Mục lục
Lời nói đầu ....................................................................................................... 1
Chương I - Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng .................................. 3
Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng .............................................. 3
Khái niệm tín dụng ngân hàng ............................................................. 3
Phân loại tín dụng ngân hàng .............................................................
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.. 4
Vai trò của tín dụng ngân hàng ............................................................ 5
3.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế ...................... 6
3.2. Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các NHTM ....................... 8
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ........... 8
Quan điểm chung về rủi ro tín dụng .................................................... 8
Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng ............................................ 10
2.1. Nợ quá hạn .................................................................................. 10
2.2. Tổn thất tín dụng ......................................................................... 12
2.3. Rủi ro tiềm năng ......................................................................... 12
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ................................................ 13
3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan ................................................. 13
3.1.1. Môi trường tự nhiên .......................................................... 14
3.1.2. Môi trường kinh tế ............................................................ 14
3.1.3. Môi trường pháp lý ............................................................ 14
3.1.4. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước ......................................... 15
3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan ..................................................... 15
3.2.1. Về phía khách hàng .......................................................... 15
3.2.2. Về phía ngân hàng ............................................................ 17
Tác động của rủi ro tín dụng ............................................................. 20
4.1. Tác động của rủi ro tín dụng đến ngân hàng .............................. 20
4.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế ........................ 21
Chương II - Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ...................................................... 22
Khái quát chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam .................................................................................................... 22
Lịch sử hình thành và phát triển .................................................... 22
Cơ cấu tổ chức .............................................................................. 24
Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong thời gian qua ........... 27
Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở................. 34
Một số quy định chung đối với hoạt động tín dụng ...................... 34
1.1. Quy trình cho vay .................................................................. 34
1.2. Nguyên tắc cho vay ............................................................... 37
1.3. Điều kiện vay vốn .................................................................. 37
1.4. Đối tượng cho vay .................................................................. 38
Thực trạng hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch ............................ 38
2.1. Cơ cấu tín dụng theo loại cho vay ......................................... 38
2.2. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế ............................... 42
2.3. Cơ cấu tín dụng theo tính chất bảo đảm ................................ 45
Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch ................................... 47
3.1. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo loại cho vay .................. 48
3.2. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo thành phần kinh tế ........ 51
3.3. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo khả năng thu hồi ........... 53
Đánh giá ....................................................................................... 56
4.1. Những kết quả đạt được ......................................................... 57
4.2. Những mặt còn hạn chế ......................................................... 58
Nguyên nhân ................................................................................. 59
5.1. Nguyên nhân khách quan ...................................................... 59
5.1.1. Môi trường tự nhiên ..................................................... 60
5.1.2. Môi trường kinh tế ....................................................... 60
5.1.3. Môi trường pháp lý ...................................................... 61
5.2. Nguyên nhân chủ quan .......................................................... 62
5.2.1. Từ phía khách hàng ..................................................... 62
Từ phía ngân hàng ....................................................... 63
Chương III - Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ............................................ 68
Định hướng hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong năm 2002 ............................................................ 68
Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam...................................................... 72
Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng ................................. 73
1.1. Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi
cho vay ................................................................................... 73
1.2. Tăng cường công tác thu thập thông tin ................................ 77
1.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay ........ 77
1.4. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng ................................. 78
1.5. Đa dạng hoá đầu tư ............................................................... 79
1.6. Có chế độ thưởng phạt hợp lý đồng thời đẩy mạnh công tác đào
tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng ................. 80
Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng ........................................... 81
2.1. Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn ............................... 81
2.2. Đối với công tác thu nợ .......................................................... 82
2.3. Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp .... 82
2.4. Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ................................ 83
Kết luận .................................................................................................... 89
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 90
Lời nói đầu
T
rong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, mọi mặt đời sống xã hội được cải thiện, chúng ta đã ký được hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đang trong quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam đang là những thời cơ và thách thức mới đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn trong cạnh tranh. Không nằm ngoài xu thế chung đó, ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng cũng có những thời cơ và thách thức trong tình hình mới.
Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh ngân hàng trong thời gian qua ngày càng trở nên khó khăn, lãi suất trên thị trường thế giới liên tục giảm gây áp lực lên hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặt khác, bản thân các ngân hàng trong nước cũng có sự cạnh tranh quyết liệt với nhau nên càng gây ra nhiều khó khăn, buộc các ngân hàng phải nới lỏng các yêu cầu khi cho vay cũng như cắt giảm lãi suất tạo ra nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và do đó gián tiếp ảnh hưởng đến các ngân hàng. Các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có thể sử dụng vốn vay của ngân hàng không đúng mục đích hoặc đầu tư không hiệu quả, thu nhập không đủ bù đắp chi phí... dẫn đến không thể trả được nợ ngân hàng khi đến hạn, tất cả những điều đó đều có thể gián tiếp gây ra rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro đối với hoạt động tín dụng. Vì vậy, trong thời gian tới việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là thực sự có ý nghĩa và luôn là một đề tài bức xúc đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tìm được các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng để tăng hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng là mong muốn của tất cả các nhà kinh doanh tiền tệ khi phải đối đầu với sự cạnh tranh quyết liệt, giành giật thị phần để mang lại lợi nhuận.
Nhận thức được điều đó, cùng với mong muốn sử dụng những kiến thức đã học cũng như các kết quả quan sát học hỏi từ thực tiễn hoạt động tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Trong bài luận văn này, em sẽ trình bày các vấn đề lý luận cũng như thực trạng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị góp hạn chế rủi ro tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và đối với Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng.
Kết cấu luận văn gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng.
Chương II: Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên bài luận sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cán bộ tín dụng để bài luận văn hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Xuân Quế cùng các thầy cô trong Khoa Ngân hàng - Tài chính đã tận tình hướng dẫn giúp em làm tốt đề tài này. Em cũng xin cảm ơn tập thể cán bộ Phòng tín dụng I - Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình thực tập tại quý cơ quan.
Chương I
Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng
Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng
Khái niệm tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó các chủ thể chuyển cho nhau quyền sử dụng về một lượng giá trị hoặc hiện vật với những điều kiện mà hai bên thoả thuận như số lượng, thời hạn, lãi suất... theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi.
Như vậy, tín dụng có thể được hiểu đơn giản là một quan hệ vay mượn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả khẳng định người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng tiền hoạc tài sản của mình cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó người đi vay sẽ phải hoàn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất định theo thoả thuận. Thông thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị khoản cho vay.
Với cùng bản chất như vậy, tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các chủ thể kinh tế khác như các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, dân cư dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hoàn trả có thể thực hiện một lần hay nhiều lần tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Một ngân hàng khi tham gia vào các quan hệ tín dụng có thể đóng vai trò là người đi vay hoặc người cho vay. Khi ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn, vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương, từ các tổ chức tín dụng khác thì nó đóng vai trò là người đi vay. Còn khi ngân hàng thực hiện việc cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu... thì nó đóng vai trò là người cho vay. Tuy nhiên, trong thực tế do tính phức tạp của hoạt động cho vay so với hoạt động đi vay và cũng là do thói quen nên khi nói đến tín dụng Ngân hàng người ta thường chỉ đề cập đến hoạt động cho vay mà ít khi đề cập đến hoạt động đi vay.
Phân loại tín dụng Ngân hàng:
Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại tín dụng ngân hàng theo mục đích sử dụng tiền vay, theo thời hạn trong quan hệ tín dụng, theo tính chất bảo đảm hoặc theo thành phần kinh tế.
Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay, tín dụng được chia thành:
Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cho vay phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Tín dụng nông nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tín dụng công nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp.
Tín dụng xuất nhập khẩu: là hình thức cho vay nhằm tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Căn cứ vào tính chất bảo đảm, tín dụng có thể chia thành:
Tín dụng có bảo đảm là hình thức cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó như xe cộ hoặc một hình thức nào đó về tài sản cá nhân.
Tín dụng không có bảo đảm: khác với tín dụng có bảo đảm, tín dụng không có bảo đảm được dựa trên cơ sở uy tín, tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây.
Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng có thể chia thành:
Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của người vay như nhu cầu về vốn lưu động.
Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm phục vụ nhu cầu sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp, cải tiến kỹ thuật hoặc xây dựng những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn không dài.
Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 3 năm, phục vụ nhu cầu trang bị tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh, hay xây dựng những công trình lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.
Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành:
Tín dụng kinh tế quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các khoản tín dụng này có thể được thực hiện trực tiếp giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp hoặc theo kế hoạch Nhà nước.
Tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân như các công ty TNHH, công ty cổ phần...
Vai trò của tín dụng Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nặng lãi, tín dụng thuê mua... Trong đó tín dụng Ngân hàng là loại hình tín dụng giữ vai trò quan trọng nhất và cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp lưu thông luồng tiền tệ, dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Mặt khác, tín dụng cũng là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Trong thời gian dài, tín dụng luôn là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại kể cả các Ngân hàng thương mại trong nước và các Ngân hàng thương mại trên thế giới.
