Lời mở đầu
Để có thể đạt được những mục tiêu đề ra trong qua trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế XHVN từ nay đến năm 2020 là phấn đấu đưa nước ta về cơ bản trở thành một quốc gia có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm ở mức 8% -10% và thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH đất nước thì vốn là yếu tố quan trọng thiết yếu được đặt lên trên hàng đầu .
Theo ước tính của một số chuyên gia kinh tế thì từ năm 2001- 2020 VN cần khoảng 500- 550 tỷ U
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm tăng cung hàng hóa cho thị trường chứng khoán hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SD vốn đầu tư . Vậy làm thế nào để nước ta có thể huy động được lượng vốn khổng lồ như vậy.
Chúng ta biết vốn có thể huy động từ nhiều nguồn (kênh dẫn truyền vốn) như: Tín dụng ngân hàng(TDNH), thị trường chứng khoán(TTCK) , Đầu tư nước ngoài (FDI), tài trợ phát triển chính thức (ODA) nhưng trong điều kiện hiện nay khi nguồn vốn FDI, ODA có xu hướng giảm do ảnh hưởng của những biến động về kinh tế - chính trị trên thế giới và trong khu vực.Đồng thời vốn huy động từ kênh TDNH chủ yếu là vốn Ngân hàng.
Vậy thì, việc huy động vốn từ TTCK - cái nôi tập trung của mọi nguồn vốn mang tính chất trung dài hạn là mục tiêu quan tâm của hầu hết các dự án đầu tư phát triển.
Và ngày 20/07/2000 TTGDCK đầu tiên của nước ta đã đi vào hoạt độngtại Thành phố HCM. Tuy nhiên để tổ chức thành lập được một TTCK không khó mà cái khó là làm sao các thị trường đó phải hoạt động được và có sức sống phát huy được vai trò là công cụ thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư.
TTCK VN mới đang ở những bước đi đầu tiên, ban đầu trên con đường tiến tới thành lập Sở giao dịch chứng khoán(SGDCK) hoàn chỉnh. TTCK VN ra đời và hoạt động trên bối cảnh các yếu tố thị trường còn đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ và chưa thực sự phát triển, hệ thống các thị trường tài chính(TTTC), TTCK của nước ta đang phải đương đầu và vượt qua rất nhiều khó khăn, hạn chế nội tại để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển.
Cụ thể là sau gần hai năm đi vào hoạt động vấn đề hàng hoá luôn luôn là vấn đề thời sự thực tế bức xúc mà các nhà hoạch định chính sách, công tác quản lý, các chuyên gia kinh tế cảu UBCKNN vẫn luôn đau đầu để tìm ra giải pháp với hy vọng TTCK VN có thể hoạt động phát triển cạnh tranh trong tương lai - chứng thựcTTCK là cái mà hiện nay nền kinh tế Việt nam đang rất cần để có thêm cơ hội huy động triệt để , tối đa huy động mọi nguồn vốn.
Với quan điểm như trên, bài khoá luận với tiêu đề “ Một số giải pháp nhằm tăng cung hàng hoá cho TTCK VN hiện nay” được viết ra mong đưa lại một cái nhìn toàn diện tổng quát và những nhận định khách quan về thực trạng hàng hoá trên TTCKVN, đồng thời mạnh dạn đưa ra một sô kiến nghị nhằm bổ sung thêm những giải pháp tăng cung hàng hoá.
Khoá luận bao gồm 3 phần chính:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hàng hoá và sự tạo hàng hoá cho TTCK
Chương II: Thực trạng các CK đã phát hành trên TTCK VN
Chương III: Chính sách và giải pháp tăng cường hàng hoá cho TTCK Việt Nam hiện nay.
Do thời gian cũng như điều kiện qua khảo sát thực tế còn hạn hẹp chắc chắn bài khoá luận không tránh khỏi những sai sót nhất định.Tôi kính mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của các thầy cô và những người có cùng sự quan tâm để bài khoá luận có thêm những ý nghĩa thiết thực cho sự phát triển TTCKVN nói chung và tăng lượng cung hàng hoá cho TTCK VN nói riêng.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới những thầy cô trường Học viện Ngân hàng - những người đã tận tâm trang bị cho tôi đủ những kiến thức và tư duy để hoàn thành tốt khoá luận. Bên cạnh đó tôi kính mong được cám ơn sự chỉ bảo nhiệt tình của TS Tôn Tích Quý - người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khoá luận này, tôi xin cảm ơn Thạc sĩ Vũ Thị Kim Liên - Vụ trưởng Vụ quản lý và phát hành CK đã tận tình hướng dẫn tôi nơi cơ quan thực tập để tôi có thêm cơ hội tiếp cận trực tiếp với thực tế.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về hàng hoá và sự tạo hàng hóa cho TTCK.
Giới thiệu chung về Thị trường chứng khoán.
Lịch sử hình thành và phát triển TTCK.
Sự hình thành TTCK:
TTCK xuất hiện vào thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của Chủ nghĩa tư bản, lúc này nhu cầu về vốn của giai cấp tư sản mứi ra đời và của Chính phủ rất lớn. TTCK ban đầu phát triển một cách tự phát và sơ khai. Vào giữa thế kỷ XV tại những trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thương tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hoá ...lúc đầu chỉ dơn thuần là nhóm nhỏ, sau đó phát triển dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ đã trở thành “thị trường” với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước dược sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia thị trường.
Phiên chợ đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ quán của một nhà buôn – nhà môi giới tên là Van Ber Buerzo tại thị trấn Bruges (thuộc nước Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là “Bourse” tức là “Mậu dịch thị trường”. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của “Mậu dịch trường” là: mậu dịch trường hàng hoá, mậu dịch trường ngoại tệ và mậu dịch trường giá khoán động sản. Đến năm 1547, thị trấn Bruges mất hẳn sự phồn vinh vì eo biển Evin dẫn vào thị trấn bị cát lấp mất. Mậu dịch trường được chuyển sang thị trấn Antwerpen, một hải cảng lớn của Bỉ thời đó. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các giao lưu kinh tế trong tong quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau, các mậu dịch trường không còn phù hợp và đủ sức cho các giao dịch với ba nội dung hoàn toàn khác nhau. Do đó theo lẽ tự nhiên, nó được tách thành các thị trương khác nhau : giao dịch hàng hoá được tách thành khu thương mại, giao dịch ngoại tệ tách ra thành thị trường hối đoái, giao dịch giá khoán động sản tách ra thành TTCK và các giao dịch tương lai được tách ra thành các “thị trường tương lai”.
Sự phát triển của TTCK:
Lần đầu tiên vào năm 1531, thị trường phát triển mạnh ở Antwerpen thực hiện các nghiệp vụ về CK ( Trái phiếu Chính phủ của Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp...). Mậu dịch trường Antwerpen sụp đổ vào cuối thế kỷ XVI, khi Tây Ban Nha xâm chiếm Antwerpen và khi vua chúa Tây Ban Nha và Pháp chấm dứt trả nợ.
Năm 1608, TTCK Amsterdam (Hà Lan) được thành lập và tiếp theo nó là sự ra đời của các TTCK London (1793), New York (1792), Paris (1808), Durich (1876), Tokyo (1878)...
Từ đầu thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX, hàng hoá lưu thông trên TTCK chủ yếu là CK nợ của Chính phủ, vì lúc này số lượng cổ phiếu còn hạn chế bởi công ty cổ phần chưa nhiều. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, phong trào CPH doanh nghiệp phát triển rầm rộ ở các nước công nghiệp, tạo ra sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu các loại CK lưu thông trên TTCK. Các loại cổ phiếu và trái phiếu dài hạn của các công ty cổ phần đã chiếm ưu thế trong khối lượng CK giao dịch trên tất cả các TTCK thế giới.
Lịch sử phát triển TTCK trên thế giới đã trải qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875-1913, TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bắt nguồn bởi sự sụp đổ của SGDCK New York vào mùa thu năm 1929 do có sự đầu cơ mua bán khống khiến cho giá CK bị mất giá kéo theo là sự sụp đổ hàng loạt các SGDCK của nhiều quốc gia, là nguyên nhân chính gây ra cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933). Sau sự kiện lịch sử này, chính quyền các nước tư bản đã buộc phải can thiệp vào hoạt động của thị trường, đồng thời tiến hành kiểm soát các nghiệp vụ CK bằng việc ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan về CK và TTCK. Sau thế chiến thứ hai, TTCK các nước phát triển lại phục hồi và phát triển trở lại. Thế nhưng vào năm 1987, “Cuộc khủng hoảng tài chính” một lần nữa làm rung động và gây hiện tượng sụp đổ cho không ít các TTCK lớn trên thế giới. Lần này, hậu quả của nó để lại mang tính chất nghiêm trọng và nặng nề hơn cuộc đại khủng hoảng những năm 1929-1933.
Tuy nhiên chỉ 2 năm sau,TTCK thế giới lại đi vào hoạt động ổn định, phát triển và trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
Ngày nay, TTCK của nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng phát triển lớn mạnh cả về qui mô lẫn trình độ và có xu hướng toàn cầu hoá cao.
Khái niệm và vai trò của TTCK đối với nền kinh tế.
A-Khái niệm
Trong lịch sử hình thành phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ được hình thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiền tiết kiệm trong dân cư chưa cao và ban đầu nhu cầu về vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn .Sau đó, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao và thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng những nhu cầu này.Để huy động được các nguồn vốn dài hạn bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và một số công ty còn thực hiện huy động thông qua việc phát hành CK.
Khi một bộ phận nhất định các CK có giá đã được phát hành thì tất yếu sẽ làm nảy sinh nhu cầu về mua bán trao đổi các CK đó, chính vì vậy, TTCK đã ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi CK các loại.
Vị trí của TTCK trong hệ thống thị trường tài chính có thể được biểu thị khái quát như sau:
Thị trường
tài chính
Thị trường tài
Chính dài hạn
(Thị trường vốn)
Thị trường tài
chính ngắn hạn
(Thị trường tiền tệ)
Thị trường
Chứng khoán
Thị trường vay
nợ dài hạn
TTCK là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại, là sản phẩm tự nhiên, tất yếu của tiến trình phát triển, là biểu hiện sinh động nhất của nền kinh tế thị trường. Đến nay hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có TTCK, song cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất được một định nghĩa chuẩn về TTCK. Có rất nhiêù kháI niệm về TTCK được đưa ra:
Ông Neil F. Stapley trong cuốn “Stock market Aguide for the private Investor” đưa ra khái niệm “là một thị trường phức tạp, cao cấp mà hàng hoá giao dịch mua bán là những cổ phiếu và cổ phần”
Tác giả Trần Xuân Kiệm trong cuốn “Hỏi đáp về TTCK và công ty cổ phần” cho rằng “TTCK là nơi giao dịch mà ở đó hàng ngàn người mua vào và bán ra các cổ phần mỗi ngày thông qua các đại lý của họ, là những người môI giới CK”.
Hai quan điểm trên đây đề cập hàng hoá mua bán trên TTCK chỉ bao gồm cổ phiếu, trong khi đó hàng hoá của TTCK rất phong phú đa dạng, không chỉ có cổ phiếu, trái phiếu mà còn nhiều loại CK khác như chứng quyền bảo chứng quyền...Hơn nữa, tính chất thời hạn của loại CK được đưa ra giao dịch trên thị trường không được hai tác giả trên lưu ý.
Ông Young Jackim, một học giả người Hàn Quốc, nói rằng “TTCK là một thị trường trừu tượng nơi các CK được phát hành và giao dịch giữa người mua và người bán”.
Thực chất đây là định nghĩa truyền thống cổ điển, phù hợp với loại hình TTCK đầu tiên ra đời một cách tự phát trong lịch sử, ngày nay loại hình TTCK này được gọi là TTCK phi chính thức hay thị trường thứ ba.
Có lẽ do cơ cấu TTCK ngày nay phức tạp nên khó có một định nghĩa đầy đủ trọn vẹn. Tuy nhiên, đối với một quốc gia,TTCK tập trung là hạt nhân tiêu biểu cho TTCK, nên thông thường người ta đồng nghĩa TTCK tập trung với TTCK. Trong xu hướng đó, người ta chấp nhân định của tài liệu “Longman dictionary of Business English, 1985” như sau: “TTCK là một thị trường có tổ chức, nơi các CK được mua và bán tuân theo những nguyên tắc đã được ấn định”
TTCK ở bất kỳ nước nào, dù mới thành lập hay đã phát triển,đều cấu thành bởi hai bộ phận thị trường có tổ chức khác nhau:
* Thị trường sơ cấp (primary market ):
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các CK mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các CK mới phát hành. Vì vậy, thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường phát hành CK, là nơi tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Vai trò của thị trường sơ cấp:
+ Chứng khoán hoá nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua việc phát hành CK.
+ Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
+ Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các CK đem lại vốn cho người phát hành. Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho bạc, Ngân hàng nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành...
+ Giá CK trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên CK.
