Mục lục
Lời nói đầu
Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng, là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung và thanh toán qua ngân hàng nói riêng sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra trôi chảy, nhịp nhàng. Ngược lại, nếu việc thanh toán bị trục trặc, chậm chễ thì quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ bị trì trệ.
ở Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán qua ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động, hệ thống ngân hàng không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần tích cực vào những thành tựu trong công cuộc đổi mới, nổi bật là đẩy lùi nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền. Hoạt động thanh toán nói chung và hoạt động thanh toán qua ngân hàng đã có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn còn kém phát triển. Thực trạng xã hội ta vẫn đang là một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt. Điều này đã làm cho việc điều hòa lưu thông tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, một nguồn vốn lớn trong dân cư chưa được đầu tư vào sản xuất gây lãng phí lớn. Nói đến hoạt động của các ngân hàng, đa số người dân nước ta chỉ biết đó là nơi gửi tiền và vay vốn mà chưa biết nhiều đến dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này và có giải pháp nào để cải thiện không? Xuất phát từ băn khoăn trên và từ thực trạng hoạt động thanh toán kém phát triển tại chi nhánh NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa, em đã chọn đề tài “Giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán qua ngân hàng tại chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Tuy nhiên, do thời gian thực tập có hạn nên em chỉ tập trung vào hoạt động thanh toán nội địa của chi nhánh mà không nghiên cứu hoạt động thanh toán quốc tế.
Bố cục của chuyên đề:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa trong thời gian qua.
Chương 3: Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng
1.1. Khái niệm thanh toán qua ngân hàng.
Ngân hàng ra đời và phát triển thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng. Mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để thanh toán, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi nhanh chóng, tiện lợi, nhất là với những khoản thanh toán giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém và không an toàn.
Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo ra những hình thức thanh toán (thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, séc, thẻ thanh toán,…) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Nhờ các hình thức thanh toán này, khách hàng của ngân hàng không phải chi trả với nhau bằng những bao tiền mặt rất tốn kém mà chỉ cần ra lệnh cho ngân hàng thông qua các hình thức thanh toán, ngân hàng sẽ ghi Nợ cho tài khoản của người này, ghi Có cho tài khoản của người kia nhanh chóng. Ngoài ra, việc thực hiện chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng tiền gửi của người này để cho người khác vay. Khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán, ngân hàng sẽ trả hộ và khoản trả hộ đó sẽ trở thành khoản vay của khách hàng.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước nữa mà ngân hàng còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng, phù hợp với sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
1.2. Vai trò của thanh toán qua ngân hàng
1.2.1. Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm cho xã hội rất nhiều chi phí lưu thông tiền mặt (chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền, vận chuyển tiền, hủy tiền…) và những chi phí có liên quan đến người trả tiền và người thụ hưởng (chi phí đếm tiền, bảo quản tiền, vận chuyển tiền,…).
Thứ hai, thanh toán qua ngân hàng thúc đẩy sự vận động của vật tư, hàng hóa, tiền vốn trong nền kinh tế, dẫn đến giảm chi phí sản xuất và lưu thông, tăng tích lũy cho quá trình tái sản xuất. Trong thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, với những giao dịch giá trị lớn đòi hỏi khối lượng tiền mặt lớn sẽ làm cho chi phí lưu thông tiền tệ tăng lên, việc tổ chức lưu thông tiền mặt phức tạp, tốc độ luân chuyển vốn chậm và ngược lại. Đối với lĩnh vực tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt tạo khả năng tập trung nguồn vốn vào ngân hàng để đầu tư cho phát triển. ở đây ngân hàng đóng vai trò điều hòa vốn trong nền kinh tế, chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn
1.2.2. Đối với Nhà nước
Thanh toán qua ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với vai trò quản lý của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước có thể thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả, kiểm soát được mức cung tiền tệ do đó có thể kiểm soát được lạm phát.
Hơn thế, thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi để Nhà nước kiểm soát hoạt động kinh tế của các tác nhân trong nền kinh tế với mục đích đảm bảo thu chi tài chính. Việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt mà không qua chuyển khoản dễ gây thất thoát thuế. Nó còn tạo ra mặt bằng cạnh tranh không công bằng và phá hoại đạo đức kinh doanh vì những kẻ trốn thuế có thể hạ giá bán để cạnh tranh gây thiệt hại đến các nhà kinh doanh chân chính nộp thuế đầy đủ.
Thanh toán qua ngân hàng xóa bỏ hiện tượng tham ô, tham nhũng, ngăn chặn được nạn cướp giật, móc túi và các tệ nạn khác.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt giúp Nhà nước nâng cao vai trò kiểm soát bằng đồng tiền của mình, tạo sự ổn định và phát triển cho xã hội.
1.2.3. Đối với ngân hàng thương mại
Thanh toán qua ngân hàng giúp các ngân hàng thương mại huy động được nguồn vốn lớn. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại tiến hành cho vay, đầu tư để thu lợi nhuận.
Thanh toán qua ngân hàng giúp các ngân hàng thương mại thu hút được lượng khách hàng dồi dào. Đặc biệt, đây thường là những khách hàng trung thành vì một khi họ đã mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng này thì hiếm khi họ muốn chuyển sang một ngân hàng đối thủ của ngân hàng đó. Hơn nữa, hầu hết khách hàng mở tài khoản thanh toán đều sử dụng các dịch vụ khác ngoài dịch vụ thanh toán, như dịch vụ tín dụng, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ bảo quản tài sản,…tại chính ngân hàng đó.
Thanh toán qua ngân hàng giúp cho ngân hàng tìm hiểu tâm lý, nhu cầu của khách hàng, nắm được toàn bộ thông tin về doanh nghiệp.
Thanh toán qua ngân hàng góp phần mang lại lợi nhuận ngày càng lớn cho các ngân hàng thương mại từ phí khách hàng trả cho ngân hàng.
1.2.4. Đối với khách hàng
Thanh toán qua ngân hàng giúp cho việc thanh toán giữa các khách hàng trong quá trình kinh doanh được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiết kiệm. Khách hàng không phải chi trả với nhau bằng những bao tiền vừa tốn kém lại không an toàn mà chỉ cần ra lệnh cho ngân hàng để ngân hàng ghi Nợ vào tài khoản của người này, ghi Có vào tài khoản của người kia một cách nhanh chóng, chính xác, tiền của họ sẽ được ngân hàng bảo quản chắc chắn.
1.3. Các nguyên tắc thanh toán qua ngân hàng
1.3.1. Đối với khách hàng
Khách hàng phải mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng.
Khách hàng phải luôn đảm bảo số dư thanh toán trên tài khoản để có thể chi trả đầy đủ, kịp thời.
Khách hàng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc sử dụng số tiền trên tài khoản của mình.
Khi nhận được chứng từ thanh toán, khách hàng phải kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ và nhanh chóng nộp vào ngân hàng.
1.3.2. Đối với ngân hàng
Ngân hàng chỉ được trích tài khoản của khách hàng để thực hiện các khoản thanh toán khi có yêu cầu của chủ tài khoản.
Ngân hàng phải thanh toán cho đúng người thụ hưởng và đúng số lượng theo yêu cầu của chủ tài khoản.
Đối với chứng từ hợp pháp, hợp lệ mà khách hàng nộp vào, ngân hàng phải thanh toán ngay. Nếu gây chậm trễ, ngân hàng phải bồi thường, tùy theo mức độ có thể bị truy tố trước pháp luật.
Thanh toán qua ngân hàng đòi hỏi các chủ thể tham gia thanh toán phải mở tài khoản tại ngân hàng nên sự kiểm soát của ngân hàng trong tổ chức thanh toán là cần thiết để đảm bảo sự công bằng, chính xác, tính đúng đắn của nội dung thanh toán, tính hợp lệ của chứng từ. Do việc mở tài khoản tại ngân hàng nên ngân hàng là người quản lý các tài khoản tiền gửi của các đơn vị, chỉ ngân hàng mới được phép trích chuyển tài khoản của các đơn vị và coi đó như nghiệp vụ đặc biệt của mình.