Ngày nay, khi công nghệ Ngân hàng phát triển đến trình độ cao, các dịch vụ Ngân hàng đã bắt đầu thể hiện rõ ưu thế của mình và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong hoạt dộng của các Ngân hàng thương mại, tín dụng vẫn là hoạt động không thể thiếu được của các Ngân hàng. Tín dụng vẫn tạo ra nguồn thu nhập cơ bản cho các Ngân hàng thương mại, nó bảo đảm cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại được thông suốt. Chính vì vậy, tín dụng Ngân hàng luôn luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia giữ một vai trò hết sức quan trọng. Xét trên nhiều mặt, hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển, tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn của quốc gia. Đồng thời hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tín dụng, mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng mà cụ thể là các doanh nghiệp được củng cố và tăng cường, ngân hàng và doanh nghiệp sẽ hỗ trợ nhau cùng phát triển. Với mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đồng thời với lộ trình gia nhập AFTA tiến tới gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của nước ta thì tín dụng Ngân hàng càng có vai trò quan trọng. Cụ thể, vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế được thể hiện trên một số mặt như sau:
Thứ nhất, hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp điều hoà vốn trong nền kinh tế, cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất, tái sản xuất mở rộng. Như chúng ta đã biết, vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất tạo thành chu kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một vòng tuần hoàn này được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ - sản xuất - lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa hoặc thiếu vốn tạm thời tại các doanh nghiệp. Đây chỉ là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường xuyên và phổ biến, làm nảy sinh yêu cầu phải giải quyết cho được vấn đề điều hoà vốn trong nền kinh tế. Với nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng, các Ngân hàng thương mại đã giải quyết được vấn đề này. Ngân hàng thương mại đứng ra tập trung và phân phối lại vốn, điều hoà cung - cầu vốn trong nền kinh tế, góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp thì yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào nhiều nguồn vốn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng Ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng là công cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ cho các ngành mũi nhọn và các thành phần kinh tế kém phát triển. Trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tín dụng Ngân hàng được xem như một công cụ vĩ mô quan trọng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước. Mặc dù các ngành này có tỷ lệ sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, là xương sống của nền kinh tế, là cơ sở đề phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển các ngành này là một yêu cầu không thể thiếu và tín dụng Ngân hàng được xem như một trong những nguồn vốn quan trọng tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển và hội nhập quốc tế còn đòi hỏi phải vực dậy một số ngành kinh tế kém phát triển để có đủ khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới. Muốn vậy, cần phải có vốn đầu tư lớn đối với các ngành kinh tế này. Vốn đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn nhưng quan trọng nhất vẫn là nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại. Trong những năm tới, khi hàng rào thuế quan giữa các nước trong khu vực được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước một thách thức to lớn là phải đối đầu với các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực kinh tế mạnh, có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời hạ giá thành sản xuất, đa dạng mẫu mã chủng loại hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Có như vậy mới cạnh tranh được với hàng hoá của nước ngoài, củng cố và mở rộng thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có vốn đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và nguồn vốn vay của Ngân hàng là thực sự cần thiết.
Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại:
Bên cạnh vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế, nghiệp vụ tín dụng còn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi Ngân hàng thương mại. Tín dụng là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Bản chất của một Ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu là “đi vay để cho vay”. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động, trước tiên được sử dụng vào hoạt động cho vay và đây cũng là hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng. Khi các Ngân hàng không thực hiện được duy trì và mở rộng tín dụng thì phần vốn mà Ngân hàng huy động được sẽ bị ứ đọng, Ngân hàng sẽ phải trả lãi cho phần vốn đó trong khi không có thu nhập từ lãi cho vay, điều này sẽ dẫn Ngân hàng tới chỗ bị thua lỗ và có khả năng bị phá sản. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng phát triển đa dạng thêm các hoạt động dịch vụ khác. Do đó, việc duy trì và mở rộng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các Ngân hàng thương mại.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại:
Quan điểm chung về rủi ro tín dụng:
Mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, rủi ro và kinh doanh là hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá trình kinh doanh, chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn với nhau. Muốn cho quá trình kinh doanh tồn tại và phát triển thì kinh doanh phải khống chế được rủi ro.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về rủi ro. Có ý kiến cho rằng, khi nói tới rủi ro là nói tới điều gì đó đã xảy ra.
Ví dụ, trong Ngân hàng khi nói tới rủi ro tín dụng, thông tin mà người nghe nhận được sẽ là “số nợ quá hạn” của Ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa là trong tổng số các khoản cho vay của Ngân hàng đến hạn thu nợ có một số khoản Ngân hàng chưa thể thu được nợ theo thời hạn ghi trong hợp đồng.
Có ý kiến lại cho rằng, nói tới rủi ro không chỉ dừng lại ở mức liệt kê đơn thuần về điều đã xảy ra mà còn phải bao hàm cả những thiệt hại mà những điều đã xảy ra mang lại. Theo đó khi nói tới rủi ro tín dụng có nghĩa là những khoản cho vay bị mất - không thể thu hồi.
Những người theo quan niệm rủi ro là điều tất yếu xảy ra khi tiến hành bất cứ một công việc nào lại cho rằng “rủi ro” là những khả năng xảy ra sự cố có thể dẫn tới tổn thất về cái gì đó. Theo quan điểm này, gắn với hoạt động tín dụng của Ngân hàng, rủi ro đã hàm chứa ngay từ khi bắt đầu thực hiện cho vay chứ không phải “chờ đợi” sự trả chậm hay không trả của người vay mới coi là rủi ro.
ý kiến chung nhất cho rằng rủi ro là một khái niệm chỉ khả năng xảy ra những biến cố mang lại kết quả xấu khi tiến hành một công việc nào đó.
Như vậy, cần hiểu rủi ro bao gồm những nội dung như sau:
Trước hết, rủi ro là một hiện tượng có thể xảy ra ngoài mong muốn khi tiến hành bất cứ một công việc nào. Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu tiến hành một công việc nào đó cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra.
Thứ hai, mặc dù rủi ro là hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng xảy ra khi tiến hành các hoạt động nhưng trong nhiều trường hợp, do tính lặp lại của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó. Chính vì điều này mà người ta có thể tìm những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro.
Thứ ba, rủi ro dù ít xảy ra nhưng khi đã xảy ra thường gây nên những tổn thất. ý thức được điều này, người ta luôn tìm các biện pháp để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra.
Trong các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại, thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Với đặc trưng của hoạt động tín dụng Ngân hàng - chủ thể là Ngân hàng và người vay, đối tượng là tiền, với các điều kiện về thời hạn vay, lãi suất - với quan điểm như trên về rủi ro, ta có thể hiểu rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không hoàn trả được nợ đúng thời hạn hoặc không trả nợ cho Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là một tất yếu trong kinh doanh Ngân hàng, nó được thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, với đặc điểm kinh doanh tín dụng, có sản phẩm độc quyền là tiền tệ, kinh doanh tín dụng Ngân hàng bán “quyền sử dụng tiền tệ” với thời hạn cho vay và giá bán là lãi suất. Hoạt động tín dụng Ngân hàng có liên quan tới rất nhiều chủ thể trong nền kinh tế, có tính xã hội hoá cao, chính vì thế, nó cũng chịu tác động rất lớn từ nhiều phía như cơ chế chính sách, môi trường kinh doanh. Do vậy, khi có sự biến động trong nền kinh tế, sự thay đổi về cơ chế chính sách hay môi trường kinh doanh đều có ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng Ngân hàng và có thể dẫn đến rủi ro. Mặt khác, Ngân hàng hoạt động theo phương châm “đi vay để cho vay”, do đó, hiệu quả kinh tế của người đi vay cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Thứ hai, thực tế cho thấy, những năm 1989 - 1990 ở nước ta hàng loạt hợp tác xã tín dụng sụp đổ, nền tài chính trong trạng thái khủng hoảng ảnh hưởng đến kinh tế xã hội. Trong thời gian gần đây, tình trạng nợ quá hạn tại các Ngân hàng trong nước cũng không tốt, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ còn cao, đòi hỏi phải có những biện pháp để giải quyết. Không chỉ riêng trong nước mà ngay cả ở một số nước có nền kinh tế phát triển như Nhật, Anh, Pháp... với các hệ thống Ngân hàng hiện đại có quy mô dự phòng rủi ro lớn vẫn xảy ra những tổn thất đáng kể.
Như vậy, có thể nói rủi ro trong tín dụng là một tất yếu khách quan trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Vấn đề là làm sao để hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng. Muốn vậy, trước hết cần phải đánh giá được mức độ của rủi ro tín dụng thông qua một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng.
Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng:
Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tín dụng của một Ngân hàng. Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người vay không có khả năng thanh toán đầy đủ hoặc đúng hạn như đã cam kết với Ngân hàng khi đến hạn trả nợ. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ở nước ta sử dụng chỉ tiêu sau:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ Nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh lượng đơn vị tiền tệ Ngân hàng không thể thu hồi đúng hạn trong 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng đã cho vay tại thời điểm xác định.
