục đích tăng lợi nhuận.
chương III: Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty Dệt kim Đông xuân
Nguyên lý kinh doanh buộc nhà kinh doanh nào cũng phải biết là: Muốn tăng lợi nhuận phải thực hiện được tăng doanh thu và giảm chi phí. Để đưa ra những giải pháp mang tính khả thi, chúng ta cần dựa trên nguyên tắc:
- Căn cứ vào chế độ tài chính kế toán: Mỗi nước đều xây dựng cho mình một hệ thống riêng phù hợp với đặc điểm tình hình phát triển kinh tế đất nước và cơ chế tài chính. Trên cơ sở đó, các đơn vị kinh tế vận dụng vào thực tế công tác tài chính kế toán của đơn vị mình. Do vậy các giải pháp hoàn thiện công tác kế toán - tài chính phải tôn trọng chế độ.
- Căn cứ vào tình hình thực tế, Công ty không thể dập khuôn áp dụng chế độ vào doanh nghiệp mình mà phải biết vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo.
- Giải pháp hoàn thiện phải xuất phát từ nhu cầu, thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người quản lý.
I Định hướng hoạt động kinh doanh và sự cần thiết phải tăng lợi nhuận ở công ty Dệt Kim Đông Xuân
1.1 Định hướng hoạt động kinh doanh trong những năm tới.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân là doanh nghiệp hàng đầu trong nghành dệt may. Vì thế không năm ngoài xu thế phát triển của toàn ngành. trong những năm tới, công ty tiếp tục mở rộng sản xuât, đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao năng suất, nhất là trong năm 2003 công ty sẽ phấn đấu đưa doanh thu lên đến 100 tỷ và lợi nhuận đạt 1,5 tỷ, tiếp tục các năm sau doanh thu sẽ tăng 8%/năm và mức tăng của lợi nhuận là 8,5%, đưa mức tăng thu nhập bình quân đâu người là 10%. Với năng lực và quyết tâm của toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty thì đây là những chỉ tiêu mà công ty có thể đật được nhưng cũng đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn công ty, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của tổng công ty Dệt May Việt nam.
Ngoài các chỉ tiêu trên thì công ty còn cần phải tiếp tục mở rộng mạng lưới tiêu thụ nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường Mĩ, EU, Nhật…Tiếp tục mở rộng thị trường cả ở trong nước và nước ngoài.
12 Sự cần thiết phải gia tăng lợi nhuận ở cong ty Dệt Kim Đông Xuân.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu kinh tế là để kiếm lợi nhuận.Trong nền kinh tế thi trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Họ mong muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là để bù đắp lại những chi phí bỏ ra, ngoài ra họ còn muốn phần thừa để mở rộng và phát triển sản xuất, trả cổ tức, thưởng cho các nhà quản lý, cho công nhân viên và cho các chủ cổ phiếu - tức là họ muốn có lợi nhuận. Nếu các doanh nghiệp không thể tạo ta được lợi nhuận thì họ cũng không muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu của xã hội về các hàng hóa dịch vụ đó. Do đó, động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định sáng tạo ra sự hoạt động thắng lợi của thị trường hàng hóa dịch vụ.
Đối với công ty Dệt Kim Đôing Xuân, thì việc tìm ra các giải pháp và vận dụng các giải pháp đó một cách có hiệu quả là hết sức cần thiêt. Qua phân tích trên ta có thể tháy hàng năm công ty đều đạt doanh thu khá cao nhưng lợi nhuận mà công ty đạt được lại chưa tương xứng.
2. Giải pháp nhằm tăng doanh thu.
1.1. Đẩy mạnh tiêu thụ ở khu vực nội địa.
Do Công ty tập trung chủ yếu vào hoạt động xuất khẩu nên chưa chú trọng đến tiêu dùng nội địa. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường hàng dệt kim còn bỏ ngỏ. Với năng lực và uy tín của Công ty như hiện nay thì việc chiếm lĩnh thị trường không phải là công việc quá khó. Tuy nhiên để tăng doanh thu tiêu thụ Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng chính sách giá cả phù hợp.