* Thị trường thứ cấp (secondary market):
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các CK đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Việc mua bán CK trên thị trường thứ cấp là để duy trì khả năng thanh toán, đánh giá các DN và thay đổi cơ cấu sở hữu công ty. Hoạt động của thị trường thứ cấp tuy không làm tăng thêm vốn đầu tư của các DN, nhưng lại tạo ra sự giao lưu vốn.
Vai trò của thị trường thứ cấp:
+ Đảm bảo tính thanh khoản cho các CK đã phát hành.
+ Xác định thị giá của CK một cách đúng đắn. Giá cả của CK trên thị trường thứ cấp cũng có ảnh hưởng đến giá phát hành trên thị trường sơ cấp.
+ Điêù hòa vốn giữa các ngành.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp:
Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán CK thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh CK chứ không thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành CK mà luôn chuyển giữa những người đầu tư CK trên thị trường. Thị trương thứ cấp là một bộ phận quan trọng của TTCK, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá CK trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua bán các CK nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Cũng có thể phân loại TTCK theo tính chất tập trung của thị trường. Khi đó TTCK bao gồm Sở giao dịch chứng khoán (Stock exchange)- thị trường tập trung và thị trường OTC ( Over the counter)- thị trường phi tập trung. Tại các sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một địa đIểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên gía giao dịch. Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng đIện tử. Giá cả trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.
B- Vai trò của TTCK trong nền kinh tế quốc dân:
TTCK đã xuất hiện từ rất sớm ở các nước TBCN và các nước XHCN khi từ bỏ con đường phát triển kinh tế theo cơ chế quản lý kinh tế mệnh lệnh, kế hoạch hoá tập trung duy ý chí sang cơ chế quản lý thị trường thì một số nước đã thành lập TTCK của nước mình.
Rõ ràng là TTCK phải có một vai trò đáng kể trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt trong thị trường tài chính quốc gia.
Tác động của TTCK đối với nền kinh tế:
+ Trước hết, TTCK phản ánh tính hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói mọi biến động của nền kinh tế thực sẽ được phản ánh vào hoạt động của TTCK. Thông qua TTCK người ta có thể đánh gía một DN, một ngành kinh tế, sự tiến triển của nhu cầu. Thị trường này phản ánh thực trạng của kinh tế vĩ mô cả xu thế ngắn hạn và dài hạn. Vì thế người ta ví TTCK là “ phong vũ biểu” của nền kinh tế. Chỉ tiêu quan trọng cho “phong vũ biêủ” đó là chỉ số giá CK.
+ TTCK là một kênh huy động vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh và các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ một cách trực tiếp. Thị trường này có khả năng thu hút vốn ở khu vực tư và công rất lớn. Nhờ có thị trường này mà các thể nhân và các pháp nhân có thêm nhiều cơ hội đầu tư đồng thời vẫn có thể thanh toán nhanh khi có nhu cầu. TTCK khuyến khích đầu tư và tiết kiệm, làm phong phú hình thức sở hữu. Nhờ vào việc mua đI bán lại cổ phiếu trên thị trường thứ cấp, TTCK góp phần đIều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, do đó tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế.
+ TTCK còn thúc đẩy CPH, tư nhân hóa, hình thành chế độ đa sở hữu về tư liệu sản xuất và tài sản trong nền kinh tế, tính chất sở hữu toàn dân mở rộng và làm cho quan hệ sản xuất sớm phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính đó là cơ sở cho sự phát triển. TTCK phân bổ rủi ro cho các thành viên trong xã hội, do đó tạo nên sự quan tâm chung của xã hội đối vối nền kinh tế của đất nứơc.
+ TTCK là nơi khâu nối, tiếp sức cho cuộc chạy đua vốn, biến vốn nhàn rỗi ngắn hạn thành vốn dài hạn phục vụ đầu tư phát triển sản xuất.
Tác động của TTCK đối với các doanh nghiệp:
+ Tham gia TTCK các công ty buộc phải công khai công bố các vấn đề tàI chính. Điều này sẽ giúp công ty phải làm tốt hơn vế sản xuất, kế toán, thanh toán, thống kê... Công ty sẽ làm ăn hiệu quả hơn, nghiêm chỉnh hơn và minh bạch hơn. TTCK giúp công ty bước dần vào tập tục của thị trường quốc tế, buộc công ty phảI năng động hơn và trưởng thành nhanh hơn trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường.
+ Mặt khác, TTCK là diễn đàn giúp công ty quảng cáo tốt, nâng cao thanh thế và uy tín của công ty.
Tác động của TTCK đối với việc thu hút vốn nước ngoài :
Nhờ vào trào lưu quốc tế hoá, TTCK quốc gia còn có vai trò như là người dẫn vốn đầu tư của người nước ngoàI vào trong nước, đồng thời dẫn vốn đầu tư trong nước ra nước ngoài, những nước có cơ hội và môI trường đầu tư có lợi hơn. Đây là nguồn vốn đầu tư gián tiếp bên cạnh đầu tư trực tiếp.
Bên cạnh những tác động tích cực TTCK cũng có những yếu tố tiêu cực như đầu cơ, mua bán nội gián... Đây là các yếu tố tất yếu, chúng xuất hiện khi thị trường phát triển đến một trình độ nhất định. Trong một chừng mực nào đó, các yếu tố này có tác dụng kích thích thị trường, tuy nhiên vẫn cần có biện pháp thích hợp để hạn chế những tác động xấu.
Khi nghiên cứu bất cứ một thị trường nào thì vấn đề được quan tâm hàng đầu chính là hàng hoá của thị trường đó. TTCK cũng như mọi thị trường bình thường khác chỉ có thể hoạt động và phát huy được vai trò của mình khi có người bán, người mua và hàng hoá làm đối trao đổi. Hàng hoá của TTCK rất đặc biệt, đó là các CK. TTCK Việt Nam vừa được thành lập vì thế vấn đề hàng hoá cũng rất được quan tâm. Trước hết, để có thể phát huy tốt hơn vai trò của CK là hàng hoá cho TTCK ta cần phải hiểu rõ thế nào là CK?
1.2 Hàng hoá trên TTCK.
Để có thể vận hành được thị trường thì hàng hoá đóng một vai trò vô cùng quan trọng.Đối với TTCK cũng vậy số lượng và chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường. Tuy nhiên không giống các thị trường hàng hoá khác hàng hoá trên TTCK là loại hàng hoá đặc biệt được gọi là Chứng khoán.
1.2.1 Khái niệm về Chứng khoán.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Chứng khoán, nhưng tự chung lại Chứng khoán dược hiểu như sau:
+ Chứng khoán theo nghĩa nguyên thuỷ là các chứng thư ding thay cho tiền bạc.
+ Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu hay quyền chủ nợ hợp pháp có thể chuyển nhượng được của người sở hữu Chứng khoán đối với Vốn, Tài sản và các lợi ích khác của người phát hành.
Hiện nay, các thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng được mở rộng và hiện đại hoá, đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển, do đó khái niệm Chứng khoán cũng được mở rộng thêm. Công ty tài chính quốc tế ( IFC) có dưa ra một định nghĩa về Chứng khoán như sau:
+ Quyền hưởng lãi hay lợi nhuận đối với vốn, tài sản, sở hữu, lợi tức, thu nhập, tô của chính phủ, công ty hay pháp nhân hoặc quỹ đầu tư do đóng góp cổ phần hoặc vay nợ.
+ Quyền chọn hay bảo chứng, hay quyền mua các chứng khoán đó.
+ Mọi thoả thuận mà theo đó, lợi ích của mỗi bên được đáng giá theo mục đích phát hành, chuyển nhượng hay nhượng lại quy chiếu với giá trị của lợi nhuận, tỷ lệ thuận trong tổng lượng kỳ phiếu của tài sản, hay trong số lượng tiêu chuẩn của tiền tệ hay hàng hoá.
+ Một hợp đồng đầu tư mà theo đó, nhà đầu tư có phần vốn trong tài sản và phần vốn này có thể được sử dụng chung vớicác đồng vốn khác, hoặc theo đó người góp vốn được kỳ vọng về khoản lợi nhuận,tiền thuê hay thu nhập do nỗ lực của những người thúc đẩy, hợp đồng đầu tư hoặc của một bên thứ ba.
1.2.2 Chứng khoán- hàng hoá của TTCK.
Chứng khoán (CK ) được coi là một loại hàng hoá đặc biệt và CK có đầy đủ các thuộc tính của hàng hoá thông thường là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của CK thể hiện ở khía cạnh CK là một tài sản thực đó là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, giá trị của chứng khoán thay đổi theo quy luật cung cầu trên thị trường.CK đã dược thừa nhận bằng văn bản pháp quy mà tại Nghị định số 48/1998/NĐ-CP đã quy định cụ thể, CK mang tính thanh khoản và khả năng sinh lời vì thế mà CK hoàn toàn có thể được đem ra mua bán, trao đổi bởi người sở hữu chúng .
Khác với các loại hàng hoá thông thường giá trị sử dụng của CK thể hiện ở quyền được hưởng lợi tức ( khoản thu nhập từ CK ).Người đầu tư (sở hữu CK ) mua bán CK với hy vọng là sẽ thu được lợi nhuận chênh lệch do CK mang lại trong tương lai.
CK là loại hàng hoá đặc biệt trên TTCK vì CK là công cụ huy động vốn từ những nơi thừa sang những nơi thiếu vốn, mang nhứng khoản tiền nhàn rỗi trong dân chúng sang cho những nhà đầu tư thiếuvốn.
Khi nền kinh tế của một quốcgia đang trong giai đoạn phát triển thì việc huy động vốn triệt để mọi nguồn vốn nhàn rỗi thì cần phải có TTCK nơi mà CK được hình thành, trao đổi và được mua đi bán lại.
1.2.3 Phân loại chứng khoán:
Tuỳ theo tiêu thức lựa chọn mà có nhiều cách phân loại CK:
A- Căn cứ vào tiêu chuẩn pháp lý:
- CK ghi danh( Nominal/ Registered securities): là loại CK ghi rõ tên người chủ sở hữu. Đối với loại CK này nếu người chủ sở hữu muốn chuyển nhượng thì bắt buộc phải tiến hành đầy đủ các thủ tục đăng kí tại các cơ quan phát hành.
- CK vô danh(Bearer Securities): là loại CK không ghi rõ tên người chủ sở hữu. Đối với loại CK này, thủ tục chuyển nhượng rất đơn giản, dễ dàng.
B- Căn cứ vào tính chất thu lợi tài chính:
- CK có lợi tức ổn định( Fixed income securities): là loại CK có xác định tỷ lệ lãi cụ thể phải trả cho người sở hữu khi đến kỳ hạn. Thông thường, vốn và lãi của loại CK này được hoàn trả khi đến kỳ hạn. Điển hình của loại CK này là cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu.
- CK có lợi tức không ổn định(Variable income securities): là loại CK không xác định trước tỷ lệ lãi được hưởng. Tỷ lệ lãi ( còn được gọi là cổ tức) phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty tốt hay xấu, phụ thuộc vào kế hoạch phân chia lợi nhuận của công ty.
C- Căn cứ vào mục đích huy động vốn:
- CK vốn: cổ phiếu( Stock):
Cổ phiếu là một loại chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần, hay nói một cách khác, cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ thể vào một công ty cổ phần. Như vậy, chính công ty cổ phần đã khai sinh ra cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới có cổ phiếu. Các cổ đông- người mua cổ phiếu của công ty – không phải là chủ nợ đối với công ty mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động, là người chủ sở hữu một phần công ty. Vì vậy cổ phiếu còn được gọi là CK vốn.
Trong lịch sử, loại cổ phiếu ra đời đầu tiên là loại cổ phiếu có ghi tên sở hữu chủ- gọi là cổ phiếu ghi danh. Hình thức cổ phiếu này có nhược điểm là việc chuyển nhượng rất phức tạp. Khi muốn chuyển nhượng cho người khác phải đăng kí tại cơ quan phát hành và phải được Hội đồng quản trị của công ty cổ phần cho phép. Điều đó làm trở ngại cho việc lưu thông cổ phiếu trên thị trường. Đến thế kỉ XVIII, cổ phiếu vô danh ra đời. Và đến thế kỷ XIX với ưu thế chuyển nhượng đơn giản dễ dàng bằng cách trao tay mà không cần phải có thủ tục pháp lý rườm rà, cổ phiếu vô danh đã thay thế hoàn toàn cổ phiếu ghi danh.
Cổ phiếu có rất nhiều loại tuỳ theo căn cứ phân loại. Tuy nhiên có thể quy cổ phiếu thành hai loại chính:
- Cổ phiếu thường( Common Stock):
Tương tự như các loại hình cổ phiếu, cổ phiếu thường là một CK vốn, không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty, lợi tức cổ phiếu được trả vào cuối năm để quyết toán- gọi là cổ tức. Cổ phiếu thường có các đặc điểm sau:
+ Cổ tức không cố định, phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu được hàng năm của công ty và chính sách chia lời của công ty.
