MỤC LỤC
Mục lục …………………………………………...………..…………………………………………..…………………………...………..……………………………………………..………1
Lời cảm ơn………………………………...………..…………………………………………..…………………………...………..……………………………………………….………4
Lời nói đầu………………………………...………..…………………………………………..…………………………...………..………………………………………………………5
Chương I: Lý luận chung về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp..…………………………………………..…………………………...………..………………………………………………………..8
Lý luận chung về đòn bẩy tài chính……………………...………..………………………………………………
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty Vận tải ô tô số 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
……….8
Khái niệm…………………...………..…………………………………………..…………………………...………..…………………………………………………………8
Khái niệm đòn bẩy tài chính………..…………………………...………..…………………………………………………………..8
Khái niệm độ bẩy tài chính……………..…………………………...………..……………………………………………………..10
Công thức tính độ bẩy tài chính…………..…………………………...………..……………………………………………………11
Vai trò của đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp…………………………………..13
Hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính……………………...………..…………………………………………………..15
Các quan điểm và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính…………………...………..…………………………………………..…………….………………………...………..…………………………………………………………15
Các quan điểm về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính…………………………..15
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính………………..17
Rủi ro tài chính..…………………………………………..…………….………………………...………..……………………………………………………….21
Mối quan hệ giữa EPS với EBIT và điểm bàng quan…………………………………………..24
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính…………28
Các nhân tố chủ quan……………..…………….………………………...………..…………………………………………………………28
Các nhân tố khách quan……………..…………….………………………...………..………………………………………………….31
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính.…………………………………………..…………….………………………...………..…………………………………………………………………………….32
Chương II: Phân tích đánh giá tình hình sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3……………...………..…………………………………………………………………………….34
Giới thiệu chung về Công ty vận tải ô tô số 3……………………………………………………...34
Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty………………………………………………………………..34
Lịch sử hình thành…..…………….………………………...………..……………………………………………………………………………...34
Quá trình phát triển…………….………………………...………..……………………………………………………………………………..35
Chức năng nhiệm vụ của Công ty………...………..……………………………………………………………………………..36
Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty………...………..……………………………………………………………………..37
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty vận tải ô tô số 3………………………………..38
Sản phẩm của Công ty vận tải ô tô số 3…..…………………………………………………………………38
Đặc điểm quá trình sản xuất ra sản phẩm…..………………………………………………………….38
Phân tích tình hình hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3…..……………………………………………………………………………………………………………………………………..39
Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty……………………………………………………………………39
Tình hình tài chính của Công ty………………………………………………………………………………………………………41
Phân tích hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của Công ty…………………………45
Tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính …………………………………………………………………………………………………………………………………..………………………………….…45
Tình hình rủi ro tài chính của Công ty…………………………………..……………………………………..50
Các điểm bàng quan……………………………………………………………………………………..………………………………………52
Đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính……………..………………………………………54
Những kết quả đã đạt được……………..………………………………..……………………………………………….……………………54
Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân cần khắc phục…………….……….…………54
Những mặt còn hạn chế……………..………………………………..……………………………………………….…………………..54
Nguyên nhân…………..………………………………..……………………………………………….…………………………………………………….55
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bây tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3…………………………………..………57
Định hướng của Công ty trong thời gian tới…………………………………………………………...57
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính…………..………………………………..……………………………………………….……………………………………………………………………………………..61
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy hoạt động…………………………….61
Giải pháp nâng cao và gia tăng việc sử dụng nợ………………………………………………...…… 63
Giải pháp nâng cao năng suất lao động……………………………………………….......................................……….64
Một số kiến nghị………..……………………………………………….…………………………………………………………………………...………..65
Kiến nghị với Nhà nước……………………………………….…………………………………………………………………………...………..65
Kiến nghị với cơ quan chủ quản……………………………………….…………………………………………………...………..67
Kiến nghị với ban lãnh đạo Công ty……………………………………….………………………………………...………..68
KẾT LUẬN……………………………………….……………………………………………………………………………………………………..………………………...………..70
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….……………………………………………...…………………………………...………..71
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các cán bộ trong Công ty vận tải ô tô số 3, ở đây tôi đã được học hỏi thêm nhiều điều về thực tế, nó rất khác so với lý thuyết tôi đã được học ở trường. Qua thời gian thực tập tại Công ty tôi nhận thấy điểm còn bất cập trong quản lý tài chính tại Công ty và tôi đã mạnh dạn phát triển thành đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Để phối kết hợp giữa những gì đã được học ở trường và thực tế tại Công ty thì quả là một việc hết sức khó khăn. Nhưng bù lại tôi lại có kiến thức và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ trong Công ty vận tải ô tô số 3. Các thầy cô giúp đỡ tôi về mặt kiến thức lý thuyết còn các cán bộ trong Công ty lại giúp đỡ tôi về mặt thực tế.
Tôi sẽ khó mà có thể hoàn thành tốt luận văn của mình nếu thiếu đi sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa và các cán bộ trong Công ty vận tải ô tô số 3. Tôi xin chân thành cảm ơn mọi sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, cán bộ trong Công ty, bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này. Và đặc biệt hơn nữa là tôi rất biết ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo TS Phan Thị Thu Hà. Đây là người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính và cán bộ trong Công ty vân tải ô tô số 3!
LỜI NÓI ĐẦU
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, song trong những yếu tố đó phải kể đến yếu tố cực kỳ quan trọng đó là vấn đề quản lý tài chính doanh nghiệp. Quản lý tài chính doanh nghiệp có vai trò hết sức to lớn đối với mỗi doanh nghiệp, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng thấy được vai trò của nó. Một doanh nghiệp quản lý tài chính không tốt sẽ dẫn đến rất nhiều nguy cơ đối với doanh nghiệp chẳng hạn như sử dụng vốn không hợp lý gây thiệt hại cho doanh nghiệp, huy động vốn không phù hợp với tình hình doanh nghiệp làm cho hiệu quả sử dụng vốn bị giảm sút, nếu quản lý tài chính không tốt là nguy cơ đi đến phá sản doanh nghiệp …
Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung thì các doanh nghiệp chỉ việc làm theo kế hoạch của Nhà nước, họ không cần quan tâm đến kết quả kinh doanh, vốn do Nhà nước cấp, nợ do Nhà nước đứng ra chịu, nếu có lợi nhuận cao thì họ cũng nộp cho Nhà nước mà thua lỗ thì Nhà nước lại bù. Chính vì thế mà trong thời kỳ này việc quản lý tài chính trong các DNNN là không được chú trọng nhiều. Nhưng sau khi đổi mới kinh tế thì các DNNN đã phải thích ứng dần với nền kinh tế thị trường, họ phải tự hạch toán thu chi, Nhà nước không còn can thiệp sâu vào công việc kinh doanh của họ sâu như trước nữa. Đến lúc này thì không một doanh nghiệp nào là không thấy được vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp, đây là hoạt động mà có tác động trực tiếp tới kết quản kinh doanh một cách mạnh mẽ. Các doanh nghiệp đang dần đổi mới trong quản lý tài chính doanh nghiệp để đáp ứng với những yêu cầu thay đổi, môi trường kinh doanh, cũng như chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Với tình hình chung như vậy thì Công ty vận tải ô tô số 3 cũng đang dần tự hoàn thiện để không ngừng ổn định tài chính và đưa Công ty ngày càng phát triển bền vững hơn. Tuy nhiên việc đổi mới về các vấn đề tài chính trong Công ty còn rất chậm và nhiều hạn chế. Sau thời gian thực tập tại Công ty tôi nhận thấy rất rõ điều này và tôi muốn góp một phần sức lực cũng như trí tuệ của mình để cùng với Công ty thúc đẩy quá trình tự đổi mới quản lý tài chính.
Trong cơ học chúng ta đã quen thuộc với khái niệm đòn bẩy như là một công cụ để khuếch đại lực nhằm biến một lực nhỏ thành một lực lớn hơn tác động vào vật thể chúng ta cần dịch chuyển. Nhưng trong kinh doanh người ta mượn thuật ngữ “đòn bẩy” để ám chỉ việc sử dụng chi phí cố định (fixed cost), nợ (debt) làm gia tăng khả năng sinh lợi của Công ty. Trong đề tài này chúng ta sẽ khám phá những nguyên lý sử dụng đòn bẩy tài chính (financial leverage) trong quản trị tài chính doanh nghiệp. Với đề tài tốt nghiệp là Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3 tôi mong muốn rằng nó sẽ phần nào tác động tốt tới hướng đổi mới của Công ty. Trong luận văn tốt nghiệp này của tôi bao gồm những nội dung chính như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp. Nội dung chính trong chương là đề cập đến các vấn đề lý luận chung về đòn bẩy tài chính và hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính. Đây là chương mang tính cơ sở khoa học, nói về mặt lý thuyết của đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp làm cơ sở lý luận để kết hợp với thực trạng trong chương II từ đó mà có hướng giải quyết và khắc phục hạn chế trong Công ty.
