Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn,miền núi vùng dân tộc thiểu số (80tr)

Lời nói đầu Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.Nó là động lực của tăng trưởng kinh tế,phát triển kinh tế xã hội và tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội.Một nền kinh tế sẽ không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư.Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn đầu tư lại có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.Tuy nhiên trong quá trình đó thì sự các

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn,miền núi vùng dân tộc thiểu số (80tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h biệt phát triển,phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, miền ngày càng lớn.Để làm giảm bớt hố sâu ngăn cách đó nhà nước đã có những chính sách,cơ chế nhằm tạo ra sự phát triển kinh tế cân đối hơn giữa các vùng.Nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng ra đời nằm trong chiến lược đó. Nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng nói chung và nguồn vốn đầu tư xây dựng công trình hạ tầng của các xã đặc biệt khó khăn ,các xã vùng sâu vùng xa vùng dân tộc thiểu số là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược xoá đói giảm nghèo của nhà nước.Đây là một nguồn vốn rất quan trọng chủ yếu là từ ngân sách nhà nước nhằm xây dựng các công trình thiết yếu cơ bản nhằm tạo ra tiền đề phát triển kinh tế của các xã đặc biệt khó khăn.Có thể nói nguồn vốn đầu tư thuộc chương trình này đã đang và sẽ tạo ra những động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế ,sự tiến bộ trong nhận thức và sự nâng cao trình độ văn hoá ,xã hội.Quá trình thực tập tại vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư ,nơi tổng hợp vốn của nhà nước về kế hoạch đầu tư và trực tiếp thực hiện các chương trình phát triển quan trọng của nhà nước đã tạo điều kiện cho em tiếp cận được nội dung của chương trình xoá đói giảm nghèo áp dụng cho các xã đặc biệt khó khăn ,vùng sâu vùng xa vùng dân tộc thiểu số.Em thấy đây là một nội dung rất quan trọng, nghiên cứu việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này làm em rất tâm đắc.Chính vì thế em đã quyết định chọn đề tài "Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn,miền núi vùng dân tộc thiểu số”. Kết cấu nội dung của đề tài bao gồm: Chương I:Khái quát chung về đâù tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng Chương II:Thực trạng thực hiện chương trình trong thời gian qua(1999-2004) Chương III: Những Giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ hiểu biết còn có hạn nên chắc chắn đè tài này còn nhiều thiếu sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thành tốt đề tài của mình. Em xin chân thành cảm ơn các cô bác ở vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ thuộc bộ kế hoạch và đầu tư các thầy cô giáo trong khoa đã nhiệt tình tạo điều kiện cho em,đặc biệt là cô giáo Nguyễn thị Aí Liên là cô giáo đã trực tiếp tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Chương 1: Khái quát chung về đầu tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng 1.1. Một số lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển: 1.1.1. Khái niệm và phân loại đầu tư: Đầu tư là "sự bỏ ra, sự hy sinh" các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi hơn cho người đầu tư trong tương lai. Hay nói cách khác, đầu tư là sự hy sinh những lợi ích hiện tại để nhằm thu về lợi ích lớn hơn trong tương lai. Nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền,là tàI nguyên thiên nhiên,là sức lao động và trí tuệ.Những kết quả đạt được có thể là tàI sản tàI Chính,tàI sản vật chất,tàI sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ đIũu kiệnđể làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây,những kết quả là tàI sản vật chất,tàI sản trí tuệ là nguồn nhân lực tăng thêmcó vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơI,không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Đầu tư có thể chia đầu tư thành 3 loại chủ yếu sau: - Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. - Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Hai loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư. Tuy nhiên, chúng đều có tác dụng thúc đẩy đầu tư phát triển. - Đầu tư phát triển: Là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Nhìn chung đề tài chủ yếu nghiên cứu về đầu tư phát triển - loại hình đầu tư gắn trực tiếp với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.1.2.Đầu tư phát triển và vai trò đối với nền kinh tế: Như chúng ta đã biết, đầu tư phát triển chính là hoạt động đầu tư tài sản vật chất và sức lao động chính vì thế nó là nhân tố quan trọng để phát triển và tăng trưởng kinh tế. Vai trò của nó trong nền kinh tế được thể hiện ở các mặt sau : - Thứ nhất đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tac động đến tổng cầu: Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thường từ 24%-28%. Khi mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng tăng theo và giá cân bằng tăng. Về tổng cung: Đầu tư làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng và sản lượng tăng, giá giảm xuống, cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại tiếp tục kích thích sản xuất phát triển và nó là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. - Thứ hai đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế : Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sư thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều cùng một lúc là yếu tố duy trì sư ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia . - Thứ ba đầu tư có tác động làm tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: Mọi con đường để có công nghệ dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư , Do vậy tất cả các con đường đổi mới công nghệ đều phải gắn với nguồn vốn đầu tư. - Thứ tư đầu tư có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Con đường tát yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư. Do đó đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế và sư cân đối giữa các vùng, các ngành . - Thứ sáu đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR Do đó nếu hệ số ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư cho nên đầu tư có ảnh hưởng rất quan trọng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế . Như vậy từ các nhận xét trên đây ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế, nó là nhân tố không thể thiếu cho bát kì quốc gia nào trong quá trình phát triển. 1.2. Phân loại NVĐT 1.2.1 Nguồn vốn trong nước * Nguồn vốn nhà nước. Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. * Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được huy động triệt để. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: - Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). + Tập quán tiêu dùng của dân cư. + Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp với xã hội. Thị trường vốn. Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư - bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn dỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được. 1.2.2 Nguồn vốn nước ngoài. Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau: - Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF; - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại; - Đầu tư trực tiếp nước ngoài; - Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế. * Nguồn vốn ODA. Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc. * Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. * Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư . * Thị trường vốn quốc tế. Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD. 1.3Bản chất của nguồn vốn đầu tư Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là: (v + m)I > cII Hay nói cách khác: (c + v + m)I > cII + cI Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo: (c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2 Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực. Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế. Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là: Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm (S) Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư. Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định, theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình - người có vốn dư thừa. Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang cho nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai. CA = S – I Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account) Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. 2.Đầu tư công trình hạ tầng 2.1.Khái niệm công trình hạ tầng Công trình hạ tầng là các công trình được thiết kế và xây dựng tại một địa điểm nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người như đi lại ,học hành chữa bệnh phcj vụ sản xuất và dân sinh … Đối với các công trình hạ tầng tthuộc các xã đặc biệt khó khăn ,vùng sâu vùng xa và đồng bằng thiểu số …gọi chung công trình hạ tầng thuộc chương trình 135.Chủ yếu là công trình hạ tầng có quy mô nhỏ với mức vốn đầu tư từ 1 tỷ đồng trở xuống được thực hiện theo cơ chế đặc biệt để phù hợp với khả năng thực tế của cán bộ và đồng bằng các dân tộc tại địa phương thuộc chương trình 135 .Đó là những công trình hạ tầng thiết yếu phịc vụ cho sản xuất dân sinh góp phần xoá đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Vai trò của việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng 2.2.