+ Việc trả cổ tức đối với cổ phiếu thường có thể được thực hiện bằng các hình thức sau: trả bằng tiền mặt là hình thức phổ biến nhất phù hợp với nguyện vọng của các nhà đầu tư; trả bằng chính cổ phiếu của công ty, nếu công ty làm ăn tốt thì hình thức này rất hấp dẫn đối với những người muốn đầu tư tiếp; trả bằng tài sản của công ty, hình thức này thường ít sử dụng trong thực tế.
+ Cổ phiếu của công ty không cho nhà đầu tư một sự hứa hẹn hoàn trả lại số vốn đầu tư vì đây không phải là khoản nợ đối với công ty- vì vậy nó còn được gọi là một CK vĩnh viễn.
+ Cổ đông của cổ phiếu thường được cấp một số đặc quyền khi họ mua cổ phiếu của công ty như: được tham gia bầu Hội đồng quản trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty, khi công ty giải thể hoặc phá sản sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi.
Với các đặc điểm trên cổ phiếu thường bao hàm nhiều yếu tố rủi ro, giá cả cổ phiếu biến động nhiều trên thị trường. Do đó, khi đầu tư vào cổ phiếu thường, nhà đầu tư cần phân tích xem xét kỹ lưỡng để chọn đúng hướng đầu tư, nhằm thu lợi tức cao.
- Cổ phiếu ưu đãi( Preferered Stock):
Cổ phiếu ưu đãi là loại CK lai tạp có những đặc điểm vừa giống cổ phiếu thường, vừa giống trái phiếu. Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu được hưởng những quyền ưu tiên hơn so với cổ phiếu thường.
+ Cổ tức được quy định rõ trên cổ phiếu hoặc là một số tiền nhất định hoăc là tỷ suất cổ tức.
+ Cổ tức ưu đãi được nhận trước so với cổ tức thường nếu như DN có lãi. Nếu DN bị lỗ vốn hoặc lãi không đủ chia thì cổ tức ưu đãi sẽ được tích luỹ lại để trả lại vào những năm sau.
+ Khi có chủ trương hoàn vốn cho cổ đông thì cổ đông ưu đãi được xếp vào trật tự ưu tiên trước cổ đông thường.
+ Khi DN bị giải thể thì sẽ hoàn vốn cho cổ phiếu ưu đãi theo nguyên tắc ngang giá, nếu như đủ vốn hoàn trả.
+ Đối với gía trị còn lại của DN mà cần phân chia, cổ đông ưu đãi được quyền phân chia trước cổ đông thường.
Để tạo nên sự hấp dẫn hơn cho cổ phiếu ưu đãi, phù hợp với tâm lý muôn vẻ của nhà đầu tư, cổ phiếu ưu đãi được đa dạng hoá và phân chia thành nhiều loại khác nhau:
* Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ( Cumulative Preferered Stock)
* Cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ( Non- Cumulative Preferered Stock)
* Cổ phiếu ưu đãi dự phần( Participating Preferered Stock)
* Cổ phiếu ưu đãi hoàn vốn( Redeemable Preferered Stock)
* Cổ phiếu ưu đãi thu hồi( Callable Preferered Stock)
* Cổ phiếu ưu đãi đảm bảo( Guaranteed Preferered Stock)
Tóm lại, với những đặc trưng của mình, cổ phiếu đã tạo cho các công ty cổ phần những ưu thế tuyệt diệu, có khả năng huy động tập trung được một khối lượng vốn khổng lồ cho sự phát triển từ những số vốn lẻ tẻ trong dân chúng. Nhờ có cổ phiếu, vốn đầu tư của các cổ đông không bị bất động, họ có thể chuyển vốn đầu tư từ lĩnh vựu này sang lĩnh vực khác, từ công ty này sang công ty khác bằng cách mua bán cổ phiếu trên TTCK thứ cấp.
- CK nợ: trái phiếu( Bonds):
Trái phiếu là một CK được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ( bao gồm vốn gốc và lãi) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu trong một thời hạn nhất định.
Trái phiếu là một CK nợ, người mua trái phiếu là trái chủ, là người chủ nợ của tổ chức phát hành, là người chủ sở hữu trái phiếu đó. Sau một thời gian nhất định , trái chủ được cơ quan phát hành hoàn trả số vốn theo mệnh giá khi đáo hạn, hàng năm hoặc hàng quý trái chủ sẽ được trả một số tiền lời theo mức lãi suât đã định. Đây là loại CK với lợi tức cố định( Fix income Securities). Tình hình lạm phát tiền tệ, hoặc có sự thay đổi trong chính sách tài chính- tín dụng cũng có thể làm ảnh hưởng đến giá trái phiếu trên thị trường.
Một trái phiếu thường có các đặc trưng cơ bản sau:
* Mệnh giá( Par value): là số tiền ghi trên bề mặt trái phiếu khi phát hành, đây là số tiền mà tổ chức phát hành cam kết trả cho người có trái phiếu( hay còn gọi là trái chủ).
* Giá phát hành( Purchase Price): là giá mà người mua trái phiếu phải trả tại thời điểm phát hành, thường tương ứng với mệnh giá trái phiếu,nhưng cũng có thể nhỏ hơn mệnh giá( ví dụ 98%). Giá được thể hiện bằng tỷ lệ % của mệnh giá.
* Lãi suất định kỳ( Interest): mỗi trái phiếu đều có ghi cam kết của tổ chức phát hành sẽ thanh toán cho người có trái phiếu một số tiền lãi nhất định vào một ngày xác định. Lãi suất thường được công bố theo tỷ lệ % so với mệnh giá của trái phiếu. Thông thường trái chủ sẽ nhận lãi vào một ngày định kỳ của sáu tháng hay một năm. Tại Việt Nam, lãi suất được tính theo năm, tiền lãi được thanh toán mỗi năm một lần.
* Lãi suất hiện hành: là lãi suất của nhà đầu tư so với chi phí đầu tư được xác định như sau:
Số tiền lãi năm
Lãi suất hiện hành = ------------------ x 100
Chi phí đầu tư
* Lãi suât đáo hạn: được tính trên tiền lời thu được chia cho chi phí đầu tư, rồi tất cả chia cho số năm còn lại, được xác định theo công thức sau:
(P x M) + (P – F)/N
Lãi suât đáo hạn = ---------------------------
(P/F)/2
Trong đó:
-P: mệnh giá
-M: lãi suất
-F: giá mua
-N: số năm
* Ngày đáo hạn( Maturity date): đây là ngày công ty sẽ thanh toán mệnh giá cho trái chủ, ngày này còn được gọi là ngày đến hạn (due date) của trái phiếu. Ngày đáo hạn cũng được ghi trên bề mặt của trái phiếu. Ngày đáo hạn của trái phiếu là ngày mà khoản nợ sẽ không tồn tại, vào ngày này nhà phát hành sẽ hoàn trả toàn bộ số vốn cho nhà đầu tư.
Trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Vì vậy, đây là dạng đầu tư được các nhà đầu tư và các chế định tài chính ưa chuộng. Trái phiếu có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
A/ Căn cứ vào hình thức phát hành, trái phiếu có hai loại: trái phiếu vô danh và trái phiếu ghi danh.
- Trái phiếu vô danh( Bearer bonds) là loại trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành.Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới NH nhận lãi, và khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ có thể mang chứng chỉ tới NH để nhận lại khoản cho vay, hoặc có thể bán nó trên TTCK thứ cấp trước khi đáo hạn. Trong trường hợp này trải chủ sẽ nhận được giá trị theo giá thị trường có thể bằng, cao hơn hoặc thấp hơn mệnh gía.
- Trái phiếu ghi danh( registered/nominal bonds) là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thự._.c hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi, sẽ được người đại lý gửi cho một tờ séc trả cho khoản lãi đó, chứ không phải xé các cuống phiếu gửi tới nơi đại lý để thanh toán tiền lãi như trái phiếu vô danh.
B/ Căn cứ vào tổ chức phát hành, trái phiếu gồm hai loại: trái phiếu công ty, trái phiếu CP và trái phiếu công trình.
- Trái phiếu CP( State bonds) là những trái phiếu do CP phát hành. CP phát hành trái phiếu(hay các công cụ nói chung) nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trìng công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.
Trái phiếu CP là loại CK không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu CP được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công ty (Corporate bonds) là những trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn.
Đặc điểm chung của trái phiếu công ty là:
+ Người nắm giữ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, xong không được tham dự vào các quyết định cuả công ty( cũng có những trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá).
+ Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu.
+ Có những điều kiện cụ thể kèm theo hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu do ban quản lý dự án phát hành dưới sự bảo trợ và cho phép của Nhà nước để huy động vốn xây dựng công trình.
Trái phiếu là loại hàng hoá có độ an toàn khá cao, CK này thường dành cho những nhà đầu tư vừa lòng với khoản lợi nhuận không lớn nhưng độ rủi ro ít. Tuy vây thị trường giao dịch trái phiếu trên thế giới cũng rất sôi động.
- Công cụ phái sinh (Derivative Documents):
Trên TTCK, bên cạnh các giao dịch mua bán CK vốn, CK nợ còn có giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng quyền, bảo chứng quyền, hợp đồng quyền chọn,... Các chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch CK và được quyền chuyển đổi sang CK qua hành vi mua bán, cho nên người ta gọi là chứng từ có nguồn gốc CK.
* Hợp đồng quyền chọn (Option contract): là một sự thoả thuận mua bán CK với một giá quy định trong thời gian tương lai và hy vọng giá CK sẽ tăng lên thì thực hiện quyền mua CK hoặc hy vọng giá giảm xuống thì thực hiện quyền bán CK để kiếm lời.
Hợp đồng quyền chọn có hai loại: hợp đồng quyền chọn mua (Call option contract) và hợp đồng quyền chọn bán (Put option contract).
- Hợp đồng quyền chọn mua (Call option) là hợp đồng trong đó cho phép người mua hợp đồng được quyền mua một số cổ phiếu nhất định theo một giá quy định trong một thời hạn quy định của tương lai. Khi đáo hạn, người mua hợp đồng có thể thực hiện hợp đồng nếu giá cả CK trên thị trường biến động theo hướng có lợi cho họ hoặc huỷ hợp đồng trong trường hợp ngược lại mà chỉ mất phí chọn mua (Call premium).
- Hợp đồng quyền chọn bán (Put option) là hợp đồng trong đó cho phép người mua hợp đồng được bán một số cổ phiêú nhất định theo giá quy định trong một thời hạn quy định của tương lai. Khi đáo hạn, người mua hợp đồng có thể lựa chọn thực hiện hợp đồng hoặc huỷ hợp đồng tuỳ theo trường hợp nào có lợi hơn. Người mua hợp đồng phải trả cho người bán hợp đồng một khoản phí chọn bán (Put premium).
Các hợp đồng quyền chọn được sử dụng để kiếm lời và để rào chắn rủi ro. Các nhà đầu cơ chấp nhận rủi ro với hy vọng kiếm được lợi nhuận và hành động này có thể cho phép những người rào chắn rủi ro loại trừ được rủi ro không mong muốn.
Chức năng kinh tế của hợp đồng quyền chọn là nhằm cung cấp công cụ giảm thiểu rủi ro.
* Chứng quyền (Right Certificate): là một chứng thư do công ty phát hành cho các cổ đông, trong đó quy định quyền của cổ đông được mua một số lượng cổ phiếu mới do công ty phát hành theo giá quy định trong một thời hạn nhất định. Cổ đông có thể thực hiện quyền mua, nhưng cũng có thể chuyển nhượng, bán quyền mua cho một người khác để kiếm lời.
Chứng quyền có đặc điểm là ngắn hạn, từ 1 đến 6 tuần, gia đăng kí mua cổ phiếu ghi rõ trong chứng quyền thường bé hơn giá trị thường của cổ phiếu.Thông thường mỗi cổ phần hiện tại được một số quyền, số quyền cần có để mua một cổ phần mới thay đổi và được quy định tuỳ theo chủ trương của công ty phát hành trước khi bán cổ phiếu rộng rãi ra công chúng. Chứng quyền chỉ bán cho cổ đông hữu hiệu.
* Bảo chứng quyền (Warrants): là một chứng từ tài chính phát hành cùng với trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi. Bảo chứng phiếu cấp cho trái chủ hoặc cổ đông khi phát hành CK mới quy định lượng trái phiếu hoặc cổ phiếu thường được quyền mua với mức giá cao hơn giá thị trường tại thời đIểm trong tương lai, thường sau thời gian dài. Bảo chứng quyền được bán cho mọi đối tượng quan tâm.