Nước ta hiện đang sử dụng phổ biến chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ nợ quá hạn < 5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng và được coi là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng và của nền kinh tế.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng do dư nợ quá hạn và tổng dư nợ được đo tại một thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ quá hạn không phản ánh đúng thực chất chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn thanh toán chứ chưa phản ánh được mức độ rủi ro của các khoản nợ chưa đến thời hạn thanh toán. Một số các khoản nợ loại này có thể còn chứa đựng nhiều rủi ro hơn các khoản nợ đã được xác định là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn có thể chia ra thành nhiều loại tuỳ theo tiêu thức đã chọn. Việc phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng theo các khía cạnh khác nhau. Đồng thời, phân loại nợ quá hạn cũng giúp tìm ra các giải pháp trong phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành:
Nợ quá hạn thông thường: là các khoản nợ đến ngày đáo hạn người vay chưa trả được nợ cho Ngân hàng nhưng khả năng hoàn trả là khá cao, sự chậm trễ trong việc trả nợ là ngắn.
Nợ quá hạn khó đòi (nợ khó đòi): là những khoản nợ đã quá hạn một thời gian dài mà con nợ không có khả năng thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng, khả năng thu hồi khoản nợ này là thấp và quá trình thu nợ thường gặp khó khăn, phức tạp.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (mất vốn): là những khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để thu nợ nhưng không thể thu đựoc toàn bộ hoặc một phần nợ gốc. Con nợ không còn nguồn để trả nợ cho Ngân hàng cả hiện tại và trong tương lai, khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng là bằng không và Ngân hàng xác định khoản nợ này là không thu hồi được.
Việc phân loại các khoản nợ quá hạn theo khả năng thu hồi phản ánh rõ nhất về mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi càng cao thì nguy cơ mất vốn của Ngân hàng càng lớn.
Theo thời gian quá hạn, có thể chia nợ quá hạn thành:
Nợ quá hạn dưới 6 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là dưới 6 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là từ 6 tháng đến 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Nợ quá hạn trên 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Những khoản nợ quá hạn dưới 6 tháng được coi là có độ rủi ro thấp, nợ quá hạn từ 6 - 12 tháng được coi là có độ rủi ro trung bình còn nợ quá hạn trên 12 tháng được coi là có độ rủi ro cao, có khả năng gây mất vốn cho Ngân hàng.
Tổn thất tín dụng:
Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương mại. Thực chất, tổn thất tín dụng chính là phần vốn mà Ngân hàng không thu hồi được.
Tổn thất tín dụng = Khoản cho vay không thu hồi được - Giá trị thu hồi được
Rủi ro tín dụng tiềm năng:
Nếu chỉ cho rằng rủi ro là các hậu quả thực tế đã xảy ra, ta sẽ chỉ hiểu đơn thuần kết cục của nó mà không hiểu được rõ nguyên nhân do đó sẽ khó khắc phục chúng. Chính vì vậy, việc xem xét rủi ro tín dụng tiềm năng sẽ giúp đánh giá một cách toàn diện hơn về rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương mại.
Việc đánh giá rủi ro tín dụng đã được các nước trên th._.ế giới đánh giá thông qua chỉ tiêu:
Các khoản tín dụng có chất lượng trung bình
Tổng dư nợ
Ưu điểm của việc sử dụng chỉ tiêu này đó là nó đánh giá được rủi ro tín dụng một cách khá tốt. Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn chỉ đánh giá những rủi ro đã xảy ra thì chỉ tiêu này còn đánh giá được cả những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, việc xem xét thế nào là các khoản tín dụng có chất lượng trung bình thì cần phải có tiêu thức xếp hạng thống nhất. Hiện nay ở nước ta chưa áp dụng chỉ tiêu này vì chưa có tiêu thức xếp hạng các khoản tín dụng.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Tín dụng Ngân hàng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với các Ngân hàng thương mại. Mặt khác, tín dụng Ngân hàng lại là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong số các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc tìm hiểu rõ các nguyên nhân gây ra rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng là một điều mà các nhà Ngân hàng cần phải quan tâm làm rõ để từ đó có cơ sở đưa ra các giải pháp hợp lý nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Với quan điểm về rủi ro tín dụng như đã trình bày ở trên, có thể tổng kết các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng cho các Ngân hàng thương mại theo hai nhóm: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nhóm nguyên nhân khách quan:
Trong các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng thì nhóm nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân khó phòng tránh nhất thậm chí là bất khả kháng. Những nguyên nhân này thường không trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhưng nó lại có ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp, các khách hàng của ngân hàng, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng. Tổn thất tín dụng do những nguyên nhân này gây ra thường chiếm tỷ trọng không lớn. Các nguyên nhân khách quan bao gồm:
Môi trường tự nhiên:
Nói chung môi trường tự nhiên không tác dụng trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc vào môi trường tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, dich vụ. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Môi trường kinh tế:
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường kinh tế. Sự biến động của nền kinh tế tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tương tự. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế.
Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp với ngân hàng (Ví dụ: những rủi do thay đổi tỷ giá, lãi xuất, lạm phát làm cho ngân hàng bị thiệt về thu nhập) hoặc gián tiếp tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đều có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
Môi trường pháp lý:
Đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ đồng bộ, không bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh cũng là một nguyên nhân trược tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, môi trường pháp lý không ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển kinh doanh, do đó hạn chế về nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng.
Thực tế cho thấy, với hệ thống văn bản pháp luật đối với hoạt động tín dụng ngân hàng nếu như không đầy đủ chặt chẽ, nhất là trong các quan hệ tín dụng quốc tế, sẽ có thể dẫn đến những rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Đối với Việt Nam đây cũng là một hạn chế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa đảm bảo môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho Ngân hàng.
Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Đây cũng là một nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng ngân hàng. Trong trường hợp có sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra của các Bộ ngành trong nền kinh tế sẽ có thể tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả tín dụng của khách hàng đối với ngân hàng. Do tính chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến rất nhiều Bộ, ngành và lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, mỗi thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước cũng đều tác động tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, một hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng.
Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Về phía khách hàng:
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Người vay có thể do nhiều lý do khác nhau mà không thể thực hiện trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nhìn chung nguyên nhân này có thể nắm bắt và hạn chế được nếu ngân hàng thực hiện tốt việc sàng lọc khách hàng, kiểm tra, giám sát và quản lý khách hàng trước, trong và sau khi phát tiền vay cho khách hàng. Nguyên nhân từ phía khách hàng được xem xét trên các mặt sau:
Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay còn hạn chế. Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư nếu doanh nghiệp không tính hết những biến động thụ trường sẽ có thể dẫn đến thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Mặt khác, việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp cũng phải đúng mục đích, phân phối có hiệu quả nếu không đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng sẽ không đạt hiệu quả cao, thậm chí thua lỗ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém. Năng lực tài chính là chỉ tiêu cơ bản thể hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp, từ đó mà xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản chi nhất thời quá lớn như thanh toán thuế, tiền lương... hoặc cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp không hợp lý đều có thể gây nên khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng đúng hạn dẫn đến rủi ro tín dụng.
Đạo đức, thiện chí của khách hàng: Vấn đề nổi lên ở đây là chọn lựa đối nghịch và động cơ không trong sạch của người vay. Trong những giao dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì mà họ cần phải biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin không cân xứng.
Ví dụ: trong hoạt động tín dụng Ngân hàng, người đi vay thường có thông tin tốt hơn về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà họ có dự kiến tiến hành so với Ngân hàng. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra.
Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) - tức là rủi ro không trả được nợ - là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy là có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do viêc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động này ít có khả năng để món vay này hoàn trả.
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có thể quyết định thôi không cho vay nữa. Rủi ro đạo đức nảy sinh trong thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt động không mong muốn theo quan điểm của người cho vay, trong tình trạng như vậy, dễ có thể là người cho vay này sẽ vị đặt vào sự rủi ro về vỡ nợ. Khi những người vay đã có món tiền vay, vì mục đích lợi nhuận, họ dễ có thể đầu tư sai mục đích vào những dự án có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên, sự rủi ro này khiến cho họ khó có khả năng hoàn trả lại món tiền vay.
Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khánh hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng như cố tình sử dụng vốn sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng, hoặc cũng có thể là các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng TDNH như kinh doanh trái pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tất cả các hành vi đó đều có thể mang lại sự rủi ro cho ngân hàng.
Về phía ngân hàng:
Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Các nguyên nhân này thường xảy ra trong quá trình thực hiện cho vay, thể hiện qua các mặt sau:
Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách hàng trước khi cho vay. Việc phân tích đánh giá được dựa trên một số chỉ tiêu như uy tín của khách hàng, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính... Giai đoạn này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu về chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã sa ngã. Họ có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, gây những tổn thất to lớn cho Ngân hàng. Do thực tế thu nhập của cán bộ tín dụng hiện nay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp, càng dẫn đến tình trạng họ không thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân hàng.