Do hoạt động sản xuất trong nước của Công ty chủ yếu là theo các đơn đặt hàng nhỏ lẻ nên ngoài các mẫu do khách hàng yêu cầu, phòng kỹ thuật của Công ty cần dựa vào khả năng sản xuất cũng như nhu cầu của thị trường trong nước để tạo ra kiểu dáng sản phẩm đa dạng, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày nay không còn là ăn chắc, mặc bền mà là ăn ngon, mặc đẹp. Tính bền của sản phẩm không còn là điều kiện quan trọng nhất mà chất lượng sản phẩm phải được hiểu theo nghĩa vừa bền vừa đẹp. Yếu tố thẩm mĩ đã được đưa lên ngang tầm với chất lượng.
Ngoài ra chính sách giá cả cũng không kém phần quan trọng. Trên thị trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, giá cả hợp lý cũng sẽ là một lợi thế để giành chiến thắng. Tâm lý phổ biến của khách hàng là trung thành với sản phẩm truyền thống mà không chạy theo sản phẩm mới khi chúng có cùng mức giá. Với uy tín trên 40 năm nay, Công ty đã có một lượng khách hàng quen thuộc nhất định. Nhưng để tăng doanh thu, ban đầu Công ty có thể xây dựng giá thấp để giải quyết thị trường, sau đó nâng cao giá để thu hồi vốn rồi dần dần giảm giá xuống mức trung bình và thấp. Cơ sở tiến hành biện pháp xây dựng giá này là do sản phẩm dệt may có chu kỳ sống ngắn và theo mùa.
- Đẩy mạnh những biện pháp kích thích tiêu thụ.
Hiện nay Công ty đã có 4 gian hàng giới thiệu sản phẩm ở các phố Ngô Thì Nhậm, Hoà Mã, Khâm Thiên và Minh Khai. Tuy nhiên địa điểm của các gian hàng này không nằm ở những khu trung tâm buôn bán nên chưa thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng. Thế nhưng nếu di chuyển đến những nơi thuận lợi cho hoạt động kinh doanh thì chi phí sẽ rất cao. Do vậy các cửa hàng cần thu hút khách hàng bằng cách trưng bày sản phẩm dễ nhìn và bắt mắt, thái độ người bán hàng cần niềm nở và chu đáo. Điều này sẽ tạo cảm giác thoải mái và gây ấn tượng tốt cho người mua. Song song với điều đó, Công ty cần tiếp tục tham gia các hoạt động chung của toàn ngành như triển lãm, hội chợ thời trang để theo kịp với sự phát triển của thời đại. Ngày nay, người tiêu dùng rất ít khi mua sản phẩm của những hãng, công ty mà họ không biết đến bởi họ không được đảm bảo về chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, nếu hoạt động quảng cáo, khuếch trương được thực hiện hiệu quả thì chắc chắn việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty sẽ tiến triển hơn.
Đồng thời, các biện pháp trong tiêu thụ như giảm giá, chiết khấu phải được thực hiện một cách nhất quán nhưng vẫn linh hoạt để khuyến khích khách hàng. Thực hiện duy trì và bổ sung thêm một số hình thức thanh toán ưu đãi đối với những đơn vị có quan hệ hợp tác lâu dài, có trách nhiệm với Công ty và cả những khách hàng truyền thống.
- Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một trong những biện pháp quan trọng để tăng doanh thu tiêu thụ của Công ty Dệt kim Đông Xuân. Hoạt động của Công ty chủ yếu dựa trên các đơn đặt hàng do khách hàng yêu cầu nên Công ty không quan tâm nhiều đến điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường hiện tại ra sao. Vì vậy, để chủ động trong cơ chế thị trường và để thu hút thêm khách hàng thì Công ty phải tiếp xúc với người tiêu dùng để nắm rõ nhu cầu, sở thích của họ. Việc nghiên cứu, tìm hiểu này cần được tiến hành một cách thường xuyên nhằm phản ánh những thông tin kịp thời.