Chứng quyền và bảo chứng quyền rất phù hợp với mục tiêu tài trợ công ty. Công cụ này có thể cho phép việc phát hành CK nợ trong những tình huống khó khăn. Trong khi việc phát hành thẳng có thể không được chấp nhận hoặc được chấp nhận với mức lãi suất cao, thì một loại CK nợ giống như vậy có thể được chấp nhận tốt hơn bởi vì có chứng quyền đi kèm theo với nó. Chứng quyền và bảo chứng quyền cũng được phát hành trong việc cơ cấu lại công ty hay phá sản nhằm đưa ra cho các cổ đông một cơ hội để phục hồi lại số vốn đầu tư của họ nếu việc cơ cấu lại công ty đi theo chiều hướng tốt. Việc sử dụng chứng quyền và bảo chứng quyền đã có truyền thống liên quan tới các công ty có tỷ suất lợi nhuận cũng như rủi ro rất cao như là các công ty đầu cơ bất động sản, các hãng hàng không và các công ty kinh doanh khoáng sản. Tuy nhiên, trong những năm thập niên 70, công ty American Telephone &Telegraph rất nổi tiếng đã lộ ra một khoản nợ 1,57 tỷ USD và công ty đã làm dịu đi tình hình bằng cách sử dụng chứng quyền. Do tính chất như vậy, nên chứng quyền và bảo chứng quyền cũng trở thành hàng hóa không xa lạ với TTCK.
* Hợp đồng kỳ hạn (Forward Contract):là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một thời đIểm trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào: từ nông sản, các đồng tiền, cho tới các CK.
Theo hợp đồng này chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau, dựa theo những quy ước mang tính chất cá nhân.Bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình.
* Hợp đồng tương lai (Futures Contract): là một thoả thuận mua và bán một loại hàng hoá hoặc một công cụ tài chính nào đó vào một thời điểm nào đó trong tương lai mà giá cả, số lượng, chất lượng và mẫu mã của hàng hoá được xác định rõ vào thời đIểm mở hợp đồng.
Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được giao dịch trên một SGD, với một số lượng lớn người bán, người mua được tập trung lại, giá cho tương lai được niêm yêt trên SGD, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về người ở phía bên kia của giao dịch. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch.
Vào đầu những năm 1980, hầu hết toàn bộ khối lượng giao dịch hợp đồng tương lai được tập trung ở sàn giao dịch của Mỹ. Cho đến giữa những năm 1980 thì tình hình có khác đi do có nhiều sở giao dịch mới hoạt động khắp Châu Âu, Nam Mỹ và khu vực Châu á TháI Bình Dương. Ngày nay giao dịch hợp đồng tương lai diễn ra trên toàn cầu với hơn 60 SGD trên khắp thế giới. Nước Mỹ vẫn là nơI hoạt động giao dịch hợp đồng tương lai nổi tiếng nhất trên thế giới với hai trung tâm giao dịch chính là: Chicago và NewYork.
* Chứng chỉ quỹ đầu tư :
Chứng chỉ quỹ đầu tư là một loại CK do quỹ đầu tư theo mô hình tín thác phát hành ( trường hợp Quỹ đầu tư được thành lập theo mô hình công ty thì khi đó Quỹ đầu tư là một công ty cổ phần và Quỹ được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho mục đích đầu tư).
Chứng chỉ này có những đặc điểm tương tự như cổ phiếu thường như quyền được hưởng lợi tức từ vốn góp, quyền được kiểm tra sổ sách của Quỹ...nhưng khác là không được quyền bỏ phiếu.
Người nắm giữ chứng chỉ Quỹ đầu tư theo mô hình tín thác được gọi là người thụ hưởng và vì thế chứng chỉ Quỹ đầu tư còn được gọi là chứng chỉ hưởng lợi.
Tuỳ theo từng loại Quỹ đầu tư khác nhau mà chứng chỉ Quỹ đầu tư có những đặc điểm riêng:
+ Đối với quỹ mở: người tham gia góp vốn được phép bán lại chứng chỉ Quỹ đầu tư cho chính quỹ đầu tư để thu hồi vốn. Do vậy chứng chỉ quỹ đầu tư có tính thanh khoản cao.
+ Đối với quỹ đóng: người tham gia góp vốn đầu tư không được phép rút vốn bằng cách bán lại chứng chỉ cho quỹ mà chỉ có thể bán lại trên SGDCK hoặc trên thị trường OTC, do vậy những chứng chỉ quỹ đầu tư loại này thường có tính thanh khoản không cao.
1.3 Các hình thức tạo hàng cho TTCK.
Có hai hình thức phát hành CK trên TTCK mà ta ngầm hiểu đó là trên thị trường sơ cấp đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
1.3.1 Phát hành riêng lẻ:
Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó CK được bán trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là các nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện (khối lượng phát hành) hạn chế,không tiến hành một cách rộng rãi ra công chúng.
Việc phát hành CK riêng lẻ thông thường chịu sự điều hành của Luật Doanh nghiệp và chứng khoán phát hành như vậy không phải là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch CK.
1.3.2 Phát hành ra công chúng:
1.3.2.1 Khái niệm:
Phát hành ra công chúng là việc phát hành trong đó CK được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng người đầu tư (trong đó phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ ) và khối lượng phát hành phải đạt mức nhất định.
Những công ty phát hành CK ra công chúng được gọi là các công ty đại chúng.
Nhìn chung, việc phát hành CK ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về CK và phải được các cơ quan quản lý nhà nước về CK cấp giấy phép. Sau khi phát hành trên TTCK, CK sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch CK nếu đáp ứng được các quy định của SGDCK. Những công ty phát hành CK ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám sát riêng theo quy định của pháp luật CK .
Mục đích phân biệt hai hình thức phát hành : phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như trên trước hết là để quản lý, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nhất là những nhà đầu tư nhỏ không có kiến thức chuyên môn bởi vì để phát hành ra côngchúng thì tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao, hoạt đông kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do các cơ quan quản lý nhà nước về CK (UBCKNN ) quy định. Mặt khác sự khác biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng còn nhằm xác định phạm vi thị trường của các loại CK đó. Chỉ có các CK được phát hành rộng rãi cho công chúng mới đủ điều kiện hình thành nên TTCK có tổ chức chính sách và có tính thanh khoản.
1.3.2.2 Các hình thức phát hành CK
Việc phát hành ra công chúng được phân biệt giữa phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu
+ Trường hợp phát hành cổ phiếu ra công chúng việc phát hành được thực hiện theo hai phương thức sau:
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư .
- Chào bán sơ cấp (Phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng rộng rãi cho công chúng đầu tư.
+ Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng,việc phát hành được thực hiện bằng một phương thức duy nhất đó là chào bán sơ cấp(phân phối sơ cấp)
Các phương pháp phân phối CK ra công chúng
Để có thể phân phối CK để tận tay các nhà đầu tư thì tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh và các đại lý phân phối CK (sau đây gọi là tổ chức phân phối )thường sử dụng các phương pháp chào bán /ghi mua, bán qua trung gian, bán thẳng, và đưa ra niêm yết. Các phương pháp này không loại trừ nhau, do đó trong một đợt phân phối CK người ta có thể sử dụng kết hợp 2 hoặc 3 phương pháp.
A/ Phương pháp chào bán/ghi mua.
Chào bán/ghi mua là phương pháp phân phối CK được các tổ chức phân phối tiến hành rộng rãi nhất. Theo phương pháp này để bán CK, tổ chức phân phối CK phải tiến hành quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút các nhà đầu tư. Sau đó các nhà đầu tư sẽ gửi phiếu đăng ký mua kèm theo séc thanh toán số tiền mua CK. Giá bán CK có thể là giá cố định do tổ chức phân phối công bố hoặc cũng có thể đấu thầu công khai.
Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là có một khoảng thời gian trễ kể từ khi gửi phiếu đăng ký mua đến khi nhận được thông báo về việc phân phối CK. Do đó khi gửi phiếu đặt mua CK xong thì người mua cũng không thể biết chính xác mình sẽ được sở hưũ bao nhiêu CK bởi lẽ nếu số lượng CK đặt mua lớn hơn số lượng CK chào bán thì những phiếu đăng ký mua đến sau không được phân phối theo tỷ lệ. Chính vì thế sẽ rất khó cho người mua khi muốn bán lại những CK mà mình đặt mua trong thời gian trễ này.
Nhằm mục đích hạn chế này các tổ chức phân phối đã sử dụng một phương pháp mới là phương pháp bán qua trung gian.
B/ Phương pháp bán qua trung gian.
Theo phương pháp này, thay vì trực tiếp nhận phiếu đặt mua của các nhà đầu tư các nhân, các tổ chức phân phối sẽ thuê các công ty môi giới CK đứng ra phân phối. Điều này đem lại lợi ích cho các tổ chức phân phối, công ty môi giới CK cũng như các nhà đầu tư. Thứ nhất đối với các tổ chức phân phối, việc phân phối thông qua các trung gian sẽ giúp cho các tổ chức phân phối tiết kiệm được các chi phí. Tổ chức phân phối thay vì phải bỏ ra một khoản chi phí lớn cho quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, chi phí quản lý ...chi phí phải trả cho các công ty tổ chức môi giới một khoản chi phí hoa hồng, tính trong phí bảo lãnh phát hành.Thứ hai đối với công ty môi giới bên cạnh khoản tiền hoa hồng nhận được từ việc phân phối CK, công ty môi giới cũng nắm rõ được tỷ lệ sở hữu CK của các khách hàng của mình từ đó xác định được những khách hàng quan trọng. Thứ ba đối với các nhà đầu tư, do có các mối quan hệ mật thiết với các công ty môi giới và họ có những lời tư vấn cần thiết khi mua CK và họ biết ngay mình được phân phối bao nhiêu CK sau khi đặt mua. Do vậy, các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán CK ngay trong ngày giao dịch đầu tiên mà không phải đợi đến khi nhận được thư thông báo vè việc phân phối CK như trong trường hợp chào bán/ghi mua.
C/ Phương pháp bán thẳng.
Phương pháp bán thẳng được các tổ chức phân phối ưa thích nhất, theo phương pháp này, tổ chức phân phối sẽ tiến hành tiếp xúc với các nhà đầu tư tiềm tàng có lựa chọn (thường là những khách hàng có quen biết, bao gồm các nhà đầu tư cá nhânvà các nhà đầu tư có tổ chức để đánh giá, xác định nhu cầu của họ đối với các loại chứng khoán cần phân phối và sau đó khi số lượng CK đăng ký mua đã bằng với số lượng CK cần phân phối thì tiến hành phân phối CK theo nhu cầu của các nhà đầu tư .
D/ Phương pháp đưa ra niêm yết .
Phương pháp đưa ra niêm yết là một phương pháp phân phối CK đơn giản nhất, theo phương pháp này tổ chức phát hành không phát hành ngay CK mới mà chỉ đơn thuần là đưa các CK đã phát hành ra niêm yết . Do vậy nhiệm vụ của các tổ chức trung gian chỉ là chuẩn bị các thủ tục để đưa CK ra niêm yết.Trên thực tế, phương pháp này không có ý nghĩa nếu công ty không phát hành thêm CK sau đó hoặc các cổ đông hiện hữu không bán lại cổ phiếu của họ bởi vì theo phương pháp này thì tổ chức phát hành sẽ không huy động thêm một đồng vốn nào.
Chương II
Thực trạng hàng hoá giao dịch trên TTCK VN
2.1 Giới thiệu sơ lược về Uỷ ban chứng khoán nhà nước ( UBCKNNVN).
Căn cứ vào Luật tổ chức chính phủ ngày 30/09/1992 để thúc đẩy việc hình thành và phát triển TTCK và quản lý CK ở VN.
Căn cứ vào Nghị định số 75/cP ngày 28/11/1996 của CP về việc thành lập UBCKNN .
UBCKNN là cơ quan quản lý nhà nước trực thuộc chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về CK và TTCK. UBCKNN là cơ quan ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ, đứng đầu là Bộ trưởng chủ tịch uỷ ban và một số thành viên đại diện, cơ quan thừa hành của Uỷ ban chứng khoán nhà nước là văn phòng.UBCKNN có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp, biên chế của Uỷ ban thuộc biên chế của nhà nước.
Căn cứ vào điều 2 của NĐ75/ CP- UBCKNN có nhiệm vị quyền hạn như sau:
+ Soạn thảo các văn bản pháp luật về CK và TTCK để trình các cấp có them quyền xem xét quyết định, và tổ chức,hướng dẫn thực hiện các văn bản đó.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, nghành có liên quan tổ chức xây dựngvà phát triển TTCK ở VN.
+ Cấp đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với các công ty tham gia kinh doanh CK, quỹ đầu tư CK, công ty quản lý quỹ đầu tư CK và các đơn vị được phát hành CK để giao dịch ở thị trường chứng khoán theo quy định của chính phủ.
+ Thành lập và quản lý các dịch vụ và phụ trợ cho hoạt động của TTCK theo quy định của pháp luật.
+ Trình Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch CK.
+ Kiểm tra giám sát hoạt động của Sở giao dịch CK và các tổ chức có liên quan đến việc phát hành, kinh doanh, dịch vụ chứng khoán.