1.4 các công cụ thanh toán
1.4.1. Thanh toán bằng séc
Các loại séc đang được sử dụng chủ yếu là séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức và séc chuyển tiền. Trừ séc tiền mặt dùng cho chủ tài khoản rút tiền tại ngân hàng (không chi trả cho người khác), các loại séc khác chỉ được dùng để thanh toán phi tiền mặt, tức là người thụ hưởng không được tự mình rút tiền mặt ở ngân hàng mà phải nhờ ngân hàng thu ngân.
1.4.1.1. Thanh toán bằng séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là loại séc được sử dụng rộng rãi. Nó có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền, do đó, trên tờ séc phải có đầy đủ những yếu tố bắt buộc theo luật định. Thông thường, séc được in sẵn, người phát hành séc chỉ phải điền vào những chỗ quy định bằng mực không phai. Việc ghi trên tờ séc phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ đối với việc sử dụng séc.
Hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng nhưng các chi nhánh đó có tham gia thanh toán bù trừ.
Quy trình thanh toán séc chuyển khoản
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng thương mại
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán.
(3) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán.
(4) Ngân hàng kiểm tra chứng từ nhận được, kiểm tra số dư tài khoản của bên mua. Nếu đủ điều kiện thì ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của bên mua và báo Nợ cho họ.
(5) Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên bán và báo Có cho họ.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán.
(3) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán.
(4) Ngân hàng kiểm tra đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ nhận được sẽ chuyển các chứng từ này đến trung tâm thanh toán bù trừ để trao chứng từ cho ngân hàng bên người phát hành.
(5) Tại ngân hàng bên mua, tổ bù trừ mang về các chứng từ, lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Nợ vào tài khoản của bên mua và báo Nợ cho họ.
(6) Ngân hàng bên bán tiếp nhận chứng từ thanh toán bù trừ về tờ séc, ghi Có vào tài khoản của bên bán và báo Có cho họ.
1.4.1.2. Thanh toán bằng séc bảo chi
Séc bảo chi là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc bằng tiền của người mua và chống lại việc phát hành séc khống.
Séc bảo chi được dùng trong trường hợp người bán yêu cầu người mua phải lập séc bảo chi hoặc theo quyết định của ngân hàng đối với chủ tài khoản vi phạm kỷ luật phát hành séc.Hình thức thanh toán bằng séc bảo chi được sử dụng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc có tài khoản ở các chi nhánh cùng một ngân hàng. Nếu là các chi nhánh khác ngân hàng thì các chi nhánh ngân hàng đó phải cùng tham gia thanh toán bù trừ. Như vậy, séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản.
Quy trình phát hành và thanh toán séc bảo chi
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng thương mại
(1) Khách hàng (bên mua) đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc bảo chi.
(2) Ngân hàng bảo chi séc và giao cho khách hàng (bên mua).
(3) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(4) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán.
(5) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán.
(6) Nếu séc đủ điều kiện thanh toán, ngân hàng ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ
(1) Khách hàng (bên mua) đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc bảo chi.
(2) Ngân hàng bảo chi séc và giao cho khách hàng (bên mua).
(3) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(4) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán.
(5) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán.
(6) Ngân hàng bên bán lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Có tài khoản người bán và báo Có cho họ. Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua.
(7) Ngân hàng bên mua nhận chứng từ ngân hàng bên người bán gửi đến, ghi Nợ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi và báo Nợ cho người mua.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh cùng một ngân hàng nhưng khác địa bàn
(1) Khách hàng (bên mua) đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc bảo chi.
(2) Ngân hàng bảo chi séc và giao cho khách hàng (bên mua).
(3) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(4) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán.
(5) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán.
(6) Ngân hàng bên bán lập chứng từ thanh toán liên hàng, ghi Có tài khoản người bán và báo Có cho họ. Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên người mua.
(7) Ngân hàng bên mua nhận chứng từ ngân hàng bên bán gửi đến, ghi Nợ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi và báo Nợ cho người mua.
1.4.1.3. Thanh toán bằng séc định mức
Séc định mức là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc và chống lại việc phát hành séc khống.
Khác với séc bảo chi là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho từng tờ séc, séc định mức – séc trong sổ séc định mức là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho cả một quyển séc.
1.4.1.4. Thanh toán bằng séc chuyển tiền
Séc chuyển tiền là séc dùng để chuyển tiền cho người thụ hưởng theo yêu cầu của chủ tài khoản.
Hình thức thanh toán bằng séc chuyển tiền được áp dụng trong thanh toán giữa hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống, khác địa bàn. Riêng người thụ hưởng có thể không cần mở tài khoản tại ngân hàng.
1.4.1.5. Thanh toán bằng séc cá nhân
Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác.
Hiện nay, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, đối với séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu đồng, người phát hành séc phải đến ngân hàng làm thủ tục bảo chi séc.
1.4.2. Thanh toán bằng thẻ
Hiện nay, có 3 loại thẻ được áp dụng là thẻ thanh toán không phải ký quỹ, thẻ thanh toán phải ký quỹ trước tại ngân hàng và thẻ tín dụng.
Đối với thẻ thanh toán không phải ký quỹ, người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản để đảm bảo tính thanh toán. Căn cứ để thanh toán là số dư trên tài khoản tiền gửi của người chủ sở hữu thẻ mở tại ngân hàng, với hạn mức tối đa của thẻ do ngân hàng quy định. Thẻ này được áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán tốt và thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng.
Đối với thẻ thanh toán phải ký quỹ, người sử dụng thẻ phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản để đảm bảo thanh toán. Số tiền lưu ký vào tài khoản có thể là tiền mặt, tiền trích từ tài khoản khác chuyển sang hoặc tiền vay ngân hàng. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ. Loại thẻ này được áp dụng với mọi loại khách hàng.
Thẻ tín dụng là loại thẻ không phải ký quỹ. Nó được áp dụng đối với khách hàng được vay vốn ngân hàng. Mức tiền ngân hàng cho vay được coi là hạn mức tín dụng.
Quy trình phát hành và thanh toán thẻ
(1) Khách hàng đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng thẻ.
(2) Ngân hàng phát hành thẻ và giao cho khách hàng.
(3) Khi mua hàng, khách hàng (chủ sở hữu thẻ) đưa thẻ cho bên bán.
(4) Hàng hóa trao cho chủ sở hữu thẻ.
(5) Bên tiếp nhận thẻ (bên bán) lập biên lai thanh toán thẻ và gửi cho ngân hàng đại lý nơi người bán mở tài khoản.
(6) Ngân hàng đại lý thanh toán cho bên bán.
(7) Ngân hàng đại lý thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ.
(8) Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán với chủ sở hữu thẻ.
1.4.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi
ủy nhiệm chi là lệnh yêu cầu của người chủ tài khoản ủy nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản của mình để trả cho đơn vị hoặc cá nhân được hưởng.
Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi được sử dụng rộng rãi trong thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh của hai ngân hàng thương mại khác nhau.
Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi có đặc điểm thanh toán nhanh, thủ tục đơn giản, do đơn vị mua chủ động trả tiền sau khi họ đã hoàn thành việc nhận hàng hoá hay dịch vụ của bên bán. Như vậy, việc thu hồi vốn của bên bán hoàn toàn phụ thuộc vào bên mua, nếu bên mua gặp phải khó khăn về tài chính thì quyền lợi của bên bán cũng bị ảnh hưởng. Do vậy mà hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi thường được áp dụng giữa các tổ chức kinh tế có sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ mua bán và có khả năng tài chính tương đối ổn định.