Thứ ba, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một nguyên nhân gây rủi ro quan trọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phổ biến ở Việt Nam hiện nay, luôn có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khi món vay không được hoàn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Có thể thấy điều này qua một số nét chính như sau:
Hiện nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu tố pháp lý, gây nhiều khó khăn cho Ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay, môi trường pháp lý về thế chấp, cầm cố tài sản chưa đầy đủ, Luật sở hữu chưa rõ ràng, chưa có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản nên tất cả tài sản của doanh nghiệp Nhà nước và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có chứng nhận sở hữu. Vì vậy, rất khó khăn cho Ngân hàng khi đem những tài sản thế chấp như vậy ra xử lý. Hơn nữa, cũng chính tình trạng lỏng lẻo trong công chứng hồ sơ tài sản mà đã xảy ra tình trạng lừa đảo, một tài sản được đem ra thế chấp tại nhiều Ngân hàng.
Ngay cả khi tài sản thế chấp là hợp pháp thì rủi ro tín dụng đối với những dự án được xét duyệt vẫn xảy ra khi giá trị của tài sản thế chấp được định giá quá cao hay có những biến động đột ngột về giá. Hơn nữa, một khi rủi ro xảy ra, chi phí cho việc phát mại tài sản là không nhỏ. Những tài sản thế chấp của các doanh nghiệp là máy móc, thiết bị... phần lớn đều cũ kỹ lạc hậu, đem phát mại để thu hồi vốn cũng phải mất tới hàng năm. Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản thì lại phụ thuộc vào biến động giá của thị trường bất động sản và quy hoạch của Nhà nước. Một thực tế nữa là nhiều trường hợp tài sản thế chấp mang tính đặc thù của doanh nghiệp. Ví dụ như liên hiệp đường sắt mang toa tầu ra để thế chấp. Trường hợp như vậy nếu có phải phát mại thì Ngân hàng cũng đành bó tay.
Những hạn chế nêu trên khiến vấn đề thế chấp tài sản trở thành một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua. Điều này có vẻ như một nghịch lý bởi thế chấp được áp dụng với mục tiêu hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thực chất luôn phải hiểu rằng thế chấp không phải là tiêu chuẩn hàng đầu để bảo đảm an toàn tín dụng.
Trong giai đoạn giám sát tiền vay:
Giám sát là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Nếu việc giám sát không được thực hiện thường xuyên và chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào những mục đích phiêu lưu làm phát sinh rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy, hệ thống kiểm soát của các Ngân hàng yếu kém và lỏng lẻo khiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng vay, làm nguy cơ tổn thất tín dụng của Ngân hàng tăng cao, phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những khách hàng này.
Mặt khác, sự hợp tác giữa Ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí, một số Ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng, và điều đó dẫn tới việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Vì thế, Ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc sử dụng tiền vay.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại còn chưa có được một phương pháp giám sát khách hàng khoa học và có hiệu quả. Nỗ lực của các Ngân hàng thương mại là cần phải xây dựng một phương pháp giám sát khoa học để luôn đảm bảo được sự an toàn cho mình và cho khách hàng.
Trong giai đoạn thu nợ:
Xử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với người vay là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của số nợ quá hạn, số nợ khó đòi trong giai đoạn này. Điều này gây ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt và lâu dài của Ngân hàng. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp đồng mà không chú ý đến điều kiện của người vay có thể đẩy khách hàng đến một hoàn cảnh khó khăn hơn và hoàn toàn mất khả năng trả nợ.
Ngoài ra, việc Ngân hàng xử lý cứng nhắc theo hợp đồng, không thực sự hợp tác với khách hàng sẽ làm Ngân hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu dài. Và vì thế, Ngân hàng sẽ dần thu hẹp thị phần của chính mình. Trong nhiều trường hợp, nếu Ngân hàng có sự hợp tác chặt chẽ cùng xử lý với các khách hàng căn cứ vào điều kiện của họ thì có thể khả năng trả nợ của khách hàng sẽ sáng sủa hơn, Ngân hàng sẽ có nhiều khả năng thu hồi được vốn.
Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại xảy ra do nhiều nguyên nhân, khiến cho Ngân hàng không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Nhưng dù là do nguyên nhân nào thì rủi ro tín dụng cũng gây ra những tác động xấu tới bản thân Ngân hàng và đối với cả nền kinh tế. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro tín dụng.
Tác động của rủi ro tín dụng đến Ngân hàng:
Trước hết, rủi ro tín dụng khi xảy ra sẽ có tác động xấu tới tình hình tài chính của Ngân hàng. Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của Ngân hàng thương mại, phần lớn thu nhập của Ngân hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi phát sinh các khoản nợ quá hạn, Ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát, thu nợ, chi phí thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng thời, khoản nợ này đóng băng, không còn đem lại thu nhập cho Ngân hàng hoặc rất ít, không đáng kể, trong khi Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được, điều này làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra rủi ro tín dụng thì không chỉ làm giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn có tác động lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động rất lớn tới các hoạt động khác của Ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng, chất lượng tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, ngược lại, sẽ kìm hãm các hoạt động khác làm giảm lợi nhuận, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình tài chính của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính. Nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Một Ngân hàng nếu gặp nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng mà không khắc phục được sẽ gây mất lòng tin của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại Ngân hàng. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền thì tất nhiên thị phần của Ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và do đó Ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi những người gửi tiền tại Ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường hợp đó Ngân hàng không có những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể Ngân hàng sẽ bị phá sản và sẽ gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế.
Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn trong nền kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi ro tín dụng xảy ra làm Ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi được vốn để tiếp tục cho vay, do đó rủi ro tín dụng làm giảm vòng quay sử dụng vốn của Ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Mặt khác, hoạt động Ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, hoạt động của một Ngân hàng có ảnh hưởng đến các Ngân hàng khác. Khi một Ngân hàng đối mặt với tình trạng rủi ro tín dụng cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của Ngân hàng, dẫn đến mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của công chúng. Lúc đó rất có thể Ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống Ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế trong nước.
Chương II
Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I NHĐT&PT Việt Nam
Khái quát chung về Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
Lịch sử hình thành và phát triển:
Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch một phần gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngân hàng NHĐT&PT Việt nam. Chúng ta có thể chia thành 3 giai đoạn chính sau:
Giai đoạn 1957- 1990: Đây là giai đoạn hình thành và phát triển NHĐT&PT Việt nam.
Ngày 26 tháng 4 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ký nghị định 177 - TTG thành lập “Ngân hàng kiến thiết Việt nam” tại Bộ Tài Chính thay thế cho “Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ bản”. Ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là thanh toán và quản lý vốn do nhà nước cấp cho kiến thiết cơ bản, nhằm thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và hỗ trợ công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Từ năm 1957-1981, ngân hàng là một cơ quan của Bộ tài chính. Thời điểm này, hoạt động của ngân hàng nặng về kiểm soát và thanh toán các công trình xây dựng cơ bản hơn là cho vay, nặng về đánh giá và quản lý trước và trong khi cung ứng vốn, coi nhẹ quản lý sau khi cung ứng vốn. Ngân hàng không mang bản chất của một “Ngân hàng”.
Ngày 24 tháng 6 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 259 - CP về việc chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt nam trực thuộc Bộ Tài chính thành “Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt nam” trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Với quyết định này ngân hàng được tổ chức của doanh nghiệp quốc doanh, nhiệm vụ mới của ngân hàng là thu hút và quản lý các nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không do ngân sách cấp hoặc không đủ vốn tự có, đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện ngân sách đầu tư. Ngân hàng vẫn chưa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh.
Ngày 14 tháng 11 năm 1990 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập NHĐT&PT thay thế cho ngân hàng đầu tư và kiến thiết cũ. Bây giờ ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong nước và ngoài nước và nhận vốn từ ngân sách nhà nước cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển.
Giai đoạn 1991-1997: Đây là giai đoạn ra đời và tìm hướng đi cho Sở giao dịch.
Căn cứ và Điều lệ tổ chức, hoạt động của NHĐT&PT Việt nam ban hành kèm theo quyết định 349QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam. Căn cứ quyết định 76/ QĐ - TCCB ngày 28/3/1991 của Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt nam về việc thành lập Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam. Theo đề nghị của trưởng phòng tổ chức hành chính Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam.
Trong thời gian này, Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam là một đơn vị phụ thuộc thực hiện cho vay, nhận gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của Sở giao dịch đều mang tính bao cấp thực hiện theo chỉ thị (Sở giao dịch chủ yếu cho vay đối với các dự án phát triển kinh tế do NHĐT&PT TW chỉ định) lỗ, lãi không tự hạch toán, và không tự chịu trách nhiệm. Chủ yếu do ngân hàng mẹ đỡ đầu.
Giai đoạn 1998 đến nay: Đây là giai đoạn Sở giao dịch có bước chuyển biến lớn thật sự tách ra trở thành một ngân hàng hạch toán độc lập.
Năm 1998- 1999, mặc dù đã chính thức được tách ra nhưng Sở giao dịch vẫn còn mang dấu ấn của sự bao cấp, chỉ thị. Một số chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của Sở như: nợ, lợi nhuận, dư nợ, lương, chi phí đều do NHĐT&PT Việt nam đề ra và áp đặt cho Sở.