1.2. Đẩy mạnh tiêu thụ ở khu vực xuất khẩu.
Lĩnh vực xuất khẩu của Công ty gồm hai hoạt động:
- Gia công hàng xuất khẩu.
- Sản xuất hàng xuất khẩu.
Thực tế, lợi nhuận thu được từ hoạt động gia công hàng xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng lợi nhuận kinh doanh của Công ty, còn hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu mới đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, đối với cả hai hoạt động này, để tăng doanh thu tiêu thụ Công ty cần:
- Xâm nhập thị trường mới và mở rộng thị trường đã có.
Đối với các thị trường truyền thống, Công ty vẫn tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác sản xuất, đặc biệt là với Nhật Bản. Trong quan hệ hợp tác với Nhật, Công ty thu được ba điều lợi:
+ Không phải lo thị trường đầu ra.
+ Thu được bí quyết sản xuất (know-how) của nước bạn.
+ Tận dụng được vốn lưu động, không phải đầu tư nhiều về máy móc thiết bị.
Đổi ngược lại để giữ được khách hàng và thị trường, Công ty cần đảm bảo chất lượng cũng như tiến độ giao hàng, đổi mới công nghệ và bảo vệ bí quyết công nghệ.
Đối với một số thị trường, sản phẩm xuất khẩu của Công ty lại được tái xuất sang một nước khác bởi so với những nước này, giá sản xuất ở Việt Nam vẫn là rẻ. Bởi vậy Công ty phải tìm cách để có thể trực tiếp xuất sản phẩm của mình sang những thị trường tái xuất này bởi lúc đó giá sẽ cao hơn, lợi nhuận thu về cũng nhiều hơn. Đây là con đường để Công ty thực hiện tăng doanh thu, cũng đồng thời là tăng lợi nhuận của mình.
Mục tiêu trước mắt của Công ty là khôi phục lại thị trường Châu Âu. Đối với thị trường Đông Âu, Công ty đã có quan hệ từ trước khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Đây cũng là một lợi thế của Công ty khi quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và những nước này được nối lại. Nhưng trong thời gian chờ đợi, Công ty cần tiến hành dần các hoạt động nghiên cứu nhu cầu thị trường cũng như những đối tác tiềm năng trong tương lai để có sự chuẩn bị chu đáo, đồng thời để chiếm ưu thế ngay từ đầu. Còn đối với các nước Tây Âu thì thực sự là khó khăn bởi trong hai năm gần đây, các đơn vị sản xuất phải tham gia đấu thầu hạn ngạch trong khi cung nhiều mà cầu lại ít. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt mà để thắng thầu Công ty phải có ưu thế về vốn cũng như năng lực sản xuất để đưa ra mức giá có tính cạnh tranh.
- Thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm: Để thu hút thêm khách hàng, Công ty cần nghiên cứu nhu cầu thị hiếu và sở thích của nước bạn để sản xuất các mặt hàng phù hợp, đồng thời nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh. Song song với việc mở rộng mặt hàng là việc nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác tối ưu công suất của máy móc thiết bị và nâng cao tay nghề cho công nhân.
3. Giải pháp nhằm giảm chi phí
2.1. Giảm chi phí sản xuất.
- Nguyên vật liệu.