+ Ban hành các quy định về niêm yết, thông báo phát hành, thông tin về giao dịch, mua bán CK: thoả thuận với Bộ tài chính để quy định phí, lệ phí liên quan tới việc phát hành và kinh doanh CK.
+ Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh CK và TTCK .
+ Hợp tác với các tổ chức quốc tế và các nước về CK và TTCK theo quy định của Chính phủ.
+ Chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo cho các hoạt động TTCK diễn ra có hiệu quả và đúng với pháp luật.
+ Quản lý cơ sở vật chất và tổ chức bộ máy, công chức, viên chức của UB theo quy định của Chính phủ.
+ Thực hiện các công việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao.
2.2 Giới thiệu chung về TTCK VN.
2.2.1 Sự ra đời của TTCK .
Sau khi nhận định được tầm quan trọng của việc kinh doanh và phát triển TTCK tại VN từ năm 1992 Ban thị trường vốn trực thuộc NHNN đã được thành lập với chức năng và nhiệm vụ là nghiên cứu tạo tiền đề cho việc thành lập ra TTCK ở VN.Trên cơ sở đề xuất của Ban thị trường vốn ngày 28/11/1996 Chính phủ đã chính thức ký quyết định thành lập UBCKNN VN là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với các hoạt động của TTCK VN.
Ngay sau sự kiện UBCKNN được thành lập thì hàng loạt các văn bản pháp quy liên quan đến CK và TTCK cũng đã ra đời nhằm tạo hành lang pháp lý cũng như chuẩn bị những điều kiện cần thiết để cho TTCK VN đi vào hoạt động như:
Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, Quyết định số 127/1998/QĐ-CP ngày 11/07/1998 về việc thành lập TTGDCK, Quyết định số 128/11998/QĐ- CP ngày 01/08/1998 về quy chế tổ chức hoạt động của TTCK, Thông tư số 01/2001/TT-UBCK ngày 13/10/1998 hướng dẫn về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng và các quy chế về thành viên, tổ chức và hoạt động của các công ty CK .
Khi đã hội tụ đầy đủ mọi điều kiện cần thiết vào hồi 14h ngày 20/07/2000 TTGDCK TP HCM đã chính thức đi vào hoạt độngvà ngày 28/07/2000đã có phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên, đánh dấu cho sự ra đời của TTGDCK.
2.2.2 Vai trò của TTCK VN.
TTCK VN đã chính thức đi vào hoạt động từ nagỳ 28/07/2000 và nóđã có những bước đi khẳng định sự trưởng thành và phát tiển thông qua gần 2 năm hoạt động.
+ TTCK là một kênh cung cấp chủ yếu nguồn vốn trung và dài hạn hữu hiệu cho nền kinh tế .Theo nguồn tin của Bộ tài chính , Việt nam đang hoạch định một chiến lược CNH- HĐH để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực ASEAN cũng như các quốc gia khác trên thế giới. Công cuộc kiến thiết nền kinh tế này dồi hỏi một nguồn vốn tài trợ khổng lồ từ 10 -12 tỷ USD trong giai đoạn 2000 - 2010. Chính vì vậy,chiến lược đa dạng hoá thị trường tài chính nhằm mục đích tài trợ ít nhất 50% nhu cầu vốn nói trên là điều thiết yếu .
Hơn nữa khi nguồn vốn FDI không còn tăng nhanh thì trước mắt VN cần tăng thêm nhiều kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài khác mà quan trọng nhất là kênh đầu tư gián tiếp thông qua TTCK. Theo nhận định nếu chậm mở ra TTCK thì lượng vốn nước ngoài cũng chậm đổ vào VN. Bên cạnh đó hiện nay lãi suất đồng nội tệ giảm nhưng vẫn còn quá cao so với khả năng sinh lời của các doanh ngiệp nước ta .
Hệ thống các NHTM - kênh cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp lại chưa tự đặt trong tình thế cạnh tranh nên chưa nỗ lực hạ thấp được chi phí và tăng lợi nhuận để thu ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra.
Sự ra đời của TTCK VN sẽ là nhân tố đặt hệ thống NHTM vào thế bị cạnh tranh, tăng sự lựa chọn cho các doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí sử dụng vốn. Thực tế cho thấy trong khi vốn của các NHTM tồn đọng lên tới hàng nghìn tỷ đồng không đem cho vay được thì ngược lại các doanh nghiệp lại rơi vào tình trạng thiếu vốn để hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Từ hiện trạng trên về phương diện quản lý kinh tế chúng ta cần có một kênh huy động vốn vừa hiệu quả vừa linh hoạt để khai thông làm “làm nóng” các khoản vốn “đóng băng” đó.
+ TTCK cho phép đầu tư dài hạn được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn.
Thực tế ở VN hiện nay đa phần những nhà đầu tư là những nhà đầu tư nhỏ (những người đầu tư bằng nguồn vốn tiết kiệm) họ không muốn và không có khả năng đầu tư vào những cuộc kinh doanh dài hạn để rồi đến khi có nhu cầu không thể rút ra được.TTCK hình thành với thị trường thứ cấp (thị trường mua đi bán lại ), hoạt động tấp nập sẽ không cho phép giải quyết được yêu cầu đó của các nhà đầu tư nhỏ.Tức là khi có nhu cầu thu hồi vốn họ sẽ không bán đi được số CK của mình.Với tính chất đó của TTCK đã biến những nguồn vốn ngắn hạn, lẻ tẻ trở thành những nguồn vốn đầu tư dài hạn to lớn.
+ TTCK là một công cụ để nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ phát triển kinh tế, nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của nhà nước. Bất cứ quốc gia nào cũng phải có Ngân sách, Ngân sách càng lớn thì chương trình phát tiển kinh tế - xã hội càng dễ thành công.
Để có vốn cho chi tiêu của nhà nước thì nhà nước phải thực hiện các chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo Ngân sách nhà nước, nhưng thông thường thuế không đủ cho chi tiêu mà vẫn cần phải cócác nguồn thu khác đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương. Về kinh tế nhà nước vay tiền của dân là thiết thực và lành mạnh,vì chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành tiền giấy nhằm giảm áp lực lạm phát nền kinh tế.
Nhà nước luôn luôn là con nợ lớn nhất ở mỗi quốc gia và chính phủ Việt nam trong mấy năm gần đây đã thực hiện vay tiền của dân nhưng mức độ còn rất hạn chế.
Nếu không có TTCK thì nhà nước cũng phát hành được trái phiếu nhưng đó cũng chỉ là những trái phiếu ngắn hạnhoặc trung hạn và nói chung việc phát hành sẽ khuyến khích về khả năng thanh khoản của trái phiếu (khả năng chuyển trái phiếu sang tiền mặt ) là không đơn giản. Có TTCK với thị trường phát hành tập trung và thị trường mua đi bán lại tấp nập thì việc phát hành trái phiếu chính phủ sẽ thuận tiện và hiệu quả hơn.
+ TTCK là một yếu tố quan trọng giúp VN nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thế giới .
Về mặt đối ngoại, sự ra đời của TTCK đã khẳng định quan tâm chuyển đổi nền kinh tế VN sang nền kinh tế thị trường và là sự cam kết hội nhập nền kinh tế tài chính quốc tế của chính phủ VN. Sự cam kết này có giá trị thực tiễn khi VN đang chủ trương thực hiện chính sách hội nhập tích cực vào nền kinh tế thế giới.
Cần khẳng định rằng, tuy vẫn còn tồn tại những bất đồng xung quanh vấn đề cơ sở hạ tầng cho sự ra đời và phát triển của TTCK nhưng rõ rằng vai trò của TTCK đối với nền kinh tế là không thể phủ nhận được nhất là trong bối cảnh hiện tại với thế tự do hoá nền tài chính quốc gia, nhất thể hoá nền tài chính quốc tế,VN ta cần phải xây dựng và phát triển một TTCK nếu không muốn bị bỏ rơi và tụt hậu nền kinh tế so với các nước đang phát triển .
2.2.3 Những đặc trưng cơ bản của TTCK VN.
Xét về bản chất kinh tế ( quyền sở hữu )TTCK đến nay trên thị trường chứng khoán có ba nhóm TTCK khác nhau:
+ Nhóm thứ nhất, TTCK thuộc sở hữu tập thể của những người môi giới CK, SGDCKdo các nhà môi giới lập ra và tự quản lý, họ độc quyền giao dịch mua bán CK. Mô hình TTCK này được các nước Pháp, Italia, Tây ban nha, Bỉ, Hy lạp và một số nước Nam Mỹ áp dụng.
+ Nhóm thứ hai, TTCK thuộc sở hữu của các Ngân hàng cùng với các công ty CK độc lập đứng ra thành lập và thực hiện quyền giao dịch như tại TTCK các nước Đức, Thụy sĩ, Hà lan...
+ Nhóm thứ ba, TTCK thuộc sở hữu tư nhân, tổ chức theo luật công ty cổ phần. Người sở hữu không độc quyền giao dịch, quyền giao dịch thuộc về các TTCK thành viên. Người sở hữu có thể là các thành viên hoặc không là các thành viên như tại TTCK London, Nhật bản, và các nước Bắc Mĩ...
Tuy nhiên, TTCK ra đời lại không được sắp xếp vào các nhóm TTCK trên, mà theo Nghị định số 48/1998/NĐ-CP thì thị trường giao dịch tập trung của Việt nam được tổ chức từng bước từ TTGDCK lên SDGCK. TTGDCK hay SGDCK đều là những tổ chức tài chính thuộc sở hữu nhà nước, được nhà nước cấp kinh phí thành lập và trực tiếp điều hành và quản lý.
TTCK VN mang những đặc trưng sau:
+ TTCK tập trung của VN vừa là một thị trường phát hành (thị trường sơ cấp ) vừa là thị trường mua đi bán lại (thị trường thứ cấp ). Nghĩa là giao dịch phát hành CK cũng có thể diễn ra tại Trung tâm giao dịch CK hoặc tại Sở giao dịch CK.
Các SGDCK trên thế giới hầu như không có giao dịch phát hành, các giao dịch trong đó chủ yếu mua đi bán lại. Hoạt động phát hành được thực hiện chủ yếu bằng hình thức bảo lãnh chắc chắn (Công ty chứng khoán mua toàn bộ CK phát hành theo giá thoả thuận, sau đó đưa ra bán lại trên thị trường theo giá thị trường ). Giao dịch mua bán giữa công ty phát hành với công ty bảo lãnh là giao dịch sơ cấp, diễn ra ngoài Sở giao dịch, chỉ khi công ty bảo lãnh đưa ra bán lại cho người đầu tư là giao dịch thứ cấp diễn ra tại SGD.
Các công ty chứng khoán VN mới hình thành, chưa đủ năng lực để thực hiện bảo lãnh chắc chắn. Hoạt động phát hành vẫn thực hiện hình thức đại lý bán, do đó giao dịch phát hành phải được diễn ra tại Trung tâm giao dịch.
+ TTCK VN sẽ được giao dịch cả CK niêm yết và CK không niêm yết. Trung tâm này dự kiến sẽ thay thế cho cả thị trường phi tập trung (OTC).
Hầu hết các tại các SGDCK trên thế giới, CK được giao dịch chủ yếu là của người kinh doanh CK với mục đích kiếm lời từ chênh lệch giá CK. Do đó, họ đặt ra những điều kiện niêm yết khắt khe nhằm loại bỏ những loại CK không có khả năng giao dịch sôi động, không có khả năng tạo ra chênh lệch giá. Những loại CK không được niêm yết sẽ giao dịch tại thường OTC (thị trường giao dịch trực tiếpgiữa các công ty CK về các loại CK không niêm yết ).
Trong lúc VN chưa có thị trường OTC, bên cạnh loại CK niêm yết có thể Trung tâm giao dịch hoặc Sở giao dịch sẽ giao dịch cả loại CK không niêm yết , nhằm tạo ra tính thanh khoản cho các loại CK. Hiện nay TTGDCK Thành phố HCM đã thực hiện dịch vụ lưu ký cho các loại CK không niêm yết.
+ Các loại CK giao dịch tại trung tâm giao dịch đơn thuần chỉ là các loại cổ phiếu thông thường. Trung tâm giao dịch chưa cho phép giao dịch quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai, bán khống hoặc mua bảo chứng. Đó là những loại giao dịch tạo sự sôi động cho thị trường, nhưng trực tiếp tạo ra vốn đầu tư.
Những đặc trưng nêu trên được thể hiện cụ thể trong chủ trương chính sách và cơ chế hoạt động của TTCKVN, trong đó có những đặc trưng tồn tại lâu dài, nhưng cũng có những đặc trưng sẽ bị thu hẹp khoảng cách so với các SGDCK trên thế giới trong quá trình phát triển.
Sau hai năm đi vào hoạt động TTCK VN bước đầu đã thực hiện được vai trò của mình, song trong qua trình hoạt động rất nhiều vấn đề nảy sinh bộc lộ những hạn chế trong việc xây dựng và phát triển TTCKVN. Một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay là hàng hoá cho TTCK .