Đầu tư xây dựng công trình hạ tầng có những vai trò chủ yếu sau Thứ nhất ,nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào ,nhân dân .Thực tế động bào ở nông thôn nói chung và các xã đặc biệt khó khăn nói riêng thì điều kiện về cơ sở hạ tầng là rất khó khăn ,thường là khong có hoặc có nhưng rất đơn sơ,xuống cấp vì thế khi chương trình được thực hiện thì cơ sở vật chất được cải thiện phần nào .Mặt khác nhân dân ở các vùng này nói chung thường suốt ngày làm quần quật thường không có các điều kiện để tham gia các hoạt động văn hoá vì thế khi chương trình được đưa vào cuộc sống thì sẽ cải thiện được vấn đề này.Mặt khác nó còn giúp các vùng khó khăn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậuhoà nhập vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Góp phần tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo với mục tiêu cụ thể là đến năm 2000 không còn hộ đói kinh niên mỗi năm giảm 4-5% hộ nghèo .Đến năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25%.Các công trình hạ tầng phục vụ nhân dân,giúp trẻ em có trường để học tập,nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân,từ quá trình đó đào tạo ra nguồn nhân lực cho đất nước,tạo điều kiện cho nhân dân được tiếp thu với các phương thức sản xuất mới ,kiến thức khoa học văn hoá xã hội,chủ động vận dụng các kiến thức trên ghế nhà trường vào cuộc sống. Các công trình hạ tầng như giao thông giúp cho giao thông trên các vùng khó khăn được cải thiện đáng kể.Góp phần tạo ra sự giao lưu kinh tế giữa các vùng,các miền,các địa phương từ đó tạo ra các mối quan hệ kinh tế giữa các vùng góp phần giúp kinh tế phát triển đi lên.Thường thì ở các xã đặc biệt khó khăn thì phát triển kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và lâm nghiệp nên khi giao thông thuận lợi sẽ góp phần làm phong phú thêm các hoạt động khác như thương nghiệp trong đó có sự buôn bán các sản phẩm nông nghiệp .Điều đó làm tăng thu nhập cho đồng bào nhân dân các vùng này. Các công trình hạ tầng như điện nó mang ánh sáng văn minh về các thôn bản .Có điện sẽ rất lợi ích cho các hoạt động sản xuất cũng như tổ chức các hoạt động về văn hoá …Điện giúp cho các hoạt động sản xuất được tiến hành dễ dàng hơnchẳng hạn như khi áp dụng cơ khí hoá trong sản xuất trong nông nghiệp thì rất cần các nguồn năng lượng như điện.Các công trình như bệnh viện thì giúp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân,điều trị khám chữa bệnh cho nhân dân,giúp tăng lực sản xuất cho nhân dân…. 3.Giới thiệu tổng quát chương trình 135 3.1.Sự cân thiết ra đời chương trình 135 Thực hiện công tác đổi mới dô Đảng cộng sản Việt Nam đè xướng và lãnh đạo ,với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh “,hơn 10 năm (1986_1998)chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đổi mới công tác quản lý nền kinh tế ,giải phóng lực lượng sản xuất ,khơi dậy và phát huy tiềm tàng của các thành phần kinh tế ,của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội nên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn .Kinh tế tăng trưởng khá ,đời sống nhân dân được nâng cao ,công tác quốc phòng an ninh ,chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo .Tuy nhiên quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo càng gay gắt giữa các vùng các miền ,khu vực giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội .Để khắc phục tình trạng này ,Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiên chiến lược phát triển ,tăng trưởng đi đôi với xóa đói giảm nghèo ,thực hiện công bằng xã hội ;ưu tiên phát triển các vùng động lực ,các ngành kinh tế chủ chốt ,tạo nguồn thu cho ngân sách ,có tích luỷ để có điều kiện vật chất hỗ trợ chô vùng khó khăn .Yêu cầu của quá trình đổi mới là phải có những chính sách hợp lý ,đáp ứng được mục tiêu phát triển của cả nước ,đồng thời thực hiện công bằng xã hội phải có những chính sách đặc thù ,phải có nguồn lực hỗ trợ cho các địa phương nghèo cùng phát triển .Để thực hiện chương trình nàythủ tướng chính phủ đã có quyết định phê duyệt chương trình mục tiêu chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.Đây là một chương triình quan trọng của đất nước. Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ đã được xác đình trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ bảy và lần thứ tám,mục tiêu đề ra là đến hết năm 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo bình quân trong cả nước xuống còn 10% nhưng đến năm 1998 vẫn còn 17% .Nguyên nhân chủ yếu là do công tác xoá đói giảm nghèo thực hiện còn nhiều hạn chế,nguồn vốn xoá đói giảm nghèo còn hạn hẹp,còn quá nhiều các xã đặc biệt khó khăn vẫn còn khá nhiều,nhiều xã quá rộng có địa hình khá phức tạp ,dân cư thưa thớt ,nhiều tập tục lạc hậu trong sản xuất và đời sống đã làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế của các vùng này.Nhưng một nguyên nhân sâu sắc nhất đó là chưa có chương trình quốc gia và những chính sách đặc biệt hướng tới các vùng này.Để giải quyết và đáp ứng đòi hỏi đó chính phủ đã ban hành quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chương trình phát triển kinh tế –xã hội các xã đặc biệt khó khăn(sau này gọi là chương trình 135).Chương trình 135 là chương trình quốc gia được chính phủ ban hành với mụctiêu sử dụng các nguồn vốn trong đó vốn ngân sách nhà nước là chủ yếu,bên cạnh đó còn tận dụng cũng như huy động các nguồn vốn khác nhằm sử dụng tối đa các nguồn vốn cho công tác xóa đói giảm nghèo .Chương trình bên cạnh hỗ trợ phát triển kinh tế còn có vai trò xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong đời sống hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao trình độ văn hoá cho đồng bào ,giúp đồng bào các vùng này tiếp cận với các phương thức sản xuất tiến bộ hơn,giúp đồng bào có điều kiện đẻ phát triển tốt hơn.Từ khi có chương trình 135 đến nay nhiều khu vực đặc biệt khó khăn đã được hỗ trợ phát triển sản xuất ,tạo chuyển biến khá căn bản trong tăng trưởng kinh tế ,giảm nghèo và phát triển xã hội .Hoạt động chương trình phải được hưởng ứng tích cực từ phía nhân dân cũng như phối hợp tích cực từ chính quyền địa phương các cấp.Hoạt động của chương trình nhằm ra sự phát triển cân đối kinh tế giữa các vùng ,các ngành,các địa phương.Thực tế đó đã bổ sung tương đối căn bản lý luận về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Các công trình hạ tầng 135 được tiến hành công khai dân chủ được hội đồng nhân dân xã quyết định danh mục,quy mô thứ tự ưu tiênđầu tư và khả năng huy động nguồn lực tại xã để xây dựng công trình nên đã nâng cao được vai trò của người dân trong việc thực hiện dự án.Các dự án sẽ được thiết kế theo phương pháp mới là trao quyền cho cấp xã và cộng đồng tự quyết định.Theo phương châm “dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra”. 3.2.Cơ sở lý luận và phương pháp luận 3.2.1 Quan điểm chỉ đạo - Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển đất nước đã được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng là đảm bảo phát triển hài hoà giữa tăng trưởng với công bằng xã hội, từ đó hệ thống chính sách phát triển đã được hoạch định trên những quan điểm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cẩ khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng cảu mỗi vùng để hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển kinh tế, xã hội mạnh mẽ của cả nước. Kết hợp phát triển có trọng điểm với phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng, điều tiết một phần tích luỹ từ nền kinh tế để hỗ trợ cho vùng khó khăn. Vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu căn cứ cách mạng được xác định là địa bàn còn nhiều khó khăn nhất cần được hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện ban đầu để các vùng đó từng bước vươn lên, hoà nhập với cả nước cùng phát triển. - Thực hiện công bằng xã hội được thể hiện trên mọi phương diện, trong đó việc tạo cơ hội cho mọi tầng lớp dân cư thuộc mọi dân tộc có điều kiện tham gia vào quá trình phát triển là hết sức cần thiết, thể hiện trên các mặt: được bình đẳng trong việc đầu tư phát triển hạ tầng, hỗ trợ sản xuất,phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết vấn đề xã hội, cải thiện cuộc._. sống của đồng bào các dân tộc…, được trực tiếp đóng góp công sức, vật lực của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng thôn xóm cho xây dựng quên hương mình; được đào tạo nâng cao kiến thức sản xuất, tổ chức cuộc sống, nâng cao năng lực mọi mặt cho cán bộ và người dân trong vùng; giúp họ tham gia sản xuất hàng hoá để trao đổi với bên ngoài; được cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh; được tiếp cận với các dịch vụ xã hội khác. Vùng ĐBKK miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Từ xa xưa, các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm đều lấy vùng sâu, vùng xa làm căn cứ; trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng này tiếp tục được dùng làm căn cứ, làm an toàn khu, đồng bào các dân tộc trong vùng đã hết lòng ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước rơi vào khó khăn mới nên chưa có điều kiện hỗ trợ cho các vùng này, nay cần được đền đáp lại một cách xứng đáng. Vì vậy, đây là đối tượng và phạm vi đầu tư của Chương trình 135. 