Điều cần thiết là phải hạ thấp chi phí đầu vào của nguyên vật liệu. Hiện nay, nguyên vật liệu của ngành may mặc trong nước từ cúc, chỉ ... đến vải đều đã được cải tiến, nâng cao chất lượng nên Công ty cần tìm những nguồn hàng ngay trong nước để thay thế dần các nguồn cung cấp từ nước ngoài. Điều này sẽ làm giảm đáng kể chi phí nguyên vật liệu. Tuy nhiên để thực hiện được kế hoạch Công ty cần nhanh chóng xúc tiến hoạt động tìm hiểu, tìm kiếm các nhà phân phối, cung cấp trong nước. Cũng cần theo dõi chặt chẽ sự biến động của giá cả để có quyết định mua với số lượng bao nhiêu và vào thời điểm nào là thích hợp nhất. Với vật liệu chính cần có chính sách đấu thầu với bên bán để có được mức giá hợp lý với nguồn cung cấp ổn định, thường xuyên. Vật liệu phụ dùng ít thì mua vừa phải, tránh tình trạng ứ đọng, tiết kiệm được chi phí bảo quản. Với các nguyên vật liệu còn phải nhập thì phải có kế hoạch thu mua, dự trữ hợp lý nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, tránh tình trạng thiếu nguyên vật liệu, bị ép giá. Đồng thời, phải luôn chú ý sửa chữa, nâng cấp kho tàng, kiểm tra vật liệu trong kho tránh để ẩm mốc, chuột gặm...
Mặt khác Công ty cần xây dựng hệ thống định mức tiêu hao vật liệu cho phù hợp, tránh tình trạng thiếu, phải mua thêm với mức giá bị ép, hoặc thừa phải bán đi với giá thấp hơn giá mua vào. Điều này phụ thuộc vào công tác kế hoạch hoá vật tư của Công ty và cán bộ thực hiện nhiệm vụ này. Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý, giám sát sử dụng nguyên vật liệu, tránh tình trạng sử dụng lãng phí. Đồng thời cần tuyển dụng, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề để hạn chế những sản phẩm hỏng, tiết kiệm nguyên vật liệu đồng thời nâng cao hiêu quả sản xuất.
- Tiền lương.
Tiết kiệm chi phí tiền lương phải được hiểu theo nghĩa là tăng năng suất lao động của người công nhân. Để làm được điều này, yếu tố trước tiên phụ thuộc vào tay nghề của công nhân và do đó tất yếu liên quan đến việc tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực. Khi trình độ tay nghề nâng cao, thời gian hoàn thành sản phẩm cũng được rút bớt, chi phí do sản phẩm hỏng, không đạt yêu cầu cũng giảm xuống. Như vậy, Công ty vừa tăng được năng suất người lao động, đồng thời giảm được những khoản chi phí không cần thiết. Bên cạnh đó, nên tổ chức những cuộc thi tay nghề giỏi nhằm khuyến khích công nhân không ngừng học hỏi lẫn nhau. Đồng thời áp dụng hình thức khen thưởng đối với những cá nhân, bộ phận sản xuất làm việc có năng suất lao động cao, ít sản phẩm hỏng hoặc có những sáng kiến, cải tiến phục vụ cho hoạt động sản xuất. Đối với những công nhân bậc cao, có kinh nghiệm, Công ty cần áp dụng chính sách lương bổng, trợ cấp hợp lý để thu hút người lao động đồng thời để họ yên tâm sản xuất, tránh tình trạng bỏ đi làm ngoài. Có như vậy, Công ty vừa đỡ mất nhân lực, vừa không mất thời gian và chi phí đào tạo mới.
Đối với hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ của Công ty hiện tại được đánh giá là tương đối hiện đại, nhưng việc đầu tư đổi mới công nghệ luôn là một trong những nhân tố quan trọng để thực hiện hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm Công ty trên thị trường. Bởi vậy, một trong những biện pháp cần thiết là trích lợi nhuận thu được hàng năm để thành lập quỹ đầu tư phát triển nhằm mua sắm máy móc thiết bị mới.
2.2. Giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh.
Trong chi phí nghiệp vụ kinh doanh có chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí bán hàng năm 2002 chỉ tăng 0,097% trong khi chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 8,12%. Như vậy biện pháp cần làm đó là tuyên truyền ý thức tiết kiệm trong công nhân viên, nêu cao ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên Công ty từ việc sử dụng điện, nước, điện thoại đến đồ dùng văn phòng, ... Mặt khác, giảm chi phí quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở việc xây dựng một bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả chứ không chạy theo chỉ tiêu số lượng.