Chương II: Thực trạng về việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3. Đây là chương nói về các thực trạng ở Công ty vận tải ô tô số 3, chương này cung cấp các thông tin thực tế để kết hợp với chương I nhằm đi đến những giải pháp trong chương III.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3. Trong chương này là chương kết hợp của hai chương trước, đó là sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế qua phân tích từ đó có thể đưa ra các giải pháp, các kiến nghị để giúp cho Công ty nâng cao được hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính nói riêng và hiệu quả quản lý tài chính nói chung.
Luận văn này là sự kết hợp giữa lý thuyết đã được học ở trường và thực tế tại cơ quan thực tập, song do kiến thức lý thuyết còn có hạn, thời gian tìm hiểu về thực tế chưa nhiều nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi kính mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo mà đặc biệt là cô giáo TS. Phan Thị Thu Hà.
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP
Đòn bẩy tài chính là gì, nó được thể hiện như thế nào trong các doanh nghiệp, vai trò của nó cũng như những vấn đề có liên quan đến nó sẽ được đề cập chi tiết trong chương này. Đây là chương làm rõ các khái niệm có liên quan đến đòn bẩy tài chính, nội dung và các vấn đề khác thuộc về đòn bẩy tài chính để làm nền tảng lý luận cho việc nghiên cứu thực tế rồi từ đó có thể đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp. Nghiên cứu đòn bẩy tài chính có lợi ích gì? Tại sao phải nghiên cứu đòn bẩy tài chính?
Lý luận chung về đòn bẩy tài chính
Khái niệm
Khái niệm đòn bẩy tài chính
Với khái niệm đòn bẩy thuần tuý trong vật lý cơ học chúng ta đã rất quen thuộc thì ta có thể hiểu nó là một công cụ để khuyếch đại lực từ một lực nhỏ thành một lực lớn hơn tác động vào vật thể cần dịch chuyển nhờ vào cánh tay đòn và điểm tựa. Có một nhà vật lý từng nói: “ Cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng bổng trái đất”. Từ đó để ta có thể thấy được sức mạnh của đòn bẩy, trong kinh tế người ta mượn thuật ngữ đòn bẩy để ám chỉ việc sử dụng chi phí cố định để làm tăng khả năng sinh lợi của doanh nghiệp.
Đòn bẩy tài chính được hiểu như là mức độ theo đó các chứng khoán có thu nhập cố định (như nợ và cổ phiếu ưu đãi) được sử dụng trong cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Đòn bẩy tài chính là việc sử dụng chi phí tài trợ cố định (nợ và cổ phần ưu đãi) để nhằm nỗ lực gia tăng lợi nhuận cho cổ đông (EPS). Đặc điểm của vốn cổ phần ưu đãi là khi chia cổ tức ưu đãi thì luôn luôn xác định trước cho dù lợi nhuận sau thuế có cao hay thấp đến mức nào, đây chính là nhân tố gây nên sự khuyếch đại cho thu nhập trên vốn cổ phần thường. Mặc dù có tác động khuyếch đại cho thu nhập trên vốn cổ phần thường tương tự như nợ. Tuy nhiên nó vẫn có một số điểm khác so với các khoản nợ chẳng hạn như cổ tức ưu đãi không được tính vào chi phí nên vốn cổ phần ưu đãi không tạo ra khoản tiết kiệm nhờ thuế. Giả sử thu nhập sau thuế quá thấp thì có thể cổ tức ưu đãi thấp xuống, thậm chí là không thể trả cổ tức ưu đãi mà doanh nghiệp không bị mắc nợ thêm, phần chưa hoàn trả đủ cổ tức ưu đãi, khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì với những khoản nợ có thể buộc doanh nghiệp phải đi đến phá sản còn với vốn cổ phần ưu đãi thì không. Đối với những khoản nợ thì doanh nghiệp luôn phải chịu trách nhiệm hoàn trả, điều này là bắt buộc và theo luật định. Mặt khác thì khi doanh nghiệp sử dụng cổ phần ưu đãi thì những cổ đông ưu đãi lại là chủ sở hữu của doanh nghiệp chứ không phải là các chủ nợ, chính vì thế khi ra các quyết định tài chính thì các nhà quản trị tài chính cần quan tâm đến điều này. Việc sử dụng nợ không gây ra sự phân chia quyền lực trong doanh nghiệp, trong khi sử dụng cổ phần ưu đãi thì việc phân chia quyền lực là khó có thể tránh khỏi.
Nguyên lý của đòn bẩy tài chính:
+ Đối với nợ, khi doanh nghiệp sử dụng nợ thì doanh nghiệp luôn luôn phải trả lãi vay, và khoản chi trả lãi vay này lại được tính vào chi phí trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó nó tạo nên một khoản tiết kiệm nhờ thuế, nên chi phí lãi vay sau thuế chỉ còn là I(1 - t). Nếu thu nhập trước thuế và lãi vay tăng lên thì rõ ràng là chi phí lãi vay không thay đổi Trong thực tế khi sử dụng càng nhiều nợ thì lãi suất sẽ tăng lên. Nhưng trong trường hợp này để cho đơn giản nên ta giả sử trong trường hợp khi gia tăng sử dụng nợ thì lãi suất sẽ không bị tăng lên.
do đó mà phần lợi nhuận trên vốn cổ phần thường sẽ tăng lên. Vì số lượng cổ phiếu không đổi trong khi lợi nhuận sau thuế lại tăng. Nhưng nếu thu nhập trước thuế và lãi vay mà giảm thì tác động của đòn bẩy tài chính lại ngược
lại lúc đó chi phí lãi vay vẫn không giảm trong khi thu nhập trước thuế và lãi vay lại bị suy giảm do đó mà làm cho thu nhập trên cổ phần thường bị suy giảm.
+ Đối với vốn cổ phần ưu đãi, thì do đặc điểm của cổ phần ưu đãi là luôn nhận một lượng cổ tức nhất định và biết trước nên rất thuận lợi trong việc lập kế hoạch tài chính. Chính vì cổ tức ưu đãi là cố định nên khi thu nhập sau thuế mà tăng lên thì cổ tức ưu đãi chi trả cho cổ đông ưu đãi sẽ không tăng nên nó làm cho thu nhập trên vốn cổ phần thường tăng lên. Trong trường hợp thu nhập sau thuế bị giảm thì lại làm cho thu nhập trên vốn cổ phần thường bị giảm do cổ tức ưu đãi được chi trả trước cổ tức cổ phiếu thường và nó lại cố định. Dẫn đến hậu quả là thu nhập trên vốn cổ phần thường bị giảm sút.
Khái niệm độ bẩy tài chính (Degree of Financial Leverage: DFL)
Nếu chỉ có khái niệm về đòn bẩy tài chính không thi chắc rằng không thể hiểu đầy đủ về các khái niệm liên quan đến đòn bẩy tài chính. Vì vậy mà khái niệm về độ bẩy tài chính là một khái niệm rất quan trọng. Mặc dù khái niệm về đòn bẩy tài chính mang tính định tính nhiều hơn định lượng thì trong khái niệm về độ bẩy tài chính lại là một chỉ tiêu định lượng dùng để đo lường mức độ biến động của thu nhập trên cổ phần thường khi thu nhập trước thuế và lãi vay thay đổi. Độ bẩy tài chính ở mức độ thu nhập trước thuế và lãi vay nào đó được xác định như là phần trăm thay đổi của thu nhập trên cổ phần thường khi thu nhập trước thuế và lãi vay thay đổi 1%, độ bẩy của đòn bẩy tài chính nó thể hiện sức mạnh của đòn bẩy tài chính đó, hay nó chính là khả năng khuyếch đại thu nhập trên vốn cổ phần thường khi thu nhập trước thuế và lãi vay thay đổi. Chính vì thế mà công thức xác định độ bẩy tài chính được xác định như ở phần sau.