3.2.2. Mục tiêu phát triển của các vùng lãnh thổ Dựa trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong các kỳ Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định về quy hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm đối với các vùng đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, vùng công nghiệp và vùng nông nghiệp hàng hoá; nhìn chung các vùng trên có nhiều điều kiện thuận lợi và có định hướng rõ ràng, vấn đề đặt ra là tạo điều kiện thu hút nguồn lực để đảm bảo chất lượng và tốc độ phát triển. Riêng vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là địa bàn có nhiều khó khăn, là vùng ít có cơ hội thuận lợi, khó huy động nguồn lực nên cần được Nhà nước ưu tiên đầu tư, tạo điều kiện hỗ trợ ban đầu, để: - Trước mắt thực hiện chương trình XĐGN, việc làm, tạo thu nhập nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc trong vùng. - Từng bước tăng khả năng khai thác các lợi thế và nguồn lực tại chỗ giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. - Tạo bước đi ban đầu để tăng tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư. Việc lựa chọn những đại bàn xung yếu, những lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ phát triển là nhiệm vụ bức thiết có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế - xã hội khu vực này. 1. Sự hình thành các khu vực phát triển ở các xã miền núi, vùng dân tộc thiểu số nước ta trước khi có chương trình 135 Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1997), tình hình kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số ở nước ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể, đến cuối năm 1996 đã hình thành 3 khu vực phát triển với trình độ khác nhau: - Khu vực I: gồm các khu trung tâm đô thị, các thị trấn, các khu công nghiệp: có 806 xã, phường; 1.068.845 hộ với 5.275.369 người, chiếm tỷ lệ 39,02% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc. Nét nổi bật của khu vực này là kinh tế hàng hoá phát triển khá, là vùng động lực phát triển chính của các tỉnh, huyện miền núi; GDP bình quân đầu người có địa phương đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây dựng tương đối đồng bộ, bước đầu phục vụ tốt sản xuất, đời sống đồng bào. Trình độ dân trí, đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng khá tiến bộ. - Khu vực II: là khu vực đệm giữa khu vực I (đô thị…) với khu vực III (vùng sâu, vùng xa…); có 1.737 xã, phường; 1.516.005 hộ với 7.764.202 người, chiếm tỷ lệ 44,18% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc. Nhìn chung kinh tế khu vực này phát triển chậm, sản phẩm hàng hoá ít; GDP bình quân đầu người chỉ bằng 70% mức bình quân chung cả nước; sản xuất nông lâm nghiệp còn nhiều hạn chế, một bộ phận dân cư còn phát rừng làm rẫy, khả năng tái du canh du cư và tái trồng cây thuốc phiện còn nhiều; đời sống kinh tế tuy đã được cải thiện nhưng thiếu bền vững. Số hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ cao (20-50%). Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây dựng nhưng chưa đồng bộ hoặc còn tạm bợ, chưa phục vụ tốt sản xuất, đời sống đồng bào. Mặt bằng dân trí còn thấp, đời sống văn hoá -xã hội cộng đồng còn nhiều mặt hạn chế so với khu vực I. - Khu vực III: gồm 1.557 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên. Vùng căn cứ kháng chiến; có 799.034 hộ với 4.533.598 người, chiếm tỷ lệ 25,8% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc. Đây là khu vực còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội rất yếu kém (còn 672 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xa) - nhiều nơi thiếu đất canh tác nông nghiệp, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cấp, tự túc, phát, đốt rừng làm rẫy, sống du canh du cư hoặc định cư nhưng còn du canh… Số hộ đói nghèo chiếm trên 60%. GDP bình quân đầu người chỉ bằng 31% mức bình quân chung cả nước. Trình độ dân trí rất thấp, số người mù chữ, thất học chiếm trên 60%. Đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng chậm cải thiện, thiếu thông tin liên lạc, truyền thanh, truyền hình nhiều nơi chưa đến dân… Tuy nhiên, khu vực này lại có vị trí rất quan trọng đối với quốc phòng, an ninh và là vùng đầu nguồn của các con sông lớn nên có vai trò to lớn bảo vệ môi trường sinh tái của cả nước. Để tạo điều kiện cho các khu vực khai thác lợi thế của mình, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xác định đúng cơ chế đầu tư và có chính sách hỗ trợ phát triển phù hợp với điều kiện và trình độ của từng khu vực. 3.2.3. Cơ chế đầu tư đối với từng khu vực - Đối với khu vực I: Cần tạo điều kiện cho khu vực này tiếp tục phát triển với nhịp độ cao hơn hoặc bằng mức bình quân chung cả nước, phát huy vai trò vùng động lực, thúc đẩy ở các vùng phụ cận phát triển, làm đầu mối giao lưu với các vùng khác trong nước và với nước ngoài. Cơ chế đầu tư thích hợp với khu vực là tích cực huy động nguồn lực từ cộng đồng, sử dụng vốn vay trong nước và nước ngoài để phát triển là chính. Nhà nước hỗ trợ chủ yếu cho việc hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng. - Đối với khu vực II: Tuy có nhiều tiềm năng phát triển nhưng trước mắt còn nhiều khó khăn, hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, kết hợp với các nguồn lực từ cộng đồng để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Huy động các nguồn vốn trong dân và vốn tín dụng Nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi, giúp đồng bào khai thác lợi thế của địa phương, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây được dược liệu, phát triển chăn nuôi hình thành vùng nguyên liệu có khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn và đa dạng, tạo nguồn thu nhập để xoá đói giảm nghèo, thực hiện định canh định cư và bỏ trồng cây thuốc phiện một cách bền vững. - Đối với khu vực III: đây là khu vực có nhiều khó khăn nhất, trình độ phát triển thấp kém nhất, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư một cách đồng bộ theo chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn huyện-xã. Các ngành, các cấp phải tăng cường đi sâu chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện các chương trình lồng ghép trên địa bàn đảm bảo đưa lại lợi ích thiết thực cho đồng bào. Những nơi cơ sở quá yếu phải có cán bộ tăng cường đến công tác trực tiếp hướng dẫn đồng bào thực hiện xoá đói giảm nghèo và xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh. 3.2.4 Những nhiệm vụ cơ bản về phát triển vùng ĐBKK 3.2.4.1. Bố trí lại sản xuất Bố trí lại sản xuất là một trong những nhiệm vụ cơ bản thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của đồng bào các dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ này phải dựa vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương, phải lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, phải phát huy mọi nguồn lực trong dân cư để bố trí lại sản xuất, sắp xếp quy mô và cơ cấu sản xuất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của những vùng khó khăn một cách hợp lý. Trên thực tế, việc ổn định đời sống đồng bào các xã khu vực III và các thôn bản ĐBKK của xã khu vực II chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp, nhằm tăng thu nhập cho người lao động thông qua biện pháp tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng biện pháp kỹ thuật, kể cả khâu bảo quản sau thu hoạch, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Vì vậy ở vùng ĐBKK đòi hỏi từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hoá từ cây trồng, vật nuôi, gắn với chế biến và tiêu thụ. Để hỗ trợ phát triển cho các ngành nông lâm nghiệp và từng bước tiến hành công nghiệp hoá nông thôn, tập trung nghiên cứu phát triển các cơ sở công nghiệp sơ chế quy mô vừa và nhỏ, khai thác các mỏ nhỏ, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp kết hợp tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá cho mọi người dân. Nguồn vốn đầu tư vào khu vực này chủ yếu từ ngân sách, tín dụng ưu đãi và vốn dân cư; ở những địa phương quá khó khăn, trung ương xem xét hỗ trợ vốn ngân sách để đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội; vốn tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, xoá đói giảm nghèo. Nhà nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực này phát triển mới cơ hiệu quả. 3.2.4.2. Quy hoạch bố trí lại dân cư thôn bản ở xã ĐBKK - Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1996 - 2010 của từng địa phương, điều kiện tự nhiên, tính chất đặc điểm của từng vùng, khả năng đất đai, tập quá từng dân tộc để bố trí lại các cụm dân cư theo phương châm không gây ra những biến động lớn trong đời sống nhân dân, điều chỉnh dân cư từng bước để đạt mục đích, yêu cầu tổng thể về sắp xếp lại sản xuất, ổn định xã hội và nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Trong đó quy hoạch phát triển hệ thống giao thông là khâu đột phá, đi trước một bước trong quá trình hình thành các cụm dân cư, các thị trấn, thị tứ, các TTCX, từ đó hình thành và phát triển các vùng kinh tế hàng hoá. - Trên phạm vi miền núi, việc bố trí dân cư phải gắn với việc thực hiện chương trình định canh định cư theo các dự án ổn định và phát triển, chương trình hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chưong trình quốc gia 06/CP… và các chính sách xã hội. Trên quan điểm tận dụng lao động, việc sắp xếp lại các cụm dân cư phải gắn với quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu, các cơ sở chế biến. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng vùng mà phát triển cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến, công nghiệp khai khoángm vật liệu xây dựng, ngành nghề truyền thống với quy mô thích hợp để sản xuất nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đối với các vùng biên giới nhiệm vụ an ninh, quốc phòng cần được coi trọng hơn. Việc tạo ra các tụ điểm dân cư dọc tuyến biên giới không những có ý nghĩa trong việc phát triển các ngành kinh tế có lợi, khai thác các nguồn lực sẵn có, nhất là khai thác các cửa khẩu biên giới, mà còn có ý nghĩa chiến lược về an ninh biên giới, mở ra khả năng tăng cường giao lưu văn hoá, phát triển tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng. Nhiệm vụ quy hoạch lại dân cư trước mắt được triển khai trong khuôn khổ thôn bản của xã ĐBKK, đảm bảo bốn lợi ích. + Đưa dân sống phân tán vào hoạt động trong các cộng đồng thôn bản + Tiết kiệm đất sản xuất theo quy hoạch + Ngăn chặn bọ tội phạm, bọn phản động thù địch lợi dụng hoạt động gây mất ổn định. + Thuận lợi và tiết kiệm cho việc đầu tư hạ tầng. 3.2.4.