3. Một số giải pháp khác.
Mặc dù những năm qua, Công ty đã cố gắng xây dựng một bộ máy tổ chức hợp lý, phù hợp với thực tế nhưng là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, cụ thể là sản phẩm may mặc mà hoạt động Marketing của Công ty hầu như không đáng kể. Vì vậy Công ty nên thành lập một phòng Marketing chuyên đảm nhận việc quảng cáo, giới thiệu, khuếch trương sản phẩm đến mọi đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam cũng như thị trường ngoài nước. Có phòng chuyên môn này, sản phẩm của Công ty sẽ được biết đến nhiều hơn. Đồng thời đây cũng là cầu nối để Công ty nhận được thông tin phản hồi từ phía khách hàng về sản phẩm của mình. Những thông tin này sẽ giúp Công ty nhanh chóng bắt kịp với nhu cầu của thị trường để thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, ... cho phù hợp. Như vậy phòng Marketing đã gián tiếp góp phần vào việc tăng lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của Công ty.
Ngoài ra cần tăng cường công tác kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất bởi nguyên vật liệu của Công ty được mua từ nhiều nguồn khác nhau nên cần có sự giám sát chặt chẽ, cụ thể về số lượng, giá cả, chất lượng. Khi sản phẩm hoàn thành cũng cần phân loại rõ ràng, tránh bỏ sót những sản phẩm không đạt yêu cầu. Điều này sẽ giúp cho Công ty bảo vệ được uy tín của mình.
4. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra.
4.1. Kiến nghị với Nhà nước.
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước nên tất yếu không thể tránh khỏi những vấn đề mà Nhà nước cần phải giải quyết. Đó là mặt trái của cơ chế thị trường với các hoạt động tiêu cực như đầu cơ, buôn lậu, hối lộ, ... mà nếu không được xoá bỏ thì không thể tạo được môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển bền vững và đương nhiên các doanh nghiệp - với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế - cũng không thể làm ăn có hiệu quả được. Vì vậy có thể nói, tạo một môi trường kinh tế xã hội thuận lợi là Nhà nước đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trước hết Nhà nước cần sớm ban hành và thực thi một hệ thống luật pháp rõ ràng, thống nhất nhằm tạo một hành lang pháp lý, một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Cụ thể là Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật quy định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Đó là những chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thương mại ... làm nền tảng pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp. Kèm theo đó là các văn bản hướng dẫn việc tổ chức thực hiện cũng như giải quyết những vướng mắc bất lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện luật thuế GTGT và thuế xuất nhập khẩu.
Trên thị trường, hàng nhập lậu trốn thuế, hàng nhái chất lượng thấp, bán phá giá gây khó khăn cho tiêu thụ nội địa. Công ty cùng với các cơ quan ban ngành chức năng cần có biện pháp xử lý để bảo vệ uy tín của mình.
Để hàng hoá của Việt Nam làm quen với thị trường Mỹ vốn là một thị trường đầy triển vọng thì chính phủ cần tạm thời trợ giá cho các doanh nghiệp. Đây là một hình thức đầu tư trước thu về sau, còn nếu để doanh nghiệp phải chịu thuế một mình thì không có doanh nghiệp nào đủ sức chịu được mức thuế suất thuế nhập khẩu cao như hiện nay của Mỹ.
Đối với các nước bạn Đông Âu, có một khó khăn là cơ chế thanh toán kéo dài thời gian gây mất hiệu quả của đồng vốn. Cụ thể là hàng giao đi rồi, sau khi được chính phủ nước họ chấp nhận là hàng Việt Nam trả nợ thì các tổ chức tài chính Việt Nam mới giải ngân vốn. Khoảng thời gian này tương đối dài, phải mất nhiều tháng. Điều đó đồng nghĩa với việc vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng, do vậy ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất. Vậy để khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn giải quyết của các cơ quan có liên quan, thực hiện cơ chế một cửa một dấu, tránh những thủ tục hành chính phiền hà không cần thiết.
