Chương 1
những vấn đề cơ bản về vốn của ngân hàng
thương mại
1.1.Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1. Khái niệm vốn của NHTM.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng gửi vào Ngân hàng v
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng, để Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
1.1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được thì phải có :Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt độnh kinh doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có vốn. Như đã biết, đặc trưng của hoạt động ngân hàng:Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ(thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán(thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là luật NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu cốt tử của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh doanh, vừa là đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại “hàng hoá đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo qui định của pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh của Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trưòng, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán. Trong khi đó, với một ngânh hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ tạo được uy tín ngày càng cao.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân hàng.
1.1.2.3. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng:
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh doanh chứng khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2.4 Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (phactoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, đảm bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng phải thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM ở tất cả các quốc gia.
1.1.3. Nội dung và tính chất của các loại vốn trong NHTM
1.1.3.1. Vốn tự có:
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu tư hay góp vốn liên doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh toán khi Ngân hàng gặp rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình thức tổ chức của NHTM là: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần hay NHTM liên doanh…
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung.
+ Vốn tự có cơ bản: Là vốn điều lệ – vốn pháp định
Vốn điều lệ: do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của Ngân hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định.
+ Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phưong thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và các quỹ như: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt và quỹ khác.
Nguồn nội bộ (nguồn từ lợi nhuận): Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy từ lợi nhuận và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm có thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bên ngoài: Là nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổim mới trang thiết bị hay để đáp ứng yêu cầu vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định.
ã Nếu phát hành cổ phiếu thường phải chia sẻ quyền lực và lợi nhuận
ã Nếu phát hành cổ phiếu ưu đãi thì không chia sẻ quyền lực và lợi tức là cố định
ã Nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi thì không mất quyền sở hữu và lợi nhuận có thể chuyển đổi ra tiền tiết kiệm nhưng trái phiếu vẫn là một khoản nợ và ngân hàng phải để một khoản quỹ để trả nợ.
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thuờng xuyên song giúp ngân hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ:
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Là quỹ được dùng với mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu. Lợi nhuận hàng năm bổ sung vào quỹ này cho đến khi đạt 50% vốn tự có thì sẽ chuyển thành vốn tự có.
Quỹ dự trữ đặc biệt: Là quỹ dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình kinh doanh nhằm bảo toàn vốn.
Các quỹ khác: Gồm có lợi nhuận chưa phân phối, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định.
Các quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành là từ thu nhập của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ xung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
1.1.3.2. Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở rộng tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
Vốn tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu này (gửi tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ LC hay dịch vụ nhờ thu).
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu, với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ (huặc bằng 0)
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với doanh nghiệp rất ổn định.
Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền được thực hiện bằng séc hoặc chuyển khoản.
Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có.
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất. Từ đó, tạo nên một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để kinh doanh.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an toàn tài sản, không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể sử dụng phần dư thừa nếu đảm bảo được khả năng chi trả.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền trước thời hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh toán, thường có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử dụng đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào nhưng không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của khách hàng và Ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng thường mài gửi vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích khác.
Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một trong những nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp hoạt động có chu kỳ, khi nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt khác:
Lãi suất huy động nhỏ hơn lãi suất vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Nếu lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động: Ngân hàng có lãi
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế <lãi suất cho vay < lãi suất huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh doanh nữa như vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy ra do đó không bao giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ hướng tới là tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Phát hành giấy tờ có giá:
Bên cạch các phương thức trên, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và kỳ phiếu. Thực chất là việc huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá.
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng
ã Đặc trưng của nó là quản lý được chính sách lãi suất trong ngắn hạn
ã Tính lỏng cao
ã Ngân hàng phát hành chủ động hơn về mặt quy mô hoạt động (chỉ thông qua tổng giám đốc)
+ Trái phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có thời hạn lớn hơn 12 tháng
ã Đặc trưng: Quản lý được chính cách lãi suất trong dài hạn
ã Tính lỏng cao, có thể mua bán được trên thị trường chứng khoán
ã Phát hành thông qua thống đốc ngân hàng
+ Chứng chỉ tiền gửi
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với sự chấp thuận của NHNN, hình thức huy động vốn này các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường.
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn (khoảng 80%). Các NHTM phải tôn trọng về mức vốn huy động theo quy định của pháp luật.
1.1.3.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản của các ngân hàng.
- Vay từ NHTW là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NNTM chiết khấu (tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng như thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân hàng, nó chủ yếu là vốn ngắn hạn, chi phí cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW:
+ Nếu NHTW thắt chặt tiền tệ với lãi suất cao
+ Nếu mở rộng tiện tệ thì lãi suất thấp
NHTW cho vay nhằm mục đích để bảo vệ an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ.Vay từ NHTM khác là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng.
Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản
+ Vay qua đêm là hợp đồng vay mượn bất thành văn giữa hai ngân hàng chủ yếu thông qua điện thoại và điện tín chỉ có thời hạn không quá một ngày
+ Vay kỳ hạn là hợp đồng vay mượn thành văn có thời hạn cụ thể (vài tuần, vài tháng, hoặc vài năm). Thường các ngân hàng đi vay phải có giấy tờ có giá để cầm cố đưa cho ngân hàng cho vay.
ã Đây là nguồn vốn chủ yếu là ngắn hạn
ã Tỷ trọng tương đối lớn đặc biệt là ngân hàng bán buôn
ã Chi phí cao hay thấp phụ thuộc vào cung cầu trên thị truờng tiền tệ
Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng vay mựon bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo/
Ngân hàng nào có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn nhiều hơn.
Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp họ phải thông qua các ngân hàng đại lý hoặc đựoc bảo lãnh của các ngân hàng đầu tư.
Khả năng vay mượn còn được phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
1.1.3.4. Vốn khác
Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác
Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện tốt các dịch vụ của khách hàng đặc biẹt là dịch vụ cho vay và dịch vụ thanh toán.
- Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp
- Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy tín của khách hàng.
Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C
Những ngân hàng này là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lưong chưa trả vv.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời được trích khỏi tài khoản này để nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được gọi là tiền nhàn rỗi.
Qua nghiệp vụ đại lý, các NHTM thu hút được một lương vốn trong quá trình thu - chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư…
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và nội dung biện pháp tạo vốn của NHTM
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM
Mọi hoạt động kinh doanh diễn ra đều chịu sự tác động nhất định của môi trường xung quanh. Công tác huy động vốn – một nghiệp vụ quan trọng hàng đầu của NHTM cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong cơ chế thị trường, các NHTM buộc phải cạch tranh để có thể thu hút được nguồn vốn lớn với chi phí thấp để tồn tại và phát triển. Do đó, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, tìm giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn là rất cần thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn có nhiều và rất đa dạng, nhưng tập trung lại có hai nhóm nhân tố là: Khách quan và chủ quan.