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội - Nâng cấp và xây dựng mới các tuyến đường giao thông là nhiệm vụ hàng đầu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở miền núi. Nguồn vốn đầu tư làm đường giao thông do ngân sách Nhà nước cấp và dựa vào sự đóng góp của nhân dân. Ưu tiên đầu tư nâng cấp và xây dựng các tuyến đường dọc biên giới và đường đến các huyện vùng sâu, vùng xa. Đường giao thông từ tỉnh đến huyện và trung tâm cụm xã do Nhà nước đảm nhận và đảm bảo thông suốt bốn mùa. Đường từ trung tâm xã đến các bản làng do dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần vật tư, xi măng, thuốc nổ, cáp làm cầu treo dân sinh. Phương thức quản lý và xây dựng hệ thống đường ra biên giới, các tuyến đường phục vụ an ninh, quốc phòng đã được xác định tại Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 6/11/2003 của Chính phủ. - Điện lưới quốc gia thông suốt đến các tỉnh lỵ, các huyện lỵ, các TTCX. Đối với những nơi xa xôi hẻo lánh không kéo được điện lưới thì phát triển thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và các nguồn năng lượng khác để đồng bào vùng dân tộc và miền núi được dùng điện trong sản xuất và sinh hoạt. - Về thuỷ lợi, trên phạm vi vùng miền núi, tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn, các hồ chứa nước để tưới tiêu cho các vùng cây công nghiệp; xây dựng một số công trình thuỷ điện gắn với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, cân bằng nguồn nước và chống lũ. Xây dựng các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ phục vụ phát triển sản xuất của từng vùng sinh thái. ở các xã ĐBKK chủ yếu cải tạo, nâng cấp, kiên cố hoá và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi quy mô nhỏ cấp nước tưới và sinh hoạt cho dân cư. - Tiếp tục đưa chương trình nước sạch vào phục vụ sản xuất cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi, ưu tiên giải quyết nước sạch ở khu vực III và phần khó khăn của khu vực II. Phấn đấu đến năm 2005 có 75% số dân vùng dân tộc và miền núi được dùng nước sạch, bảo đảm đủ nước sinh hoạt cho các đồn biên phòng. - Về cơ sở hạ tầng xã hội: mục tiêu cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi ở mức tương đối về giáo dục cơ sở, nhiệm vụ cơ bản là hoàn thành việc xây dựng các trường phổ thông nội trú ở TTCX, trường bán trú ở xã. Mục tiêu chăm sóc sức khoẻ trong những năm trước mắt là các trung tâm cụm xã đều có trạm y tế/ phòng khám đa khoa; ở thôn, xã, bản có phát hình và phát thanh các xã, các đồn biên phòng có thể liên lạc bằng điện thoại… để đồng bào được hưởng các dịch vụ văn hoá phúc lợi xã hội. Đầu tư hạ tầng trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, trước hết đầu tư cho lĩnh vực giao thông, phát triển kinh tế - văn hoá- xã hội; đồng thời đầu tư các loại công trình khác phục vụ cho phát triển sản xuất, tạo nghề mới tỏng nông thôn, tạo cơ sở vật chất phục vụ văn hoá, dân sinh. 3.2.5. Tiêu chí phân định 3 khu vực Để có cơ sở hỗ trợ đầu tư, vận dụng thực hiện các chủ trương chính sách sát hợp với từng khu vực, từng đối tượng ở vùng dân tộc- miền núi, Thủ tướng Chính phủ có văn bản số 7189/ĐP1 ngày 14/12/1995 về việc công bố tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng cao; giao uỷ ban Dân tộc và Miền núi công bố tiêu chí này và hướng dẫn các địa phương thực hiện để làm căn cứ cho việc lập và xét duyệt kế hoạch, dự án đầu tư, thực hiện chính sách đối với miền núi và dân tộc. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi có thông tư số 41/UB-TT ngày 08/01/1996 quy định và hướng dẫn thự hiện tiêu chí từng khu vực ở vùng dân tộc-miền núi theo trình độ phát triển của từng vùng nói trên. Cơ sở để phân định khu vực là dựa theo trình độ phát triển cụ thể của từng xã theo năm tiêu chí sau: 3.2.5.1. Dựa theo điều kiện tự nhiên, địa bàn cư trú: được chia thành 3 vùng + Vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. + Vùng ảnh hưởng của các trung tâm phát triển: thị xã, thị trấn, thị tứ + Vùng kinh tế hàng hoá phát triển, ven các quốc lộ, tỉnh lộ, đường ô tô liên huyện, liên xã, … hoặc ở vùng đệm giữa các trung tâm phát triển và vùng cao, vùng sâu, vùng xa. 3.2.5.2. Cơ sở hạ tầng hiện có Đường giao thông, điện và các nguồn năng lượng khác, thuỷ lợi phục vụ sản xuất và cấp nước sinh hoạt dân cư. Trong đó đặc biệt quan tâm là: + Đường giao thông gồm có: đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên huyện, liên xã); đường sắt chạy qua và ga đường sắt đặt tại khu vực; sân bay; đường thuỷ. + Điện lưới quốc gia, thuỷ điện nhỏ, các nguồn năng lượng khác… + Thuỷ lợi: Năng lực tưới tiêu cho diện tích lúa, công công nghiệp…kết hợp thuỷ lợi với giải quyết vấn đề nước sạch: các công trình nước sạch, giếng khoan, bể chứa… Các điều kiện hạ tầng được đánh giá và xem xét trên cơ sở quy mô, cấp hạng kỹ thuật, năng lực của các công trình so với đòi hỏi của yêu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào trong khu vực. 3.2.5.3. Các yếu tố xã hội Trình độ dân trí, các vấn đề về y tế, văn hoá, xã hội. Quy mô và chất lượng các cơ sở trường học, chữa bệnh, phát thanh, truyền hình, văn hoá… Trình độ dân trí: trình độ văn hoá, tỷ lệ mù chữ, khả năng tiếp thu và vận dụng các chủ trương, chính sách, tiến bộ khoa học kỹ thuật…; các vấn đề về y tế: phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình; đời sống văn hoá tiến bộ hay lạc hậu. Quy mô và chất lượng các công trình hạ tầng xã hội như: trường học, cơ sở chữa bệnh, phát thanh, truyền hình, các cơ sở văn hoá…; mức độ đáp ứng nhu cầu cơ bản về xã hội của dân cư. 3.2.5.4. Điều kiện sản xuất - Diện tích đất cho sản xuất nông lâm nghiệp tính bình quân cho hộ gia đình hoặc cho đầu người. Công cụ phục vụ sản xuất; trình độ sản xuất; cơ cấu ngành nghề; kết quả sản xuất và hoạt động kinh doanh trao đổi hàng hoá. - Diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đại gia súc, gia cầm, tính bình quân cho một hộ, một người, công cụ sản xuất thô sơ hay mức độ cơ giới hoá còn hạn chế… - Trình độ thâm canh cây trồng vật nuôi; mức độ áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, cơ cấu sản xuất: lâm nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ. - Trình độ sản xuất hàng hoá, hình thành vùng hàng hoá với những sản phẩm hàng hoá chủ yếu; hình thành thị trường hàng hoá; trung tâm thương mại, chợ khu vực, khả năng giao lưu hàng hoá. 3.2.5.5. Về đời sống Phân loại hộ đói nghèo theo "chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt Nam" do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quy định tại báo cáo số 13.266/LĐ-TBXH.BT ngày 29/8/1995. Đơn vị chuẩn để xác định đói nghèo là mức thu nhập của hộ gia đình được quy đổi ra gạo tính bình quân đầu người hàng tháng: Hộ nghèo: Dưới 25 kg gạo ở thành thị Dưới 20 kg gạo ở nông thôn vùng đồng bằng và trung du Dưới 15 kg gạo ở nông thôn miền núi Hộ đói: Dưới 13kg gạo ở bất kể vùng nào. Dựa theo 5 tiêu chí trên, phân các xã thuộc khu vực miền núi, vùng cao của cả nước theo 3 khu vực: Khu vực I: khu vực bước đầu phát triển. Khu vực II: khu vực tạm ổn định. Khu vực III: khu vực khó khăn. Đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 2974/ĐP1 ngày 13/6/1997 đồng ý Uỷ ban Dân tộc và miền núi vận dụng tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng cao (quy định tại Thông tư 41/UB-TT ngày 8/1/1996 của UBDT&MN) để phân định khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi đồng bào Khmer, Chăm và các dân tộc thiểu số khác đang sinh sống ở đồng bằng thuộc các tỉnh phía Nam. 3.2.6. Những căn cứ cụ thể để xác định khu vực khó khăn: - Địa bàn cư trú: gồm các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh, vùng biên giới hải đảo. Khoảng cách của các xã đến các khu trục động lực phát triển trên 20km (riêng các tỉnh ĐBSCL khoảng cách này là trên 10km). - Cơ sở hạ tầng: chưa được xây dựng hoặc còn tạm bợ. Giao thông rất khó khưn, không có đường ô tô vào xã. Các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch, trường học, bệnh xá, dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có. - Các yếu tố xã hội: chưa đạt mức tối thiểu. Dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và thất học trên 60%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin, v.v… (riêng các tỉnh ĐBSCL tỷ lệ thất học và mù chữ trên 50%). - Điều kiện sản xuất: rất khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất mang tính tự nhiên hái lượm, chủ yếu phát rừng làm nương rẫy, du canh, du cư (riêng các tỉnh ĐBSCL: số hộ không có và thiếu đất sản xuất trên 20% số hộ của xã; số hộ làm thuê trên 20% số hộ của xã). - Về đời sống: số hộ đói nghèo trên 60% số hộ của xã. Đời sóng thực sự khó khăn, nạn đói thường xuyên xảy ra (riêng các tỉnh ĐBSCL số hộ nghèo đói trên 30% số hộ của xã). 3.2.7. Phương pháp phân định các xã thuộc khu vực khó khăn - Đơn vị để xác định khu vực là xã, xã nào có 4/5 tiêu chí nói trên thì xếp vào khu vực khó khăn, từng xã căn cứ vào các tiêu chí nêu trên để tự bình chọn và đề nghị lên các cấp xét duyệt. Các cấp huyện, tỉnh, trung ương thành lập hội đồng xét duyệt và thực hiện xét duyệt từ huyện lên trung ương. - Hội đồng xét duyệt ở trung ương gồm: + Một đại diện lãnh đạo của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi làm chủ tịch + Đại diện của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Lao động - Thương binh Xã hội, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ban tổ chức- cán bộ Chính phủ, Tổng cục Địa chính là thành viên Hội đồng. - Hội đồng xét duyệt ở cấp tỉnh, cấp huyện do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh hoặc Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện ra quyết định thành lập, gồm: + Một phó chủ tịch làm chủ tịch hội đồng cùng cấp + Các thành viên tương tự như các thành viên Hội đồng xét duyệt của các cơ quan trung ương tham gia. IV. Kết quả phân định 3 khu vực Theo tiêu chí phân định nêu trên, cả nước đã lựa chọn được 1.715 xã (gồm 1.568 xã miền núi và 147 xã Đồng bằng sông Cửu Long), thuộc 269 huyện của 47 tỉnh, thành phố trong cả nước là xã ĐBKK được đưa vào đầu tư trong chương trình 135 (đến đầu năm 2004 là 2.362 xã /320 huyện/49 tỉnh). Theo số liệu thống kê 1.715 xã ĐBKK có hơn 4 triệu người thuộc hầu hết 54 dân tộc Việt Nam sinh sống phân bổ theo các vùng như biểu sau: Vùng Số xã (%) Dân số (%) Vùng Miền núi phía Bắc 55 39 Bắc Trung Bộ 15 12 Duyên Hải miền Trung 9 5 Tây Nguyên 8 6 ĐB sông Cửu Long 7 30 Các vùng khác 6 8 Tổng số 100% 100% 3.3. Mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách, giải pháp chủ yếu thực hiện chương trình 135 3.3.1. Mục tiêu chương trình và phương thức chỉ đạo thực hiện Với các tiêu chí phân định nêu trên, chương trình 135 có tổng số 1.715 xã (gồm 1.568 xã miền núi và 147 xã Đồng bằng sông Cửu Long), thuộc 267 huyện của 47/61 tỉnh, thành phố trong cả nước. 3.3.1.1. Mục tiêu tổng quát Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã ĐBKK miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. 