Năm 2000, các chỉ tiêu đề ra trên không còn, tuy vậy một số dự án lớn từ trước vẫn còn kéo dài đến nay. Trong đó có nhiều dự án vẫn còn mang tính bao cấp chỉ thị. Năm 2001, đây là năm mà Sở giao dịch chính thức trở thành một đơn vị hạch toán độc lập có quyền tự chủ thực sự trong mọi hoạt động kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức:
Cho đến nay, Sở giao dịch gồm có 11 phòng ban, một chi nhánh Gia lâm.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở giao dịch I NHĐT&PT
Ban giám đốc
Tín
dụng
Hành
Chính
Kho
quỹ
Giao
dịch
Nguồn
Vốn
Kinh doanh
Kiểm
Tra
Kiểm
Toán
Nội bộ
Thanh
Toán quốc tế
Điện toán
Quản
Lý
Khách
Hàng
Kế
Toán
Tài chính
Chi nhánh Gia lâm
Kế
Toán
Tín
dụng
Nguồn
Vốn
Thanh
Toán
Quốc
Tế
Hành
chính
Sau đây là chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng phòng ban trong Sở Giao Dịch:
Phòng tín dụng:
Thực hiện việc cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn bằng VND và ngoại tệ, bảo lãnh cho các khách hàng theo chế độ tín dụng hiện hành, đảm bảo an toàn, hiệu quả của đồng vốn. Thực hiện tư vấn trong hoạt động tín dụng và dịch vụ uỷ thác đầu tư theo quy định. Thực hiện việc hỗ trợ huy động vốn từ mọi nguồn vốn hợp pháp của khách hàng như: Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn... cả VND và ngoại tệ.
Tổ chức việc lập kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý năm của phòng và tham gia xây dựng kế hoạch kinh doanh của Sở giao dịch. Tổ chức thực hiện công tác khách hàng thường xuyên: phục vụ và khai thác tiềm năng của khách hàng truyền thống, mở rộng phát triển khách hàng mới. Tham mưu cho Giám đốc về chiến lược kinh doanh, chính sách khách hàng, chính sách tín dụng và chính sách lãi suất của Sở giao dịch.
Phòng nguồn vốn kinh doanh:
Tổ chức quản lý và điều hành tài sản nợ, tài sản có bằng tiền của Sở giao dịch để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, an toàn đúng quy định của pháp luật và trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ kinh doanh tại Sở giao dịch theo phân công. Phối hợp cùng các phòng chức năng xây dựng thực hiện các chính sách lãi suất, chính sách khách hàng, chính sách các sản phẩm mới, đề xuất xây dựng phát triển các kênh, mạng lưới, công cụ huy động vốn nhằm thực hiện kế hoạch kinh doanh Xác định cơ cấu tài sản nợ, tài sản có, đảm bảo cân đối theo kỳ hạn, loại tiền, phù hợp với đặc thù Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, trên cơ sở đó xác định cơ cấu chính sách huy động vốn, sử dụng vốn hợp lý.
Chủ trì xây dựng các qui trình nghiệp vụ trong công tác điều hành nguồn vốn, tham gia xây dựng qui trình các hoạt động nghiệp vụ khác. Tổ chức thực hiện công tác thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn theo yêu cầu. Tổng hợp thông tin, báo cáo thống kê - phòng ngừa rủi ro phục vụ công tác điều hành của ngành và Sở giao dịch.
Phòng Tài chính Kế toán:
Thực hiện hạch toán kế toán để phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi hoạt động kinh doanh và các nghiệp vụ phát sinh tại Hội sở Sở giao dịch. Phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trực thuộc thực hiện các chính sách và chế độ kế toán của Nhà nước và của Ngành. Tổng hợp, lưu trữ chứng từ kế toán; cân đối kế toán ngày tháng, năm; các báo cáo quyết toán, kiểm toán nội bộ của Hội sở và của toàn Sở giao dịch.
Thực hiện báo cáo kế toán đối với các cơ quan quản lý Nhà nược theo chế độ hiện hành và cung cấp số liêụ báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ban Giám đốc Sở giao dịch. Trực tiếp thực hiện kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ trả lương...
Phòng Quản lý khách hàng:
Nghiên cứu thị trường, xác định thị phần của Sở giao dịch để tham mưu cho Giám đốc xây dựng chiến lược khách hàng, định hướng phát triển nền khách hàng bền vững phục vụ kinh doanh của Sở giao dịch. Xây dựng chính sách chung đối với khách hàng, nhóm khách hàng và từng khách hàng cụ thể. Tham mưu cho Giám đốc sử dụng chính sách khách hàng linh hoạt trong các thời kỳ, giao đoạn cụ thể về lãi suất, phí, dịch vụ và các chính sách khác để đạt được hiệu quả trong kinh doanh.
Phòng Thanh toán quốc tế:
Phòng thanh toán quốc tế là trung tâm thanh toán đối ngoại của Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam, trực tiếp tổ chức thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng của Sở giao dịch và khách hàng của các chi nhánh chưa thực hiện thanh toán quốc tế trực tiếp, đồng thời là trung tâm chuyển tiếp cho các chi nhánh NHĐT&PT trong hệ thống
Tham mưu cho ban Giám đốc Sở giao dịch về thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế và dịch vụ kinh doanh đối ngoại theo hướng dẫn chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam. Thực hiện các nhiệm vụ mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và các dịch vụ Ngân hàng đối ngoại khác theo quy định của Tổng giám đốc, thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế, thực hiện dịch vụ Ngân hàng quốc tế khác.
Phòng Tổ chức hành chính kho quỹ:
Nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, quản lý cán bộ, tuyển chọn nhân viên, quản lý việc thu chi các quỹ lương, thưởng...
Phòng Giao dịch:
Gồm có các quỹ tiết kiệm - quỹ tiết kiệm số 1 tại 35 Hàng Vôi, quỹ tiết kiệm số 2 tại 3 Hàng Vôi, quỹ tiết kiệm số 3 tại 194 Trần Quang Khải, quỹ tiết kiệm số 4, 5 tại 53 Quang Trung; và tổ cho vay cầm cố.
Phòng Kiểm soát nội bộ:
Thực hiện công tác kiểm soát trong nội bộ các hoạt động kinh doanh tại Sở Giao Dịch theo quy chế của ngành, của pháp luật cũng như của bản thân Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Phòng Điện toán:
Chịu trách nhiệm quản lý về mặt kỹ thuật các tài sản máy móc, thiết bị... của Sở Giao Dịch, thực thi các kế hoạch đầu tư sửa chữa, cải tạo cơ sở vật chất của Sở Giao Dịch.
Tình hình hoạt động của Sở Giao Dịch trong thời gian qua:
Năm 2001, nền kinh tế nước ta phát triển ổn định có mức tăng trưởng cao hơn các năm trước, cơ cấu kinh tế có những bước chuyển dịch tích cực việc huy động các nguồn vốn cho đầu tư đạt kết quả khá. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta cũng phải đương đầu với những khó khăn, biến động phức tạp. Nhận thức được điều đó ngay từ đầu năm 2001, Sở giao dịch đã xây dựng kế hoạch kinh doanh với tốc độ tăng trưởng cao tất cả các mặt và đã đạt được những kết quả so với năm 2000 như sau:
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của Sở giao dịch Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
1. Tổng thu nhập
431.312
100,00
541.598
100,00
552.430
100,00
- Lãi cho vay
332.426
77,06
417.425
77,07
425.774
77,08
- Lãi tiền gửi
46.611
10,08
58.529
10,81
59.700
10,81
- Thu dịch vụ
10.751
3,23
15.012
2,77
20.839
3,77
- Thu khác
41.516
9,63
50.632
9,35
46.117
8,34
2. Tổng chi phí
380.415
100,00
478.387
100,00
481.580
100,00
- Trả lãi tiền gửi
201.625
29,70
253.543
53,00
255.236
53,00
- Trả lãi tiền vay
113.001
53,01
142.099
29,73
143.047
29,73
- Chi phí khác
65.789
17,29
82.745
17,27
83.297
17,27
3. Lợi nhuận
50.897
63.202
70.850
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh
Qua kết quả tại Bảng 1 cho thấy thu nhập hàng năm của Sở tăng lên, tuy chi phí có tăng theo nhưng lợi nhuận vẫn tăng một cách rõ rệt. Điều đó đã chứng minh rằng tình hình hoạt động của Sở ngày càng hiệu quả. Ngoài ra, Sở đang cố gắng thay đổi tỷ trọng dịch vụ trong tổng thu nhập, tỷ trọng này tăng lên và trong năm 2001 chiếm 3,77% tương ứng với số tiền là 20.839 triệu đồng. Xu hướng chung trong tương lai, Sở sẽ cố gắng tăng thêm các dịch vụ tiện ích như ATM, Home Banking... để tạo thu nhập cho ngân hàng. Để biết rõ hơn về hoạt động của Sở đã tạo ra lợi nhuận như thế nào chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu các hoạt động sau:
Nguồn vốn huy động
Đây l._.các giải pháp biện pháp của Sở giao dịch bị phụ thuộc và ảnh hưởng nhiều bởi quyết định của các doanh nghiệp này.