Công thức tính độ bẩy tài chính
Theo khái niệm về độ bẩy tài chính ở phần trên ta có công thức tính độ bẩy tài chính như sau:
Một số ký hiệu:
I là chi phí lãi vay
EPS (Earning per share) là thu nhập trên mỗi cổ phần thường
EBIT là thu nhập trước thuế và lãi vay
PD là cổ tức ưu đãi
NS là số lượng cổ phần thường
1.1)
(1.2)
Như chúng ta biết:
EPS = [(EBIT - I)(1- t) - PD]/NS (1.3)
Vì I và PD là hằng số nên I và PD bằng 0, nên ta có:
(1.4)
(1.5)
Từ đó suy ra:
(1.7)
(1.8)
Nên công thức tính độ bẩy tài chính được tính như sau:
(1.9)
(2.1) (2.2)
Chia cả tử và mẫu cho (1 - t) ta được:
(2.3)
Đây là trường hợp trong cơ cấu vốn có cả vốn cổ phần ưu đãi, nhưng nếu trong trường hợp không có vốn cổ phần ưu đãi trong cơ cấu vốn thì công thức tính độ bẩy tài chính đơn giản hơn nhiều và độ bẩy tài chính được tính theo công thức sau:
(2.4)
Từ công thức 2.3 và công thức 2.4 ta có thể thấy độ bẩy của đòn bẩy tài chính trong hai trường hợp: Có dùng vốn cổ phần ưu đãi và không dùng vốn cổ phần ưu đãi trong cơ cấu nguồn vốn là khác nhau.
+ Nếu chi phí trả cổ tức ưu đãi (PD) lớn hơn phần tiết kiệm nhờ thuế do sử dụng nợ (1 - t).I thì ta có:
(2.5)
(2.6)
(2.7)
(2.8)
Từ công thức 2.8 ta dễ dàng suy ra rằng độ bẩy của đòn bẩy tài chính khi sử dụng vốn nợ và cổ phần ưu đãi trong cơ cấu vốn sẽ lớn hơn trong trường hợp không sử dụng vốn cổ phần mà chỉ sử dụng nợ trong trường hợp chi phí trả cổ tức lớn hơn phần tiết kiệm nhờ thuế do sử dụng nợ.
+ Nếu chi phí trả cổ tức cổ phần ưu đãi (PD) nhỏ hơn phần tiết kiệm nhờ thuế do sử dụng nợ (1 - t).I thì ta có:
(2.9)
(3.0)
(3.1)
(3.2)
Từ công thức 3.1 và từ phần trên thì trong trường hợp chi phí cổ tức vốn cổ phần nhỏ hơn phần tiết kiệm nhờ thuế từ việc sử dụng nợ thì độ bẩy tài chính trong trường hợp chỉ dùng nợ trong cơ cấu nguồn vốn lại có độ bẩy lớn hơn trường hợp dùng cả vốn cổ phần ưu đãi.
Vai trò của đòn bẩy tài chính với doanh nghiệp
Khái niệm đòn bẩy tài chính rất hữu dụng cho phân tích, hoạch định và kiểm soát tài chính. Các chi phí tài chính cố định được sử dụng tạo rất nhiều thuận lợi trong việc quản lý tài chính. Việc nghiên cứu về đòn bẩy tài chính còn giúp cho các nhà quản trị tài chính có thể có thêm công cụ để gia tăng lợi nhuận trên cổ phần thường, giúp có thêm các thông tin để hỗ trợ cho việc quản lý nợ, vốn chủ sở hữu… của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính với hy vọng đạt được lợi nhuận cao hơn các định phí của nợ và cổ phần ưu đãi, từ đó gia tăng lợi nhuận cho cổ đông thường. Tuy nhiên đòn bẩy tài chính là con dao hai lưỡi vì nó cũng làm tăng tính khả biến hay rủi ro trong lợi nhuận của cổ đông thường. Chẳng hạn như trong một doanh nghiệp mà thu nhập trước thuế và lãi vay ít hơn chi phí tài chính cố định của nợ và cổ phần ưu đãi thì việc sử dụng nợ có thể làm giảm lợi nhuận của các cổ đông thường hay nói cách khác là mặt tiêu cực (mặt trái) của đòn bẩy tài chính đang được phát tác dụng. Như vậy thì đòn bẩy tài chính phóng đại lỗ tiềm năng cũng như lãi tiềm năng của các cổ đông. Đối với các giám đốc tài chính, việc nghiên cứu đòn bẩy tài chính làm sáng tỏ nguyên tắc đánh đổi lợi nhuận và rủi ro của nhiều loại quyết định tài chính khác nhau.
Bất cứ khi nào một doanh nghiệp dùng các chi phí tài chính cố định thì doanh nghiệp này được gọi là đang sử dụng đòn bẩy tài chính. Các nghĩa vụ cố định cho phép doanh nghiệp phóng đại các thay đổi nhỏ thành các thay đổi lớn hơn, giống như trên thực tế khi ta dùng một lực nhỏ tác động vào một đầu của đòn bẩy, đầu kia sẽ được nâng lên cao với một lực lớn hơn. Đòn bẩy tài chính dùng chi phí tài chính cố định làm điểm tựa, dùng sự thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay là lực bẩy và dĩ nhiên cái cần được bẩy chính là thu nhập trên cổ phiếu thường. Khi doanh nghiệp sử dụng các chi phí tài chính cố định, một thay đổi trong thu nhập trước thuế và lãi vay sẽ được phóng đại thành một thay đổi tương đối lớn hơn trong thu nhập mỗi cổ phần thường. Tác động số nhân này của việc sử dụng các chi phí tài chính cố định được gọi là độ nghiêng của đòn bẩy tài chính.
Đòn bẩy tài chính giúp cho doanh nghiệp có thêm một công cụ để dự kiến nhanh thu nhập trên cổ phần thường (EPS) có thể đạt được trong kỳ ứng với kết cấu nguồn vốn hiện tại của doanh nghiệp. Điều này rất quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc lựa chọn các quyết định tài chính sao cho có hiệu quả nhất. Chẳng hạn, việc lựa chọn và đi đến các quyết định cơ cấu vốn của doanh nghiệp, sử dụng nợ thêm hay giảm đi, sử dụng vốn cổ phần thêm hay giảm đi để có thể làm cho thu nhập trên cổ phần thường được tối đa. Giả sử trong trường hợp doanh nghiệp quyết định dùng thêm nợ thì chi phí tiết kiệm được nhờ thuế sẽ làm cho thu nhập trên cổ phần thường tăng lên.
Hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
Các quan điểm và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
Các quan điểm về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta thường sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn lực tài chính của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Trong quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính có rất nhiều phương pháp cũng như cách thức để có thể nâng cao hiệu quả. Nhưng có một cách rất hay và hiệu quả để nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính đó là nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính.
Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính theo quan điểm sau: Hiệu quả sử dụng đòn bẩy là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng nợ và cổ phần ưu đãi để đảm bảo cho việc khuyếch đại thu nhập trên vốn cổ phần thường một cách lớn nhất trong mọi trường hợp.
Hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính phản ánh mối quan hệ giữa kết quả Kết quả của việc sử dụng đòn bẩy tài chính nó chính là việc thu nhập trên cổ phần thường hay thu nhập trên vốn chủ sở hữu được tăng lên
thu được do việc sử dụng đòn bẩy tài chính và chi phí Chi phí của việc sử dụng đòn bẩy tài chính là chi phí tài chính cố định phải chi ra cho việc sử dụng nợ và rủi ro mà doanh nghiệp phải ghánh chịu thêm khi gia tăng sử dụng nợ. Tuy nhiên để đơn giản trong việc nghiên cứu chúng ta chỉ tính đến chi phí trả lãi vay.
phải bỏ ra khi sử dụng đòn bẩy tài chính. Kết quả thu được càng cao so với chi phí tài chính bỏ ra thì hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính càng cao điều này nó thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu về mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu, trên vốn cổ phần thường, và một số chỉ tiêu liên quan. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính là mục tiêu quan trọng để doanh nghiệp có thể cải thiện chất lượng quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quá trình sử dụng đòn bẩy tài chính. Thông qua phân tích hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ cung cấp thêm những kinh nghiệm cũng như kỹ năng dự báo, sử dụng đòn bẩy cùng những những ưu điểm và hạn chế trong công tác tài chính tại doanh nghiệp.Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ số.
Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm nay và năm trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch.
Phương pháp tỷ số: Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ số tài chính được phân thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn, nhóm tỷ số về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ số về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ số lại bao gồm nhiều tỷ số phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà tôi sẽ trình bày cụ thể trong phần sau.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
Các chỉ tiêu chính đánh giá hiệu quả sử dụng hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính:
Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn chủ sở hữu
(3.3)
Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn chủ sở hữu - Return on equity ratio (ROE) Đây là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm vì nó cho thấy khả năng sinh lợi của một đồng vốn họ bỏ ra để đầu tư vào doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng ngày càng hiệu quả hơn những khoản vốn vay nên đã khuyếch đại được tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu. Tăng mức doanh lợi trên vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Để đánh giá chỉ tiêu này chúng ta có thể so sánh với chỉ tiêu này của năm trước hoặc với mức trung bình của ngành. Nếu một doanh nghiệp mà sử dụng hiệu quả đòn bẩy tài chính thì chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu sẽ cao và tăng nhanh qua các năm. Ngược lại nếu sử dụng đòn bẩy tài chính một cách không hiệu quả thì chỉ tiêu này sẽ không cao hay không tăng hoặc thậm chí là giảm so với năm trước đó. Chính vì thế mà chỉ tiêu này được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính.
Chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phần thường
(3.4)
Chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phần thường - Earning per share (EPS) thu nhập trên mỗi cổ phần thường là một yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến giá trị của cổ phần bởi vì nó đo lường sức thu nhập chứa đựng trong một cổ phần hay nói cách khác nó thể hiện thu nhập mà nhà đầu tư có được do mua cổ phần. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp này sử dụng đòn bẩy tài chính càng hiệu quả. Để thấy được việc sử dụng đòn bẩy tài chính có hiệu quả hay không so với năm trước thì ta lấy chỉ tiêu này mà so với cũng chỉ tiêu này của năm trước đó. Nếu lớn hơn chứng tỏ doanh nghiệp đã tiến bộ trong quản lý tài chính mà cụ thể là nâng cao được hiểu quả sử dụng đòn bẩy tài chính. Thu nhập trên vốn cổ phần thường là mục tiêu của việc sử dụng đòn bẩy tài chính nên việc dùng chỉ tiêu này để đánh giá hiệu quả sử dùng đòn bẩy tài chính là tất yếu.
Hai chỉ tiêu trên là hai chỉ tiêu đánh giá kết quả trực tiếp của đòn bẩy tài chính có được sử dụng một cách hiệu quả hay không? Nếu nó được sử dụng một cách hiệu quả thì hai chỉ tiêu này phải đạt giá trị lớn nhất có thể. Mặc dù cùng được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính nhưng hai chỉ tiêu này có một chút khác biệt. Với chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu nó phản ánh mức sinh lợi trên vốn cổ phần thường và vốn cổ phần ưu đãi, còn với chỉ tiêu thu nhập trên vốn cổ phần thường thì lại chỉ xét khả năng sinh lợi trên vốn cổ phần thường. Trong khi sử dụng vốn cổ phần ưu đãi cũng tạo nên độ bẩy cho thu nhập trên vốn cổ phần thường. Chính vì sự khác biệt này nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính thì chỉ tiêu thu nhập trên vốn cổ phần thường là chỉ tiêu quan trọng hơn. Bên cạnh đó thì còn một vài chỉ tiêu liên quan khác đánh giá về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính một cách không trực tiếp.
Các chỉ tiêu liên quan đến việc đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính:
Chỉ tiêu doanh lợi trên tổng tài sản
(3.6)
Chỉ tiêu này dùng kết hợp với chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu để thấy được hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Chẳng hạn như năm 2000 doanh nghiệp có chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản đạt lần lượt là 12%, 10%, đến năm 2001 thì các chỉ tiêu này lần lượt là 14%, 10%. Ta có thể thấy sự chênh lệch của chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu so với chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản của năm 2000 là 2% nhưng đến năm 2001 thì nó lại là 4%. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng ngày càng có hiệu quả những khoản nợ, từ đó mà làm cho tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu tăng nhanh hơn tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản. Lúc này ta có thể kết luận là doanh nghiệp đã sử dụng đòn bẩy tài chính có hiệu quả, hay đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp đã phát huy tác dụng ngày càng tốt hơn.
Chỉ tiêu độ nghiêng của đòn bẩy tài chính (Degree of Financial Leverage: DFL)
(3.7)
Chỉ tiêu độ nghiêng của đòn bẩy tài chính nó thể hiện khả năng khuyếch đại của đòn bẩy tài chính. Chỉ tiêu này càng lớn thì thể hiện sức mạnh của đòn bẩy càng lớn, chỉ cần thu nhập trước thuế và lãi vay thay đổi một lượng nhỏ thì cũng tạo nên một sự thay đổi lớn hơn nhiều trong thu nhập trên vốn cổ phần thường. Đánh giá chỉ tiêu này bằng cách so sánh với các năm trước đó. Tuy nhiên khi chỉ tiêu này càng cao thì kéo theo sự gia tăng của rủi ro tài chính, nên cần đánh giá chỉ tiêu này một cách linh động, không máy móc quá về độ lớn. Khi thu nhập trước thuế và lãi vay đủ lớn để trang trải những khoản lãi vay và dư ra một lượng thì khi đó độ bẩy càng cao sẽ càng tốt. Đây chỉ là chỉ tiêu mang tính phụ trợ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu hệ số nợ
(3.8)
Hệ số nợ càng lớn nó làm cho độ bẩy tài chính và rủi ro tài chính càng tăng lên. Hệ số nợ này kết hợp với hai chỉ tiêu chính ở trên để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính. Nếu hệ số nợ tăng nhanh mà tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, thu nhập trên vốn cổ phần thường tăng chậm so với các năm trước chứng tỏ hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính không tốt.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán lãi vay:
(3.9)
Chỉ tiêu khả năng thanh toán lãi vay thể hiện đòn bẩy tài chí._.nh là đòn bẩy tài chính âm hay dương Đòn bẩy tài chính âm tức là khi đó doanh nghiệp bị lỗ và đòn bẩy tài chính sẽ khuyếch đại mức độ lỗ của doanh nghiệp. Ngược lại đòn bẩy tài chính dương là doanh nghiệp có lãi và đòn bẩy tài chính khuyếch đại mức độ lãi cho doanh nghiệp.
, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 tức là doanh nghiệp có được đòn bẩy tài chính dương, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 tức là doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính âm. Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua sự so sánh với 1, và với các năm trước đó, nếu càng lớn thì kết hợp với các chỉ tiêu ở trên sẽ có thể kết luận được là việc sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp có hiệu quả hay không, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Rủi ro tài chính
Khi sử dụng các chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính thì mới chỉ xtôi xét đến mặt tác động trực tiếp của đòn bẩy tài chính lên thu nhập trên vốn cổ phần thường hay tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó việc gia tăng mức độ tác động của đòn bẩy tài chính thì giải pháp chính là gia tăng sử dụng nợ, mà việc gia tăng sử dụng nợ thì nó lại kéo theo sự gia tăng rủi ro đối với doanh nghiệp và dĩ nhiên là không một doanh nghiệp nào mong muốn điều này. Nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính thì còn phải xtôi xét cả vấn đề rủi ro mà doanh nghiệp phải ghánh chịu khi doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính. Nếu chỉ xtôi xét đơn thuần các chỉ tiêu trên thì đó mới chỉ là đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trên một vài góc độ tuy nhiên để việc đánh giá mang tính hoàn chỉnh hơn thì không thể không xtôi xét đến vấn đề rủi ro của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được gọi là sử dụng hiệu quả đòn bẩy tài chính thì đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp phải khuyếch đại được thu nhập trên vốn cổ phần thường hay tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu là lớn nhất và rủi ro mà doanh nghiệp phải chịu là ở mức thấp nhất có thể, nếu mức độ khuyếch đại đối với thu nhập trên vốn cổ phần thường hay rỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu mà lớn trong khi doanh nghiệp phải chịu một sự rủi ro quá lớn thì có thể dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ, thậm chí có thể dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Do vậy việc tìm hiểu về rủi ro đối với doanh nghiệp trong việc nghiên cứu để làm tăng hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính là một việc nên làm và mang tính cần thiết cao.