1.2.1.1. Nhóm nhân tố khách quan (PEST):
Bao gồm: Chính trị - pháp luật, kinh tế, môi trường xã hội và công nghệ
- Hành lang pháp lý: Có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM như luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN… Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả mức cho vay của NHTM đối với khách hàng…
Sự can thiệp của NHNN khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay từ NHNN. Đồng thời, nó còn có tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn vay từ NHNN.
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp hý hay không hợp lý cũng ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của Ngân hàng. Để khuyến khích sản xuất, đầu tư, Nhà nước có chính sách bảo hộ cho hàng hoá sản xuất, chính sách trợ giá… tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển và có lãi. Các doanh nghiệp và người lao động có tích luỹ là nền tảng để Ngân hàng huy động vốn được nhiều hơn.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập khá, tích luỹ được nhiều nên các khoản tiền ký thác thường tăng nhanh để đáp ứng các giao dịch kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế phát triển sẽ có tác động ngược lại, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, giao dịch kinh tế tăng hơn hình thành một bộ phận tích luỹ, tạo môi trường tiềm tàng để NHTM thu hút vốn.
Chu kỳ kinh tế (phục hồi – Tăng trưởng – Bão hòa – Suy thoái).
NHTM phải tìm biện pháp huy động sao cho có hiệu quả, vừa thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, vừa đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, môi trường đầu tư của Ngân hàng sẽ bị thu hẹp, lợi nhuận của Ngân hàng giảm, quá trình huy động vốn sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ không gửi tiền vào Ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hoá có giá trị để cất trữ cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của Ngân hàng.
Bên cạnh đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa quốc gia cũng ảnh hưởng tới việc tạo vốn của ngân hàng. Nếu mở rộng tiền tệ thì sẽ huy động vốn dễ, nếu thắt chặt tiền tệ sẽ huy động vốn khó. Khi chính sách tài khóa thu hẹp cũng như tăng thuế, giảm chi tiêu chính phủ cũng dẫn tới tăng thất nghiệp nên khó huy động vốn. Mặt khác lãi suất giảm sẽ không hấp dẫn được nguồn tiết kiệm vì người có tiền sẽ chỉ quan tâm tới lãi suất dương, vậy nên không ai muốn gửi tiền tiết kiệm.
Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới việc tạo vốn của ngân hàng. Khi đồng việt nam mất giá dân chúng không muốn giữ đồng nội tệ mà chuyển sang cất giữ đồng ngoại tệ và vàng, vì vậy huy động vốn nội tệ trong dâc cư sẽ giảm.
- Môi trường – xã hội: Đời sống, thu nhập của người dân là yếu tố trực tiếp quyết định đến lượng tiền gửi vào Ngân hàng. Thật vậy, thu nhập của ngưòi lao động càng cao thì nguồn vốn động được vào Ngân hàng càng lớn. Bởi vì, người dân có thu nhập cao ngoài việc thoả mãn được yêu cầu của đời sống, họ còn giành một phần để tích luỹ. Số tiền tích luỹ này sẽ dùng để thoả mãn nhu cầu cao hơn trong tương lai.
Tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của Ngân hàng. ở các nước phát triển, nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng rất phát triển. Các nước chậm phát triển, tâm lý ưa dùng tiền mặt và tích luỹ tiền không gửi vào Ngân hàng là khá phổ biến. Tâm lý và thói quen tiêu dùng còn rất khác nhau giữa các dân tộc và các vùng, miền ở nước ta. Vì vậy, phát triển nhanh các hình thức không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động vốn của Ngân hàng.
- Công nghệ: Các ngân hàng ứng dụng công nghệ cao thì càng tăng được khả năng huy động vốn vì càng tăng khả năng tiếp cận với khách hàng, giảm được thời gian vv…Hiện nay các NHTM ở nước ta đã đưa máy rút tiền tự động ATM vào thị trường để khách hàng sử dụng, khách hàng có thể rút tiền ở mọi lúc, mọi nơi.
1.2. 1.2. Nhân tố chủ quan
- Chính sách lãi suất:
Là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn của NHTM; đặc biệt là đối với các khoản vốn mà người gửi hoặc người dân đầu tư Ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Các Ngân hàng cạnh tranh không chỉ về lãi suất huy động với các Ngân hàng khác mà cả với thị trường tiền tệ. Do đó, chỉ một sự khác biệt nhỏ về lãi suất có thể đẩy dòng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư theo những chiều hướng khác nhau. Đó cũng là lý do, động lực để các nhà đầu tư hoặc người gửi tiền chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác.
Vì vậy, xác định một lãi suất hợp lý, có tính cạch tranh là một vấn đề vô cùng quan trọng, phải được nghiên cứu, cân nhắc, tính toán tỷ mỉ và toàn diện. Tuy nhiên, Ngân hàng phải tính toán sao cho lãi suất vừa có tính cạnh tranh, vừa phải đảm bảo được chi phí đầu vào thấp nhất và kinh doanh có lãi.
- Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác huy động vốn. Một Ngân hàng có hệ thống chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ đạt được các mục tiêu đề ra về chi phí cũng như về lợi nhuận. Đó là chiến lược về sản phẩm dịch vụ. Chiến lược giá, lãi suất, chiến lược phân phối, chiếm lược phát triển nhân sự, chiến lược khuyếch chương giao tiếp… có tác động mạnh đến việc huy động vốn. Hệ thống chiến lược kinh doanh của Ngân hàng là thực tiễn sinh động để đánh giá năng lực và trình độ quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tạo được niềm tin đối với khách hàng. Do đó, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng.
- Uy tín và vị thế của Ngân hàng:
Thông thường, khách hàng lựa chọn những Ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị trường để giao dịch, vay mượn, thanh toán và bảo lãnh… Uy tín và vị thế của Ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn của khách hàng, thể hiện cụ thể ở năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, quá trình lịch sử, chất lượng marketing… Vì vậy, các Ngân hàng thông qua hoạt động của mình, bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ hiện đại và phong cách làm việc văn minh, lịch sự … thoả mãn tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng, là thiết thực nâng cao uy tín và vị thế trên thị trường.