2.3 Thực trạng các CK giao dịch trên thị trường tập trung.
Sự ra đời và hoạt động của TTCK VN đã đánh dấu một bước tiến quan trong trong qua trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống ngân hàng, khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc hình thành và chủ trương xây dựng “nền kinh tế theo định hướng XHCN”.
Sau thời gian gần hai năm TTCK đi vào hoạt động, mặc dù quy mô thị trường vẫn còn nhỏ hẹp nhưng có thể nói việc hình thành TTCK ở Việt nam đã bước đầu mở ra một kênh huy động vốn hiệu quả cho đầu tư và phát triển , tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các công ty CK, công ty niêm yết CK và cả cơ quan quản lý nhà nước có môi trường thực tế để cọ xát, tập dượt và làm quen dần với hoạt động có thể nói là ở trình độ cao nhất của nền kinh tê thị trường.
Tuy nhiên cũng trong gần hai năm qua, TTCK đã bộc lộ những vấn đề mang tính chất đặc thù cần giải pháp mà đặc biệt như số công ty niêm yết CK còn ít, khan hiếm hàng hoá, mất cân đối giữa cung và cầu trên thị trường.
Vấn đề trên cần phải có giải pháp khắc phục, tuy nhiên đó lại là vấn đề về mặt thời gian. Trên cơ sở mục đích của đề tài, tôi đặc biệt quan tâm tới những loại CK đáp ứng được các điều kiện quan điểm theo Nghị định số 48/1998/NĐ-CP được đưa ra niêm yết và gia dịch tại TTGDCK thành phố HCM. Trên thực tế các loại CK đã được đưa vào giao dịch là TPCP , trái phiếu của NHĐT và cổ phiếu của một số doanh nghiệp.
2.3.1 Tình hình phát hành Trái phỉếu chính phủ (TPCP).
Theo nhận định thì TPCP được coi là nguồn hàng hoá chủ đạo có vai trò quan trọng cho TTCK VN hoạt động, vì theo chủ thể phát hành là Chính phủ thì việc đưa TPCP vào trong giao dịch nhằm đa dạng hoá nguồn hàng cho TTCK và qua đó chủ động điều tiết tác động vào TTCK
A/ Quá trình đưa trái phiếu chính phủ vào TTCK.
Trái phiếu chính phủ đã có lịch sử khá lâu dài và có độ an toàn cao, ở Việt nam TPCP lần đầu được phát hành vào những năm 1946 gọi là công trái. Tiếp đó là những năm 1948, 1950, TPCP lại được phát hành nhiều đợt nhằm huy động nguồn tài chính trong dân để phục._.ư chờ đợi một thể chế tài chính mới. Do vậy, công tác tuyên truyền về lợi ích của việc niêm yết và phát hành CK là rất cần thiết.
Có nhiều lý do cho việc phát hành cổ phiếu mới và niêm yết chúng trên thị trường đại chúng, nhưng suy cho cùng lợi ích chủ yếu cho các DN thu được từ việc phát hành niêm yết CK mới là:
+ Với việc phát hành mới CK và niêm yết chúng trên SGD CK sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động thêm vốn để tài trợ cho các cơ hội tăng trưởng. Số tiền huy động được từ các ngân hàng và các cổ đông tư nhân ban đầu của công ty chỉ có giới hạn nhất định vì vậy một số cổ đông hiện tại của DN sẽ có thể coi một đợt chào bán CK ra công chúng là một cơ hội để thiết lập giá trị cho các CK và đa dạng hoá phần sở hữu của mình.
+ Được niêm yết đồng nghĩa với việc các công ty đã trải qua một loạt quá trình xem xét và đánh giá nghiêm túc các tiêu chuẩn nhất định về quy mô, tình hình tài chính, kinh doanh cũng như khả năng quản trị điều hành công ty.Điều này vô cùng quan trọng đối với ảnh hưởng và vị thế của công ty.
+ Bên cạnh đó các DN sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế cũng như các chính sách tài chính khác khi tham gia niêm yết.
+ Doanh nghiệp sẽ không phải tốn thêm chi phí quảng cáo mà đơn giản tham gia qua niêm yết CK công chúng, nhà đầu tư sẽ tự tìm hiểu về DN khi họ bị hấp dẫn bởi CK của DN phát hành.
1.1.2- Đơn giản hóa các điều kiện phát hành phát và niêm yết CK:
Song song với công tác tuyên truyền về lợi ích của việc niêm yết CK, chúng ta những nhà thực thi chính sách nên tìm cách đơn giản hoá các điều kiện phát hành và niêm yết CK cho phù hợp với thực tế Việt Nam hiện nay.
Việc khuyến khích DN phát hành và niêm yết trước hết đã được thể hiện trong Nghị định số 48/1998/NĐ-CP thông qua việc quy định các tiêu chuẩn phát hành không quá khắt khe. Thực tế hiện nay, các tổ chức phát hành (trừ Chính phủ phát hành trái phiếu Chính phủ) muốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng để được niêm yết trên TTCK tập trung cần phải đáp ứng các quy định tại Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về CK và TTCK. Các điều kiện phát hành quy định tại Nghị định này so với tiêu chuẩn Quốc tế là chưa cao, tuy nhiên dựa vào tình hình Việt Nam hiện nay nhằm khuyến khích hơn nữa số lượng các DN phát hành hoặc niêm yết trong khi vẫn đảm bảo chất lượng theo điều kiện Việt Nam. Cụ thể là, theo quy định của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP thì các DN có thể xin phép phát hành CK với số vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng, hoạt động có lãi trong hai năm gần nhất và có triển vọng phát triển. Ngoài quy mô quản trị tổ chức kinh doanh sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả thì tối thiểu 20% tổng số phát hành( đối với DN có số vốn dưới 100 tỷ đồng) và 15%( đối với DN có số vốn từ 100 tỷ đồng trở lên) phải bán cho tối thiểu một 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành cổ phiếu có thể chuyển nhượng được. Việc quy định như vậy là nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng cổ phiếu phát hành có thể giao dịch trên Trung tâm giao dịch CK, giảm thiểu những DN ít vốn, hoạt động kém hiệu quả có thể gây rủi ro cho người đầu tư. Thêm vào đó để khuyến khích các DN Việt Nam niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch CK chúng ta chưa quy định thủ tục tiêu chuẩn niêm yết riêng, tách biệt với việc phát hành CK ra công chúng như ở các thị trường Quốc tế mà gắn việc cho phép phát hành ra công chúng với việc niêm yết CK là nghiễm nhiên.
1.1.3- Bảo vệ quyền lợi của công ty niêm yết trong vấn đề công khai hoá thông tin:
Một trong các nguyên tắc của TTCK là các công ty niêm yết phải công bố thông tin thực hiện nghiêm túc công tác kế toán kiểm toán độc lập. Đây là một trong những lý do chính khiến một số DN tuy đã đáp ứng đủ mọi điều kiện tiêu chuẩn niêm yết nhưng vẫn chưa muốn ra niêm yết. Một số chính sách bảo vệ lợi ích chính đáng của công ty niêm yết trong vấn đề công khai hoá thông tin là rất cần thiết trong lúc này, mang lại tâm lý an tâm cho các DN. Mô hình “ phễu thông tin” là một giải pháp giúp giải quyết được vấn đề này.
Chúng ta có thể hiểu “phễu thông tin” là bộ lọc trong đó không phải mọi thông tin mà DN cung cấp cho Trung tâm giao dịch CK đều được đưa ra công khai cho công chúng. Đầu vào của phễu sẽ đảm bảo cho việc quản lý DN một cách có hiệu quả, còn các thông tin cung cấp cho công chúng đầu tư sẽ được chọn lọc trên cơ sở vừa đảm bảo tính công khai minh bạch vừa không làm phương hại đến lợi ích của công ty niêm yết.
1.1.4- Cần có chính sách tài chính ưu đãi đối với công ty niêm yết:
Thường thì có những chính sách ưu đãi của Chính phủ sẽ là liều thuốc bổ khuyến khích thêm nhiều DN tham gia phát hành và niêm yết CK mới. Cụ thể là:
+ Cho phép các tổ chức tham gia phát hành có thể áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để tái đầu tư tài sản cố định nhanh hơn.
+ Chính phủ miễn thuế doanh thu từ 3-5 năm.
+ Cho phép các công ty niêm yết được thực hiện trả chậm thuế và trả thuế thành từng đợt.
+ Miễn giảm phí niêm yết hàng năm cho các công ty niêm yết từ 3- 5 năm và giảm các loại phí khác mà công ty niêm yết phải chịu như phí phát hành, phí lưu kì ...
+ Các công ty niêm yết được phép tính thêm tỷ lệ 20% vào tỷ lệ khấu hao thông thường để kịp thời thay thế thiết bị và hoàn vốn cho các khoản đầu tư.
Kinh nghiệm của một số quốc gia như Hàn Quốc, Malaixia ... trong thời kỳ đầu thành lập TTCK, thì các chính sách ưu đãi đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc đưa các công ty cổ phần ra niêm yết trên.
Thị
trường
Tên nước
Thời kỳ
Thuế thu nhập DN của các công ty niêm yết so với các công ty không tham gia niêm yết
1
Indonesia
1978
Giảm từ 40-20%
2
Philippines
Những năm 1970
Giảm khoảng 5%
3
Srilanka
1980
Giảm từ 40- 50%
4
Thái Lan
Cuối những năm 1970
Giảm 10%
5
Brazil
Những năm 1960- 1970
Giảm từ 30- 25%
Nguồn: Cơ sở phát triển thị trường sơ cấp của Việt Nam- Vũ Thị Kim Liên
1.1.5- Đẩy mạnh quá trình CPH, nâng cao chất lượng DN CPH.
Trong giai đoạn đầu ở Việt Nam, các cổ phiếu được niêm yết chủ yếu tại TTGDCK là các cổ phiếu của các DN CPH. Đây mới chính là nguồn hàng tiềm năng cho TTCK . Quá trình CPH cho đến nay đã đạt được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên trong thời gian tới vẫn cần một số giải pháp cụ thể thúc đẩy quá trình CPH và nâng cao chất lượng DN CPH để tăng thêm số DN có khả năng và muốn ra niêm yết. Có thể tiến hành những biện pháp cụ thể sau:
+ Đề nghị Thủ tướng chính phủ tiếp tục giao chỉ tiêu CPH cho các Bộ, địa phương, Tổng công ty 91. Đưa ra kế hoạch và danh mục các DN CPH của từng ngành, địa phương phải đồng thời xác định các DN ra niêm yết trên TTGDCK, từ đó, gắn quá trình CPH với việc phát hành ra công chúng để niêm yết. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo và thường xuyên kiểm điểm tiến độ triển khai CPH.
+ Đào tạo kỹ năng,chuyên môn thực hiện CPH của các Bộ Nhà nước lẫn lãnh đạo DN.
+ Tiếp tục cải tiến quá trình CPH theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, trong đó tập trung một số vấn đề sau:
- Cải tiến quy trình phương thức cải tiến DN, chẳng hạn bỏ hạn chế tối đa 30% đối với giá trị lợi thế vì như thế là tự hạ thấp giá trị DN trong trường hợp có nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài sẵn sãng trả giá cao hơn.
- Quy định các DN phải công khai hóa việc bán cổ phần DN, ngoài ra cần quy địnhviệc công bố thông tin bắt buộc, đặc biệt là các DN có tối thiểu 20% vốn cổ phần bán cho người ngoài DN.
- Xây dựng kế hoạch cơ cấu lại vốn và hoạt động cũng như tổ chức cho giai đoạn sau CPH nhằm tăng cường khả năng hoạt động có lãi của công ty.
+ Để gia tăng số lượng và chất lượng các DN CPH, cần có một số thay đổi trong chính sách CPH. Trước mẵt, cần cho phép các DNNN thuộc loại A được CPH. Đồng thời, phải tiêu chuẩn hoá việc CPH bằng cách xây dựng một “ba rem” rõ ràng các điều kiện CPH. Tạo lập một cơ sở dữ liệu tài chính của các DNNN để dễ dàng kiểm tra, lựa chọn. Nếu thấy DN nào đủ điều kiện CPH cần đưa vào danh sách CPH ngay. Đồng thời có chế độ ưu đãi đặc biệt với các DN CPH và người lao động của DN đó.
+ Triển khai CPH DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Nghị quyêt Đại hội Đảng toàn quốc lần IX đã khẳng định khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tính đến hết tháng 8 năm 2001 trên phạm vi cả nước đã có gần 2900 dự án đầu tư nứơc ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng kí trên 37 tỷ USD, trong đó có gần 1400 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh với số vốn đã thực hiện gần 19 tỷ USD.