- Khái niệm về rủi ro: Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất, nó là sự tổng hợp những sự ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất.
+ Phạm trù rủi ro là phạm trù vốn có của loài người, ngay từ khi chúng ta sinh ra chúng ta đã phải đương đầu với những rủi ro. Rủi ro nó tồn tại từ trước khi loài người xuất hiện, nên khi loài người xuất hiện thì việc rủi ro luôn tồn tại là một điều dễ hiểu.
+ Rủi ro xảy ra do nhiều nguyên nhân (chẳng hạn như do thiên tai, do con người…), bản thân rủi ro đã quá đa dạng và phức tạp điều này là do có rất nhiều nguồn gốc (hay nguyên nhân) gây nên rủi ro.
+ Rủi ro xảy ra sẽ để lại hậu quả xấu: khi nói đến rủi ro là chúng ta muốn nói đến một điều sảy ra hoàn toàn không mong muốn. Do khi chúng sảy ra thì sẽ đtôi lại điều không tốt đến với chúng ta, hơn nữa chúng ta lại không thể biết chúng sảy ra khi nào và hậu quả sẽ như thế nào nên không thể lường trước được.
+Rủi ro luôn luôn tồn tại trong xã hội
- Hiểu biết chung về rủi ro tài chính: rủi ro tài chính chỉ tính khả biến tăng thêm của thu nhập mỗi cổ phần và xác suất mất khả năng thanh toán (chi trả) khi một doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ có chi phí tài chính cố định, như sử dụng nợ và cổ phần ưu đãi, trong cơ cấu nguồn vốn của mình. Doanh nghiệp mất khả năng chi trả khi doanh nghiệp không thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng, chẳng hạn như thanh toán lãi vay, thanh toán các khoản phải trả và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp khi đáo hạn. Các chi phí sử dụng vốn như lãi vay và cổ tức ưu đãi tượng trưng cho các nghĩa vụ theo hợp đồng mà một doanh nghiệp phải đáp ứng bất kể mức độ thu nhập trước thuế và lãi vay như thế nào (Trong một số trường hợp khẩn cấp về vấn đề tài chính doanh nghiệp có thể bỏ qua cổ tức ưu đãi, nhưng việc bỏ qua này có thể dẫn đến một số các hậu quả không mong muốn. Vì thế mà việc chi trả cổ tức của cổ phần ưu đãi được xtôi như là một nghĩa vụ theo hợp đồng tương tự như lãi vay). Việc gia tăng sử dụng các số lượng nợ và cổ phần ưu đãi sẽ làm tăng chi phí tài chính cố định của doanh nghiệp. Đến lượt mình các chi phí này lại làm tăng mức thu nhập trước thuế và lãi vay mà doanh nghiệp phải đạt được để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính và duy trì hoạt động. Khi gia tăng việc sử dụng nợ thì làm cho chi phí tài chính cố định cũng tăng kéo theo việc tăng xác suất mất khả năng chi trả từ đó làm cho rủi ro tăng lên. Sử dụng đòn bẩy tài chính có độ bẩy lớn thì khi đó sự thay đổi của thu nhập trên cổ phần thường được khuyếch đại lên nhiều lần do sự thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay từ đó làm tăng rủi ro. Rủi ro là như thế, vậy thì tại sao doanh nghiệp lại chấp nhận rủi ro và sử dụng nợ, cổ phần ưu đãi. Đó chính là việc làm tăng chi phí tài chính cố định và từ đó có thể tăng lợi nhuận cho các cổ đông thường. Đòn bẩy tài chính có khả năng làm gia tăng tỷ suất sinh lợi mong đợi của vốn cổ phần thường nhưng cũng ngay lúc đó chúng sẽ đưa cổ đông tới một rủi ro lớn hơn, nguyên tắc trong tài chính doanh nghiệp là đánh đổi lợi nhuận và rủi ro được áp dụng trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính: tỷ suất sinh lợi cao sẽ trở nên cao hơn nữa nhưng nếu tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư thấp thì tỷ suất sinh lợi mong đợi trên cổ phần thường thậm chí càng thấp hơn.
- Rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống
+Rủi ro có hệ thống là loại rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Nên người ta còn gọi nó là rủi ro của thị trường, chẳng hạn như việc suy thoái của nền kinh tế thì nó tác động đến mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế đó.
+ Rủi ro không có hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản, nghĩa là loại rủi ro này chỉ liên quan đến từng doanh nghiệp cụ thể nào đó. Việc đình công của công nhân thì nó chỉ ảnh hưởng tới doanh nghiệp đó hay ảnh hưởng đến một vài doanh nghiệp khác đang có hợp đồng với doanh nghiệp đó.
Để đánh giá mức độ rủi ro của một doanh nghiệp thì có rất nhiều chỉ tiêu tài chính, nhưng để có thể thấy rõ và dễ nhận xét thì có thể thông qua tính toán một số các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó.
Chẳng hạn như các chỉ tiêu sau:
(4.0)
(4.1)
(4.2)
Các chỉ tiêu này được so sánh với chỉ tiêu trung bình của ngành nhưng nếu không có thì có thể so sánh năm trước với năm sau để thấy mức độ rủi ro của doanh nghiệp đó tăng hay giảm, từ đó mà có thể nhận xét đánh giá được.
Mối quan hệ giữa EPS với EBIT và điểm bàng quan
Phân tích quan hệ giữa thu nhập trước thuế và lãi vay với thu nhập trên cổ phần thường là phân tích sự ảnh hưởng của những phương án tài trợ khác nhau đối với lợi nhuận trên cổ phần thường. Từ sự phân tích này, chúng ta sẽ tìm được một điểm bàng quan (Indifferent Point), tức là điểm của thu nhập trước thuế và lãi vay mà ở đó các phương án tài trợ đều mang lại một thu nhập trên cổ phần thường là như nhau. Để có thể hiểu rõ hơn ta xét ví dụ sau:
Giả sử Công ty A có nguồn vốn dài hạn là 10 triệu USD hoàn toàn từ nguồn vốn cổ phần thường. Hiện tại Công ty đang cần huy động thêm 5 triệu USD để phục vụ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty hiện tại đang xtôi xét ba phương án tài trợ: thứ nhất là:phát hành cổ phiếu thường, thứ hai là:phát hành trái phiếu với lãi suất hàng năm là 12%, thứ ba là: phát hành cổ phiếu ưu đãi với cổ tức là 11%. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay hàng năm hiện nay là 1,5 triệu USD, nhưng nếu mở rộng sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận trước thuế và lãi là 2,7 triệu USD. Thuế thu nhập doanh nghiệp là 40% và Công ty hiện có 200.000 cổ phần. Nếu sử dụng phương án thứ nhất, Công ty có thể bán thêm 100.000 cổ phần thường với giá 50 USD/ cổ phần để huy động đủ 5 triệu USD.
Mục tiêu của phần này là phân tích để tìm ra điểm bàng quan, tức là điểm mà ở đó các phương án tài trợ đều mang lại thu nhập trên cổ phần thường là như nhau. Từ các giả thiết trên ta có bảng tính toán số liệu như sau:
Chỉ tiêu
Phương án tài trợ
CP thường
Nợ
CP ưu đãi
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay(EBIT)
2.700.000$
2.700.000$
2.700.000$
Lãi vay(I)
-
600.000
-
Lợi nhuận trước thuế(EBT)
2.700.000
2.100.000
2.700.000
Thuế thu nhập (EBT * t)
1.080.000
840.000
1.080.000
Lợi nhuận sau thuế (EAT)
1.620.000
1.260.000
1.620.000
Cổ tức cổ phiếu ưu đãi (PD)
-
-
550.000
Lợi nhuận dành cho cổ đông thường
1.620.000
1.260.000
1.070.000
Số lượng cổ phần (NS)
300.000
200.000
200.000
Lợi nhuận trên cổ phần (EPS)
5.40
6.30
5.35
Dựa vào kết quản tính toán ở bảng trên ta có thể xác định điểm bàng quan theo hai cách sau:
Xác định theo phương pháp hình học.
Chọn hệ trục toạ độ chọn các điểm có hoành độ là 2.7 và tung độ lần lượt là 5.4; 6.3 và 5.35. Tiếp theo ta cho EPS là bằng 0 để tìm ra các EBIT tương ứng.