Quy trình thanh toán ủy nhiệm chi
ã Trường hợp hai khách hàng cùng mở tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên mua nộp ủy nhiệm chi vào ngân hàng phục vụ mình.
(3) Ngân hàng hạch toán và báo Nợ cho người trả tiền.
(4) Ngân hàng báo Có cho người thụ hưởng.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua
(2) Bên mua lập ủy nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình.
(3) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ cho ngân hàng bên bán.
(4) Ngân hàng bên bán ghi Có tài khoản bên bán và báo Có cho họ.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân hàng nhưng khác địa bàn
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua
(2) Bên mua lập ủy nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình.
(3) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán liên hàng, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ cho ngân hàng bên bán.
(4) Ngân hàng bên bán ghi Có tài khoản bên bán và báo Có cho họ.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng và khác địa bàn
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua
(2) Bên mua lập ủy nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình.
(3) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ cho ngân hàng bên bán.
(4) Ngân hàng bên bán ghi Có tài khoản bên bán và báo Có cho họ.
1.4.4. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
ủy nhiệm thu là giấy tờ thanh toán do người bán lập gửi tới ngân hàng phục vụ mình đề nghị thu hộ số tiền theo giá trị hàng hóa đã giao hoặc dịch vụ đã cung ứng cho người mua. ủy nhiệm thu thường được áp dụng trong thanh toán giữa các tổ chức có tín nhiệm nhau về thanh toán.
Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu được sử dụng rộng rãi trong thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh của hai ngân hàng thương mại khác nhau.
Quy trình thanh toán bằng uỷ nhiệm thu:
ã Trường hợp hai khách hàng cùng mở tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp cho ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng.
(3) Ngân hàng hạch toán, báo Nợ cho bên mua.
(4) Ngân hàng báo Có cho bên bán.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp vào ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng.
(3) Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua.
(4) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ thanh toán về bộ ủy nhiệm thu sang ngân hàng bên bán.
(5) Ngân hàng bên bán ghi Có vào tài khoản bên bán và báo Có cho họ.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân nhưng khác địa bàn
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp vào ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng.
(3) Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua.
(4) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán liên hàng, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ thanh toán về bộ ủy nhiệm thu sang ngân hàng bên bán.
(5) Ngân hàng bên bán ghi Có vào tài khoản bên bán và báo Có cho họ.
ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng và khác địa bàn
(1) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp vào ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng.
(3) Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua.
(4) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ thanh toán về bộ ủy nhiệm thu sang ngân hàng bên bán.
(5) Ngân hàng bên bán ghi Có vào tài khoản bên bán và báo Có cho họ.
1.4.5. Thanh toán bằng thư tín dụng
Thư tín dụng là một văn bản cam kết pháp lý của ngân hàng mở thư tín dụng với người bán về việc thanh toán tiền hàng cho người bán nếu các điều kiện kèm theo trong thư tín dụng được thỏa mãn.
Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hóa giữa hai khách hàng có tài khoản ở hai chi nhánh ngân hàng trên hai địa bàn khác nhau.
Quy trình thanh toán bằng thư tín dụng:
(1) Bên mua nộp đơn mở thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ mình.
(2) Ngân hàng bên mua thông báo qua thư tín điện tử về việc thư tín dụng đã được mở cho ngân hàng bên bán.
(3) Ngân hàng bên bán thông báo cho bên bán về việc thư tín dụng đã được mở.
(4) Bên bán giao hàng cho bên mua.
(5) Bên bán lập bảng kê chứng từ thanh toán thư tín dụng, gửi ngân hàng phục vụ mình.
(6) Ngân hàng bên bán sau khi kiểm tra chứng từ phù hợp với giấy mở thư tín dụng sẽ ghi Có tài khoản cho bên bán và báo Có cho họ.
(7) Ngân hàng bên bán thanh toán với ngân hàng bên mua.
(8) Ngân hàng bên mua tất toán thư tín dụng và báo bên mua biết.
1.5. Các phương thức thanh toán qua ngân hàng
1.5.1. Phương thức thanh toán liên ngân hàng
Phương thức thanh toán liên hàng là thanh toán được thực hiện giữa các chi nhánh cùng một ngân hàng, phát sinh trên cơ sở nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt giữa các đơn vị kinh tế có tài khoản mở tại các chi nhánh khác nhau trong cùng ngân hàng đó.
Phương thức thanh toán liên hàng do Ngân hàng cấp Trung ương hoặc Hội sở chính của từng ngân hàng thương mại tổ chức. Các chi nhánh trong một ngân hàng có tham gia thanh toán liên hàng được gọi là các đơn vị liên hàng và đều có tên, số hiệu đơn vị liên hàng trong bảng tên các đơn vị liên hàng do cấp cao nhất của ngân hàng thương mại đó quy định.
1.5.2. Phương thức thanh toán bù trừ
Thanh toán bù trừ giữa các chi nhánh cùng hoặc khác ngân hàng thương mại là việc thanh toán trực tiếp giữa các chi nhánh trên cùng một địa bàn, hay có cự ly gần nhau.
Việc thanh toán được thực hiện thông qua tài khoản trung gian tại Ngân hàng Nhà nước do Ngân hàng Nhà nước đứng ra tổ chức và chủ trì thanh toán bù trừ hoặc do một ngân hàng được ngân hàng cấp trên chỉ định.
1.5.3. Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước là việc thanh toán giữa các chi nhánh khác ngân hàng thương mại cùng có tài khoản tiền gửi tại một chi nhánh Ngân hàng Nhà nước hoặc tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước khác nhau. Mỗi lần thanh toán, chi nhánh ngân hàng nơi phát sinh nghiệp vụ trả tiền gửi chứng từ đến chi nhánh Ngân hàng Nhà nước yêu cầu trích tài khoản tiền gửi của mình để thanh toán cho ngân hàng thụ hưởng.
1.5.4. Phương thức thanh toán bằng cách mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác
Phương thức này được áp dụng trong trường hợp các chi nhánh cùng hoặc khác ngân hàng thương mại có quan hệ giao dịch khá thường xuyên.
Theo phương thức này, mỗi chi nhánh mở tài khoản tiền gửi của mình tại chi nhánh kia để thực hiện thanh toán. Việc thanh toán giữa hai chi nhánh được thực hiện trên cơ sở các bảng kê chứng từ hoặc chứng từ do chi nhánh mở tài khoản tiền gửi lập.
1.5.5. Phương thức ủy nhiệm thanh toán giữa các ngân hàng
Phương thức thanh toán ủy nhiệm thu hộ, chi hộ tương tự như mở tài khoản tiền gửi ở ngân hàng khác để thanh toán. Nhưng có điểm khác nhau là ủy nhiệm thu hộ, chi hộ đòi hỏi phải có ủy nhiệm bằng văn bản, còn phương thức thanh toán qua mở tài khoản tiền gửi ở ngân hàng thì không cần văn bản.
1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng
1.6.1. Môi trường kinh tế
Ngân hàng ra đời nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển vững chắc, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ phát triển, kéo theo sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, hoạt động ngân hàng cũng bị suy thoái, trì trệ, thậm chí có thể bị xóa bỏ.
Như vậy, một nền kinh tế phát triển vững chắc tất yếu sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế suy thoái thì hoạt động thanh toán qua ngân hàng sẽ khó phát triển.
1.6.2. Môi trường pháp lý
Hoạt động của ngân hàng luôn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật, hay nói cách khác “ngân hàng hoạt động trong một hành lang hẹp” vì tiền ngân hàng kinh doanh chủ yếu là của người khác. Chính vì vậy, hoạt động thanh toán qua ngân hàng cũng phải chịu sự điều chỉnh của luật ngân hàng nói chung cũng như những quy định riêng đối với loại hình dịch vụ này.