Vì thế triển khai CPH DN có vốn đầu tư nước ngoài là một giải pháp mạnh dạn để gia tăng số lượng các công ty niêm yết trên TTGDCK. Để triển khai thành công, Chính phủ cần tập trung giải quyết một số công việc sau:
- Tạo cơ sở pháp lý cho việc CPH DN liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
- Lựa chọn công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài để thí điểm CPH trên cơ sở bám sát các tiêu chuẩn niêm yết được quy định tại Nghị định số 48/1998/NĐ-CP để đảm bảo cho việc các công ty liên doanh sau khi tiến hành CPH có thể tham gia niêm yết ngay tại TTGDCK.
- Quy định cơ quan quản lý DN cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài.
1.2- Khuyến khích các NHTM niêm yết cổ phiếu và huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu ngân hàng.
Nguồn CK do các NHTM phát hành là rất lớn, hơn nữa hầu hết các ngân hàng là các chủ thể đã thoả mãn các tiêu chuẩn về vốn theo luậ định. Việc đưa CK của các NHTM ra niêm yết chỉ còn là vấn đề thủ tục, nếu có biện pháp tháo gỡ kịp thời thì TTCK sẽ có thêm một lượng hàng hoá dồi dào.
Trong thời gian tới cần phải có các biện pháp khuyến khích các NHTM phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp vì trái phiêú ngân hàng là hình thức đã rất quen thuộc với người đầu tư tại Việt nam hiên nay và cũng đạt được một độ tin cậy nhất định từ phia nhà đầu tư. Đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho một số ngân hàng cổ phần đủ điều kiệnđược đăng ký lại để niêm yết.Cần xây dựng và chỉnh sửa một số văn bản sau:
- Chỉnh sửa Quyết định 212/QĐ -NH1ngày 22/09/1991 của Thống đốc NHNN về thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Phát triển và Đầu tư, đảm bảo các điều kiện cho trái phiếu Ngân hàng được chuẩn hoá để cổ phiếu thể đưa vào giao dịch tại TTGDCK.
- Chỉnh sửa quyết định 275/QĐ - NH5 cho thống nhất với Nghị định số 48/1998/NĐ-CP , trong đó có một số nọi dung cần phải sửa như quy định việc chuyển nhượng phải được HĐQT xem xét, đồng thời chỉnh sửa các quy định về cổ phần, mệnh giá cổ phiếu cho thống nhất với nội dung Nghị định số 48/1998/NĐ-CP . Giữa NHNN và UBCKNN cần đưa ra một quy trình hướng dẫn chung để các NHTM có thể đưâ cổ phiếu vào giao dịch trên TTGDCK .
- Sửa đổi điều lệ của các NHTM cổ phần choi phép chuyển nhượng cổ phiếu để các NH có thể đăng ký lại và niêm yết hoặc cho phép tăng vốn điều lệ để các NH phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng .
1.3- Tổ chức thị trường giao dịch CK chưa niêm yết.
Sau hơn một năm TTCK Việt Nam đi vào hoạt động một hiện tượng khá nổi bật mọi người có thể nhận ra là số lượng CK có mặt trên thị trường thì không phải là ít nhưng CK được niêm yết thì lại quá nhỏ. Việc này dẫn đến tình trạng mua bán CK ngầm diễn ra rất sôi động, trong khi giao dịch trên thị trường chính thức thì lại rất khiêm tốn. Có quan điểm cho rằng nên hạ thấp tiêu chuẩn niêm yết để nhiều CK có đủ điều kiện tham gia thị trường chính thức, giải quyễt được tình trạng thiếu hàng hiện nay.
Tuy nhiên, mục đích đặt ra ngay từ đầu khi xây dựng TTCK là TTCK phải vận hành an toàn, suôn sẻ và ổn định, nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, tạo cơ sở cho sự phát triển trong tương lai. Muốn vậy, những hàng hoá giao dịch trên TTGDCK phải là những hàng hoá có chất lượng cao của những DN hoạt động hiệu quả, lành mạnh, có uy tín. Do đó giữ nguyên điều kiện phát hành như hiện nay là cần thiết.
Song để đáp ứng được nhu cầu đầu tư và giảm bớt đươc tình trạng thiếu hàng hoá, cần nhanh chóng thực hiện phương án giao dịch Bảng II đối với các CK chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết. Theo phương án này, cổ phiếu công ty vừa và nhỏ sẽ được giao dịch theo phương thức tập trung đấu lệnh tương tự như các công ty đủ tiêu chuẩn niêm yết.
Việc tổ chức thị trường giao dịch Bảng II có tính khả thi cao vì đã sẵn có hệ thống giao dịch và kinh nghiệm và tổ chức đang áp dụng tại TTGDCK Tp HCM. Như vậy, cả về mặt thời gian và chi phí để cho ra đời thị trường giao dịch các loại CK chưa niêm yết là khá thích hợp với điều kiện thực tế hiện nay của Việt Nam, mặt khác thu hẹp được hoạt động của thị trường tự do, bảo vệ được người đầu tư, làm ổn định và lành mạnh hoá TTCK Việt Nam nói chung.
1.4 Tăng cường cung ứng nguồn hàng TPCP và nâng cao tính hấp dẫn của loại hàng này.
Qua kinh nghiệm thực tế của các thị trường trái phiếu sơ cấp các nước đang phát triển cho thấy các thị trường này phát triển mạnh nhờ vào nhu cầu phát hành trái phiếu của Chính phủ. Theo số liệu thống kê của một số nước đang phát triển như Hông Kông, Philipin, Trung Quốc.. cho thấy đến cuối năm 1993 thì TPCP chiếm 40% tổng số trái phiếu phát hành trên TTCK sơ cấp của các nước này. Như vậy, TPCP là một nguồn cung ứng rất quan trọng cho TTCK .
Đối với Việt Nam, xuất phát từ thực tế việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu DN còn gặp nhiều hạn chế do chỉ có rất ít công ty cổ phần và CHP đủ tiêu chuẩn. Thêm nữa, còn nhiều công ty chưa đủ điều kiện tiêu chuẩn phát hành hoặc thậm chí cũng có nhiều công ty đã đáp ứng đủ tiêu chuẩn niêm yết và phát hành vẫn chưa tham gia TTCK. Trong khi đó nhu cầu huy động vốn của NSNN thông qua chính sách phát hành TPCP là rất lớn. Do vậy, ban đầu TPCP đã được xác định là hàng hoá chủ đạo cho TTCK tuy nhiên thực tế lại phản ánh ngược lại là TPCP vẫn chưa thực hiện được chức năng này.
Để TPCP trở thành nguồn hàng hoá cho TTCK như ban đầu đã nhận định thì biện pháp cần thiết trước mắt là làm tăng tính thanh khoản cho mặt hàng này.
- Về mặt chính sách, cần tiếp tục hoàn thiện các phương thức và cơ chế phát hành TPCP nhằm thu hút rộng rãi hơn nữa các nhà đầu tư trên TTCK. Đối với các phương thức bảo lãnh phát hành, cần phải xem xét lại giới hạn tỷ lệ nắm giữ trong danh mục đầu tư của tổ chức bảo lãnh phát hành và thời gian nắm giữ được phép yêu cầu bán lại số lượng vượt quá tỷ lệ cho phép, số lượng khách hàng tối thiểu tham gia mua TPCP. Có như vậy TPCP mới có thể được phân phối đến nhiều nhà đầu tư, tránh tình trạng tập trung vào một số ít các tổ chức tài chính – tín dụng lớn như hiện nay, và mục tiêu hoạt động bảo lãnh phát hành mới đạt được hiệu quả.
- Về mặt lãi suất, do TPCP có lãi suất cố định trong thời gian khá dài nên rủi ro lãi suất khá cao, nên chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư. Do vậy cần nghiên cứu phát hành TPCP có lãi suất điều chỉnh theo lãi suất thị trường. Tuy nhiên, do thực tế là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay chưa cao, NSNN không mấy cấp thiết và các NHTM đọng vốn lớn thì khả năng nâng lãi suất TPCP khó có thể thực hiện được. Chính vì vậy, trước mắt cần tính tới việc phát hành các loại trái phiếu đầu tư công trình. Trái phiếu công trình sẽ làm đa dạng hoá các loại TPCP phát hành bằng hình thức đấu thầu thông qua TTGDCK.
Hơn nữa, để tạo nên một đường cong lãi suất, cần lập chương trình kế hoạch phát hành TPCP có thời hạn khác nhau như 2, 3, 4 ,5,6, 7 và 10 năm xen kẽ trong tháng. Nhờ đó, các nhà đầu tư luôn có hàng hoá trên thị trường để đầu tư phù hợp với chiến lược đầu tư riêng của mình, và thị trường cũng luôn tồn tại mức lãi suất chuẩn để các công cụ đầu tư khác sử dụng tham chiếu.
Ngoài ra, cũng cần đưa ra thời điểm hợp lý hơn khi phát hành TPCP thông qua hình thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, sao cho hai hình thức đươc tổ chức không quá gần nhau, tránh tình trạng thu hút vốn giữa hai hình thức.
Tóm lại, với thức trạng giao dịch TPCP như hiện nay, việc thực hiện các biện pháp trên đây là rất cần thiết. Trên cơ sở đó, TPCP sẽ có khả năng trở thành một trong những hàng hoá chủ đạo trên TTGDCK, tạo thuận lợi cho sự phát triển của TTCK Việt Nam.
II - Giải pháp lâu dài :
Với cơ sở những giải pháp trước mắt, chúng chỉ được áp dụng hiệu quả trong một khoảng thời gian nhất định,song về lâu dài, khi những yếu tố về kinh tế - chính trị- xã hội có sự biến đổi thì các giải pháp đó không còn hữu hiệu nữa. Do vậy, cần phải xây dựng nên một hệ thống các giải pháp mang tính lâu dài để TTCK Việt Nam vẫn tiếp tục hoàn thiện và phát triển với lượng cung hàng hoá có đủ “chất” lẫn “lượng”
2.1- Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho TTCK:
Khung pháp lý cho TTCK ở Việt Nam hiện tại còn nhiều vướng mắc. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về CK và TTCK hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị pháp lý thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn manh mún, chắp vá, thiếu tính đồng bộ mâu thuẫn chồng chéo giữa các quy định. Nhiều vấn đề thuộc về CK và các quan hệ trong TTCK chưa được pháp luật quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định này được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm luật pháp, kinh nghiệm tổ chưc TTCK của nước ngoài mà chưa được hoặc còn ít được kiểm nghiệm qua thực tiễn ở Việt Nam.
Trước thực tế như vậy thì về lâu dài Pháp lệnh về CK và TTCK cũng chưa đầy đủ, chúng ta cần xây dựng Luật CK và TTCK. Với tính hiệu lực pháp lý cao, Luật CK sẽ giúp cho các nhà quản lý thị trường điều chỉnh được tất cả các vấn đề về CK và TTCK, đồng thời giải quyết được ngay những mâu thuẫn không phù hợp giữa các văn bản pháp lý về CK với các luật khác trong hệ thống pháp luật.
Việc xây dựng Luật CK cần dựa trên cơ sở 4 căn cứ sau:
+ Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng khung pháp luật cho giai đoạn đầu phát triển TTCK là phải đảm bảo đáp ứng được tính linh hoạt, biến động của TTCK và được hoàn thiện dần từ thấp đến cao. Quốc hội khoá X đã đưa Luật CK vào chương trình xây dựng luật trong Nghị Quyết của Quốc hội khoá X. UBCKNN là cơ quan được giao làm đầu mối để tiến hành xây dựng Luật CK.
+ Tổng kết đánh giá kết quả thực thi pháp luật về CK và TTCK, tìm ra những ưu điểm để phát huy và những hạn chế cần được điều chỉnh, xây dựng Luật CK phù hợp thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng.
+ Đánh giá thực trạng khung pháp luật về kinh tế. Khi xây dựng Luật CK cần chú ý những mối quan hệ chung với các văn bản pháp luật khác để tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phù hợp trong hệ thống pháp luật nói chung và trong hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng.
+ Tham khảo kinh nghiệm xây dựng Luật CK ở một số nước.
Những nội dung chính cần điều chỉnh trong Luật CK cần bao gồm những nội dung mang tính kế thừa và một số nội dung sửa đổi bổ sung. Trong đó, để phát triển hàng hoá cho TTCK về lâu dài, Luật CK cần mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với các loại CK.
Luật không chỉ điều chỉnh các loại CK được niêm yết trên TTCK tập trung mà còn điều chỉnh các loại CK giao dịch trên thị trường OTC. Mặt khác, cũng cần sửa đổi bổ sung các điều kiện để CK được niêm yết trên TTCK tập trung và những trường hợp CK bị huỷ bỏ niêm yết.
Đồng thời để khuyến khích TTCK Việt Nam phát triển, nhanh chóng hội nhập với TTCK thế giới, Luật CK nên quy định việc phát hành CK để niêm yết trên TTCK nước ngoài và cho phép CK nước ngoài niêm yết tại TTCK Việt Nam.