- Các hình thức huy động và dịch vụ kèm theo:
Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Với nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện khả năng của mình. Có như vậy, NHTM mới thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình. Không những thế, Ngân hàng còn phải đưa ra được các dịch vụ kèm theo tốt và đa dạng để tăng lợi thế cạnh tranh. Với nhiều tiện ích kèm theo, sẽ giúp Ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội. Qua đó, tạo thêm nhều mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn giữa các Ngân hàng và khách hàng.
- Mạng lưới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng:
Tổ chức mạng lưới hoạt động rộng, hợp lý trên địa bàn dân cư giúp Ngân hàng có nhiều cơ hội để thu hút vốn hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí để thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc mở chi nhánh cần phù hợp với điều kiện năng lực của Ngân hàng. Yếu tố địa điểm cũng tác động đến tâm lý của khách hàng, một Ngân hàng nằm ở vị trí thuận lợi như khu vực trung tâm, khu đông dân cư, đi lại thuân tiện… giúp khách hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
- Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nhân viên:
Có thể nói, tất cả mọi khách hàng đều muốn giao dịch với Ngân hàng có địa điểm đẹp, cơ sở vật chất hiện đại, cán bộ nhân viên phục vụ tận tình và lịch thiệp. Một Ngân hàng được trang bị công nghệ hiện đại nhất định sẽ rút ngắn được rất nhiều thời gian sử lý công việc, đảm bảo được độ chính xác cao trong các giao dịch kinh tế. Hơn nữa, cơ sở vật chất, trình độ công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao là điều kiện cần thiết để họ giải quyết công việc nhanh chóng, khoa học… Từ đó, nâng cao hơn chất lượng dịch vụ Ngân hàng cung ứng ra thị trường, là điều khách hàng rất quan tâm.
1.2..2.Nội dung các biện pháp tạo vốn của NHTM
1.2..2.1. Biện pháp kinh tế
Khi sử dụng các biện pháp kinh tế để huy động vốn tức là việc ngân hàng sử dụng đòn bẩy kinh tế để thu hút khách hàng, được thể hiện bằng lãi suất hay phí dịch vụ. áp dụng lãi suất cạnh tranh là việc ngân hàng nâng cao lãi suất huy động hạ phí dịch vụ so với bình quân thị trường (việc này không có lợi cho ngân hàng vì làm tăng chi phí nhưng ngân hàng vẵn phải sử dụng trong thị trường nhất định ). Phải sử dụng việc thâm nhập thị trường hoặc tìm được đầu ra có thu nhập cao.
* Chính sách lãi suất huy động phù hợp:
Muốn xác định chính sách lãi suất huy động phù hợp phải dựa trên những nguyên tắc chung của ngân hàng. Với ngân hàng thì qua nghiên cứu nghị định 166/1999, doanh thu chính là thu nhập. Lãi suất của ngân hàng cần được xác định trên cơ sở xem xét các yếu tố thu nhập và chi phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy lãi suất được xác định ở mức tại đó thu nhập biên bằng chi phí biên.
* Chính sách lãi suất cụ thể:
- Chính sách lãi suất phù hợp với từng nguồn tiền huy động theo nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao
- Chính sách lãi suất thâm nhập thị trường ( lã._.i suất cạnh tranh)
Với mức lãi suất này ngân hàng trả mức lãi suất tiền gửi cao hơn huặc thu phí dịch vụ thấp hơn so với các ngân hàng khác
Chính sách lãi suất này thường được các ngân hàng đang ở giai đoạn thâm nhập thị trường áp dụng. Những ngân hàng này thuờng là những ngân hàng còn non trẻ, mới thành lập, nguồn vốn còn thiếu. Vì thế nên việc họ áp dụng chính sách lãi suất này nhằm tăng nhu cầu vốn lưu động để có thể đứng trên thị trường ngân hàng cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những ngân hàng này thường đưa ra mức lãi suất cao hơn đáng kể so với tứ đại ngân hàng. Nhận thấy rất rõ khi ta nhìn vào mục lãi suất tiết kiệm trong tờ Thời báo ngân hàng. Những ngân hàng cổ phần: NHTMCP Quốc tế, NHTMCP Đông á, mức lãi suất của họ luôn cao hơn các NHTMNN.
Khi các ngân hàng muốn tăng nhu cầu vốn, mở rộng thị trường, đặc biệt là cần tiền cho một dự án thì họ cũng áp dụng chính sách này.Ví dụ như khi NHNT muốn huy động ngoại tệ cho một số dự án của họ ở giai đoạn 2001 – 2010, họ đã huy động trái phiếu thời hạn 5 năm, với lãi suất năm đầu tiên là 4,2%, trong khi lãi suất năm tại thời điểm đó ở NHNT là 2,25%/năm.
Tuy nhiên chúng ta không thể thường xuyên áp dụng chính sách này vì sẽ làm tăng chi phí, giảm thu nhập. Các ngân hàng cũng chỉ nên áp dụng chính sách này trong từng thời kỳ cụ thể, đặc biệt là các NHTMCP.Trên thực tế ta thấy rất rõ, NHTMCP luốn có lãi suất cao hơn các NHTM của nhà nước như ICB, VCB, BIDV. Nhưng khách hàng thường không thay đổi ngay lập tức ngân hàng. Vì chi phí và sự rủi ro cho sự thay đổi này là không nhỏ. Hơn nữa là khách hàng đã quen với các hoạt động giao dịch của ngân hàng mình đã chọn, cách chăm sóc khách hàng, các dịch vụ ưu đãi vv…Theo nghiên cứu của một số chuyên gia Mỹ: Các công ty lẫn cá nhân khi xem xét gửi tiền thì quan tâm đến rất nhiều yếu tố chứ không chỉ đơn thuần là lãi suất. Các cá nhân thì đặc biệt quan tâm đến quan hệ lâu dài và địa điểm thuận lợi. Trái lại các doanh nghiệp lại ưu tiên các ngân hàng có khả năng cho vay tốt và tình hình tài chính vững mạnh.
- Chính sách định giá mục tiêu trọng điểm
Ngân hàng mong muốn thu hút các cá nhân và doanh nghiệp gửi tiền thông qua các điều khoản tiền gửi hấp dẫn với hy vọng nhận được các khoản tiền gửi quy mô lớn, nhằm tăng cường khả năng huy động vốn.
Ngân hàng áp dụng những chương trình quảng cáo công phu cũng như lãi suất hấp dẫn để thu hút những khách hàng có địa vị trong xã hội. Đối với khách hàng có số dư thấp, ít ổn định ngân hàng định giá cao hơn để hạn chế. Chiến lược này thường kết hợp với chương trình nhà ngân hàng cá nhân (personal banhker), theo đó mỗi khách hàng lớn được một cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng tất cả các nhu cầu dịch vụ ngân hàng.