Mọi chế độ, quy định được ban hành phải hợp lý, khoa học, đồng bộ và thuận tiện nếu không sẽ gây trở ngại cho ngân hàng và khách hàng. Nguyên tắc của thanh toán qua ngân hàng là phải thực hiện thanh toán nhanh chóng, tránh gây ứ đọng vốn của khách hàng, vì vậy nếu thủ tục thanh toán rườm rà, phức tạp thì khách hàng sẽ không lựa chọn hình thức thanh toán này.
1.6.3. Yếu tố khoa học và công nghệ
Chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin. Với sự tiến bộ của công nghệ thông tin, công tác thanh toán qua ngân hàng đã có rất nhiều cải tiến về thời gian thanh toán, độ chính xác và an toàn.
Hiện nay, với sự áp dụng tiến bộ công nghệ thông tin, công tác thanh toán qua ngân hàng đã giảm đáng kể lượng chứng từ giấy để thay thế bằng chứng từ điện tử. Vì thế, hoạt động thanh toán diễn ra nhanh hơn, chính xác hơn và an toàn hơn. Khoa học công nghệ phát triển tạo ra nhiều máy móc thiết bị hiện đại và phương tiện thanh toán mới như thẻ thanh toán, tiền điện tử… thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
1.6.4. Trình độ của cán bộ ngân hàng và khách hàng
1.6.4.1. Trình độ của cán bộ ngân hàng làm công tác thanh toán
Trình độ cán bộ làm công tác thanh toán rất quan trọng vì có thu hút được khách hàng thanh toán tại ngân hàng hay không chính là ở đội ngũ cán bộ trực tiếp giao dịch này.
Những cán bộ làm công tác thanh toán có trình độ chuyên môn giỏi, thành thạo công việc sẽ thực hiện việc thanh toán cho khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Ngoài việc thành thạo công việc, những cán bộ làm công tác thanh toán phải có phẩm chất đạo đức tốt, thái độ phục vụ nhanh nhẹn, nhiệt tình. Có như vậy mới tạo cảm tình và niềm tin với khách hàng, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến ngân hàng thanh toán.
1.6.4.2. Trình độ của khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán
Khi trình độ dân trí của một nước thấp kém, người dân không hiểu được những tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng, họ sẽ chỉ thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt.
Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, trình độ của họ có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của hoạt động thanh toán. Nếu khách hàng hiểu biết rõ về thủ tục thanh toán, ghi đúng, ghi đủ sẽ giúp cho việc thanh toán diễn ra nhanh chóng.
Đạo đức của khách hàng cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Mặc dù khách hàng có hiểu biết về các chế độ, thể lệ thanh toán qua ngân hàng nhưng vẫn cố tình gian lận, như: sửa chữa séc, sử dụng thẻ giả mạo,… sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng.
Chương 2
Thực trạng hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa trong thời gian qua.
2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh
2.1.1. Khái quát về NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
2.1.1.1. Lịch sử hình thành chi nhánh
NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa được thành lập và đi vào hoạt động năm 2000, cho đến nay đã bước sang năm thứ năm song nhìn lại chặng đường đã đi qua, ngân hàng Đống Đa đã có nhiều cố gắng đóng góp cho sự nghiệp chung của NHNo&PTNT trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế.
2.1.1.2. Nhiệm vụ của chi nhánh
- Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước, nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng.
- Cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kế toán, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Kinh doanh ngoại hối.
- Kinh doanh dịch vụ, như: nhận ủy thác cho vay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thanh toán qua ngân hàng.
- Thực hiện đầu tư dưới các hình thức: hùn vốn, liên doanh, mua cổ phiếu và các hình thức đầu tư khác khi được NHNo&PTNT cho phép.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác ._.do Tổng giám đốc NHNo&PTNT giao.
2.1.1.3. Mô hình tổ chức và tình hình nhân sự của chi nhánh
Đến ngày31/12/2004, ngoài ban lãnh đạo: 3 đ/c , chi nhánh có 3 phòng: phòng Kế hoạch kinh doanh: 10 đ/c, phòng Kế toán - ngân quỹ: 11 đ/c, phòng giao dịch: 9 đ/c.
Tổng số công nhân viên toàn chi nhánh tính đến 31/12/2004 là 33 người, trong đó: 30 nhân viên là chính thức còn 3 nhân viên còn lại là hợp đồng.
Việc sắp xếp cán bộ tương đối hợp lý, tạo điều kiện cho cán bộ phát huy được năng lực chuyên môn và khả năng tiếp cận khách hàng đối với những trường hợp có biểu hiện vi phạm nội quy, quy chế của ngành đều được nhắc nhở, giáo dục và xử lý nghiêm minh.
2.1.2. Kết quả kinh doanh của chi nhánh trong thời gian qua
2.1.2.1. Kết quả huy động vốn
Hoạt động nguồn vốn đã có nhiều thành tích đáng khích lệ. Chi nhánh đã huy động được một khối lượng nguồn vốn lớn từ 335 tỷ đồng năm 2001, 440 tỷ đồng năm 2002, 567 tỷ đồng năm 2003 và đến 31/12/2004 đã đạt 586 tỷ đồng.
Như vậy, nguồn vốn chi nhánh Đống Đa có sự tăng trưởng qua bốn năm hoạt động. Đặc biệt, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của các tổ chức tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao.
Từ năm 2003, chi nhánh không ngừng mở rộng màng lưới giao dịch, góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng nguồn vốn tại chi nhánh. Nguồn vốn lớn không những đã góp phần điều chuyển vốn về trụ sở chính, cân đối giúp các chi nhánh NHNo&PTNT khác không thuận lợi trong công tác huy động vốn, mà còn giúp chi nhánh chủ động đầu tư tín dụng có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội.
2.1.2.2. Kết quả hoạt động cho vay
Do huy động được khối lượng nguồn vốn lớn, chi nhánh đã chủ động đầu tư tín dụng có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Mức dư nợ tăng trưởng vượt bậc qua các năm từ, 52.079triệu đồng năm 2001, 88.000 triệu đồng năm 2002, 101.454 triệu đồng năm 2003 và 135.863 triệu đồng năm 2004
Về tình hình nợ quá hạn, đầu năm 2004: 2.982 triêu đồng chiếm 2.9% tổng dư nợ.
Nợ quá hạn phát sinh :2.437 triệu đồng chiếm 1.79% tổng dư nợ giảm 18% so với đầu năm.
Nguyên nhân chính : các khoản nợ quá hạn phát sinh trong năm 2004 đều do nợ dây đưa giữa các doanh nghiệp là nhà thầu với chủ đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ bản hoặc tường hợp hộ cá nhân gặp rủi ro trong kinh doanh, trong đời sống. Tuy vậy các doanh nghiệp và hộ cá nhân đều sử dụng vốn vay đúng mục đích xin vay, có tinh thần khắc phục hậu quả và quyết tâm trả nợ.
2.1.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Bốn năm qua chi nhánh đã thực hiện tốt công tác kinh doanh ngoại tệ với doanh số giao dịch ngoại tệ/1 chiều giao dịch từ 12.8 triệu USD năm 2001, 29.2triệu USD năm 2002, 36triệu USD năm 2003 và 33.2 triệu USD năm 2004.
Đồng tiền kinh doanh của chi nhánh phong phú hơn, tới nay đã có 10 loại ngoại tệ. Đặc biệt với các loại ngoại tệ ngoài USD, hiệu quả kinh doanh đã đạt cao hơn. Chi nhánh đã chủ động được nguồn ngoại tệ cung ứng, thực hiện kinh doanh có hiệu quả.
2.1.2.4. Kết quả hoạt động thanh toán
a, Hoạt động thanh toán quốc tế
Cùng với nghiệp vụ tín dụng và huy động vốn, công tác thanh toán quốc tế tại chi nhánh cũng đạt những tiến bộ vượt bậc với doanh số thanh toán quốc tế từ 19.2 triệu USD năm 2001, 25 triệu USD năm 2002, 30.4triệu USD năm 2003 và 48.2 triệu USD năm 2004.