Với phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường ta có:
(EBIT - I)(1- t) - PD = 0
Nối hai điểm có toạ độ (0; 0) và (2,7; 5,4) ta có đường EPS theo phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường.
Với phương án tài trợ bằng nợ ta có:
(EBIT - I)(1- t) - PD = 0
Nối hai điểm có toạ độ (0,6; 0) và (2,7; 6,3) ta có đường EPS theo phương án tài trợ bằng nợ.
Với phương án tài trợ bằng cổ phiếu ưu đãi ta có:
(EBIT - I)(1- t) - PD = 0
Nối hai điểm có toạ độ (0,96; 0) và (2,7; 5,35) ta có đường EPS theo phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường.
EBIT (triệu $)
Nợ
CP thường
CP ưu đãi
EPS (triệu $)
5,4
5,35
2,7
6,3
0,6
0,916
0
A
B
Thực hiện vẽ trên đồ thị (Hình I)
Hình I: Đồ thị diễn tả cách xác định điểm bàng quan
Trên hình I ta thấy có hai điểm bàng quan (A và B) mà ở đó các phương án tài trợ đều mang lại cùng một EPS.
Theo phương pháp đại số
Dựa vào công thức 1.3 ta tính EPS cho mỗi phương án, sau đó thiết lập phương trình cân bằng như sau:
Trong đó:
EBIT1,2: EBIT bàng quan giữa hai phương án thứ nhất và thứ hai I1,I2: lãi phải trả hàng năm ứng với phương án thứ nhất và thứ hai
PD1, PD2: cổ tức phải trả hàng năm theo phương án thứ nhất và thứ hai
NS1, NS2: số cổ phần thường theo phương án thứ nhất và thứ hai
t: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Từ đó ta tìm điểm bàng quan giữa phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường và nợ
Thực hiện tương tự ta có thể tìm được điểm bàng quan với các phương án tài trợ khác. Từ phương pháp đại số ta tìm thấy điểm bàng quan giữa hai phương án tài trợ là cổ phiếu thường và nợ là 1,8 triệu $, điều này có nghĩa là nếu thu nhập trước thuế và lãi vay thấp hơn điểm bàng quan thì phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường tạo ra được thu nhập trên vốn cổ phần cao hơn phương án tài trợ bằng nợ, nhưng nếu thu nhập trước thuế và lãi vay lại vượt quá điểm bàng quan thì phương án tài trợ bằng nợ mang lại thu nhập trên vốn cổ phần cao hơn phương án tài trợ bằng cổ phần thường. Khi xác định được điểm bàng quan thì nó sẽ góp phần làm cho việc sử dụng đòn bẩy hiệu quả hơn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
Các nhân tố chủ quan
- Tâm lý của nhà quản trị tài chính: Đây là nhân tố thuộc về sự “bảo thủ” hay “phóng khoáng” của nhà quản lý tài chính. Nếu với nhà quản lý tài chính có tâm lý “phóng khoáng” thích mạo hiểm, rủi ro thì sẽ sử dụng nhiều nợ khi đó thì độ bẩy của đòn bẩy tài chính sẽ cao và ngược lại với những nhà quản trị tài chính có tâm lý “ bảo thủ” thì họ không thích phiêu lưu mạo hiểm nên họ thường lựa chọn phương án tài trợ dùng rất ít nợ thậm chí là không dùng nợ mà họ chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu khi đó thì rõ ràng là đòn bẩy tài chính sẽ ít được dùng và lẽ dĩ nhiên là hiệu quả sử dùng đòn bẩy tài chính sẽ khó mà có thể cao được.
- Trình độ người lãnh đạo: Vấn đề trình độ của người lãnh đạo rất quan trọng vì khi những nhà lãnh đạo mà trình độ không cao họ không hiểu thấu đáo các vấn đề về đòn bẩy tài chính thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính là khó khăn. Vì họ không thấy được vai trò của đòn bẩy nên sẽ không sử dụng một cách có hiệu quả đòn bẩy tài chính. Ví dụ như khi họ không biết gì về việc sử dụng đòn bẩy tài chính thì có khi đòn bẩy tài chính phát huy tác dụng mà họ không hề hay biết để có thể nhờ đòn bẩy tài chính làm cho thu nhập trên cổ phần thường lớn nhất. Hoặc có khi đòn bẩy tài chính đang thể hiện mặt trái của nó thì lại dùng nó một cách vô thức dẫn đến hậu quả không tốt cho doanh nghiệp (trong khi tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu thấp hơn rất nhiều lần chi phí lãi vay thì đương nhiên càng sử dụng nợ thì càng làm cho tỷ suất sin lời trên vốn chủ càng thấp). Chính vì thế mà trình độ của nhà lãnh đạo doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính.
- Chiến lược phát triển doanh nghiệp: Hiệu quả sử dụng đòn bẩy còn phụ thuộc vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang có chiến lược mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động thì sẽ rất cần vốn nên việc vay nợ hay sử dụng vốn cổ phần thường, vốn cổ phần ưu đãi là việc tất yếu xảy ra. Khi đó lại chịu ảnh hưởng của các quyết định tài chính từ các nhà quản trị tài chính. Nếu doanh nghiệp đang có khuynh hướng chuyển đổi lĩnh vực từ lĩnh vực ít rủi ro sang lĩnh vực nhiều rủi ro hơn thì rất có thể nợ sẽ được sử dụng ít đi trong tương lai để nhằm không làm tăng hơn nữa rủi ro đối với doanh nghiệp. Khi đó thì đòn bẩy tài chính sẽ giảm độ bẩy của nó trong doanh nghiệp đó.
- Việc sử dụng đòn bẩy hoạt động: Đòn bẩy hoạt động là nhân tố tác động rất lớn đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính. Trước hết phải tìm hiểu chung về đòn bẩy hoạt động hay đòn bẩy kinh doanh. Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh sẽ rất lớn ở những doanh nghiệp có chi phí cố định cao hơn chi phí biến đổi. Nhưng đòn bẩy kinh doanh chỉ tác động tới lợi nhuận trước thuế và lãi vay, bởi lẽ hệ số nợ không ảnh hưởng tới độ lớn của đòn bẩy kinh doanh. Còn mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính chỉ phụ thuộc vào hệ số nợ, cổ tức ưu đãi không phụ thuộc vào kết cấu chi phí cố định và chi phí biến đổi của doanh nghiệp. Do đó, đòn bẩy tài chính không tác động tới thu nhập trước thuế và lãi vay. Tuy nhiên thì sự thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay lại là lực tác động để tạo nên lực bẩy cho đòn bẩy tài chính. Vì vậy, khi ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh chấm dứt thì ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính sẽ tiếp tục để khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) khi doanh thu thay đổi. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn của đòn bẩy kinh doanh tới hiệu quả của đòn bẩy tài chính. Nếu đòn bẩy kinh doanh mà tốt thì sự thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay là lớn từ đó mà đòn bẩy tài chính phát huy tốt hơn sức mạnh của mình để bẩy mạnh mẽ hơn thu nhập trên vốn cổ phần thường. Nếu sử dụng đòn bẩy hoạt động không tốt thì thu nhập trước thuế và lãi vay không được bẩy thậm trí còn làm giảm thu nhập trước thuế và lãi vay điều này đương nhiên là làm giảm hiệu quả của việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Nhưng cũng phải đề cập đến một khía cạnh mà bản thân doanh nghiệp cũng khó có thể quyết định được hiệu quả sử dụng đòn bẩy hoạt động vì việc sử dụng đòn bẩy hoạt động nhiều hay ít nó còn phụ thuôc vào nhiều nhân tố khách quan khác, chẳng hạn như lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp…
- Uy tín doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp nếu họ muốn sử dụng đòn bẩy tài chính thì điều đầu tiên là họ phải tìm được nguồn để huy động nợ, hay vốn cổ phần ưu đãi. Điều này đối với một số doanh nghiệp thì không phải là khó nhưng đối với một số doanh nghiệp thì đây quả là vấn đề rất nan giải. Tại sao lại như vậy? Điều này giải thích theo một góc độ nào đó thì nó chính là uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu có uy tín tốt thì việc vay nợ hay huy động vốn cổ phần thường không phải là khó, và tốn kém. Nhưng nếu uy tín của doanh nghiệp không đủ tạo niềm tin cho chủ nợ và cổ đông ưu đãi thì việc huy động thêm nợ và vốn cổ phần ưu đãi quả là khó khăn và chi phí lớn hơn. Chính việc huy động này tác động đến mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp và từ đó nó tác động đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính. Mặt khác, khi một doanh nghiệp có uy tín tốt thì trong quá trình sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ tạo được rất nhiều thuận lợi. Chẳng hạn như khi doanh nghiệp thực sự gặp khó khăn về tài chính nhưng do uy tín tốt thì có thể hoãn được nợ, thậm chí còn huy động thêm được nợ để khắc phục khó khăn về tài chính, điều này không những hạn chế được mặt trái của đòn bẩy tài chính mà còn tránh cho doanh nghiệp phải đi đến một kết cục xấu…
- Các nhân tố khác thuộc về doanh nghiệp
Các nhân tố khách quan
- Thị trường tài chính: Nếu doanh nghiệp đang ở trong một thị trường tài chính tương đối phát triển thì việc huy động vốn sẽ có rất nhiều thuận lợi. Điều này tạo điều kiện tốt cho việc doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính từ đó nó có tác động tốt đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Giả sử như doanh nghiệp đang ở trong một thị trường tài chính chưa phát triển thì sẽ khó khăn trong việc huy động nợ, cổ phần ưu đãi gây nên một tâm lý lo lắng cho các nhà quản lý tài chính trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính.