3.3.1.2. Mục tiêu cụ thể 3.3.1.2.1. Giai đoạn từ năm 1998 - 2000 - Về cơ bản không còn các hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 4-5% hộ nghèo. - Bước đầu cung cấp cho đồng bào có nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi đến trường; kiểm soát được một số loại dịch bệnh hiểm nghèo; có được giao thông dân sinh kinh tế đến các TTCX; phần lớn đồng bào được hưởng thụ văn hoá, thông tin. 3.3.2.2. Giai đoạn từ năm 2000-2005: - Giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các xã ĐBKK xuống còn 25% vào năm 2005. - Bảo đảm cung cấp cho đồng bào có đủ nước sinh hoạt; thu hút trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học, văn hoá, xã hội, chủ động vận dụng vào sản xuất và đời sống; kiểm soát được phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo; có đường giao thông xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các TTCX; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn. 3.3.2.3. Phương thức chỉ đạo thực hiện chương trình Theo mục tiêu của chương trình, phương thức chỉ đạo thực hiện chương trình được chia thành 2 giai đoạn: - Giai đoạn đầu (1999-2000): được thực hiện trên phạm vi 1.000 xã, xem đây là bước thử nghiệm tập trung xây dựng cơ chế, giải pháp vận hành chương trình, xây dựng CSHT thiết yếu cho các xã và TTCX, xoá hộ đói kinh niên, giảm mỗi năm từ 4-5% số hộ nghèo; phát triển văn hoá, thông tin; phát triển giao thông đến trung tâm xã. - Giai đoạn tiếp theo )2001-2005): triển khai trên tất cả các xã 135, hoàn thiện cơ chế chính sách, lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án, thực hiện đồng bộ các dự án thành phần, chú trọng chuyển mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng ưu tiên phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, hầu hết các xã có đường giao thông đến trung tâm cụm xã, đảm bảo cung cấp đủ nước sinh hoạt cho đồng bào; phát triển y tế, giáo dục và văn hoá, xã hội, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi đến trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học, thay đổi tập quán sản xuất cho đồng bào và từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đào tạo; bồi dưỡng cán bộ cơ sở; giảm tỷ lệ hộ nghèo các xã ĐBKK xuống dưới 25%. 3.3.3. Nhiệm vụ của chương trình Chương trình 135 có 5 nhiệm vụ chủ yếu: 1. Quy hoạch bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước tổ chức hợp lý đời sống sinh hoạt của đồng bào các bản, làng, phum, soóc ở những nơi có điều kiện, nhất là những xã vùng biên giới và hải đảo, tạo điều kiện để đồng bào nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống. 2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm để khai thác nguồn tài nguyên và sử dụng lao động tại chỗ, tạo thêm nhiều cơ hội về việc làm và tăng thu nhập, ổn định đời sống, từng bước phát triển sản xuất hàng hoá. 3. Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư, trước hết là hệ thống đường giao thông; nước sinh hoạt; hệ thống điện ở những nơi có điều kiện, kể cả thuỷ điện nhỏ. 4. Quy hoạch và xây dựng các TTCX , ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình về y tế, giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, cơ sở phục vụ sản xuất và phát thanh truyền hình. 5. Đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, soóc, giúp cán bộ cơ sở nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. 3.3.4. Chính sách và giải pháp thực hiện chương trình Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, tại Quyết định 135, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra một số chính sách chủ yếu: chính sách đất đai;Chính sách đầu tư tín dụng; chính sách phát triển nguồn nhân lực; Chính sách thuế; Nhiệm vụ của các cấp các ngành và kêu gọi sự ủng hộ, đóng góp của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để thực hiện chương trình. Trong đó vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư hạ tầng các xã 135 là chính sách đầu tư, tín dụng; Chính sách phát triển nguồn nhân lực và huy động đóng góp của các cấp các ngành, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước cho chương trình. 1. Chính sách đầu tư tín dụng - Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, nơi có thể làm thuỷ lợi để phát triển lúa nước thì được dùng vốn ngân sách để hỗ trợ đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi. ở vùng cao, đặc biệt khó khăn không có ruộng nước thì hỗ trợ kinh phí để làm ruộng bậc thang, giúp đồng bào có điều kiện sản xuất lương thực tại chỗ. - Các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình khác có liên quan trên địa bàn phải dành phần ưu tiên đầu tư cho chương trình này. - Các hộ gia đình thuộc phạm vi chương trình được ưu tiên vay vốn từ ngân hàng người nghèo (sau này là ngân hàng chính sách xã hội) và các nguồn vốn tín dụng ưu đãi khác để phát triển sản xuất. - Chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh thuộc phạm vi chương trình này tập trung chỉ đạo, huy động các nguồn lực tại chỗ để thực hiện chương trình. - Ngoài nguồn vốn đầu tư phát triển chung toàn vùng, Nhà nước còn hỗ trợ vốn để thực hiện các công việc như: xây dựng các trung tâm cụm xã; phát triển hệ thống giao thông; xây dựng công trình hạ tầng ở nơi có điều kiện như làm thuỷ điện nhỏ, cấp nước sinh hoạt. 2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực - Nhà nước đầu tư kinh phí đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở xã, bản, làng, phum, soóc để nâng cao trình độ tổ chức chỉ đạo, quản lý sản xuất, quản lý hành chính và khả năng quản lý sử dụng các nguồn tín dụng nông thôn phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. - Tăng cường cán bộ về các xã đặc biệt khó khăn thuộc phạm vi chương trình, đồng thời chọn một số hộ nông dân sản xuất giỏi để đào tạo thành những người làm công tác khuyến nông, khuyến lâm tại chỗ. - Nhà nước hỗ trợ kinh phí để mở lớp dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc nhằm khai thác tiềm năng tại chỗ, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao đời sống. 3. Chính sách huy động tổng hợp các nguồn lực - Chính phủ giao các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Đà nẵng, Khánh Hoà tự hỗ trợ đầu tư cho các xã ĐBKK của địa phương mình, đồng thời trực tiếp đảm nhận giúp đỡ một số xã ĐBKK ở các địa phương khác thuộc chương trình, chủ yếu hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng, huy động lực lượng cán bộ của địa phương mình đến giúp các xã … - Mỗi Bộ, ngành Trung ương, mỗi doanh nghiệp Nhà nước trong ngành mỗi doanh nghiệp có kế hoạch tiết kiệm chỉ tiêu và huy động đóng góp tự nguyện của cán bộ, công nhân viên để có kinh phí hỗ trợ giúp đỡ một số xã. - Bộ Quốc phòng xây dựng các vùng kinh tế mới ở những nơi có điều kiện, đỡ đầu, đón nhận khoảng 100.000 hộ dân đến lập nghiệp ở những vùng đất còn hoang hoá, biên giới, hải đảo. - Động viên các tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong nước, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, ủng hộ giúp đớn thực hiện chương trình. 4. Giải pháp về vốn Vốn thực hiện chương trình 135 được huy động từ các nguồn sau: - Vốn ngân sách Nhà nước (kể cả vốn của các Chính phủ và các tổ chức quốc tế tài trợ). - Vốn vay tín dụng. - Vốn huy động từ các tổ chức và các cộng đồng dân cư. - Lồng ghép từ các chương trình, dự án khác. Chương II. Đánh giá kết quả 5 năm thực hiện chương trình 135 I. Kết quả đạt được và những đóng góp chủ yếu của chương trình Chương trình 135 được triển khai từ kế hoạch năm 1999 đến nay đã thực hiện gần 6 năm. Sau mỗi năm, Ban chỉ đạo đều tổ chức hội nghị toàn quốc sơ kết đánh giá kết quả thực hiện chương trình. Tại các hội nghị này đã nhiều lần khẳng định: Chương trình phát triển kinh tế -xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa được đánh giá là một trong những chương trình toàn diện nhất, hợp lòng dân nhất, hiệu quả nhất, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng, miền núi, vùng sâu và vùng xa, những địa bàn khó khăn, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai. Chương trình có ý nghĩa to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng, với tính nhân văn sâu sắc, phát huy được bản chất tốt đẹp của dân tộc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước một cách bền vững, được nhân dân._.hai thừa nhận vấn đề này và Ban chỉ đạo cũng chẳng có giải pháp giải quyết để điều chỉnh vốn đầu tư cho Chương trình hợp lý trong các năm tới. Đây là mặt trái của chính sách: nếu trước đây tỉnh nào thích thành tích thì công việc chưa hoàn thành cũng tuyên bố đã hoàn thành để lấy thành tích: còn ngày nay công việc dù đã hoàn thành cũng không công nhận để khỏi mất 500 triệu đồng/năm. 11.2. Cấp tỉnh: Hầu hết những tỉnh có nhiều ĐBKK được hỗ trợ đầu tư bằng Chương trình 135 thì hết sức phấn khởi bởi đây là cơ hội giải quyết vấn đề công bằng xã hội ở địa phương, nhiều tỉnh đã có những nỗ lực lớn như việc tổ chức Ban Chỉ đạo, ban hành quy chế hoạt động, cơ chế huy động các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trên địa bàn đóng góp giúp đỡ xã nghèo, điều động cán bộ tăng cường cho xã thực hiện Chương trình XĐGN, phân cấp quản lý, phê duyệt quy hoạch và báo cáo đầu tư, bố trí kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch hàng năm. Tuy nhiên nhiều tỉnh ý thức trách nhiệm thiếu rõ ràng, chỉ đạo không chặt chẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, thể