Cơ cấu tài sản Nợ - Có về loại tiền tuy đã cải tiến nhưng vẫn chưa đạt mức bình quân của ngành , tỷ trọng tiền gửi khách hàng vẫn còn thấp mới chiếm gần 28% trong tổng số nguồn vốn huy động, tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn so với Ngân hàng trên địa bàn cao.
Tuy đã chủ động tìm đến khách hàng, nhưng do cạnh tranh quyết liệt và phương pháp, điều kiên tiếp cận chưa phù hợp nên hiệu quả chưa cao.
Thông tin về khách hàng và Ngân hàng bạn còn ít, chưa nắm bắt kịp thời nên xử lý công việc còn lúng túng dẫn đến mất thời cơ hoặc ảnh hưởng đến lợi ích trong kinh doanh
Nguyên nhân:
Những mặt còn hạn chế tại Sở giao dịch trong thời gian vừa qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Việc phân tích để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Sở là việc làm rất quan trọng. Từ những nguyên nhân đó sẽ giúp lãnh đạo Sở vạch ra được những giải pháp hợp lý nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng cũng như bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh.
Nhóm nguyên nhân khách quan:
Trong thời gian vừa qua, hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch chịu ảnh hưởng lớn bởi những nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi ro tín dụng. Những nguyên nhân này tác động một cách trực tiếp hay gián tiếp đến sự an toàn của các khoản tín dụng. Môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý hay sự quản lý vĩ mô của Nhà nước một khi có sự thay đổi thì đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Sở giao dịch và đôi khi có thể dẫn đến rủi ro.
Môi trường tự nhiên:
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, có nhiều thiên tai như bão, lũ, lụt lội, hạn hán, dịch bệnh. Những thiên tai này gây thiệt hại cho các ngành sản xuất, dịch vụ do vậy ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Thực tế cho thấy, trong vài năm gần đây, thời tiết ở Việt Nam cũng như trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Những trận lũ lụt ở miền trung cũng như ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã gây thiệt hại rất lớn cho các ngành sản xuất và dịch vụ ở nước ta. Những thiệt hại đó khiến cho các doanh nghiệp không thể trả tiền vay của ngân hàng đúng hạn đôi khi còn không đủ khả năng trả nợ gây mất vốn cho ngân hàng.
Môi trường kinh tế:
Bên cạnh những tác động của môi trường tự nhiên thì môi trường kinh tế cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro tín dụng. Nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi chưa lâu, các cơ chế, chính sách, nền tảng pháp lý còn đang trong giai đoạn hoàn thiện nên không có được sự ổn định cao, do đó các nhà đầu tư còn dè dặt, chưa dám mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, đặt biệt là đầu tư cho những dự án lớn, thời gian dài khiến cho việc mở rộng tín dụng của ngân hàng gặp khó khăn. Hơn thế nữa, trong thời gian gần đây nhất là trong năm 1999 tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, tình trạng thiểu phát kéo dài. Các doanh nghiệp trong nước vốn dĩ đã hạn chế về vốn, kỹ thuật, công nghệ lại phải cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại, hàng nhập lậu nên hầu hết làm ăn thua lỗ, sản xuất cầm chừng, điều đó một mặt làm cho nhu cầu vay vốn ngân hàng giảm sút đồng thời là nguyên nhân gây ra tình trạng nợ quá hạn cho ngân hàng.
Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay không thuận lợi, các quy định của pháp luật liên quan đến tài sản thế chấp còn nhiều bất cập. Rất nhiều tài sản thế chấp của các doanh nghiệp hiện nay không có đăng ký sở hữu, mà đây lại là điều kiện bắt buột đối với các tài sản được dùng làm tài sản thế chấp. Việc xử lý tài sản thế chấp khi có rủi ro xẩy ra cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại về mặt pháp lý.
Nguyên nhân chủ quan:
Từ phía khách hàng:
Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay của doanh nghiệp còn thấp. Điều này cũng một phần bắt nguồn từ sự hạn chế về vốn và khả năng lập dự án. Hạn chế về vốn vay kéo theo trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu, làm giảm khả năng cạnh thanh của doanh nghiệp trên thị trường. Trình độ lập dự án thấp nên nhiều dự án ban đầu lập ra tưởng khả thi nhưng do không lường hết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện nên thất bại dẫn đến thua lỗ không trả được nợ. Ngay cả khi trang thiết bị, công nghệ hiện đại, dự án khả thi nhưng năng lực quản lý kém cũng sẽ làm cho việc thực hiện dự án không đạt được kết quả như dự tính và cũng có thể là nguyên nhân của rủi ro.
Mặt khác, việc làm ăn kém hiệu quả của một số doanh nghiệp quốc doanh có vay vốn tại Sở giao dịch cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn kéo dài năm này qua năm khác nhưng vì hoạt động kinh doanh kém nên đã không thể trả nợ được cho Sở giao dịch do đó số nợ quá hạn này đã trở thành nợ khó đòi. Với những trường hợp Sở giao dịch cho vay theo kế hoạch Nhà nước thì việc xử lý những khoản nợ khó đòi đã được chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ với các biện pháp như giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ.
Từ phía ngân hàng:
Những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía Sở giao dịch không phải là những nguyên nhân chủ yếu, thường không nhiều.
Công nghệ Ngân hàng cả về quy trình nghiệp vụ lẫn trang thiết bị công nghệ, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh, còn yếu, chưa thực hiện đi trước một bước và chưa tương xứng với một Ngân hàng có quy mô hoạt động lớn như Sở Giao Dịch, các thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành chưa đầy đủ, tức thời, mang tính thủ công.
Cán bộ Sở Giao Dịch đa số là cán bộ trẻ, có trình độ song còn thiếu kinh nghiệm nên chưa thích ứng ngay được với cơ chế thị trường, ít được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và cập nhật thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp còn hạn chế, đặc biệt số cán bộ có trình độ tổng hợp, biết tổng quát về hoạt động của Ngân hàng còn chưa nhiều.
Chương III
Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đt&Pt Việt Nam
Định hướng hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong năm 2002.
Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính:
Xây dựng phương án xử lý nợ tồn đọng từ 31/12/2000 trở về trước và nâng cao chất lượng tín dụng.
Xây dựng kế hoạch tài chính lành mạnh gắn liền với thực hiện kế hoạch kế toán đầy đủ theo nguyên tắc tự trang trải và cẩn trọng; nâng cao hiệu quả kinh doanh; cơ cấu lại nguồn thu và thực hiện tiết kiệm chi phí, bảo đảm đủ trang trải chi phí, trích dự phòng rủi ro, quản lý chi tiêu theo định mức.
Tăng trưởng nâng cao chất lượng tín dụng:
Duy trì thường xuyên công tác tổ chức đánh giá phân loại khách hàng theo định kỳ trên cơ sở các thông tin có lựa chọn. Từ đó xây dựng giới hạn tín dụng và hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
Mở rộng tín dụng sang các lĩnh vực khác và các thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thí điểm lựa chọn một số công ty cổ phần đã có uy tín trong giao dịch, có khả năng tài chính để đầu tư trên cơ sở bảo đảm đúng chế độ quy định. Có kế hoạch tiếp thị và khai thác khách hàng trong các khu công nghiệp.
Tăng cường thu thập thông tin về các chương trình đầu tư phát triển của thành phố, của các bộ ngành, các tổng công ty kết hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhằm lên kế hoạch tiếp cận cụ thể với các chính sách áp dụng phù hợp, đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng.
Thực hiện nghiêm túc luật các tổ chức tín dụng và quy trình tín dụng của ngành, nâng cao vai trò công tác thẩm định trong xét duyệt cho vay, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, nhất là đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu khó khăn để không phát sinh thêm nợ quá hạn và rủi ro tín dụng.
Mạnh dạn mở rộng tín dụng ngắn hạn trong các ngành nghề phi xây lắp (như sản xuất công nghiệp, dịch vụ...) một cách có chọn lọc đối với một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh, có thị trường. Mở rộng tín dụng các lĩnh vực khác và thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có uy tín trong giao dịch.
Mở rộng tín dụng ngoại tệ với khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ứng ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, cho vay kết hợp với áp dụng các công cụ phòng tránh rủi ro tỷ giá, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của Sở Giao Dịch đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phù hợp với tình hình cung cầu.
Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Rủi ro tín dụng không chỉ là vấn đề nan giải ở các ngân hàng Việt Nam mà còn đối với tất cả các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở trong tình trạng nợ quá hạn nặng nề và có xu hướng gia tăng trong những năm tới. Mặc dù các Ngân hàng thương mại đã áp dụng những biện pháp phòng tránh nợ quá hạn mới phát sinh và các biện pháp thu hồi nợ quá hạn cũ, tuy nhiên, kết quả đạt được là rất khiêm tốn. Mặt khác, trước thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch, với các mục tiêu tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hoá năng lực tài chính mà Sở giao dịch đã đặt ra thì công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro là thực sự cần thiết và luôn được lãnh đạo Sở quan tâm. Để có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch thì các giải pháp phải được tiến hành trên cả hai mặt đó là phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Sau một thời gian nghiên cứu vấn đề này tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Các giải pháp chia làm hai nhóm: nhóm giải pháp có tính chất phòng ngừa rủi ro và nhóm giải pháp xử lý những rủi ro đã xảy ra.
Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng dù xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan cũng được thể hiện trên hai mặt đó là những rủi ro có thể xảy ra và những rủi ro đã xảy ra. Những rủi ro có thể xảy ra tuy là những rủi ro tiềm ẩn nhưng trong nhiều trường hợp do có tính lặp lại nên người ta có thể tìm ra được quy luật của nó và từ đó đưa ra những biện pháp phòng ngừa hợp lý. Tại Sở giao dịch, để phòng ngừa rủi ro cần thực hiện một số giải pháp như sau:
Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi cho vay:
Sàng lọc khách hàng là việc ngân hàng tìm hiểu và đánh giá khách hàng để lựa chọn ra những khách hàng có đủ điều kiện cho vay. Sàng lọc khách hàng là công việc quan trọng không thể thiếu để ngăn ngừa những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngân hàng đầy rủi ro như hiện nay thì sàng lọc khách hàng càng phải được chú trọng. Sàng lọc khách hàng được thực hiện qua hai hoạt động: Phân tích đánh giá khách hàng và Thẩm định tính khả thi của dự án.
Phân tích đánh giá khách hàng:
Khách hàng là người sử dụng và quyết định hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền vay, cũng là người chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay. Vì vậy, việc phân tích đánh giá khách hàng là một biện pháp hết sức quan trọng và cần thiết để ngăn ngừa những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng trong quá trình xét duyệt. Khi đánh giá khách hàng là các tổ chức, đơn vị kinh doanh, cán bộ tín dụng phải chú ý một số nội dung chủ yếu như sau:
Tư cách pháp nhân của khách hàng:
Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng:
Tình hình tài chính của khách hàng
Thẩm định tính khả thi của dự án:
Khách hàng được đánh giá tốt là một điều kiện cần tuy nhiên chưa phải là điều kiện đủ để có thể được ngân hàng cho vay vốn. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng quyết định khách hàng có được cho vay vốn hay không đó là khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng phụ thuộc lớn vào những nguồn thu trong tương lai trong đó nguồn thu từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng là nguồn trả nợ chính. Vì vậy, khả năng sinh lợi từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng quyết định lớn đến khả năng trả nợ đủ và đúng theo thời hạn trong hợp đồng. Khi thẩm định tính khả thi của dự án, cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm như sau:
Về phương pháp thẩm định:
Khi thẩm định dự án cần phải chú trọng hơn nữa tới giá trị thời gian của tiền, áp dụng các chỉ tiêu hiện đại như NPV, IRR, phân tích độ nhạy... coi là những chỉ tiêu bắt buộc khi phân tích dự án.
Để có tính toán đúng khi xác định dòng tiền để tính những chỉ tiêu trên cần phải xác định đủ và đúng các giá trị như: giá trị thanh lý tài sản cố định, thu hồi vốn lưu động ròng...
Xác định tỷ lệ lãi suất chiết khấu hợp lý dựa trên tính toán về chi phí vốn bình quân.
Xây dựng các bảng dự trù tài chính của dự án để thực hiện phân tích tài chính dự án hàng năm, việc xác định doanh thu và chi phí của dự án hàng năm phải kết hợp tính toán cả công suất dự kiến và khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng năm.
Về tổ chức điều hành thẩm định dự án:
Thực hiện tốt hơn công tác tổ chức điều hành, xây dựng và chuẩn hoá quy trình hoạt động thẩm định, áp dụng chặt chẽ cho toàn hệ thống. Bên cạnh đó xây dựng hệ thống thông tin nội bộ toàn hệ thống để thu thập phân tích và lưu trữ thông tin về các khách hàng, thông tin về tình hình kinh tế...
Tăng cường công tác thu thập thông tin:
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập từ nhiều nguồn, đồng thời phải tổ chức tốt việc xử lý thông tin nhằm chọn lọc những thông tin chính xác, thiết thực nhất. Công việc thu thạp và xử lý thông tin phải được tiến hành một cách chủ động và liên tục chứ không phải đợi khách hàng đến xin vay rồi mới tiến hành.
Đối với Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công tác thu thập và xử lý thông tin nên dành cho phòng Thông tin - Điện toán. Khi có khách hàng đến vay vốn cán bộ tín dụng sẽ yêu cầu phòng cung cấp cho mình những thông tin cần thiết. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thông tin do khách hàng cung cấp và những thông tin của phòng Thông tin - Điện toán bước đầu sẽ cho phép cán bộ tín dụng giá mức độ trung thực của khách hàng vay vốn. Bên cạnh, đó những thông tin của phòng Thông tin - Điện toán cung cấp còn cho phép đánh giá đầy đủ hơn về khách hàng cũng như dự án vay vốn. Như vậy có thể thấy được việc tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng Thông tin - Điện toán là một trong những vấn đề ngân hàng cần xem xét trong thời gian càng sớm càng tốt vì đó là điều kiện để thực hiện nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các khoản vay:
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Thực hiện thường xuyên sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời những sai phạm của doanh nghiệp đồng thời giúp ngân hàng luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm bắt được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án để có biện pháp đối phó kịp thời. Hiện nay việc kiểm tra giám sát sau khi vay ở Sở giao dịch còn mang nặng tính hình thức, kiểm tra chủ yếu dựa trên những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp và được tiến hành định kỳ mỗi quý một lần. Việc kiểm tra này không mang lại hiệu quả cao, bởi lẽ chẳng có gì đảm bảo rằng những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp hoàn toàn đúng sự thật. Kiểm tra định kỳ và không thường xuyên như vậy thì nếu doanh nghiệp không có thiện chí họ sẽ có những thủ thuật để che mắt cán bộ kiểm tra. Để khắc phục điều này trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay phải được tiến hành chặt chẽ hơn nữa, việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở không nên tiến hành định kỳ như hiện nay mà nên tiến hành ngẫu nhiên, không báo trước có vậy mới đảm bảo những gì mắt thấy tai nghe là trung thực. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể trả nợ theo đúng hợp đồng thì cán bộ tín dụng nên báo cáo về ngân hàng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là khó tránh khỏi, trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể trả nợ cho ngân hàng khiến cho ngân hàng có khả năng lâm vào tình trạng mất vốn kinh doanh. Để khắc phục tình trạng đó, việc ngân hàng trích lập quỹ dự phòng rủi ro là rất cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có nguồn bù đắp lại những rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà ngân hàng phải gánh chịu.
Mục tiêu của việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là còn để đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng, phản ánh đúng vị thế tài chính của ngân hàng và nó được đảm bảo bằng nguồn tiền có thực để trang trải rủi ro khi xảy ra. Trong những trường hợp ngân hàng gặp rủi ro không thu hồi vốn được thì việc xoá những khoản nợ không thể thu hồi này và công bố những khoản mất vốn sẽ là những bât lợi đến kết quả kinh doanh và đến vốn kinh doanh của ngân hàng nếu như không có quỹ dự phòng rủi ro được trích lập từ trước. Trong trường hợp đã có trích lập quỹ dự phòng rủi ro, khi xảy ra khả năng mất vốn thì việc loại trừ những khoản nợ không thể thu hồi sẽ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong báo cáo tài chính của ngân hàng.
Đa dạng hoá đầu tư:
Đa dạng hóa đầu tư là biện pháp chiến lược có tính chủ động nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực chất của đa dạng hoá đầu tư là phân tán đầu tư trên các loại tài sản khác nhau. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy, việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và đồng tài trợ. Qua các hình thức này, ngân hàng không tập trung quá nhiều vốn cho một món vay, phân tán hệ số rủi ro trên số món vay do đó giảm mức rủi ro chung cho toàn bộ hoạt động tín dụng.
Trong thời gian qua, Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thực hiện thành công hoạt động đồng tài trợ nhằm phân tán rủi ro. Tuy nhiên, phân tích cơ cấu cho vay của Sở giao dịch cho thấy cơ cấu vốn cho vay không đồng đều, phần lớn tập trung vào một số khách hàng truyền thống như các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế, hoạt động của Sở cũng phụ thuộc khá nhiều vào các khách hàng này. Do đó, Sở cần có chính sách khách hàng hợp lý nhằm duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút và mở rộng các khách hàng thuộc các lĩnh vực, ngành nghề khác tạo được cơ cấu tín dụng đa dạng để có thể giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở có thể áp dụng đa dạng hoá các hình thức cho vay như cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay ưu đãi... Bên cạnh đó, cần phát huy hình thức dịch vụ trọn gói từ mở tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ..., mở rộng hình thức nối mạng thanh toán cho khách hàng với các ngân hàng khác, dịch vụ quản lý vốn cho khách hàng.