Chi nhánh cũng kịp thời nắm bắt được nhu cầu của khách hàng lớn, kế hoạch hóa chặt chẽ nguồn ngoại tệ, đảm bảo khả năng thanh toán đối với khách hàng. Trình độ nghiệp vụ của từng cán bộ nhân viên đã được nâng cao hơn trong việc xử lý nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thái độ phục vụ tốt hơn đã thu hút nhiều khách hàng, tăng doanh số.
b, Thanh toán nội địa
Hoạt động thanh toán nội địa tại chi nhánh bốn năm qua đã có sự tăng trưởng vượt bậc cả về số món và doanh số thanh toán, 2.611 món năm 2001 đạt 541.198 triệu đồng 3.133 món năm 2002 đạt 757.677 triệu đồng, 5.314 món năm 2003 đạt 1.504.206 triệu đồng và 6.367 món năm 2004 đạt 2.111.301 triệu đồng.
Kể từ khi hoạt động đến nay, chi nhánh mới chỉ áp dụng ba phương thức thanh toán là thanh toán chuyển tiền (thanh toán nội bộ), thanh toán bù trừ và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt, năm 2004, chi nhánh đã mở rộng quan hệ thanh toán quốc tế và các dịch vụ bảo lãnh tạo nguồn thu cơ bản bên cạnh các nguồn thu của dịch vụ thanh toán, thẻ ATM, chuyển tiền Western Union. Đã phấn đấu đạt chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra 0.27% tăng so với năm 2003 là 0.09%.
Tính đến ngày 31/12/2004, chi nhánh đã có 605 khách hàng là doanh nghiệp và 2.427 khách hàng là cá nhân nhưng công tác thanh toán của chi nhánh đã đảm bảo thu đúng, chi đủ, kịp thời, chính xác.
2.1.2.5. Kết quả hoạt động kế toán, ngân quỹ
a, Hoạt động kế toán
Với chức năng và nhiệm vụ được giao là quản lý vốn và tài sản cho ngân hàng, bộ phận kế toán đã không ngừng cố gắng về mọi mặt để tinh thông nghiệp vụ và quản lý tốt nguồn vốn an toàn, hiệu quả.
Kế toán quản lý sử dụng vốn hàng tháng tính đủ các khoản lãi đến hạn trên hợp đồng, tích cực đôn đốc thu lãi của đơn vị có quan hệ vay vốn để đảm bảo nguồn thu cho chi nhánh.
Công tác quản lý tài sản và chi tiêu tài chính kế toán đã làm đúng chức năng tham mưu cho lãnh đạo, đảm bảo tiết kiệm trong chi tiêu và mua sắm để nâng cao thu nhập cho người lao động. Phòng đã tổ chức theo dõi chặt chẽ tài sản cố định, công cụ lao động đang dùng, đảm bảo đúng chế độ. Trong thanh toán các khoản chi tiêu nội bộ, chứng từ phải đầy đủ các yếu tố pháp lý đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam đã đề ra. Cụ thể, đoàn kiểm tra của phòng kiểm soát, thanh tra Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà nội đã tiến hành kiểm tra theo đề cương 1146/NHNo-KTK ngày 10/05/2002 của Tổng giám đốc, không thấy có biểu hiện tham ô lợi dụng.
Các khoản nộp nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, kế toán luôn quan tâm tính đúng, tính đủ hàng tháng nộp chi cục thuế Thành phố Hà nội đúng thời gian quy định.
b, Hoạt động ngân quỹ
Hoạt động thu chi tiền mặt đã làm tốt nhiệm vụ với tổng số thu qua bốn năm là 132.847 triệu đồng, chi là 84.890 triệu đồng. Chi nhánh luôn đảm bảo thu đúng, chi đủ, an toàn, chính xác.
2.1.2.6. Kết quả hoạt động tài chính
Do các hoạt động tại chi nhánh đều có sự tăng trưởng mạnh mẽ nên tổng thu nhập về hoạt động kinh doanh của chi nhánh cũng tăng trưởng mạnh qua các năm. năm 2001 đạt 24.102 triệu đồng, năm 2002 đạt 27.804 triệu đồng, năm 2003 đạt 34.892 triệu đồng và năm 2004 đạt 37.048 triệu đồng.
Tổng chi phí trong hoạt động kinh doanh năm 2001 là 20.154 triệu đồng, năm 2002 là 22.956 triệu đồng, năm 2003 là 21.186 triệu đồng và năm 2004 là 20.863 triệu đồng.
2.2. Thực trạng hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
2.2.1. Thực trạng thanh toán theo các hình thức thanh toán tại chi nhánh
Trong thời gian qua, tại chi nhánh chỉ có hình thức thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu và tiền mặt được khách hàng sử dụng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan mà hình thức thanh toán bằng thư tín dụng không được khách hàng lựa chọn nữa, còn hình thức thanh toán bằng thẻ vẫn chưa được triển khai tại chi nhánh. Sự phát triển của mỗi hình thức thanh toán tại chi nhánh cũng như những ưu, nhược điểm của chúng sẽ được phân tích cụ thể trong bài. Dưới đây là hai bảng số liệu về tình hình thanh toán theo các hình thức thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa.
Bảng 1: Tổng số món thanh toán theo các hình thức thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
Đơn vị: món
Năm
Hình thức
thanh toán
2002
2003
2004
So sánh
2003/2002
2004/2003
Số món
Tỷ trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(3)-(1)
(3)/(1)
(5)-(3)
(5)/(3)
Séc
580
18,5
1.337
25,2
1.739
27,3
757
230,5
402
130,1
ủy nhiệm chi
2.190
69,9
3.651
68,7
4.380
68,8
1.461
166,7
729
120,0
ủy nhiệm thu
102
3,3
98
1,8
119
1,9
- 4
95,9
21
121,2
Thư tín dụng
-
-
-
-
-
Thẻ
-
-
-
-
-
Tiền mặt
261
8,3
228
4,3
129
2,0
- 33
87,5
- 99
56,6
Tổng
3.133
5.314
6.367
2.181
169,6
1.053
119,8
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
Bảng 2: Tổng doanh số thanh toán theo các hình thức thanh toán tại chi nhánh NHNo & PTNTChi nhánh Đống Đa
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Hình thức
thanh toán
2002
2003
2004
So sánh
2003/2002
2004/2003
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(3)-(1)
(3)/(1)
(5)-(3)
(5)/(3)
Séc
34.870
4,6
93.590
6,22
133.887
6,35
58.720
268,4
40.298
143,1
ủy nhiệm chi
689.850
91,05
1.369.125
91,02
1.953048
92,5
679.274
198,5
583.923
142,6
ủy nhiệm thu
307
0,04
343
0,02
476
0,02
36
111,7
132
138,5
Thư tín dụng
-
-
-
-
-
Thẻ
-
-
-
-
-
Tiền mặt
32.640
4,31
41.148
2,74
23.890
1,13
8.490
126,1
- 17.258
58,1
Tổng
757.667
1.504.206
2.111.301
746.540
198,5
607.095
140,0
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
2.2.1.1. Thanh toán bằng séc
Nhìn bảng số món thanh toán, ta thấy tỷ trọng số món thanh toán bằng séc luôn chiếm vị trí thứ hai, sau ủy nhiệm chi. Số món thanh toán bằng séc đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Năm 2002, số món thanh toán bằng séc chỉ đạt 580 món, chiếm 18,5% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Nhưng sang năm 2003, số món thanh toán bằng séc đã tăng lên hơn hai lần so với năm 2002, đạt 1.337 món, chiếm 25,2% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. So với năm 2002, số món thanh toán bằng séc năm 2003 đã tăng lên 757 món, đạt 230,5%. Đến năm 2004, số món thanh toán bằng séc lại tiếp tục tăng lên, đạt 1.739 món, chiếm 27,3% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Số món thanh toán bằng séc năm 2004 so với năm 2003 chỉ tăng 402 món, ứng với 130,1%, ít hơn so với con số 757 món của năm 2003. Tuy tốc độ tăng trưởng số món thanh toán bằng séc năm 2004 chậm hơn so với năm 2003 nhưng tỷ trọng thanh toán bằng séc năm 2004 vẫn đạt 27,3%, cao hơn so với con số 25,2% của năm 2003. Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng của số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi năm 2004 chậm hơn nhiều so với năm 2003.