Việc áp dụng chính sách này giảm được chi phí nhờ có được nhiều tài khoản có số dư cao và ổn định. Nhưng cũng có những bất lợi là khó áp dụng được với những ngân hàng nằm tại những khu vực không phát triển thịnh vượng.
- Chính sách lãi suất trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng:
Ngân hàng quy định mức phí thấp hơn và mức thu nhập cao hơn cho khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng và ngân hàng định giá theo số lượng dịch vụ khách hàng sử dụng. Cơ sở của chính sách này là quan điểm cho rằng: khách hàng sử dụng nhiều dịch vụ hơn sẽ trung thành hơn và trong dài hạn sẽ tạo ra thu nhập lớn hơn cho ngân hàng.
1.2.2.2. Biện pháp kỹ thuật:
* Về sản phẩm:
Ngân hàng phải đảm bảo các dịch vụ huy động đa dạng, hữu ích tiện lợi cho khách hàng. Sự đa dạng thể hiện từ các mức kỳ hạn, các dạng gửi tiền đến những tiêu chí khác. ở Việt nam, sự đa dạng thể hiện qua kỳ hạn chỉ chủ yếu tập trung ở tiền gửi ngắn hạn, còn đối với trung dài hạn thì chưa nhiều. Các dạng gửi tiền cũng còn nghèo nàn. Chỉ tập chung chủ yếu là gửi tiền kỳ hạn và không kỳ hạn. Những loại tiền gửi khác như tiết kiệm tích luỹ theo niên kim (một dạng gửi góp) chỉ mới bước đầu phát triển. Những loại tiết kiệm theo mục đích phát triển rất nhiều ở nước ngoài như : Tiết kiệm cho con đi học đại học, tiết kiệm cho các kỳ nghỉ du lich… Hầu như chưa xuất hiện ở việt nam. Việc sử dụng quá nhiều tiền mặt ở việt nam cũng hạn chế đưa ra nhiều dịch vụ huy động tiền gửi của ngân hàng. Những dịch vụ như thanh toán lương cho nhân viên của các công ty qua tài khoản của ngân hàng cũng phát triển rất mạnh. Nhưng ở việt nam(hầu như chỉ phát triển với chính cán bộ của các ngân hàng).
Một vấn đề nữa là tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng. Các ngân hàng nước ngoài triển khai vấn đề này theo hai hướng đưa ra các dịch vụ huy động đa năng (tài khoản ký thác vạn năng) và tiết kiệm điện tử (gửi một nơi rút tiền nhiều nơi). ở việt nam, tiết kiệm điện tử mới chỉ là bước đầu được triển khai ở một số NHTM lớn như ICB, VCB dịch vụ tiết kiệm đa năng hầu như chưa được định hướng. Việc tạo ra các sản phẩm đa năng được các ngân hàng nước ngoài triển khai rất hiệu quả: Ví dụ với một tấm thẻ mang tên ACCESS của ANZ Bank các khách hàng có thể sử dụng một loạt dịch vụ: Tiết kiệm, đầu tư tự động, chuyển các nguồn thu nhập vào tài khoản, chỉ trả các hoá đơn và vay tiền.
* Phân phối:
Đối với các khách hàng cá nhân, địa điểm thuận tiện là một trong những vấn đề quan trọng. Ngày nay, để tiếp cận một ngân hàng khách hàng không chỉ có cách duy nhất là tới các chi nhánh, họ có thể tiếp cận với ngân hàng một cách gián tiếp thông qua các hệ thống homebanking, EFTPOS, máy rút tiền tự động. Nếu một ngân hàng có đầy đủ các hệ thống trên sẽ thu hút đuợc khách hàng gửi tiền tại ngân hàng của mình. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận sự tồn tại của các chi nhánh, các phòng giao dịch. Những phòng giao dịch khang trang với hệ thống máy móc hiện đại hoặc nằm trong những cao ốc luôn tạo những cam giác an toàn với khách hàng. Ngày nay, một số ngân hàng việt nam đã chú ý đến vấn đề này.
1.2.2.3. Biện pháp tâm lý:
* Con người:
Khách hàng luôn có rất nhiều ấn tượng với phong cách phục vụ của các nhân viên. Các ngân hàng việt nam đang quan tâm đến vấn đề này thông qua việc đầu tư xây dựng những quyền cẩm nang phục vụ khách hàng. Phong cách ở đây được hiểu là cả thái độ phục vụ lẫn trình độ chuyên môn của nhân viên. Trong quyển cẩm nang đó nhân viên được dậy cách tiếp cận sao cho hiệu quả với khách hàng mới, với khách hàng đã từng nhiều lần đến gửi tiền. Vấn đề trình độ chuyên môn cũng như khả năng xử lý thành thạo quy trình nghiệp vụ cũng được đề cập tới. Các nhân viên sẽ được hướng dẫn cách xử lý các tình huống hàng ngày
Trong khoảng thời gian 1999, khi lãi suất ngoại tệ tăng liên tục do FED tăng lãi suất nhân viên ngân hàng có hiểu biết thì có thể khuyên khách hàng gửi ngắn hạn để có thể nhận được những mức lãi suất cao hơn trong những kỳ tiết kiệm tiếp theo. Nếu trong giai đoạn 2001, khi FED liên tục hạ lãi suất mà vẫn chưa vực được nền kinh tế mỹ, nhân viên ngân hàng có thể khuyên khách hàng có thể gửi tiền dài hạn để tránh lãi suất tiếp tục bị hạ. Nhận được những lời khuyên đúng đắn sẽ làm cho khách hàng có những ấn tượng không bao giờ quên và đó chính là việc làm hữu ích tạo ra sự trung thành của khách hàng đối với ngân hàng.
* Khuyếch trương:
Hoạt động khuyếch trương của ngân hàng bao gồm từ các trương trình quảng cáo công phu, các đợt gửi tiền có thưởng ( ABC, NHNo&PTNT…) Và những quà tặng dành cho những khách hàng lớn. Tại các ngân hàng nước ngoài dựa trên các application form của khách hàng, ngân hàng đã gửi những món quà vào đúng ngày sinh nhật của khách hàng.
Mở rộng mạng lưới chi nhánh, hiện đại hóa công nghệ đặc biệt đa dạng hóa kênh phân phối để tăng diện tiếp xúc với khách hàng. Đa dạng hóa danh mục sản phẩm dịch vụ tiết kiệm đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán. Cải tiến quy trình phải đảm bảo nhanh gọn, chính xác, phù hợp với khả năng của nhân viên đồng thời đảm bảo tiện lợi cho khách hàng.