Có chế độ thưởng phạt hợp lý đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng:
Thứ nhất, cán bộ tín dụng là những người thực tế thẩm định và đề xuất cho vay khách hàng, là người chịu trách nhiệm chính đối với khoản tín dụng bị rủi ro. Do vậy phải nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó, Sở cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là một việc làm quan trọng nhằm giải quyết tình trạng cán bộ tín dụng “ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý, cán bộ tín dụng cho rằng nếu cho vay thu nợ đầy đủ hàng trăm tỷ cũng không được khen thưởng, không được tăng lương, nhưng chỉ cần một khoản vay phát sinh quá hạn là bị coi là yếu kém, bị xử lý... Do vậy cán bộ tín dụng chỉ cần hoạt động cầm chừng.
Thứ hai, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông tin phải được tiến hành hàng ngày, hàng giờ để theo kịp những thay đổi đó, đặc biệt với hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, về phía Sở giao dịch nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; các cơ chế thể lệ chính sách của ngành, liên ngành; chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các cán bộ tín dụng có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bên cạnh đó phải thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần phòng tránh những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng
Bên cạnh những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng thì việc xử lý những rủi ro thực tế đã xảy ra cũng là một vấn đề rất bức thiết đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Qua phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Sở ở chương II cho thấy, số nợ quá hạn thông thường cũng như nợ khó đòi tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp quốc doanh.Số nợ khó đòi về cơ bản vẫn chưa có giải pháp xử lý dứt điểm, nên đã xảy ra tình huống số nợ này cứ tồn tại năm này qua năm khác gây ra những tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của Sở. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Sở. Do đặc thù của Sở giao dịch, nợ quá hạn phát sinh từ tín dụng trung dài hạn theo kế hoạch Nhà nước chiếm phần lớn số nợ quá hạn tại Sở giao dịch nên Sở giao dịch trước hết cần thực hiện tốt những biện pháp xử lý theo sự chỉ đạo của Chính phủ sau đó kết hợp với tình hình thực tế để đưa ra những biện pháp hợp lý.
Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn:
Khi đến hạn trả nợ, khách hàng không tự giác trả nợ và lãi cho Sở giao dịch thì Sở giao dịch tiến hành trích tiền gửi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Sở giao dịch để thu nợ, thu lãi hoặc nhờ thu qua ngân hàng bạn nếu tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Sở giao dịch không đủ để thanh toán toàn bộ và khách hàng có tài khoản tiền gửi ở ngân hàng khác, hoặc yêu cầu người bảo lãnh vay vốn trả thay.
Đối với các khoản nợ quá hạn thông thường, cán bộ tín dụng phụ trách tích cực bám sát, theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng, liên tục đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để kiểm tra và gửi giấy nhắc trả nợ (có ghi rõ số nợ quá hạn, lãi suất, thời gian quá hạn, biện pháp xử lý có thể áp dụng), theo dõi tài khoản tiền gửi của họ có phát sinh số dư Có.
Kiểm soát trưởng hoặc kiểm soát viên cùng với trưởng phòng tín dụng, cán bộ tín dụng phụ trách đơn vị kiểm tra lại việc thực hiện theo quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng để xác định lại xem có bỏ qua bước nào không, xác định nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn là do Sở giao dịch, khách hàng hay nguyên nhân khác. sau đó sẽ đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để rà soát tổng dư nợ vay các loại của khách hàng, xác định khả năng trả nợ của khách hàng, nguyên nhân chi tiết dẫn đến nợ quá hạn để xác định tính chất của khoản nợ quá hạn và đưa ra các biện pháp xử lý có hiệu quả nhất.
Đối với công tác thu nợ:
Khi người vay đem tiền đến để thanh toán khoản nợ quá hạn thì Sở giao dịch tiến hành thu nợ theo thứ tự sau: thu lãi quá hạn, thu gốc quá hạn, thu lãi đến hạn, thu gốc. Vì vậy, đối với các khoản nợ quá hạn trên 12 tháng, nếu khách hàng chỉ có khả năng trả gốc và lãi suất thông thường thì Sở giao dịch nên xem xét và quyết định chỉ thu lãi suất thông thường. Trong trường hợp khách hàng thật sự khó khăn, Sở giao dịch nên thu hồi phần vốn gốc trước và thu hồi phần lãi sau. Như vậy sẽ đề phòng trường hợp người vay mất khả năng trả nợ trong tương lai, giảm gánh nặng lãi quá hạn cho bên vay. Mặt khác, nếu thu lãi trước sẽ tạo thành thu nhập phải nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước trong khi chưa thể thu hồi hết nợ của người vay và đây là điều bất lợi cho Sở giao dịch. Nếu bên vay đã trả được nợ gốc, chưa trả lãi thì khế ước vay vốn vẫn được lưu lại ở Sở giao dịch và Sở giao dịch cùng khách hàng thoả thuận về kế hoạch trả lãi.
Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, có nợ đọng kéo dài mặc dù Sở giao dịch đã tiến hành các biện pháp để giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, Sở giao dịch có thể yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch UBND Tỉnh, Thành Phố, hội đồng quản trị Tổng công ty 91 lựa chọn và quyết định cổ phần hoá các doanh nghiệp này, ngoài ra có thể tiến hành cho thuê, bán, khoán các doanh nghiệp Nhà nước. Sau khi áp dụng các biện pháp này, các Giám đốc doanh nghiệp sẽ là người có năng lực, có quyền tự chủ trong kinh doanh với người lao động tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, dần dần phục hồi và phát triển doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Sở giao dịch sẽ từng bước thu hồi được vốn.
Ngoài ra, với số tiền thu được do cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp có thể được dùng để trả nợ cho Sở giao dịch hoặc Sở giao dịch có thể tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp và tham gia điều hành doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không trả được nợ, trong một số trường hợp, Sở giao dịch có thể chuyển vốn cho vay thành vốn góp vào doanh nghiệp kèm theo là việc cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Sở giao dịch chuyển số tiền đó từ hình thức cho vay sang hình thức đầu tư. Biện pháp này phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng và để thực hiện thì cần phải có sự đồng ý của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương vì nó liên quan đến việc đem vốn tự có của ngân hàng đi đầu tư.
Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Đây là biện pháp được dùng để xử lý các khoản nợ khó đòi mà khả năng thu hồi được là rất ít. Trong trường hợp này thường được sử dụng đối với các khoản nợ mà Sở giao dịch là chủ động không có bảo đảm được hoặc có bảo đảm một phần. Sở giao dịch có quyền đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp phá sản thì Sở giao dịch còn có thể thu hồi được một phần hoặc tất cả nợ gốc. Điều đó vẫn còn tốt hơn là Sở giao dịch không thu được nợ gốc, lại mất thêm chi phí giám sát, quản lý khoản nợ nếu doanh nghiệp không bị phá sản.
Nếu khi cho vay, Sở giao dịch nhận tài sản thế chấp, cầm cố thì Sở giao dịch là chủ nợ có bảo đảm, Sở giao dịch sẽ không có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi bán tài sản thế chấp, cầm cố mà không đủ thanh toán nợ cho Sở giao dịch thì Sở giao dịch sẽ là chủ nợ không bảo đảm và có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để thu hồi được nợ từ tài sản còn lại của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng cần theo dõi tình hình của doanh nghiệp để có thể bán tài sản thế chấp, cầm cố trước khi doanh nghiệp bị các chủ nợ khác yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu đến khi có quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Sở giao dịch muốn bán tài sản thế chấp, phải có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán, hoặc để cho tổ thanh toán tài sản bán. Tất nhiên, giá bán lúc này không thể cao được. Như vậy, Sở giao dịch đã bỏ lỡ cơ hội tối đa hoá số tiền thu được.
Khi thực hiện biện pháp này Sở giao dịch cần xác định đúng mình là loại chủ nợ nào của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý hợp lý nhất. Các doanh nghiệp bị áp dụng biện pháp này là các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ cho Sở giao dịch sau khi đã áp dụng các biện pháp khai thác hoặc cố tình dây dưa không chịu trả nợ.
T
Kết luận
rong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mà còn là của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Với tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trong luận văn này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
Đưa ra một quan điểm chung về rủi ro tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu đánh giá, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng để lấy đó làm tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và tình hình rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua ba năm 1999, 2000 và 2001. Thấy được những mặt tích cực cần tiếp tục phát huy đồng thời nhìn nhận một cách khách quan những điểm hạn chế và nguyên nhân của chúng để đưa ra giải pháp khắc phục.
Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới trên cả hai mặt phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn Hoàng Xuân Quế và các cán bộ phòng Tín dụng I Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Tác giả Frederic S. Mishkin.
Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill.
Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Lê Văn Tư.
Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước.
Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
Quy định cho vay đối với khách hàng Sở Giao Dịch I.
Quy định về phân cấp quyền phán quyết mức cho vay tối đa đối với một khách hàng Sở Giao Dịch I.
Các báo cáo hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch I.
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Thị trường tài chính... các năm 1999 , 2000 & 2001.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0002.doc