- Chi phí lãi vay: Đây là nhân tố rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến số lượng sử dụng nợ của doanh nghiệp. Khi chi phí nợ thấp thì doanh nghiệp sẽ dùng nhiều nợ hơn để tài trợ cho các hoạt động của mình, khi đó mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp sẽ cao lên. Ngược lại khi chi phí nợ mà cao thì doanh nghiệp phải giảm việc sử dụng nợ, từ đó mà làm cho mức độ bẩy của đòn bẩy tài chính giảm sút. Nếu với cùng một lượng nợ như nhau nhưng chi phí nợ giảm đi thì hiển nhiên thu nhập trước thuế sẽ tăng lên làm cho thu nhập trên cổ phần thường được khuyếch đại lớn hơn.
- Chính sách, luật pháp Nhà nước: Trong các chính sách vĩ mô của Nhà nước thì doanh nghiệp luôn bị chi phối bởi chúng. Cụ thể là chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu thuế thu nhập doanh nghiệp càng cao thì càng khuyến khích doanh nghiệp dùng nhiều nợ, khi ấy thì doanh nghiệp sẽ có phần tiết kiệm được nhờ thếu là lớn. Khi nó khuyến khích doanh nghiệp dùng nhiều nợ thì cũng đồng nghĩa với việc khuyến khích doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn.
- Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp: Như phần trước có đề cập đến vấn đề sử dụng đòn bẩy hoạt động, nó phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động. Mặt khác, tuỳ từng lĩnh vực mà mức độ rủi ro doanh nghiệp phải ghánh chịu là khác nhau, nên mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính cũng khác nhau. Vì thế sẽ tạo nên ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp.
- Tình hình tiêu thụ sản phẩm và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm khi đó doanh thu sẽ tăng, làm cho đòn bẩy hoạt động được sử dụng có hiệu quả. Từ đó làm cho hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính được nâng lên. Trong trường hợp doanh nghiệp bị ế ẩm thì vốn bị ứ đọng trong khi chi phí tài chính cố định vẫn phải thanh toán, làm cho tăng chi phí, chi phí lãi vay, từ đó mà làm cho thu nhập trước thuế bị giảm sút. Hay chỉ tiêu khả năng thanh toán lãi vay giảm, và điều này là không tốt với hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính.
- Thực trạng của nền kinh tế: Đây là nhân tố ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp, nếu nền kinh tế đang trong tình trạng hưng thịnh thì các doanh nghiệp sẽ có được kết quả kinh doanh tốt từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính, ngược lại nếu nền kinh tế đang ở trong điều kiện suy thoái thì các doanh nghiệp lại bị trì trệ trong hoạt động của mình và điều này là hoàn toàn không có lợi cho việc sử dụng đòn bẩy tài chính.
- Các nhân tố khách quan khác: Chẳng hạn như thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn, động đất…
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
Các doanh nghiệp đang tuân theo một quy luật mà không một doanh nghiệp nào có thể không tuân theo đó là quy luật khan hiếm nguồn lực. Việc khan hiếm nguồn lực là vấn đề chung của cả xã hôi, nhưng đối với từng doanh nghiệp thì việc phát huy nguồn lực sẵn có như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất thì lại là cả một vấn đề cần phải bàn. Các doanh nghiệp không ngừng tìm ra các biện pháp để phát huy tốt nhất khả năng nguồn lực hiện có của mình, một trong những cách đó chính là việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính chính là một trong những nhân tố làm cho việc sử dụng các nguồn lực vốn có của doanh nghiệp được nâng cao. Nếu các doanh nghiệp không biết tận dụng đòn bẩy tài chính thì sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn cổ phần thường chưa thực sự hiệu quả. Nhưng nếu sử dụng đòn bẩy tài chính một cách không khoa học thì sẽ làm cho hiệu quả của các nguồn lực (cụ thể là vốn cổ phần thường) sẽ bị sụt giảm, thậm chí đưa doanh nghiệp đến bờ vực của sự phá sản. Chính vì những lí do đó mà việc nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính là một công việc hết sức cần thiết và thiết thực đối với các doanh nghiệp cũng như đối với toàn nền kinh tế.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH
SỬ DỤNG ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY VẬN TẢI Ô TÔ SỐ 3
Khi nghiên cứu bất kể vấn đề gì thì luôn phải tìm ra những giải pháp để nhằm khắc phục những mặt hạn chế của vấn đề. Trong luận văn này thì vấn đề cần giải quyết đó là tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính. Trong chương I đã nghiên cứu các vấn đề mang tính lí luận chung và hiểu biết chung về đòn bẩy cùng những vấn đề liên quan, nếu chỉ nghiên cứu lý thuyết không thì không thể giải quyết được gì. Chính vì vậy nhiệm vụ của chương II này là cho thấy được thực trạng của Công ty vận tải ô tô số 3 để từ đó đưa ra các giải pháp giải quyết được yêu cầu đặt ra.
Giới thiệu chung về Công ty vận tải ô tô số 3
Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
Lịch sử hình thành
Trong tình hình đất nước đầu những năm 1980 rất hạn chế về mặt vận chuyển hàng hoá cũng như con người nên để đáp ứng tình hình vận tải trong nước. Đảng, Nhà nước và Bộ giao thông vận tải ra quyết định 388TCCB - LĐ/BGTVT ngày 4 tháng 3 năm 1983, quyết định thành lập Công ty vận tải ô tô số 3.
Công ty vận tải ô tô số 3 được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập của ba Xí nghiệp:
Xí nghiệp vận tải ô tô số 20
Xí nghiệp vận tải quá cảnh C1
Xí nghiệp vận tải hàng hoá số 2
Công ty vận tải ô tô số 3 là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Cục đường bộ Việt nam quản lý. Công ty là một trong những doanh nghiệp Nhà nước lớn nhất trong số các doanh nghiệp thuộc Bộ giao thông vận tải trên toàn quốc và được Nhà nước công nhận là doanh nghiệp vận tải loại một. Khi thành lập Công ty vận tải ô tô số 3 Công ty có khoảng 1.100 xe và 1.700 cán bộ công nhân viên. Vào thời kỳ này Công ty đảm nhận 100% khối lượng vận chuyển hàng hoá cho vùng Tây bắc. Công ty hiện đang ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động để không ngừng mở rộng quy mô, tìm cách đứng vững và phát triển tốt trong cơ chế thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt.