Đối với phần lớn khách hàng gửi tiền thì thời gian luôn rất quan trọng. Một quy trình nhanh chóng sẽ làm cho khách hàng có cảm giác thoải mái mỗi khi tiếp xúc với ngân hàng. Hiện nay, người ta nhắc nhiều đến quy trình tiết kiệm một cửa. Điều này thực ra rất phổ biến đối với các ngân hàng nước ngoài. Quy trình một cửa đơn giản là việc khách hàng phải tiếp xúc duy nhất với một nhân viên ngân hàng trong quá trình giao dịch. Cụ thể, trong hoạt động tiết kiệm, thay vì hai cửa: Một kế toán, một thủ quỹ thì người ta gộp làm một nghĩa là các teller kiêm cả thủ quỷ lẫn kế toán tuy nhiên, thực hiện quy trình này cần chú đến khả năng của nhân viên, nếu không quy trình một cửa còn khiến cho giao dịch diễn ra lâu hơn vì người nhân viên phải làm một lúc hai nhiệm vụ. Quy trình một cửa hiện nay đang được thực hiện rộng rãi tại các điểm giao dịch của các NHTM
Chương2:
Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng
nông nghiệp & phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn
2.1 - Khái quát về ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn :
2.1.1. Đặc điểm tổ chức của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn :
Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng sơn là một Ngân hàng thương mại trực thuộc hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn được thành lập từ tháng 8 năm 1988 với trụ sở chính tại số 03 - Lý Thái Tổ - Phường Đông Kinh - Thành phố Lạng Sơn. Cũng như các Ngân hàng thương mại khác, nhiệm vụ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn là trực tiếp kinh doanh trong lĩnh vực : Tiền tệ - tín dụng - Thanh toán, cụ thể :
- Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và dân cư. Phát hành các loại trái phiếu, kỳ phiếu bằng tiền Việt Nam.
- Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho tất cả các thành phần kinh tế trên địa bàn.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác nhau: Nghiệp vụ thanh toán L/C, trả chậm, thanh toán mậu dịch biên giới Việt - Trung.
Lạng Sơn là một trong sáu tỉnh biên giới phía Bắc, nói chung trình độ dân trí ở một số vùng sâu, vùng xa còn thấp, kinh tế còn nghèo, trên địa bàn có rất ít các doanh nghiệp quốc doanh Trung ương, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc địa phương thì kém phát triển, hoạt động hầu như không có hiệu quả. Thành phần kinh tế tư nhân, cá thể thì chỉ phát triển ở một số vùng ven Thành phố. Do đó, việc mở rộng môi trường kinh doanh tín dụng của Ngân hàng còn nhiều hạn chế.
Cùng nằm trên địa bàn hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn còn có các Ngân hàng thương mại khác như : Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển cùng tồn tại hoạt động kinh doanh. Do phải thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ trong môi trường cạnh tranh như vậy. Để tồn tại và phát triển vững chắc, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng sơn cần phải quan tâm đến chất lượng hoạt động của mình, từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường thích nghi với cơ chế mới.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn hoạt động trong cơ chế thị trường, có quyền tự chủ trong kinh doanh, đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh, kinh doanh có lãi, ổn định và phát triển. Mạng lưới và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng đã được cải tiến cho phù hợp với kinh tế thị trường, phát huy và khai thác triệt để lợi thế của mình trong mọi hoạt động huy động vốn cũng như sử dụng vốn, tại một số huyện trọng điểm có thể khai thác tối đa nguồn vốn huy động đều được bố trí các phòng giao dịch như phòng giao dịch Na Dương thuộc huyện Lộc Bình ...
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn có 07 phòng ban, bao gồm : Ban Giám đốc, phòng Kế toán & Ngân Quỹ, Phòng điện toán, Phòng kinh tế kế hoạch, Phòng Kinh doanh, Phòng Kiểm tra kiểm toán nội bộ, Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Hành chính.
Thực hiện các nghiệp vụ khác nhau : Nghiệp vụ thanh toán L/C trả chậm. Các bộ phận chức năng được chuyên môn hoá theo nghiệp vụ Ngân hàng và có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau tạo thành mắt xích cùng đóng góp vào công cuộc đổi mới của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng sơn nói riêng và toàn ngành Ngân hàng nói chung. Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức của Ngân hàng gồm 349 người trong đó số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, ngoại ngữ chiếm hơn 23%, số nhân viên còn lại đang được đào tạo để nâng cao trình độ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một cao của ngành Ngân hàng.
2.1.2 Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Lạng Sơn.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng Sơn có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít những khó khăn, nhờ có định hướng và sự chỉ đạo của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam cùng với sự giúp đỡ của các ngành các cấp trên địa bàn, đồng thời dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban giám đốc, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng Sơn đã tin tưởng vào khả năng của mình để vượt qua mọi khó khăn, duy trì hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đứng vững trên thị trường, củng cố lòng tin với khác hàng. Kết quả hoạt động qua các năm được thể hiện như sau:
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn là một Ngân hàng Thương mại hoạt động tự chủ trong kinh doanh. Huy động luôn được coi là vấn đề chiến lược hàng đầu trong việc kinh doanh của Ngân hàng. Xuất phát từ nhu cầu vốn của các tổ chức kinh tế và dân cư trên địa bàn, tầm quan trọng của công tác huy động vốn, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam, đồng thời phát huy kết quả đạt được ở năm 2002, 2003, 2004 công tác huy động vốn vẫn được coi trọng hàng đầu.
Đầu năm 2004 lãi suất huy động vốn có phần giảm đã gây ảnh hưởng đến công tác huy động vốn và tâm lý người gửi tiền. Nhưng bằng các hình thức huy động vốn phù hợp, tăng uy tín với thái độ phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo, chi nhánh đã thực hiện vượt chỉ tiêu huy động mà Ngân hàng cấp trên giao. Với phương châm "Đi vay để cho vay" nên tạo nguồn vốn là tiền đề mở rộng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng Sơn. Theo báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh hàng năm của NHNo & PTNT Lạng Sơn thì nguồn vốn huy động đạt.
Năm 2002: 474.609 triệu, đạt 94% so với kế hoạch giao.
Năm 2003: 624.777 triệu đạt 103% so với kế hoạch giao.
Năm 2004: 862,9 tỷ đạt 10,1% so với năm 2003
Trong đó năm 2004
- Nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư: 418,3 tỷ đồng
-Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế: 293,5 tỷ đồng
- Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ: 234 triệu đồng
- Các nguồn huy động khác: 136.342 triệu đồng
2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn.