Sự tăng lên về số món thanh toán bằng séc qua các năm kéo theo sự tăng lên về doanh số thanh toán séc. Năm 2002, doanh số thanh toán bằng séc chỉ đạt 34.870 triệu đồng, chiếm 4,6% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh thì đến năm 2003, doanh số thanh toán séc đạt 93.590 triệu đồng, chiếm 6,22% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh. So với năm 2002, doanh số thanh toán bằng séc năm 2003 tăng 58.720 triệu đồng, ứng với 268,4%. Sang năm 2004, doanh số thanh toán bằng séc đạt 133.887 triệu đồng, chiếm 6,35% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh, so với năm 2003 tăng 40.298 triệu đồng, ứng với 143,1%.
Để hiểu rõ hơn tình hình thanh toán bằng séc tại chi nhánh, chúng ta sẽ đi sâu phân tích từng loại séc. Những năm qua, chỉ có hai loại séc là séc chuyển khoản và séc bảo chi được sử dụng để thanh toán tại chi nhánh.
Bảng 3: Số món thanh toán bằng séc tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
Đơn vị: món
Năm
Hình thức
thanh toán
2002
2003
2004
So sánh
2003/2002
2004/2003
Số món
Tỷ trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(3)-(1)
(3)/(1)
(5)-(3)
(5)/(3)
Séc chuyển khoản
336
58
852
63,7
1.116
64,2
515
253,2
265
131,1
Séc bảo chi
244
42
485
36,3
623
35,8
242
199,3
137
128,2
Tổng
580
1337
1.739
. 757
230,5
402
130,1
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
Bảng 4: Doanh số thanh toán bằng séc tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Hình thức
thanh toán
2002
2003
2004
So sánh
2003/2002
2004/2003
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(3)-(1)
(3)/(1)
(5)-(3)
(5)/(3)
Séc chuyển khoản
120
34,3
30.698
32,8
42.175
31,5
18.737
256,7
11.477
137,4
Séc bảo chi
22.910
65,7
62.892
67,2
91.712
68,5
39.983
274,5
28.821
145,8
Tổng
34.870
93.590
133.887
58.720
268,4
40.298
143,1
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa
a, Thanh toán bằng séc chuyển khoản
Dễ dàng nhận thấy số món thanh toán bằng séc chuyển khoản qua các năm luôn nhiều hơn số món thanh toán bằng séc bảo chi. Năm 2002, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 336 món, chiếm 58% tổng số món thanh toán bằng séc. Sang năm 2003, tỷ trọng số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tiếp tục tăng, đạt 63,7% tổng số món thanh toán bằng séc, ứng với 852 món. So với năm 2002, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng 515 món, đạt 253,2%. Năm 2004, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 1.116 món, chiếm 64,2% tổng số món thanh toán bằng séc, tăng 265 món so với năm 2003, ứng với 131,1%.
Năm 2002, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 120 triệu đồng, chiếm 34,3% tổng doanh số thanh toán bằng séc. Sang năm 2003, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 30.698 triệu đồng, chiếm 32,8% tổng doanh số thanh toán bằng séc, so với năm 2002 tăng 8.737 triệu đồng, đạt 256,7%. Năm 2004, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng 11.477 triệu đồng so với năm 2003, đạt 42.175 triệu đồng, chiếm 31,5% tổng doanh số thanh toán bằng séc.
Như vậy, số món và doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản tại chi nhánh liên tục tăng qua các năm. So với hình thức thanh toán bằng séc bảo chi, hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản được áp dụng nhiều hơn. Tỷ trọng số món thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn cao hơn so với thanh toán bằng séc bảo chi và tăng dần từ 58% năm 2002 lên 63,7% năm 2003 và 64,2% năm 2004. Tuy vậy, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn thấp hơn doanh số thanh toán bằng séc bảo chi. Tỷ trọng doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản giảm dần qua các năm, từ 34,3% năm 2002 xuống 32,8% năm 2003 và 31,5% năm 2004. Từ số liệu ở bảng, ta tính được doanh số thanh toán bình quân mỗi món là 37 triệu đồng đối với séc chuyển khoản và 130 triệu đồng đối với séc bảo chi. Điều này chứng tỏ séc chuyển khoản thường được áp dụng để thanh toán những khoản tiền nhỏ.
Sở dĩ hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản được khách hàng ưa chuộng vì nó có nhiều ưu điểm.ưu điểm trước tiên là thủ tục thanh toán bằng séc chuyển khoản rất đơn giản. Khi có nhu cầu thanh toán bằng séc chuyển khoản, người trả tiền chỉ phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định trên tờ séc theo đúng thể lệ thanh toán và quy định chung về lập chứng từ rồi giao trực tiếp cho người thụ hưởng mà không phải thông qua ngân hàng như séc bảo chi. ưu điểm thứ hai là người phát hành séc chuyển khoản (người trả tiền) không phải lưu ký bất cứ khoản tiền nào tại ngân hàng. Quy định này giúp cho họ không bị đọng vốn.
Ngoài ra, hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản còn rất an toàn cho ngân hàng phục vụ người trả tiền. Trong trường hợp người trả tiền phát hành séc chuyển khoản quá số dư, ngân hàng không phải chịu trách nhiệm thanh toán ngay cho người thụ hưởng và có quyền phạt khách hàng vì phát hành séc quá số dư. Chính vì sự an toàn này đối với mình nên các ngân hàng khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản.
Bên cạnh những ưu điểm trên, hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản còn nhiều hạn chế.
Do thủ tục thanh toán bằng séc chuyển khoản đơn giản nên dễ dẫn đến tình trạng người trả tiền phát hành séc quá số dư. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc ghi Nợ trước, Có sau chứ không thể ghi Có ngay cho tài khoản của người thụ hưởng như đối với séc bảo chi. Vì vậy, thời gian thanh toán bằng séc chuyển khoản lâu hơn so với séc bảo chi. Trong trường hợp tài khoản người trả tiền không đủ tiền thanh toán (phát hành séc quá số dư), người thụ hưởng phải đợi cho đến khi tài khoản của người trả tiền có đủ số dư mới được thanh toán. Điều này gây đọng vốn cho người thụ hưởng. Vì vậy, người thụ hưởng thường không thích nhận séc chuyển khoản do không đảm bảo nhu cầu an toàn, kịp thời cho họ.
Do hạn chế trên nên séc chuyển khoản thường được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng có tín nhiệm nhau về thanh toán. Tại chi nhánh Đống Đa, khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại có quan hệ thanh toán thường xuyên với nhau nên hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn được sử dụng nhiều hơn so với séc bảo chi. Vì vậy, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tại chi nhánh qua các năm luôn nhiều hơn số món thanh toán bằng séc bảo chi.
Một hạn chế nữa của hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản là phạm vi thanh toán được quy định hạn hẹp. Hiện nay, séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong thanh toán giữa hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc tại hai chi nhánh ngân hàng trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ. Phạm vi áp dụng còn hạn hẹp phần nào làm giảm số lượng thanh toán bằng séc chuyển khoản.