Một vai trò không thể thiếu của Chính phủ là hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp lựa chọn hướng kinh doanh thông qua những chính sách của mình và hệ thống thông tin, dự báo thị trường của Nhà nước. Trong lĩnh vực này, những thông tin của Nhà nước sẽ là quyển sách tham khảo tin cậy đối với doanh nghiệp để doanh nghiệp ra quyết định.
4.2. Kiến nghị với Tổng công ty.
Để đạt được những thành tích như ngày hôm nay không thể không nói tới sự giúp đỡ, đóng góp về mặt vật chất cũng như tinh thần của đơn vị chủ quản - Tổng công ty dệt may Việt Nam. Trong ba năm 2001 - 2003, Công ty dự kiến thực hiện xong dự án đầu tư thiết bị công nghệ và đảo chuyển địa điểm sản xuất, đưa công suất của Công ty từ 1.200 tấn/năm lên 3.000 tấn/năm. Dự án đầu tư được thực hiện chủ yếu bằng nguồn vốn vay của các Ngân hàng thương mại. Song để dự án thực sự đem lại hiệu quả tối đa, Công ty rất mong Tổng công ty tạo điều kiện để được sử dụng nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước vào các hạng mục XDCB và hỗ trợ vốn để Công ty xây dựng nhà xưởng mới nằm trong dự án đầu tư nói trên.
Kết luận
Trong mọi nền kinh tế, dù được gọi bằng những tên khác nhau thì cái đích cuối cùng mà những người làm kinh doanh muốn hướng tới chính là lợi nhuận. Cơ chế thị trường với những quy luật của nó đã trở thành động lực buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải làm ăn có hiệu quả, tức là hoạt động kinh doanh có lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả của việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất.
Công ty Dệt kim Đông Xuân ra đời trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Song với sự động viên giúp đỡ của Tổng công ty Dệt may Việt Nam và sự cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên, Công ty đã vươn lên trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong ngành dệt may. Tuy nhiên để có thể đạt được thành tích cao hơn nữa, Công ty còn phải nỗ lực rất nhiều trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Nắm bắt được ý nghĩa trên, những nghiên cứu trong chuyên đề này đề cập tới những điểm mấu chốt sau:
- Phân tích tình hình lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt kim Đông Xuân bao gồm lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu (hoạt động chính của Công ty) và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất trong nước.
- Các nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới lợi nhuận của Công ty.
- Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị với Nhà nước và Tổng công ty Dệt may Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Công ty tăng lợi nhuận.
Chuyên đề "Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân" là kết quả của quá trình thực tập, nghiên cứu và vận dụng lý luận vào tìm hiểu thực trạng lợi nhuận của Công ty. Em hy vọng rằng những giải pháp này sẽ có ích trong việc làm tăng lợi nhuận của Công ty trong thời gian tới.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Cô giáo- T.S Nguyễn Thị Thu Thảo, các cô và các anh chị trong phòng tài chính kế toán Công ty Dệt kim Đông Xuân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp.
NXB Giáo dục - 2002.
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Trường ĐHKTQD .
NXB Thống kê Hà Nội - 1998.
3. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Trường ĐHTC.
NXB Giáo dục - 1999.
4. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT.
NXB Tài chính Hà Nội - 1999.
5. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh.
NXB Giáo dục - 1997.
6. Phan tích báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh.
NXB Giáo dục - 1997.
7. Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
NXB Giáo dục - 1996.
8. Lịch sử các học thuyết kinh tế.
NXB Giáo dục - 1999.
9. Nghị định, thông tư hướng dẫn thực hành thuế GTGT và thuế xuất nhập khẩu.
10. Tạp chí Tài chính 2001,2002.
11. Tạp chí Dệt và May 2001,2002.
12. Báo cáo tài chính của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
Nhận xét của cơ quan thực tập
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH339.DOC