Do thực hiện tốt công tác huy động vốn, cho nên Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng sơn đã tích cực và nhanh chóng đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, dịch vụ Ngân hàng trong đó trọng tâm là công tác tín dụng. Với mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng, thủ tục nhanh gọn, thẩm định đúng theo quy định, đáp ứng vốn kịp thời khi dự án có hiệu quả kinh tế xã hội. Ngân hàng đã cung cấp vốn một cách đầy đủ, hợp lý, cấp vốn cho nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh và hàng ngàn hộ nông dân. Địa bàn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng sơn rất đa dạng và phức tạp, vốn huy động được đầu tư chủ yếu cho các hộ nông dân từ địa bàn vùng ven Thành phố cho đến vùng sâu, vùng xa với phương châm giúp dân làm kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương. Tập trung đầu tư vốn vào các dự án có hiệu quả, đúng hướng, đúng đối tượng, đúng thành phần kinh tế phù hợp với chủ trưởng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Chấp hành tốt cơ chế, chính sách tín dụng hiện hành, trong đó coi chất lượng tín dụng là hàng đầu. Do vậy trong năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng chỉ có 0,2%, dưới mức NHNoTW cho phép (3%).
Số liệu hoạt động được thể hiện qua bảng sau:
Biểu số 1: Tình hình sử dụng vốn trong các năm tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
I-Tổng doanh số cho vay
341,558
374,164
557,900
-Trong đó:
+Doanh nghiệp N.Nước
7,989
87,334
37,300
+Hợp tác xã
4,503
9,557
2,330
+Hộ sản xuất
329,066
277,273
328,100
+Tổ chức-cá nhân khác
190,170
II-Tổng doanh số thu nợ
139,305
295,123
422,600
-Trong đó:
+Doanh nghiệp N.Nước
8,982
80,074
20,400
+Hợp tác xã
3,848
3,699
+Hộ sản xuất
126,475
211,350
235,900
+Tổ chức-cá nhân khác
166,300
III-Dư nợ
360,454
445,063
713,400
-Trong đó:
+Doanh nghiệp N.Nước
3,000
10,211
26,900
+Hợp tác xã
3,400
9,190
23,000
+Hộ sản xuất
354,054
425,662
639,630
+Tổ chức-cá nhân khác
23,870
(Bảng cân đối kế toán năm 2002, 2003, 2004)
Do tính đặc thù của Ngân hàng nông nghiệp cho nên mạng lưới hoạt động cho vay của Ngân hàng chủ yếu tập trung vào hộ nông dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra Ngân hàng còn mở rộng diện cho vay đến nhiều đối tượng như : Cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên chức, cho vay đối với hộ thiếu vốn sản xuất thông qua tổ hội phụ nữ, hội cựu chiến binh ... Đối với tín dụng trung và dài hạn cho các thành phần kinh tế được coi là tạo dựng cơ sở vật chất cho việc tăng trưởng kinh tế. Trong những năm qua Ngân hàng rất quan tâm tới lĩnh vực này và sẵn sàng đầu tư cho các dự án có hiệu quả, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, như cho vay trợ giá máy cày, máy bơm, dự án trồng cây ăn quả với tổng dư nợ 100 tỷ đồng. Trong năm 2004 công tác thu nợ đã đạt được những kết quả tốt, do Ngân hàng có nhiều biện pháp tích cực chủ động để thu hồi các khoản nợ đến hạn và quá hạn. Hoạt động kinh doanh đang có những tiến triển tốt và có hiệu quả hơn, cho nên việc thu nợ cũng có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên trong công tác tín dụng vẫn còn một số mặt tồn tại, yếu kém, nhưng Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Lạng sơn đã có những giải pháp chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời trong năm nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng đạt kết quả cao và an toàn vốn. Có như vậy mới thúc đẩy công tác huy động vốn phát triển.
2.1.2.3 Các hoạt động khác :
Hoạt động kế toán tài chính : Bộ phận kế toán đã phản ánh kịp thời, chính xác các nghiệp vụ phát sinh, đáp ứng nhu cầu quản lý kinh doanh thực hiện đúng chế độ tài chính của ngành Ngân hàng cũng như Nhà nước quy định. Năm 2004 mặc dù có nhiều khó khăn nhưng tình hình tài chính vẫn ổn định, hoàn thành kế hoạch kinh doanh, tài chính do Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Việt Nam giao. Uy tín phục vụ của chi nhánh ngày càng cao hơn. Trong năm vừa qua Chi nhánh đã thu hút được thêm nhiều khách hàng, đặc biệt là các khách hàng là tư nhân có doanh số tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên. Thực hiện một khối lượng luân chuyển vốn qua Ngân hàng chính xác, kịp thời.
Hoạt động ngân quỹ : Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Lạng Sơn là một Chi nhánh nhiều năm liền luôn bội thu tiền mặt, nhưng Chi nhánh vẫn chủ động khơi tăng nguồn thu tiền mặt bằng nhiều biện pháp và đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu chi trả bằng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán cho khách hàng. Năm 2004 Ngân hàng đã thực hiện đúng chế độ quy định về đảm bảo an toàn kho quỹ, nên không xảy ra mất mát tài sản.
Cùng với trang thiết bị công nghệ tin học, công tác kế toán – ngân quĩ đã thường xuyên giao dịch với một lượng khách hàng rất lớn, đã tổ chức quản lý chặt chẽ tiền vốn và tài sản của Ngân hàng, của khách hàng. Thực hiện nhanh toán nhanh chóng, chính xác giữa các khách hàng, thu đúng, thu đủ các nguồn thu. Kiểm tra, kiểm soát các khoản chi. Tổ chức lập các báo có tháng, quí, năm… đúng thời gian, đảm bảo chất lượng.
Tổng thu tiền mặt là: 5.877,2 tỷ đồng, tăng 41,7% so với năm 2003 tổng chi tiền mặt 4.616,2 tỷ đồng, tăng 32.6% so với năm 2003. bội thu tiền mặt nộp NHNN 1.261 tỷ tăng 135%. Mặc dù lượng tiền mặt thu chi lớn nhưng cán bộ thủ quỹ cố gắng thu chi đúng, đủ, kiểm tra phát hiện tiền giả.