Khác với séc bảo chi, séc chuyển khoản không được ngân hàng đảm bảo thanh toán nên hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản thường được áp dụng để thanh toán những khoản tiền nhỏ nhằm hạn chế rủi ro cho người thụ hưởng. Do đó, mặc dù số món thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn nhiều hơn số món thanh toán bằng séc bảo chi nhưng doanh số thanh toán lại thấp hơn rất nhiều.
b, Thanh toán bằng séc bảo chi
Năm 2002, số món thanh toán bằng séc bảo chi là 244 món, chiếm 42% tổng số món thanh toán bằng séc. Sang năm 2003, số món thanh toán bằng séc bảo chi tăng 242 món, đạt 199,3% so với năm 2002. Do tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với séc chuyển khoản nên trong năm 2003, tỷ trọng số món thanh toán bằng séc bảo chi chỉ còn 36,3% tổng số món thanh toán bằng séc, thấp hơn so với con số 42% năm 2002. Hiện tượng này tiếp tục lặp lại vào năm 2004. Trong khi số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng thêm 265 món, đạt 131,1% so với năm 2003 thì số món thanh toán bằng séc bảo chi chỉ tăng thêm 137 món, đạt 128,2% so với năm 2003. Vì vậy, năm 2004, tỷ trọng số món thanh toán bằng séc bảo chi còn 35,8%, đạt 623 món.
Tuy số món thanh toán bằng séc bảo chi ít hơn so với số món thanh toán bằng séc chuyển khoản nhưng do séc bảo chi thường được sử dụng để thanh toán những khoản tiền lớn nên doanh số thanh toán séc bảo chi lại lớn hơn.
Doanh số thanh toán bằng séc bảo chi tăng lên rất nhanh qua các năm, từ 22.910 triệu đồng năm 2002 (chiếm 65,7% tổng doanh số thanh toán bằng séc), 62.892 triệu đồng năm 2003 ( chiếm 67,2%) đến 91.712 triệu đồng năm 2004 (chiếm 68,5%). So với năm 2002, doanh số thanh toán bằng séc bảo chi năm 2003 tăng 39.983 triệu đồng, đạt 274,5%. Năm 2004, doanh số thanh toán bằng séc bảo chi chỉ tăng 28.821 triệu đồng so với năm 2003, đạt 145,8% do số món thanh toán bằng séc bảo chi năm 2004 chỉ tăng 137 món so với năm 2003.
Như vậy, số món và doanh số thanh toán bằng séc bảo chi tại chi nhánh đều tăng qua các năm. Tuy vậy, so với séc chuyển khoản, số món thanh toán bằng séc bảo chi còn tăng chậm.
Trên thực tế, người thụ hưởng rất thích dùng séc bảo chi để thanh toán vì hình thức thanh toán này có nhiều ưu điểm có lợi cho họ.
Séc bảo chi là loại séc do chủ tài khoản phát hành được ngân hàng đảm bảo chi trả. Vì vậy, người thụ hưởng luôn được đảm bảo về khả năng thanh toán mà không phải lo lắng về việc người trả tiền có đủ tiền hay không. Vì vậy, người thụ hưởng sẽ không bị đọng vốn như đối với trường hợp người trả tiền phát hành séc chuyển khoản quá số dư.
Chính nhờ ưu điểm an toàn, nhanh chóng của hình thức thanh toán bằng séc bảo chi mà người thụ hưởng rất thích sử dụng séc bảo chi, đặc biệt đối với những khoản thanh toán có số tiền lớn, người thụ hưởng không tín nhiệm người trả tiền về khả năng thanh toán. Tại chi nhánh Đống Đa, khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại có quan hệ thanh toán thường xuyên với nhau nên hình thức thanh toán bằng séc bảo chi ít được sử dụng hơn hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản. Tuy nhiên, do séc bảo chi thường được áp dụng trong thanh toán những khoản tiền lớn nên doanh số thanh toán bằng séc bảo chi tại chi nhánh luôn lớn hơn doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản dù ít hơn về số món.
Bên cạnh những ưu điểm trên, hình thức thanh toán bằng séc bảo chi có nhiều bất lợi đối với người trả tiền nên ít được lựa chọn hơn hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản. Trước hết là do thủ tục phát hành séc bảo chi rườm rà, mất nhiều thời gian. Mỗi lần có nhu cầu thanh toán bằng séc bảo chi, chủ tài khoản (người trả tiền) phải lập ủy nhiệm chi kèm tờ séc chuyển khoản đã ghi đầy đủ các yếu tố đưa nộp trực tiếp vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản để ngân hàng làm thủ tục bảo chi séc. Không những thế, người trả tiền còn bị đọng vốn do phải lưu ký ngay số tiền của séc mà không được hưởng lãi.
Một hạn chế nữa của hình thức thanh toán bằng séc bảo chi là phạm vi áp dụng còn hạn hẹp. Tuy nhiên, do séc bảo chi đã được ngân hàng đảm bảo thanh toán nên có thể được áp dụng thanh toán trong toàn quốc.
c, Thanh toán bằng séc định mức
Đối với séc bảo chi, ngân hàng chỉ đóng dấu bảo chi cho từng tờ séc của một sổ séc, còn séc định mức được ngân hàng đóng dấu bảo chi cho cả sổ séc. Do đó, hình thức thanh toán bằng séc định mức thuận tiện hơn cho người phát hành séc do họ tiết kiệm được thời gian, chi phí bảo chi séc.
Tuy có thuận tiện như vậy nhưng hình thức thanh toán bằng séc định mức hầu như không được khách hàng lựa chọn do nó có nhiều nhược điểm, như: séc định mức có thể bị phát hành quá số dư, một số tiền lớn của người trả tiền sẽ bị đóng băng tại ngân hàng do họ phải lưu ký toàn bộ số tiền của sổ séc để đảm bảo thanh toán, cả sổ séc chỉ được thanh toán cho cùng một người thụ hưởng. Do séc định mức không được khách hàng ưa chuộng nên Chính Phủ đã quyết định bỏ séc định mức. Vì thế, hình thức thanh toán bằng séc định mức tại chi nhánh cũng không còn nữa.
d, Thanh toán bằng séc chuyển tiền
Giống như séc định mức, séc chuyển tiền cũng không được khách hàng của chi nhánh lựa chọn trong thời gian qua do còn nhiều hạn chế.
Khi có nhu cầu chuyển tiền bằng séc chuyển tiền, khách hàng phải nộp vào ngân hàng ủy nhiệm chi đề nghị trích tài khoản của mình hoặc nộp tiền mặt để đảm bảo thanh toán séc chuyển tiền. Do đó, người chuyển tiền sẽ bị đọng vốn do phải lưu ký tiền đảm bảo thanh toán séc chuyển tiền mà không được hưởng lãi.
Ngoài ra, phạm vi áp dụng thanh toán bằng séc chuyển tiền còn quá hạn hẹp. Mặc dù người chuyển tiền đã phải lưu ký tiền đảm bảo thanh toán nhưng séc chuyển tiền mới chỉ được áp dụng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản tại các chi nhánh cùng một ngân hàng.
Trong trường hợp chuyển tiền cho cá nhân không có tài khoản tại ngân hàng, việc sử dụng séc chuyển tiền không được ưa chuộng bằng gửi tiền qua bưu điện. Sở dĩ có tình trạng này là do nhiều nguyên nhân.
Trước hết là do tâm lý ưa dùng tiền mặt của người dân không dễ xóa bỏ. Người dân chưa có thói quen thanh toán qua ngân hàng. Tâm lý e ngại khi đến ngân hàng dường như còn rất nặng nề. Trong khi đó, việc chuyển tiền qua bưu điện đã trở nên rất phổ biến đối với họ.