hiện: - Không điều hành hoạt động của Ban chỉ đạo thường xuyên - Không đưa ra quy chế hoạt động đầu tư cho Chương trình - Không cụ thể hoá cơ chế chính sách áp dụng cho Chương trình - Vốn chia bình quân theo xã, gây lãng phí trong quá trình đầu tư - ít tổ chức kiểm tra, giám sát Một số cán bộ lãnh đạo tỉnh chỉ quan tâm kéo dài thời gian thực hiện chương trình (dù Chương trình mới triển khai 1-2 năm), tăng mức đầu tư cho xã 135… Trong Chương trình 135, bên cạnh dự án đầu tư hạ tầng còn có dự án xây dựng TTCX, cơ chế giao kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ là giao một khoản vốn cho tỉnh bố trí cụ thể cho từng TTCX, nhiều tỉnh đã rút bớt vốn của dự án này đầu tư cho các nhu cầu khác. Cấp tỉnh chỉ giữ vai trò quan trọng trong việc điều hành Chương trình 135, nhưng nhiều tỉnh ỷ vào lý do nghèo, ngân sách hạn hẹp không đầu tư cho các xã ĐBKK mà chỉ tập trung cho lĩnh vực công cộng, khu trung tâm thiax hoặc cho trụ sở cấp tỉnh, huyện… 11.3. Cấp huyện: Là cấp có vai trò, có nhiều quyền hành và trách nhiệm trong quá trình thực hiện Chương trình 135 theo phân cấp. Từ năm 1999 Chương trình 135 được triển khai ở 1.000 xã/91 huyện/30 tỉnh: đến hết năm 2003 đã triển khai 2362 xã thuộc 320 huyện, 49 tỉnh trong cả nước. Từ số liệu này cho thấy số xã tăng hơn 2,3 lần nhưng số huyện tăng 3,5 lần so với năm 1999. Suốt gần 6 năm thực hiện chương trình 135, chỉ trừ tỉnh Tuyên Quang, còn hầu hết các huyện làm chủ đầu tư dự án. Hầu như các hoạt động của Chương trình 135 ngoài phần cơ chế, chính sách do Trung ương và tỉnh ban hành, còn lại do huyện quản lý, điều hành tổ chức thực hiện, trong đó có sự đóng góp rất to lớn của cấp huyện. Tuy nhiên trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở các địa phương, cấp huyện bộc lộ một số mặt hạn chế như: - Thực hiện quy trình xây dựng và tổng hợp kế hoạch vẫn mang nặng tư tưởng tập trung bao cấp, chưa tạo cho người dân và cấp dưới tham gia từ khâu quy hoạch, lựa chọn danh mục công trình đầu tư, công khai giao việc cho dan, công khai phần việc giao và lựa chọn nhà thầu xây dựng… Hàng năm đến mùa kế hoạch nhiều huyện ra thông báo định hướng gửi về cho UBND xã, sau đó cử cán bộ về thống nhất với Lãnh đạo UBND xã là xong, ít thảo luận rộng rãi với dân ở các thôn bản hoặc HĐND xã, ít đi khảo sát thực tế ở địa bàn nên nhiều nội dung đầu tư không hợp lý, kém hiệu quả. - Phân cấp không rõ ràng, không dứt khoát, sợ mất việc, luôn muốn giữ lấy quyền phân bổ vốn, ngại phân cấp, ngại công khai, giảm ảnh hưởng vai trò của UBND xã và biến cấp xã trở thành thụ động trong quá trình thực hiện chương trình. Từ khi bắt đầu triển khai thực hiện Chương trình 135 chỉ có 56 xã của tỉnh Tuyên Quang được UBND tỉnh giao làm chủ đầu tư dự án, còn lại do huyện đảm nhiệm. Đến đầu năm 2004 có 385 xã làm chủ đầu tư, chiếm khoảng 17% tổng số xã 135, như vậy là quá ít. Phân cấp đi theo phân quyền nhưng còn có điều kiện kéo níu, giữ lấy quan hệ "xin, cho" nên không được nhưng còn có biểu hiện kéo níu, giữ lấy quan hệ "xin, cho" nên không được phân cấp đầy đủ hơn. 11.4. Cấp xã Cấp xã là cấp trực tiếp với dân, hiểu dân đầy đủ đặc điểm hoàn cảnh thực tế ở xã, hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, nhưng cấp xã hiện nay vẫn là cấp chấp hành, cấp thực hiện nhiệmvụ do huyện giao, ít có quyền hành quyết định về quản lý, điều hành, lựa chọn danh mục đầu tư, lựa chọn nhà thầu xây dựng… Việc cấp xã tham gia có mức độ vào quản lý, điều hành Chương trình 135 có lý do là năng lực cán bộ xã quá bất cập, nhiều xã phải nhờ giao siven, cán bộ lâm nghiệp cắm điểm hoặc cán bộ tăng cường xuống xã giúp đỡ. Số người biết chữ, viết, nói thành thạo làm việc ở các xã vùng sâu, vùng xa rất hạn chế, một số chuyên đi học, đi họp, đi tập huấn do cấp trên tổ chức, có xã không đủ người thay nhau đi họp, đi học nên cuộc nào cũng chỉ có một số người tham gia, những vấn đề học được ở lớp về áp dụng vào thực tế chỉ được một phần nhỏ. Vì vậy việc đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ xã là rất cần thiết, nhưng phương pháp đào tạo phải được sửa đổi thật nhiều mới đáp ứng yêu cầu: Một là khả năng tiếp thu; hai là năng lực truyền thụ lại cho địa phương, cơ sở. Cấp xã vùng sâu, vùng xa hiện nay chịu nhiều thiệt thòi nhất trong thực hiện Chương trình 135 thể hiện ở các mặt: ít được đào tạo nhất; ít có thực quyền nhất; ít thông tin nhất; Thời gian làm việc nhiều nhất; Phải xử lý việc vặt như kiện cáo, tranh chấp nhiều nhất; Thu nhập có nơi bị thấp kém nhất. Vì lẽ đó mà khi tiếp xúc, khảo sát, đánh giá vai trò cán bộ xã trong việc tổ chức thực hiện Chương trình 135 có nhiều ý kiến khác nhau, nét chung nhất là cán bộ chủ chốt xã rất ngại phải chịu trách nhiệm cá nhân, ngại va chạm với tỉnh, huyện, ngại phải giải trình với dân khi mọi quyền quyết định ở trong tay cán bộ huyện. Nhiều việc nhìn bề ngoài do xã làm nhưng thực chất là họ tiếp thu ý kiến chỉ đạo của huyện, hợp thức hoá quyết định của huyện, đôn đốc dân các thôn bản thực hiện công việc được huyện giao, họ thiếu quyền chủ động như mục tiêu phân cấp của Chính phủ. 12. Vai trò người dân và cộng đồng thôn bản chưa được coi trọng Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện Chương trình 135 của Thủ tướng Chính phủ là "trước hết phải dựa trên cơ sở phát huy nội lực của từng hộ gia đình và sự giúp đỡ của cộng đồng, đồng thời có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước…" điều này khẳng định quá trình thực hiện Chương trình 135 phải lấy hộ gia đình, lấy cộng đồng thôn bản làm nòng cốt, huy động sự đóng góp của các cơ quan, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp… Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ. Mục đích đặt ra là khẳng định vai trò trách nhiệm của người dân đối với chương trình mà họ hưởng lợi, đồng thời tạo cơ hội cho người dân tham gia đóng góp công, sức, vật lực để thực hiện Chương trình. - Để người dân tham gia thực hiện Chương trình 135 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Chính quyền các cấp và những người trực tiếp quản lý, điều hành thực hiện chương trình phải: + Tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm, kinh nghiệm bảo vệ thành quả thực hiện chương trình vì lợi ích của chính người dân sở tại; + Tạo điều kiện để mọi người dân tham gia đầy đủ các công đoạn của quá trình xây dựng Chương trình ở xã như lựa chọn công trình, đóng góp vât liệu xây dựng công trình, trực tiếp tham gia xây dựng và giám sát xây dựng công trình để thực hiện nguyên tắc "xã có công trình, dân có việc làm, có thu nhập để XĐGN ngay trong quá trình xây dựng công trình". Dân có đóng góp cho công trình thì dân có ý thức tự giác cao hơn, thể hiện lòng tự trọng tốt hơn trong việc bảo vệ thành quả do chính họ đóng góp nên. Người dân không được tham gia vào quá trình xây dựng công trình thì sẽ thờ ơ không giám sát, không tham gia thực hiện đầu tư và không thực hiện trách nhiệm của mình đối với công trình xây dựng ở địa phương họ. - Thực hiện cơ chế vận hành như thông tư liên tịch 416 và 666 của Liên Bộ thì người dân được hưởng lợi nhiều mặt từ Chương trình 135; + Được tham gia xây dựng và hưởng lợi từ vốn đầu tư cho công trình để thực hiện XĐGN. + Được tham gia xây dựng và giám sát thì chất lượng công trình sẽ tốt hơn và phục vụ dân ở địa phương đó lâu bền hơn. + Qua quá trình thực hiện Chương trình 135, cán bộ xã, thôn bản và người dân được đào tạo nâng cao năng lực nhiều mặt. Tuy nhiên thực tế vận dụng vấn đề dân chủ sơ sở vào Chương trình 135 ở nhiều địa phương đã không đạt yêu cầu như mong muốn: ã Người dân chưa chủ động tham gia vào quá trình lựa chọn, đóng góp, thực hiện các dự án của Chương trình 135, nhất là dự án hạ tầng. ã Người dân có quá ít thông tin về khả năng vốn đầu tư, hướng lựa chọn ưu tiên, ít được tham khảo ý kiến, chưa được tham gia lựa chọn công trình, có nơi người dân không được chia sẻ công việc xây dựng công trình như trong hướng dẫn của Trung ương để dân có việc làm, có thu nhập… ã Phụ nữ, người dân tộc thiểu số hay tự ty, ít chủ động tham gia ã Các tổ chức đoàn thể nhân dân đều yếu kém trong việc tham gia hoạt động thực hiện xây dựng công trình hạ tầng ở xã. Về sở hữu của các hộ gia đình, của cộng đồng đối với các chương trình, dự án rất thấp, do hiểu hết của người dân thấp. Việc thực hiện quy chế dân chủ theo Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị và Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ tuy được đưa vào cơ chế vận hành thực hiện Chương trình nhưng chủ yếu mới là bàn ở HĐND, vẫn còn mang nặng tính hình thức. Có nhiều nơi dân không được tham gia bàn bạc. ở Gia Lai các Đoàn giám sát của Hội đồng Dân tộc khi hỏi dân về Chương trình 135 thì dân đều nói là "không biết". ở Nghệ an đồng bào dân tộc xã Lưu Kiền (Tương Dương), xã Châu Thôn, xã Hạnh Dịch (Quế Phong) cũng cho biét "không được tham gia từ đầu mà chỉ khi xây dựng mới biết". Thường trực HĐND tỉnh Kiên Giang đã nhận xét "một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ nội dung dân chủ, công khai với dân, các công trình tuy được chọn lựa từ cơ sở, nên phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, nhưng chưa được dân bàn triệt để và chưa thực sự rộng rãi, nhiều công trình dân chưa được biết, chưa nắm được mục đích ý nghĩa của Chương trình 135". Có địa phương còn cho rằng công trình Nhà nước đầu tư xây dựng xã chỉ biết chỉ biết nhận công trình sau khi xây dựng xong. Một số xã có đưa dân bàn nhưng không có biên bản của cuộc họp. Vì chưa thực hiện được dân chủ rộng rãi trong dân, nên đã để lại nhiều hiện tượng không tốt: ở Cao Bằng có đến 70% số chợ được giám sát cho thấy khi xây dựng chợ không họp bàn với dân, nên xây xong không có người đến họp. ở huyện Quan Hoá (Thanh Hoá) vì dân không được bàn, dân không biết nên khi tiến hành xây dựng mương thuỷ lợi ở xã Thanh Xuân, diện tích thực tế cần tưới tiêu có gần 1ha, thì được thiết kế 6,7ha (sai gần gấp 7 lần) để phục vụ cho 456 