Hoạt động thông tin điện toán ứng dụng tin học: Trong nhiều năm qua NHNo&PTNT tỉnh Lạng sơn đã từng bước củng cố hệ thống tin học, đưa ứng dụng tin học vào các mặt nghiệp vụ như :
Thực hiện hệ thống thanh toán nối mạng giao dịch đạt kết quả tốt nhờ đưa vào sử dụng những thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại có công suất cao, với những trang thiết bị mới, công tác thông tin điện toán đã phục vụ tốt các nghiệp vụ Ngân hàng như : Tính lãi tiền gửi, tiền vay, quản lý lãi suất, đối chiếu số dư cho khách hàng, lập các báo cáo ... đảm bảo số liệu thông tin báo cáo được nhánh chóng, chính xác và an toàn. Công tác công nghệ tin học đang từng bước phát triển theo hướng hiện đại hóa của ngành đề ra, tất cả các giao dịch đều được thực hiện qua hệ thống máy vi tính. Toàn tỉnh có 136 bộ máy vi tính, trong đó trang bị tại tỉnh là 36 máy, chi nhánh huyện, thành phố được trang bị từ 4 đến 10 máy.
Tại hội sở NHNo tỉnh là 1 trong 5 Ngân hàng ở các tỉnh Miền Bắc thực hiện chương trình Ngân hàng bán lẻ, là một chương trình giao dịch mới thuận tiện cho khách hàng đến giao dịch.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại : Tháng 08 năm 1998 Chi nhánh được sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Việt nam đã khai chương hoạt động thanh toán mậu dịch biên giới Việt - Trung. Với hơn một năm hoạt động, Chi nhánh đã thu được một số kết quả đáng khả quan. Doanh số thanh toán trong năm 1998 là : 59.342.449 CNY, số tiền lãi của hoạt động này là : 148 triệu.
Năm 2004, chi nhánh NHNo & PTNT Lạng Sơn duy trì được mức tăng trưởng, đưa tổng nguồn vốn của NHNo lên 711,8 tỷ đồng, tăng 11,8% có nhiều hình thức huy động vốn mới, đã chú ý huy động vốn trung và dài hạn, huy động ngoại tệ, tín dụng có mức tăng trưởng hợp lý 28%, trong đó: tín dụng quốc doanh tăng 169%, ngoài quốc doanh tăng 125%, kinh tế hộ tăng 23%. Cho vay ủy thác ngân hàng chính sách xã hội tăng 7,3%. Nợ quá hạn ở mức thấp nhất 0,2% sát với thực tế. Tình hình tài chính và thu nhập khá hơn , tính không đồng đều về thu nhập giảm bớt. Cơ sở vật chất kỹ thuật và hiện đại hoá có bước tiến bộ, trình độ cán bộ có được nâng lên.
Hoạt động kiểm soát và kiểm tra nội bộ : Kiểm tra kiểm toán nội bộ từ tỉnh đến các đơn vị cơ sở đặc biệt coi trọng, trong năm đã tổ chức nhiều cuộc kiểm tra toàn diện, kiểm tra chuyên đề đối với hoạt động kinh doanh, tổng số cuộc kiểm tra là 97 cuộc trong đó: kiểm tra về hoạt động tín dụng là 27 cuộc; kiểm tra về kế toán - ngân quĩ 29 cuộc; kiểm tra công tác điều hành 20 cuộc; kiểm tra khác là 21 cuộc.
Thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ đã làm tốt công tác tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng các cấp trong việc chỉ đạo điều hành kinh doanh một cách nhanh nhậy, đảm bảo mọi sự hoạt động tuân thủ đúng theo quy định, đồng thời phát hiện và sử lí kịp thời các vụ việc tiêu cực, giảm thiểu các sai sót, góp phần ngăn chặn có hiệu quả các tiêu cực nảy sinh.
2.2 - Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng Sơn :
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Nguyên liệu chính là tiền tệ và sản phẩm cũng là tiền tệ. Trong các hoạt động thì công tác tín dụng là một mảng lớn của Ngân hàng. Muốn thực thi công tác tín dụng thì Ngân hàng phải huy động được vốn và chiến lược huy động vốn được coi là hàng đầu.
Trong những năm qua cùng hệ thống Ngân hàng nói chung, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng sơn luôn đưa ra những biện pháp nhằm mở rộng khả năng huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cho nên công tác huy động nguồn vốn đã đạt được nhiều kết quả tốt, nguồn vốn luôn tăng trưởng, trong đó Chi nhánh đặc biệt chú trọng đối với nguồn vốn có kỳ hạn dài, lãi suất tương đối ổn định và phù hợp. Cụ thể :
Biểu số 2: Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT Tỉnh Lạng Sơn
Đơn vị: Triệu Đồng
Chỉ tiêu
Số dư
năm 2002
Số dư năm 2003
Số dư năm 2004
Năm 2003 so với năm
2002
Năm 2004 so với năm
2003
1-Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
235,681
230,619
418,300
-5,062
187,681
-Trong đó:
+Không kỳ hạn
9,628
10,558
117,860
930
107,302
+Có kỳ hạn
226,053
220,061
300,440
-5,992
80,379
2-Tiền gửi đơn vị tổ chức kinh tế
168,104
254,078
293,500
85,974
-52,935
-Trong đó:
+Không kỳ hạn
145,246
225,471
258,997
80,225
33,526
+Có kỳ hạn
22,858
28,607
34,503
5,749
5,896
3-Tiền gửi đảm bảo thanh toán
1,721
0
17,940
-1,721
17,940
4-Kỳ phiếu
68,813
163,164
7,987
67,351
-115,177
5-Ngoại tệ quy đổi
290
3,916
8,913
3,626
4,997
(Nguồn số liệu trên đây được lấy từ cân đối tài khoản năm 2002, 2003. 2004)
Nhìn vào bảng trên chúng tôi thấy tiền gửi tiết kiệm của dân cư giữ một vị trí quan trọng nhất trong cơ quan huy động vốn của NHNo&PTNT Lạng sơn với tỷ lệ khoảng 50%. Tiếp đó là nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu với thời hạn trên 1 năm, chiếm tỷ lệ khoảng 20%. Bên cạnh 2 nguồn lớn trên là các nguồn tiền gửi đơn vị, tổ chức kinh tế, tiền gửi đảm bảo thanh toán, ngoại tệ đã giúp cho Ngân hàng No&PTNT Lạng sơn có một khả năng vốn lớn đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
2.2.1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư :
Nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư qua các năm cho thấy nguồn này luôn giữ vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng sơn. Từ thực tế cho thấy tiềm năng về vốn trong dân cư là rất lớn. Đòi hỏi Ngân hàng phải phát huy hết tiềm năng của mình, nhằm thu hút nguồn tiền nhàn rỗi này phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn 2000 - 2010 nếu nguồn vốn tập trung cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chủ yếu dựa vào nguồn vốn trong nước được khai thác trong dân cư nhiều nhất thì sẽ thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế của nước ta với những bước tiến vững chắc và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt từ 9% - 10%.