Ngoài ra, Luật CK cần đưa ra những quy định về thị trường OTC của Việt Nam. Việc thành lập thị trường OTC sẽ giúp cho các CK không đủ khả năng niêm yết trên TTCK tập trung có địa điểm giao dịch, kích thích yếu tố cung cầu, nâng cao khả năng thanh khoản của CK và từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phát hành khi muốn huy động vốn thông qua hình thức phát hành các loại CK này.
2.2 - Lành mạnh hoá môi trường tài chính- tiền tệ:
Nói đến môi trường kinh tế vĩ mô, ta không thể tách rời khỏi môi trường tài chính -tiền tệ vì nó được coi là cơ sở hạ tầng, huyết mạch của nền kinh tế. Đặc biệt, môi trương tài chính -tiền tệ có một vai trò vô cùng quan trọng đối với TTCK vì nó chính là cái nồi của TTCK để có một môi trường tài chính ổn định, trước hết phải có một nền tài chính quốc gia lành mạnh. Tiếp theo cần phải có một đồng tiền ổn định thông qua sự điều tiết chính sách tiền tệ và lãi suất của NH Trung ương.
2.2.1 Về nền tài chính quốc gia:
Trong những năm gần đây, việc giảm thâm hụt NSNN và giảm sự tài trợ thâm hụt thông qua nguồn tín dụng NH đã đánh dấu một bước chuyển biến tích cực trong chính sách quản lý tài chính quốc gia. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải thực hiện các chính sách quản lý nợ chặt chẽ và hiệu quả hơn thông qua các chế độ tài chính thích hợp.
Trước hết, Nhà nước cần chú trọng hơn đến việc cân đối thu chi NS, đảm bảo nguyên tắc chi tiêu NS dựa vào nguồn thu chủ yếu là thuế. Để đạt được điều này,chính sách thuế cần tiếp tục được cải tổ và hoàn thiện để tận thu hết các nguồn thuế cho NSNN, đồng thời phát huy vai trò điều tiết vĩ mô của chính sách thuế, chú trọng hơn các vấn đề tác động của thuế tới tích luỹ và tiêu ding thông qua việc điều chỉnh giảm tỷ lệ điều tiết thu nhập công ty chuyển dần và mở rộng thuế thu nhập cá nhân. Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần điều chỉnh các mức thuế suất phù hợp cho từng giai đoạn phát triển cụ thể, đảm bảo có được một mức huy động hợp lý, cân đối trong mối quan hệ giữa khuyến khích tích luỹ đầu tư và tiêu dùng, giữa nguồn thu và chi của NSNN. Mặt khác, việc vay nợ để bổ sung cho thiếu hụt NS tạm thời cũng như thường xuyên cần được xác lập trên cơ sở kế hoạch NS hàng năm một cách chủ động, tăng cường việc đấu thầu, bán buôn qua bảo lãnh phát hành và đại lý để giảm chi phí vay và quản lý nợ, đồng thời tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ và TTCK phát triển.
2.2.2 Về chính sách tiền tệ:
Nhà nước cần phải duy trì một chính sách tiền tệ quốc gia hợp lý, linh hoạt, nhằm giữ vững sức mua đồng tiền để tạo lòng tin cho công chúng yên tâm mua kỳ phiếu, trái phiếu, đầu tư vào cổ phiếu của các DN.
Từ những năm trước đây, chính sách tiền tệ chủ yếu của NH Trung ương được thực hiện thông qua các công cụ kiểm soát trực tiếp như ấn định khung lãi suất tiền gửi, tiền vay của các NH, kiểm soát chính sách tín dụng của các NHTM và yêu cầu dự trữ bắt buộc. Gần đây, chính sách tiền tệ có một động thaí mới là mở thêm hình thức tái chiết khấu, bỏ quy định lãi suất tiền gửi và bắt đầu xây dựng thị trường mở, song việc sử dụng hình thức này còn rất hạn chế và chưa thực sự hiệu quả. Để thực hiện chính sách tiền tệ một cách hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, NH Trung ương nên chuyển hướng áp dụng chính sách tiền tệ theo xu hướng thị trường, tức là chuyển sang điều tiết lãi suất cơ bản, từng bước phát triển hoạt động thị trường mở chủ yếu là mua bán tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc.
2.2.3 Việc điều tiết lãi suất của NH Trung ương:
Những biến động trong chính sách lãi suất của NHNN tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn đến việc phát hành trái phiếu, từ đó tác động dây chuyền đến giá cả cổ phiếu và cả thị trường nói chung. Lãi suất phải thể hiện được đầy đủ các yếu tố rủi ro về lạm phát, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro khả năng thanh toán và rủi ro kỳ hạn. Vì vậy, NHNN nên điều chỉnh mức lãi suất phù hợp với tỷ lệ lạm phát để có mức lãi suất thực không quá cao.
Chính sách tín dụng của NHNN cũng đóng một vài trò quan trọng đối với sự phát triển của TTCK sơ cấp. DN thường huy động vốn thông qua vay nợ tín dụng hoặc phát hành CK trên TTCK. Để DN có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu thì chi phí cho việc phát hành phải thấp hơn chi phí vay vốn từ NH.
Tương tự, người đầu tư cũng sẽ so sánh giữa hai hình thức là tiết kiệm và đầu tư CK. Nếu lãi suất của NH trả cho nguồn tiết kiệm cao, người tiết kiệm sẽ thích gửi tiền vào NH để hưởng lãi suất cao và rủi ro thấp, hơn là mua CK lãi suất thấp và ruỉ ro cao. Như vậy nhu cầu mua CK trên TTCK giảm kéo theo sự hạn chế trong việc phát hành và giao dịch CK.
2.3 Xây dựng và phát triển thị trường CK phái sinh.
Trong một vài năm tới, chúng ta chỉ có thể cho phép các công ty cổ phần phát hành quyền mua cổ phiếu mới và chứng quyền. Muốn làm được điều này, trước mắt chúng ta nên có các văn bản pháp luật (cụ thể là bổ sung vào Luật doanh nghiệp) quy định và hướng dẫn về việc phát hành, việc mua cổ phiếu và chứng quyền của các công ty cổ phần. Điều này là hết sức cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông cũ về những tổn thất họ có thể gặp phải nếu như họ không thực hiện quyền mua cổ phiếu của mình.
Sau đó, UBCKNN sẽ có những quy định cụ thể những loại quyền mua cổ phiếu mới và chứng quyền nào được phép đưa vào giao dịch tại TTGDCK. Điều này không phải là khó do trong Nghị định số 48/1998/NĐ-CP đã có quy định CK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại CK khác, cho nên vào thời điểm thích hợp khi đưa quyền mua cổ phiếu mới vàchứng quyền vào giao dịch atị TTGDCK thì UBCKNN chỉ quy định điều kiện và hướng dẫn thủ tục niêm yết tại TTGDCK.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ nên đưa các chuyên gia trong ngành CK cũng như các Bộ ngành liên quan đi học và nghiên cứu các thị trường hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn ở một số nước có thị trường này phát triển như: Anh, Mỹ, Singapo nhằm chuẩn bị cho các văn bản pháp luật về giao dịch các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn.
Tuy nhiên việc giao dịch hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn là rất phức tạp trong giai đoạn này chưa thể thực hiện được. Mà trước mắt chúng ta chỉ có thể ban hành những quy định về việc phát hành và giao dịch quyền mua cổ phiếu và chứng quyền, còn về việc giao dịch hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn phải trong thời gian lâu dài nữa, có thể phải mất từ 10 đến 15 năm nữa, khi mà Luật về CK và TTCK đã được ban hành và TTCK VN cũng như TTGDCK đã đi vào hoạt động ổn định, hiệu quả và đã có nhiều hàng hoá chất lượng cao được giao dịch tại TTGDCK.
2.4 Củng cố công tác Kế toán - Kiểm toán.
Một trong những nguyên tắc của TTCK là phải hoạt động tuân theo hệ thống kế toán - kiểm toán chuẩn quốc tế. Mọi công ty đã đăng ký và có cổ phiếu niêm yết ở TTCK phải báo cáo định kỳ theo đúng tiêu chuẩn, và các báo cáo chỉ có giá trị khi đã có sự kiêm tra và xác nhận của cơ quan kiểm toán. Tất cả những tài liệu được kiểm toán công bố công khai sẽ làm chỗ dựa đáng tin cậy cho các thành viên tham gia thị trường và tạo niềm tin cho công chúng. Hoạt động trên là nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh “trong suốt như pha lê”. Vì vậy việc cần thực hiện trong thời gian tới là phải ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán - kiểm toán Việt Nam, đồng thời cần điều chỉnh các quy định về công bố thông tin trong Pháp lệnh Kế toán thống kê để phù hợp với các yêu cầu công bố thông tin của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP. Để chuẩn bị hàng hoá có một chất lượng cao được đưa vào giao dịch trên TTCK tập trung, công việc kiểm toán các doanh nghiệp có đủ điều kiện phát hành và niêm yết là một việc làm hết sức cần thiết.Điều này đồng nghĩa với việc phải lựa chọn một đội ngũ kiểm toán độc lập có đủ uy tín và chất lượng để kiểm toán các tổ chức phát hành.
Đối với công tác kiểm toán ở Việt Nam, cần sắp xếp lại các công ty kiểm toán theo mô hình tổ chức độc lập có qui mô đủ lớn để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình khi làm đối tác với các tổ chức phát hành.
Về chất lượng kiểm toán, thực tế chưa có một cơ quan Nhà nước nào kiểm soát được chất lượng kiểm toán, và điều này đã gây khó khăn cho việc UBCKNN lựa chọn một số công ty kiểm toán có uy tín và hiệu quả hoạt động tốt để chấp thuận cho phép kiểm toán các tổ chức phát hành.
2.5 Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức ra công chúng.
Giải pháp cuối cùng không chỉ đơn thuần nhằm giải quyết vấn đề tăng cung hàng hoá mà còn thúc đẩy TTCK VN phát triển bền vững,lâu dài...là vấn đề đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực và tuyên truyền phổ cập kiển thức CK và TTCK ra công chúng. Thực hiện giải pháp này bằng cách:
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cho phù hợp nhằm tạo ra những cán bộ không chỉ giỏi về nghiệp vụ CK mà còn phải am hiểu các kiến thức về quản lý kinh tế, tài chính, tín dụng, luật pháp. Đào tạo và đào tạo lại cán bộ là yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài đối với đất nước nói chung và ngành CK nói riêng.
+ Thực hiện tuyên truyền và phổ cập kiến thức về CK và TTCK ra cô chúng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện,tiêu chuẩn niêm yết CK mạnh dạn tham gia vào thị trường, giúp doanh nghiệp đó hiểu được lợi ích của việc niêm yết...Bên cạnh đó, nhờ công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức mà chúng ta có thể xác định được mối liên hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các doanh nghiệp phát hành, các nhà đầu tư, công chúng, để tiện lợi trong việc thu thập và xử lý thông tin 2 chiều tạo điều kiện thuận lợi cho việc định hướng và thực hiện những chính sách đề ra.
Kết Luận
Trong thời gian qua TTCK VN thực sự đã trải qua nhiều bước thử thách thăng trầm : trong thời gian đầu giá cả tăng liên tục, chỉ số VN-Index đạt trên 500 điểm, mức cao chưa từng có, nhưng sau đó thị trường lại rơi vào giai đoạn suy giảm, sau đó lại phục hồi và gần đây lại có dấu hiệu tiếp tục giảm sút. Có thể nói, sự thăng trầm đó thể hiện được thực trạng về cơ bản là tình trạng thiếu hàng hoá, dẫn đến kết quả mối quan hệ cung cầu về CK trên thị trường luôn luôn ở trạng thái mất cân bằng nghiêm trọng.
Thực trạng này đòi hỏi phải có những giải pháp trước mắt và lâu dài thích hợp dựa trên sự nghiên cưú sâu sắc về hàng hoá trên TTCK. Do đó bài khoá luận “Một số giải pháp nhằm tăng cung hàng hoá cho TTCK VN hiện nay” đã tập trung tìm hiểu và nghiên cứu cơ sở lý luận về CK và TTCK đặc biệt là xem xét thực trạng của các loại hàng hoá, qua đó phác hoạ chi tiết bưc tranh tổng thể cuả TTCK VN, chú trọng tới những hạn chế, tồn tại của những đơn vị phát hành lẫn cơ quan quản lý phát hành trên TTCK VN. Dựa vào cơ sở đó bài khoá luận mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trước mắt cũng như những giải pháp lâu dài dể nhằm tạo hàng hoá cho TTCK cũng như thúc đẩy sự phát triển của TTCK, tạo tiền đề cho TTCK hoàn thiện đồng bộ thực hiện tốt được mục tiêu huy động triệt để mọi nguồn vốn phục vụ cho công việc phát triển đất nước .
Vì vấn đề mà khoá luận đề cập là một vấn đề mang tính thời sự kinh tế - xã hội bức xúc được nhắc tới nhiều nên khía cạnh mà bài khoá luận chưa được cụ thể hoá và đó là nghiên cứu của các đề tài chi tiết mang tính chuyên sâu hơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT36.DOC