Tên tiếng việt: Công ty vận tải ô tô số 3
Tên giao dịch quốc tế: The lorry Transport Company No3
Trụ sở chính: Số 65 Cảm Hội - Lò Đúc - Hai Bà Trưng - HN
Quá trình phát triển
Từ khi ra đời cho đến nay Công ty không ngừng tăng trưởng và hoàn thành các nhiệm vụ do Nhà nước giao. Trước đây khi hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung nên nó có rất nhiều hạn chế đối với sự hoạt động tăng trưởng của Công ty, mặc dù vậy thì Công ty vẫn hoàn thành tốt các nhiệm vụ Nhà nước giao, đảm nhận 100% khối lượng công việc vận chuyển hàng hoá cho vùng Tây bắc.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta có chính sách đổi mới thì bản thân Công ty cũng có nhiều thay đổi để thích ứng với điều kiện mới. Một mặt thay đổi hoàn thiện bộ máy quản lý Công ty, không ngừng nâng cao trình độ quản lý của người lãnh đạo, bồi dưỡng tăng cường nghiệp vụ kỹ thuật, nghiệp vụ cho các bộ công nhân viên trong Công ty. Từng bước bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cũng như lao động ngày càng trở nên gọn nhẹ hơn, tinh giảm đến mức có thể phù hợp với quy mô và khả năng kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động. Mặt khác ngày càng mở rộng quy mô, các lĩnh vực kinh doanh để có thể cạnh tranh trong cơ chể thị trường. Đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, đó là một trong những hướng đổi mới của Công ty. Do khi đổi mới Công ty phải hạch toán độc lập có nghĩa là tự hạch toán, cân đối thu chi sao cho có lãi, chứ không phải hoạt động theo kế hoạch Nhà nước như ngày trước. Chính vì lẽ đó mà Công ty đã có được những bước phát triển hết sức to lớn, hàng năm nộp Ngân sách Nhà nước hàng tỉ đồng, tạo được nhiều công ăn việc làm cho lao động trong nước. Không chỉ vậy Công ty còn không ngừng cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên trong cơ quan cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Cụ thể là mức lương của công nhân viên trong Công ty luôn được quan tâm đúng mức ví dụ năm 2002 thu nhập bình quân là 900.000 VND/người/tháng đến năm 2003 là 1.152.000 VND/người/tháng tăng 28%. Như vậy đời sống vật chất của công nhân viên đã được nâng lên. Hàng năm Công ty vẫn tổ chức cho công nhân viên có những kỳ đi nghỉ, vui chơi giải trí, tham gia các phong trào thể dục thể thao…
Chức năng nhiệm vụ của Công ty
- Ngay trong tên gọi của Công ty chúng ta có thể thấy, và hình dung được nhiệm vụ đầu tiên, cơ bản của Công ty là tổ chức vận chuyển hàng hoá đường bộ trong nước, vận chuyển hàng hoá quá cảnh, hàng mậu dịch cho các nước trong khu vực như Campuchia, Lào… qua các cửa khẩu quốc tế, vận chuyển khách bộ hành trong và ngoài nước.
+ Ngoài ra thì Công ty còn tham gia trực tiếp việc xuất nhập khẩu các thiết bị cũng như các phương tiện vận tải phục vụ cho giao thông đường bộ. Nhập khẩu hàng tiêu dùng, phụ tùng ô tô xe máy, hàng thủ công mỹ nghệ và nông lâm sản. Cho thuê phương tiện vận tải, thông qua các trạm vận tải các trạm này với nhiệm vụ chủ yếu là thu gom hàng hoá, trông xe, bãi gửi xe, nhà nghỉ, nhà ăn…
+ Tạo điều kiện cho người lao động trong Công ty có cơ hội tham gia góp vốn hay liên doanh với Công ty, bằng cách kết hợp vốn, kết hợp cho vay vốn hoặc có thể cho vay 100%.
+ Công ty còn đảm nhiệm cả nhiệm vụ sửa chữa ô tô, Công ty thường hợp đồng với các tổ chức lớn, Công ty hiện có hai xưởng sửa chữa lớn.
+ Làm dịch vụ xăng dầu, Công ty có ba cửa hàng xăng dầu tại Đông Anh - Hoàng Hiệp - Km 19 Hoà Bình.
+ Công ty còn nhiệm vụ cho thuê kho bãi, Công ty có một hệ thống kho bãi rất lớn tại nhiều nơi như: Kho Hoàng Hiệp - Kho Thanh Trì - Kho đường 70 - Kho 310 (Bến Phà Đen) - Bãi xe Lĩnh Nam. Ngoài ra Công ty còn có nhiệm vụ đào tạo lái xe hạng A1 và đang chuẩn bị đưa vào hoạt động dịch vụ đào tạo lái xe ô tô.
Bộ máy tổ chức quản lý
Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty vận tải ô tô số 3
ĐẢNG ỦY
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
CÔNG ĐOÀN
PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG
PHÒNG TƯ VẤN THIẾT KẾ
PHÒNG HÀNH CHÍNH QUẢN TRỊ
PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
PHÒNG KẾ HOẠCH
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty vận tải ô tô số 3
Sản phẩm của Công ty vận tải ô tô số 3
Đặc trưng dễ thấy đối với sản phẩm của ngành giao thông vận tải đó là các dịch vụ. Công ty vận tải ô tô số 3 không chỉ cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hoá cũng như hành khách mà Công ty còn cung cấp cả những dịch vụ khác như: cho thuê xe, cho thêu bến bãi, cho thêu kho chứa hàng hoá, dịch vụ sửa chữa ô tô, tư vấn thiết kế ô tô, đào tạo lái xe mô tô, ô tô… Nhìn chung thì các sản phẩm mà Công ty cung cấp là tương đối đa dạng và chất lượng tương đối tốt. Về dịch vụ vận chuyển thì Công ty luôn tìm kiếm các hợp đồng từ các tổ chức khác thông qua hệ thống tổ chức của các nhân viên kinh doanh. Trong quá trình vận chuyển phát sinh các đơn hàng nhỏ chưa đủ chuyến để vận chuyển đi xa thì Công ty gom lại để đủ chuyến nhằm làm giảm chi phí vận chuyển. Từ đó mà phát sinh ra dịch vụ cho thuê kho bãi, bên cạnh việc cho thuê kho chứa hàng Công ty còn cho thuê cả bãi đỗ xe, trông xe. Chính vì hoạt động trong lĩnh vực vận tải giao thông nên Công ty còn cung cấp cả dịch vụ sửa chữa, đào tạo lái xe, tư vấn thiết kế ô tô. Các dịch vụ này mang lại cho Công ty một lượng thu nhập lớn hơn nhiều so với dịch vụ vận tải đơn thuần của Công ty. Các sản phẩm mà Công ty vận tải ô tô số 3 hiện đang cung cấp nó có mối liên hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ như việc vận chuyển hàng hoá cho các đơn vị khác là tiền đề cho sự tích trữ hàng hoá, và chính việc cho thuê kho bãi lại làm cho việc vận chuyển hàng hoá được hiệu quả hơn… vì khi gom các đơn hàng nhỏ lại thành đủ một chuyến hàng mới xuất phát điều này làm giảm chi phí, đồng thời nó cũng làm xuất hiện dịch vụ cho thuê kho bãi, ngược lại dịch vụ cho thuê kho bãi đến lượt nó lại làm cho dịch vụ vận chuyển hàng hoá được tốt hơn…
Đặc điểm của quá trình sản xuất ra sản phẩm
Do sản phẩm của Công ty cung cấp ra là một loại hình dịch vụ, nên nó mang đầy đủ đặc trưng của một sản phẩm dịch vụ. Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là sảy ra đồng thời, không có hàng dự trữ cũng như tồn kho. Từ khi có được các hợp đồng về vận chuyển, cho thuê bến bãi - kho chứa hàng, sửa chữa… khi đó Công ty mới sản xuất ra các sản phẩm cung cấp cho khách hàng, đó cũng là lúc mà sản phẩm được tiêu thụ. Sau khi kết thúc quá trình cung cấp thì cũng là lúc hoàn thành việc tiêu thụ sản phẩm, khách hàng cũng như Công ty sẽ biết được ngay chất lượng của sản phẩm cung cấp nên Công ty sẽ luôn có được những giải pháp để hoàn thiện dần sản phẩm của mình. Việc thông tin phản hồi từ khách hàng là thông tin rất quan trọng cho Công ty có thể hoàn thiện dần sản phẩm của mình. Các sản phẩm do Công ty cung cấp lại không phải là sản xuất tại Công ty mà nó được sản xuất ở nơi tiêu thụ.
Phân tích tình hình hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính tại Công ty vận tải ô tô số 3
Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
Trong mấy năm qua nhờ sự năng động sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ động tìm kiếm thị trường, tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tổng tài sản của Công ty tăng liên tục qua các năm: 2001, 2002, 2003 tổng tài sản tăng tương ứng là 2.288 và 658 triệu đồng, với tỷ lệ là 15 % và 3,75%. Mặc dù doanh thu qua các năm có xu hướng giảm cụ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0139.doc