Nhìn vào tình hình huy động vốn bằng tiền gửi tiết kiệm ở bảng trên cho thấy nguồn này tăng vào năm 2002 và giảm xuống ở năm 2003. Cụ thể năm 2002 số dư tiền gửi tiết kiệm cuối năm tăng về số tuyệt đối là 116.590 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 37%.
Nguồn vốn tiền gửi các đơn vị tổ chức kinh tế tăng lên trong năm 2003 là: 85.974 triệu đồng, chiếm 41% trong tổng nguồn huy động.
Bảng số 3 : Các loại lãi suất qua các thời kỳ
Đơn vị: %
Năm
Ngày bắt đầu áp dụng
Không kỳ hạn
Kỳ hạn 1 tháng
Kỳ hạn 2 tháng
Kỳ hạn 3 tháng
Kỳ hạn
6 tháng
Kỳ hạn 12 tháng
Kỳ hạn 5 năm
Năm 2002
21.02.02
0.15
0.2
0.25
0.4
0.45
0.55
15.03.02
0.15
0.35
0.4
0.5
24.07.02
0.15
0.2
0.25
0.45
0.5
0.55
Năm 2003
02.05.03
0.15
0.2
0.25
0.45
0.5
0.55
0.65
17.06.03
0.15
0.53
0.58
0.62
0.65
24.10.03
0.2
0.53
0.58
0.62
0.65
Năm 2004
07.10.04
0.2
0.47
0.52
0.58
0.65
Từ ngày 10/10/2002 đơn vị bắt đầu huy động tiền gửi tiết kiệm trả lãi bậc thang và tiết kiệm gửi góp với kỳ hạn và lãi suất như sau :
* Tiết kiệm bậc thang: 0,2% Bậc 1 : Từ khi gửi đến dưới 3 tháng: hưởng lãi suất không kỳ hạn.
* Tiết kiệm bậc thang: 0,53% Bậc 2 : Từ 3 tháng gửi đến dưới 6 tháng: hưởng LS có kỳ hạn 3 tháng .
* Tiết kiệm bậc thang: 0,58% Bậc 3 : Từ 6 tháng gửi đến dưới 9 tháng: hưởng LS có kỳ hạn 6 tháng .
* Tiết kiệm bậc thang: 0,58% Bậc 4 : Từ 9 tháng gửi đến dưới 12 tháng: hưởng LS có kỳ hạn 9 tháng .
* Tiết kiệm bậc thang: 0,62% Bậc 5 : Từ 12 tháng gửi đến dưới 24 tháng: hưởng LS có kỳ hạn 12 tháng.
* Tiết kiệm bậc thang: 0,68% Bậc 6 Từ 24 tháng trở lên hưởng lãi suất 110% lãi suất có kỳ hạn 12 tháng
Tiết kiệm gửi góp :
- kỳ hạn 3 tháng lãi suất 0,45% tháng
- kỳ hạn 6 tháng lãi suất 0,5% tháng
- kỳ hạn 12 tháng lãi suất 0,55% tháng
Bảng số 4 : Tình hình huy động vốn các quý trong năm 2004
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Quý I/2004
Quý II/2004
Quý III/2004
Quý IV/2004
Số dư
cuối quý
Tỷ lệ
%
Số dư
cuối quý
Tỷ lệ
%
Số dư
cuối quý
Tỷ lệ
%
Số dư
cuối quý
Tỷ lệ
%
1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
262,936
38.0
290,870
35.6
312,226
40.5
340,152
39.
2. Tiền gửi đơn vị tổ chức kinh tế
304,058
43.9
402,370
49.6
359,572
46.6
444,072
51.
Trong đó:Vốn UTĐT
412
158,458
148,789
151,490
3. Kỳ phiếu
123,541
17.9
118,080
14.6
99,065
12.8
77,626
9.
4. Ngoại tệ quy ra tiền VND
1,488
0.2
1,493
0.2
542
0.1
1,024
1.
Tổng nguồn vốn huy động
692,023
100
812,813
100
771,405
100
862,874
100
( Bảng cân đối tài khoản năm 2004)
Hiện nay NHNo và PTNT Lạng sơn đang huy động tiền gửi tiết kiệm dưới các hình thức sau : Loại không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, tiền gửi tiết kiệm trả lãi bậc thang và tiết kiệm gửi góp. Trong đó nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn, tạo ra tính ổn định cao trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2002 nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là 226.053 triệu đồng chiếm 96% . Năm 2003 là 220.061 triệu đồng chiếm 95%, năm 2004 là 426 tỷ đồng chiếm 59,8% trong nguồn tiền gửi tiết kiệm Chính nhờ tính ổn định cao trong nguồn tiền gửi có kỳ hạn nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vốn trung và dài hạn đối với những dự án trọng điểm tại địa phương, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
Qua tình hình huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư ở NHNo và PTNT Lạng sơn cho thấy nguồn này hầu như có xu hướng tăng lên, nhất là trong năm 2002, đồng thời nó chiếm tỷ trọng lớn, càng khẳng định vai trò của nguồn vốn này trong cơ cấu huy động vốn của NHNo&PTNT Lạng sơn mà tiềm năng còn rất lớn, chưa khai thác hết được trong dân. Mặc dù phải trả một lãi suất cao nhưng bù lại là tính ổn định, vững chắc ở nguồn tiền gửi có kỳ hạn trong nguồn vốn huy động đã giúp cho Ngân hàng No&PTNT Lạng sơn thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của mình.
2.2.2. Tiền gửi của các đơn vị tổ chức kinh tế :
Lạng sơn là một tỉnh hầu như không có các đơn vị quốc doanh Trung ương phát triển, những đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn vốn tự có rất thấp và đang trong giai đoạn tìm kiếm thị trường để định hướng cho sự phát triển của mình. Do đó Ngân hàng No&PTNT Lạng sơn cũng phải khai thác hơn nữa nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế. Qua các thời kỳ nguồn vốn này có tăng nhưng không ổn định, chủ yếu là của Kho bạc Nhà nước tỉnh . Năm 2003 với những biện pháp hữu hiệu trong việc khơi tăng các nguồn vốn, đáp ứng vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế. Bằng hình thức thanh toán chuyển nhanh, chính xác, kịp thời, cùng với việc duy trì mức lãi suất tương đối ổn địn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36937.doc