nhân khẩu nhưng thực tế không có hộ nào. Đập và hệ thống dẫn nước phục vụ cho đồng bào dân tộc xã Hiền Kiệt, thiết kế xong thì phát hiện không có nguồn nước. ở huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận) thiết kế xây đập để khai hoang 20ha ruộng nước, thì trong đó chỉ có 19,5 ha đất rừng đã được lập sổ lâm bạ giao cho 2 hộ đồng bào dân tộc thiểu số quản lý trong thời hạn 50 năm. - Về cơ chế tạo việc làm cho dân: Một số địa pưhơng đã "giao toàn bộ khối lượng xây dựng cho các nhà thầu mà không giao cho dân làm làm những công việc có thể làm được". ở Cao Bằng, tuy dân đã tham gia được 127.514 ngày công lao động với mức hưởng lợi gần 5 tỷ đồng, nhưng nói chung là thấp, nhiều việc dân có thể làm được, nhưng chủ yếu là do các doanh nghiệp làm; vì thế đồng bào dân tộc ở hai xã Định Phng (Trùng Khánh) và Thị Hoa (Hạ Lang) đã nói "nhiều việc dân chúng tôi có thể làm được, nhưng không thấy cho làm". ở Lào Cai có thuê dân làm một số phần việc tại một số công trình nhưng trả thù lao quá thấp (8.000 đồng/ngày). Quảng Ngãi thanh toán không kịp thời, không rõ ràng nên dân không làm. Tỉnh Gia Lai số công lao động do dân sở tại thực hiện chỉ bằng 0,1% giá trịcông trình. Nghệ An dân tham gia làm công trình ở một số nơi nhưng cũng chỉ đạt 10% giá trị công trình. Nhiều công trình dân được trả công quá thấp, do các nhà thầu ép giá và chậm thanh toán nên dân không tham gia. Nhiều tỉnh còn giao cho doanh nghiệp tư nhân, cá nhân làm cai thầu các công trình xây dựng, họ thuê dân nơi khác đến làm, công trình kém chất lượng, dân sở tại càng không có việclàm. - Trong thời kỳ bao cấp, cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã làm lu mờ vai trò của người dân, của cộng đồng, cuối cùng đã bị đổ vỡ. Ngày nay công tác kế hoạch hoá đã thay đổi theo định hướng cơ chế thị trường, lấy nhu cầu người dân làm trung tâm của công tác kế hoạch. Tuy vậy tư tưởng bảo thủ, duy ý chí trong quá trình làm kế hoạch vẫn còn nặng trong một bộ phận cán bộ cấp dưới, chủ yếu là xã, huyện. Cấp trên thâu tóm, cấp dưới bị động, dân phải làm theo mệnh lệnh, tạo thành tiềm thức trong người dân nên rất khó sửa. Chương trình XĐGN nói chung, Chương trình 135 nói riêng là một chủ trương đúng, một mặt đưa vai trò người dân lên vị trí làm chủ hoạt động của mình, mặt khác còn có ý nghĩa là tập duyệt để người dân "làm chủ" tiến tới thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" tất cả các hoạt động ở cộng đồng. Thực tế người dân có tham gia nhưng ở mức độ thấp, chỉ mang tính hình thức, chủ yếu là trên áp đặt xuống. Hiện tượng huyện làm thay xã, tâm lý sợ xã không làm được, sợ mất quyền lực của mình; còn xã lại làm thay dân nhưng không đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho dân.. là khá phổ biến. ý thức của người dân là yếu tố nội tại, tác động thường xuyên tới công trình. Dù bất kỳ công trình nào nếu người dân được hướng dẫn đầu tư, gắn được trách nhiệm của họ với công trình thì việc bảo vệ được tốt hơn. ở rải rác các xã, nhiều công trình xây dựng đã bị hư hỏng do con người gâynên, các hoạt động như thả rông gia súc, kéo gỗ, dùng xe quyệt, đào mương lấy nước tuỳ tiện là việc làm mang tính bản năng của con người vùng cao, trở thành tập quán trong sinh hoạt đời thường của bà con đồng bào dân tộc. Do sự hiểu biết, do tập quán sinh hoạt và do tính e dè ngại va chạm, tránh đấu tranh của phần lớn đồng bào dân tộc trong các thôn bản là những nguyên nhân gây khó khăn cho việc bảo vệ bất cứ loại công trình nào trên địa bàn. B.Chính sách chung 1.Chính sách giải quyết đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn tình trạng thiếu đất sản xuất vẫn khá phổ biến và kéo dài trong nhiều năm liền.Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ nhưng kết quả chưa thật sưj khả dĩ.Tại các tỉnh tây nguyên trong hai năm 2003-2004 thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg ngày 8/10 của Thủ tướng Chính Phủ về giải quyết đất cho sản xuất ,đất ở cho đồng bào thiểu số đã điều tra ra nhu cầu đất là 60000 ha,với tổng kinh phí 260 tỷ đồng ,ước tính cuối năm 2005 thực hiện 250 tỷ đồng .Trong chương trình 135 ,năm 2001 Chính phủ đã đồng ý với đề nghị của các tỉnh ,bổ sungg danh mục khai hoang vào dự án hạ tầng ,kết quả thực hiện theo báo cáo của UBDT chỉ đạt 2,44% trong tổng khối lượng và 0,7% về tổng số vốn đầu tư của dự án .Nguyên nhân đạt thấp là do không còn đất về khai hoang hoặc phải đầu tư khá lớn ,kể cả làm thuỷ lợi nên không còn đủ kinh phí để thực hiện. Hiện nay ở các tỉnh có dân tộc thiểu số đang rà soát ,lựa chọn các đối tương có đất sản xuất ,đất ở theo quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7 của thủ tướng chính phủ ,mục tiêu thực hiện trong 2 năm 2005-2006,nhưng theo nhiều người dự đoán 2 năm sẽ không giải quyết được vì đất hết sức hiếm và đầu tư rất tốn kém. Như vậy chính sách cung cấp đất sản xuất ,đất ở cho đồng bào các dân tọc thiểu số dã được chính phủ quyết định ,vấn đề đặt ra là trách nhiệm của từng địa phương ,địa phương nào chỉ đạo không tích cực thì thì dân vẫn thiếu đất ,tình trạng du canh ,di cư thì vẫn khó kiềm chế. Về phía nhà nước thì khi đã đưa ra quyết định này thiết nghĩ không chỉ là quyết định đơn thuần mà phải có những biện pháp chỉ đạo thực hiện được phân cấp một cách chặt chẽ ,tức là phải có sự thống nhất từ trên xuống tránh tình trạng địa phương tự do tiến hành công việc của mình một cách tuỳ tiện thiếu minh bạch.Theo tôi nhà nước phải đưa ra một hệ thống chỉ tiêu rõ ràng quy định trách nhiệm cho các cấp để công việc được tiến hành một cách có hệ thống .Thực tế thì việc quản lý về đất ở các vùng đặc biệt khó khăn ,vùng dân tộc thiểu số là không hề dễ dàng một tý nào vì những lý do về địa hình ,phân bố dân cư nhân khẩu…Nhưng về phía chính quyền các địa phương nói riêng và nhà nước nói chung cần có những quy hoạch bố trí dân cư hợp lý,quản lý chặt chẽ về nhân khẩu hộ khẩu.Tích cực vận động bà con định canh định cư ổn định sản xuất vàd sử dụng đất một cách hợp lý tránh tình trạng phá nương đốt rẫy,để đất hoang. 2.Nâng cao năng lực quản lý ,thực hiện chương trình Thực tế thì chương trình 135 khi được thực hiện tại các xã đặc biệt khó khăn thì thường do các cán bộ địa phương trực tiếp quản lý và điều hành.Các cán bộ này ngày càng được giao quản lý vốn đầu tư nhièu hơn,tiếp nhận phân cấp phân quyền ngày càng nhiều hơn.Nhưng phần lớn trình độ quản lý các cán bộ địa phương còn hết sức hạn chế nên thiết nghĩ nhà nước cần có những lớp tập huấn công tác chỉ đạo chương trình cho các cán bộ này bằng cách các tỉnh các huyện cử ra những người có kinh nghiệm và những người có chuyên môn và trình độ cao trực tiếp huấn luyện giảng dạy.Mặt khác phải tổ chức báo cáo kế hoạch của UBND các cấp với HĐND cùng cấp .Đây là nhiệm vụ được quy định cho cả ba cấp tỉnh ,quận huyện thành phố và xã;nhằm công khai dân chủ hóa việc phân bổ và giao chỉ tiêu kế hoạch cũng như huy động những sáng kiến đóng góp của toàn dân vào việc tổ chức thực hiện kế hoạch.Vì vậy UBND tỉnh,thành phố ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là báo cáo đầy đủ các chỉ tiêu kế hoạch được chính phủ giao với HĐND tỉnh,thành phố ,cần chỉ đạo UBND các huyện và xã làm tốt việc báo cáo kế hoạch với HĐND cùng cấp để tạo ra sự nhất trí và phối hợp của HĐND nhằm đảm bảo tính dân chủ và tính khả thi cao cho việc thực hiện kế hoạch ở các cấp trong tỉnh.Tổ chức kiểm tra là nhiệm vụ đã được quy định trong thông tư cho UBND tỉnh,thành phố ,các sở ban ngành chuyên môn trong tỉnh.Đây là một khâu quan trọng cuẩ quản lý và điều hành của chương trình 135 vì dặc trưng của chương trình là nó mang tính độc lập cao.Nhưng trong thực tế thực hiện chương trình đây là một trong những khâu yếu nhất ,nhiều lúc chương trình 135 đẻ thất thoát vốn rất cao do các cấp không có sự chỉ đạo sát sao và buông lỏng khâu kiểm tra.Vì vậy kết hợp giữa tập huấn và đôn đốc kiểm tra là giải pháp cơ bản để thực hiện chương trình có hiệu quả trong thời gian tới. 3.Hoàn thiện chính sách huy động và sử dụng vốn của chương trình Chương trình 135 thực hiện thực hiện trong 1999-2005 được huy động khá nhiều nguồn vốn đầu tư :NSNN,hỗ trợ từ các bộ ,ngành ,hỗ trợ từ ngân sách các địa phương khá ;từ vốn của các tổng công ty 91,của các doanh nghiệp ,vốn đóng góp của các cá nhân,vốn ODA…Tuy nhiên trong giai đoạn đầu,các đơn vị các cơ quan đang có phong trào thì hoạt động khá hơn ,nhưng thời gian sau thì nguồn vốn ngày càng có xu hướng giảm xuống và nhiều địa phương bị khống chế bởi luật ngân sách nên khó có điều kiên giúp đỡ các tỉnh nghèo,xã nghèo như trước đây,nguồn đóng góp trong dân cư cũng giảm dần.Điều đó đã khẳng định về lâu về dài thì nguồn vốn từ ngân sách vẫn là nguồn vốn quyết địnhvà không thể thiếu.Vì vậy chính phủ cần có chính sách tăng cường hỗ trợ nhiều hơn và phải chỉ đạo cho các địa phương cần năng động trong việc kêu gọi và thu hút các nguồn vốn đầu tư,dặc biệt cần huy động cao hơn từ nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý.Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước ,cần huy động thêm vốn tín dụng trong và ngoài nước ,huy động sự đóng góp của các tổ chức ,cá nhân.Đối với nguồn vốn huy động từ nhân dân ,cơ quan quản lý chương trình và UBND các tỉnh ,thành phố trực thuộc Trung ương nơi thực hiện chương trình được sử dụng vào các công việc thuộc nội dung chương trình và thanh quyết toán theo các quy định hiện hành. 4.Tiếp tục phân cấp cho các địa phương và cơ sở nhưng phải đảm bảo tính đồng bộ thống nhất Chương trình 135 là chương trình đầu tiên thực hiện phân cấp cho địa phương và cơ sở .Do năng lực cán bộ xã còn hạn chế nên các năm qua mới phân cấp cho cấp huyện làm chủ đầu tư dự án là chủ yếu ,cá biệt có Tuyên Quang có đội ngũ cán bộ khá hơn và do chủ trương mạnh mẽ hơn nên ngay từ đầu đã phân cấp cho xã làm chủ đầu tư.Những căn cứ để có thể phân cấp chủ đầu tư chủ dự án là: UBND xã là cấp chính quyền gần dân nhất ,am hiểu địa hình ,quá trình phát triển kinh tế –xã hội của xã và từng thôn bản ,am hiểu tâm tư nguyện vọng của dân,nguyên vọng và gắn bó với nhân dân,có điều kiện hiểu nhu cầu cấp thiết của nhân dân,lợi ích kinh tế ,tính hiệu quả của mỗi công trình đầu tưcho xã.UBND xã là cấp chính quyền trực tiếp tổ chức huy động nguồn lực tại chỗ (lao động, đất đai,vật liệu xây dựng…)do nhân dân đóng góp theo quy định đẻ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã.Đồng thời là cấp trực tiếp thực hiện dân chủ,công khai ở các cơ sở nói chung và dân chủ công khai theo chương trình 135 nói riêng. Công trình 135 như : kiên cố hoá kênh mương nội đồng,khai hoang đất sản xuất ,đường giao thông ,các trường học bệnh việnthường có quy mô nhỏ thường là dưới 1 tỷ đồng,tính chất kỹ thuật không phức tạp vì thế đội ngũ cán bộ xã co thể đáp ứng được .Nừu được đào tạo tốt hơn có thể hoàn thành tốt công việc này. Việc phân cấp quản lý những công trình không phức tạp ,mức vốn đầu tư không cao đ]ợc thực hiện theo cơ chế đặc biệt,đẽ làm phù hợp với khả năng cán bộ cấp xã và có thể phân cấp thêm nữa. Tuy nhên việc phân cấp không nên quá độc lập vì như thế có thể tạo ra thế địa phương cục bộ và nếu cấp trên không giám sát chỉ đạo và đôn đốc kịp thời sẽ tạo ra lỗ hõng để một số thành phần đục khoét ngân sách nhà nước và mang thiệt hại cho nền kinh tế.Tóm lại có thể phân cấp môt cách sâu nhưng đồng thời phải có sự chỉ đạo sát sao của nhà nước,của chính quyền cấp trên.Như vậy thì mới đảm bảo được tính phân cấp và tính thống nhất của chương trình. C. Một số khuyến nghị 1.Tiếp tục đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và chương trình 135 giai đoạn 2006-2010 Các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn(135) từ khi được thực hiên đến nay đã mang lại nhiều hiệu quả to lớn,nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức thu nhập cho đồng bào các dân tộc thiểu số nâng cao thêm một bước trình độ văn hoá cũng như trình độ thưởng thức văn hoá…Tuy nhiên nếu so với các vùng kinh tế trọng điểm thì các tỷ lệ nay chỉ giống như rùa và thỏ,vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa vùng ngược và vùng xuôi,giữa đồng bằng và miền núi,nếu không có những biện pháp kịp thời thì hố sâu ngăn cách giàu nghèo sẽ ngày càng lớn hơn và điều đó là không tốt một tý nào cho công cuộc xây dựng nền kinh tế thi trường định hướng XHCN.Vì vậy việc tiếp tục thực hiện chương trình này là một điều không thể bàn cãi.Tuy nhiên để thực hiện chương trình trong giai đoạn mới này cần phải tiến hành một số điều chỉnhnhư phải đánh giá mức sống của dân cư ở thời điểm hiện tại,điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư cho phù hợp với đặc điểm của dân cư ,cần tiến hành phân cấp các xã nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp với xu thế chung của toàn cầu.Bên cạnh về phát triển kinh tế và văn hoá thì một điều rất cần được chú trọng là công tác an ninh quốc phòng cho các vùng này.Do đặc điểm về địa hình phức tạp cộng với trình độ văn hoá hạn chế nên các thế lực xấu,các thế lực phản động ra sức lôi kéo đồng bào các dân tộc làm những việc quấy rối làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.Đây là một điều vô cùng nguy hiểm vì nó trực tiếp tác động tới tư tưởng của người dân và tạo ra một làn sóng tư tưởng vô cùng nguy hiểm trong lòng các dân tộc thiểu số. Hết 2005 kết thúc Chương trình 135 thời kỳ 1998-2005 ,nhưng tình trạng các xã đặc biệt khó khăn vẫn khá phổ biến và mức sống của những vùng này so với vùng khác vẫn còn một khoảng cách khá lớn,tình hình về trình độ văn hoá vẫn ở mức thấp,công tác khám chữa bệnh chưa được cải thiện nhiềuvì vậy cần phải tiếp tục thiực hiện chương trình. 2.Cần có chính sách huy động, sử dụng lao động đã qua đào tạo Hiện nay nguồn lao động trẻ co thể nói là đang bị lãng phí một cách rất đáng tiếc.Nguồn lao động trẻ đã đươc qua đào tạo tại các trường đại học,cao đẳng,trung học chuyên nghiệp hay các trung tâm học nghề đang bị dư thừa khá lớn cung lao động lớn hơn cầu lao động .Nguồn lao động này là lực lượng mà các tỉnh thuộc chương trình 135 có thể tận dụng.Muốn vậy tỉnh phải có những chính sách thu hút và đãi nghộ xứng đáng để đội ngũ này đi về các thôn bản làm việc tại các xã đặc biệt khó khăn,các xã thuộc diện chương trình 135.Về nguyên tắc chúng ta phải tuyển dụng một cách rõ ràng tuy nhiên khi họ đã có một thời gian công tác tại nhất định thuộc chương trình thì sau khi kết thúc theo giai đoạn có thể tuyển họ vào các sở ban ngành của tỉnh.Nói chung ban đầu mới tuyển lực lượng này về cần phải đào tạo ,tập huấn cho họ quen những công việc của chương trình.Lực lượng rât quan trọng nữa là học sinh tại các trường dân tộc nội trú.Lực lượng này sau khi học xong phổ thông trung học thì có thể là họ sẽ học lên đại học lực lượng còn lại thì ban quản lý dự án có thể tuyển dụng.Đây là lực lượng người dân tộc nên họ rất am hiểu bà con ,rất am hiểu địa hình ,am hiểu các thế mạnh,những điều thiết yếu đối với bà con,mặt khác họ cũng có chút kiến thức so với mặt bằng dân trí ở đây nên đây là lực lượng rất phù hợp với công việc của chương trình.Bên cạnh đó chúng ta có thể lấy những cán bộ đương chức tại các thôn bản để đi tập huấn đào tạo tại các trung tâm trong tỉnh trong khoảng thời gian từ 3-6 tháng.Lực lượng này có ưu điểm là có kinh nghiệm có cuộc sống gần gủi với bà con thôn bản nên họ hiểu được tâm tư nguyện vọng của bà con nên sử dụng lực lượng này là rất cần thiết. Tóm lại cần huy động và sử dụng tối đa lực lượng lao động có trình độ tại các địa phương thì dự án sẽ phát huy hiệu quả một cách cao hơn. Kết Luận Đất nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt đã để lại những tàn tích nặng nề,thêm vào đó là tập tục canh tác lạc hậu đã làm cho một bộ phận dân cư ở các vùng sâu vùng xa có một sự tụt hậu khá xa so với các vùng khác.Hơn thế nữa địa hình trắc trở khiến cho bộ phận nay càng tụt hậu xa hơn trong phát triển kinh tế và văn hoá.Bước vào nền kinh tế thị trường càng làm cho quá trình tụt hậu và phân hoá giàu nghèo trở nên lớn hơn.Xoá đói giảm nghèo bây giờ không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của toàn dân.Chương trình 135 ra đời đã cố găng giải quyết vấn đề đó Trong thời gian qua thực hiện chương trình này đã có những ảnh hưởng khá tích cực tuy nhiên vẫn còn không ít tồn tại.Đề tài nghiên cứu của tôi đã chỉ rõ thực trạng ,thành công và hạn chế trong việc thực hiện chương trình.Có thể nói trong thời gian qua nền kinh tế của các địa phương thộc phạm vi chương trình đã có những bước tiến đáng kể,đời sống văn hoá được cải thiện,cơ sở hạ tầng của các địa phương này đã được năng lên từng bước.Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết.Trước mắt là vấn đề về nâng cao năng năng lực quản lý và thực hiện các công trình,xa hơn là vấn đề duy trì và nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn cho chương trình.Thiết nghĩ vấn đề bây giờ là không nên làm theo phong trào mà phải có những sự quyết tâm nỗ lực trong việc thực hiện chương trình,kết hợp giữa nhà nước và nhân dân cùng làm.Xây dựng được những công trình thiết thực hơn nữa.Bước vào chu kỳ phát triển mới tôi nghĩ rằng chương trình cần tiếp tục được thực hiện và thực hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa nhằm thực hiện phương châm phát triển cân đối nền kinh tế,xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đề tài của tôi nghiên cứu do còn hạn chế trong phần tư liệu và kiến thức nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.Tôi mong nhận được đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo và các bạn để lần sau co thể hoàn chỉnh tôt hơn.Nhân đây ,một lần nữa tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo,các cô chú ở vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ thuộc bộ kế hoạch và đầu tư;đặc biệt là cô giáo Nguyễn thị Aí Liên đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo ngày 5/7/1997 của vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ kế hoạch và đầu tư 2. Các quyết định của thủ tướng chính phủ liên quan đến chương trình 135 3. Giáo trình kinh tế đầu tư-Nguyễn Bạch Nguyệt –Bộ môn kinh tế đầu tư 4. Chính sách dân tộc:Những vấn đề lý luận và thực tiễn.Nhà xuất bản sự thật 5. Uỷ ban dân tộc miền núi:Chương trình phát triển kinh tế –các xã đặc biệt khó khăn,vùng sâu vùng xa vùng dân tộc thiểu số.Tài liệu phục vụ hội nghị toàn quốc triển khai chương trình 135. 6. Báo cáo ngay 06/4/2001 của uỷ ban dân tộc miền núi về đè cương tổng kết hội nghị tổng kết chương trình 135 7. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Việt nam xuất bản năm 2002 8. Quyết định 53/TTg ngày 8/8/1996 của tướng chính phủ về quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia. 9. Quyết định 135/1998 /QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chương trình phát triển knh tế –xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu vùng xa. 10. Báo cáo tình hình thực hiện chương trình 135 của các tỉnh từ 1999-2003. Cơ cấu đầu tư chương trình theo 135 theo vùng Vùng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Quy mô Tốc độ tăng trưởng (%) Quy mô Tốc độ tăng trưởng (%) Quy mô Tốc độ tăng trưởng (%) Quy mô Tốc độ tăng trưởng (%) Quy mô Tốc độ tăng trưởng (%) Quy mô Tốc độ tăng trưởng (%) Đông bắc 178,8 260 45,41 284,5 9,42 441,4 55,15 572,5 29,79 612,76 7 ĐBSH 9,49 11,82 24,5 15,8698 34,6 24,7 55,6 34,8 40,8 38,4 10 Tây Bắc 62,22 80,46 38,96 92,3296 6,78 149,4 61,8 191,2 27,9 205,584 7,5 Bắc trung bộ 70,5 100,52 42,58 115,3 14,7 180,7 56,7 235,2 30,16 281,65 19,74 DH Miền Trung 45,8 66,66 45,54 74,75 12,1 115,6 5,46 135,8 17,6 145,2 6,9 Tây Nguyên 48,48 72,498 49,5 75,851 4,6 122 60,84 158 29,5 167,06 5,7 ĐNB 14,5 24,94 72 26,59 6,6 31,3 17,7 40,8 30,35 42,65 4,5 ĐB sông Cửu Long 50,1 65,102 50,19 71,8 10,23 872 21,44 103,1 18,23 125,6 21,82 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT160.doc
Tài liệu liên quan