Hơn nữa, thủ tục chuyển tiền bằng séc chuyển tiền được quy định quá chặt chẽ chứ không đơn giản như chuyển tiền qua bưu điện. Theo mẫu lệnh chuyển tiền đang áp dụng trong NHNo&PTNT, các chi nhánh phát lệnh phải ghi rõ mục địa chỉ/số CMND của người nhận lệnh (người thụ hưởng), nhất là trong trường hợp người thụ hưởng không có tài khoản tại ngân hàng. Như vậy, người chuyển tiền phải biết giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng như: số chứng minh nhân dân, ngày cấp, nơi cấp. Quy định này gây trở ngại cho người chuyển tiền qua ngân hàng trong trường hợp không biết trước giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng. Không những thế, các chi nhánh phát lệnh thường không ghi rõ địa chỉ, chỉ ghi số chứng minh nhân dân của người thụ hưởng nên khi nhận được lệnh chuyển tiền, chi nhánh nhận lệnh không thể báo cho người thụ hưởng đến nhận tiền mà người thụ hưởng phải tự đến chi nhánh hoặc liên lạc qua điện thoại để nắm được thông tin. Đây là tình huống thường gặp, gây tốn thời gian, chi phí và phiền toái cho người thụ hưởng.
Trong khi đó, thủ tục chuyển tiền qua bưu điện lại rất đơn giản. Người chuyển tiền không phải biết giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng mà chỉ cần biết địa chỉ, và số điện thoại nếu có. Nhân viên bưu điện sẽ chuyển tiền đến tận tay người thụ hưởng. Khi lĩnh tiền, người thụ hưởng chỉ phải xuất trình chứng minh nhân dân. Nhân viên bưu điện sẽ kiểm tra thêm bằng một số câu hỏi, như: “Ai chuyển tiền cho anh/chị?”,… Nếu trả lời đúng, khách hàng sẽ nhận được tiền ngay. Do những lý do trên khiến cho chuyển tiền qua bưu điện đã thu hút được nhiều khách hàng hơn so với chuyển tiền qua ngân hàng dù phí dịch vụ cao hơn.
e, Thanh toán bằng séc cá nhân
Cho đến nay, NHNo&PTNT vẫn chưa phát hành séc cá nhân nên những năm qua tại chi nhánh không có hình thức thanh toán bằng séc cá nhân. Sở dĩ NHNo&PTNT chưa phát hành séc cá nhân là do nhiều nguyên nhân.
Séc cá nhân là một loại séc có nhiều phức tạp, dễ phát sinh rủi ro. Trong khi đó, Nhà nước vẫn chưa ban hành luật séc khiến cho người sử dụng séc và ngân hàng chưa thực sự yên tâm. Do đó, NHNo&PTNT còn e ngại trong việc phát hành séc cá nhân.
Ngoài ra, người dân vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt, thu nhập của đa số người dân còn thấp nên nhu cầu thanh toán bằng séc cá nhân còn ít.
2.2.1.2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi
Tại chi nhánh Đống Đa, thanh toán bằng ủy nhiệm chi là hình thức thanh toán được khách hàng ưa chuộng và sử dụng phổ biến nhất trong số các hình thức thanh toán qua ngân hàng. Chính vì vậy mà hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi luôn chiếm tỷ trọng cao nhất cả về số món và doanh số thanh toán .
Năm 2002, số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi đạt 2.190 món, chiếm 69,9% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, với doanh số thanh toán là 698.850 triệu đồng, chiếm 91,05% tổng doanh số thanh toán. Sang năm 2003, số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi đạt 3.651 món, chiếm 68,7% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, so với năm 2002 tăng 1.461 món, đạt 166,7%. Doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi năm 2003 cũng tăng 1.461triệu đồng so với năm 2002, đạt 1.369125 triệu đồng, chiếm 91,02% tổng doanh số thanh toán. Năm 2004, tỷ trọng số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi tăng lên 68,8%, đạt 4.380 món.Tỷ trọng doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi cũng tiếp tục tăng lên 92,5%, đạt 1.953.048 triệu đồng. So với năm 2003, số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi năm 2004 tăng 729 món với doanh số tăng lên là 583.923 triệu đồng.
Như vậy, số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi liên tục tăng qua các năm. Tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi luôn chiếm cao nhất trong số các hình thức thanh toán tại chi nhánh. Tuy nhiên, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi không tăng đều mà có sự tăng giảm nhẹ qua các năm. Năm 2002, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi lần lượt là 69,9% và 91,05% thì đến năm 2003 giảm xuống còn 68,7% và 91,02%. Sang năm 2004, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi lại tăng lên lần lượt là 68,8% và 92,5%.
Sở dĩ hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi được sử dụng rộng rãi là do nó có rất nhiều thuận lợi cho người mua, người bán và cho cả ngân hàng.
Hình thức thanh toán ủy nhiệm chi có phạm vi thanh toán rộng. Hình thức này được dùng để thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh cùng một ngân hàng hoặc khác ngân hàng, trên cùng địa bàn hoặc khác địa bàn.
Đặc biệt, trong trường hợp tài khoản người trả tiền không đủ tiền để thanh toán, người trả tiền chỉ bị ngân hàng phục vụ mình trả lại ủy nhiệm chi mà không phải chịu bất kỳ khoản phạt nào như đối với séc chuyển khoản, séc định mức hay ủy nhiệm thu. Đối với séc chuyển khoản và séc định mức, nếu người trả tiền phát hành séc quá số dư sẽ bị phạt chậm trả và phạt phát hành quá số dư. Còn đối với ủy nhiệm thu, nếu số dư tài khoản của người trả tiền không đủ để thanh toán, người trả tiền sẽ bị phạt chậm trả như phạt chậm trả do phát hành séc chuyển khoản và séc định mức quá số dư.
Một ưu điểm nữa của hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi là thủ tục thanh toán rất đơn giản. Sau khi nhận hàng, người mua chỉ cần lập ủy nhiệm chi theo mẫu in sẵn của ngân hàng nơi mình mở tài khoản gửi đến ngân hàng đó đề nghị trích tài khoản tiền gửi của mình trả cho người thụ hưởng. Tại ngân hàng của người thụ hưởng, khi nhận được các chứng từ thanh toán ủy nhiệm chi do ngân hàng phục vụ bên trả tiền chuyển đến, sau khi kiểm soát chứng từ, nếu đủ điều kiện thanh toán, ngân hàng ghi Có tài khoản bên thụ hưởng và gửi giấy báo Có cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng không phải làm nhiều thủ tục thanh toán như hình thức thanh toán bằng séc (người thụ hưởng phải nộp séc và bảng kê nộp séc cho ngân hàng) và ủy nhiệm thu (người thụ hưởng phải lập ủy nhiệm thu gửi tới ngân hàng cùng với hóa đơn giao hàng). Như vậy, thủ tục thanh toán bằng ủy nhiệm chi thuận tiện cho cả người mua và người bán.
Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi cũng có lợi đối với ngân hàng phục vụ người trả tiền. Ngân hàng phục vụ người trả tiền có quyền trả lại ủy nhiệm chi cho người trả tiền nếu ủy nhiệm chi bị lập sai hoặc số dư tài khoản của khách hàng không đủ để thanh toán mà không có trách nhiệm phải thanh toán cho người thụ hưởng trong các trường hợp này. Chính vì sự an toàn này đối với mình mà các ngân hàng khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức thanh toán ủy nhiệm chi trong thanh toán.
Bên cạnh những ưu điểm trên, hình thức thanh toán ủy nhiệm chi vẫn còn có những hạn chế đối với người thụ hưởng.Khi thanh toán theo hình thức này, người thụ hưởng dễ gặp rủi ro ứ đọng vốn vì họ giao hàng trước, nhận tiền sau. Việc thu được tiền hay không phụ thuộc vào khả năng tài chính và thiện chí trong thanh toán của người mua.Không những thế, nếu tài khoản của người trả tiền không đủ tiền để thanh toán thì người thụ hưởng cũng không được nhận tiền phạt chậm trả đối với người trả tiền như hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản, séc định mức hay ủy nhiệm thu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34066.doc