Bảng ký hiệu viết tắt.
CTCK Công ty chứng khoán
CK Chứng khoán
OTC Thị trường phi chính thức.
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
TTCK Thị trường chứng khoán
UBCKNN Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
NHĐT&PT Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
BSC Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học của đề tài.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận trong hệ thống các thị trường tài chính và đã được phát tri
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1788 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đây là một kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp và Chính phủ để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết về vốn thông qua việc phát hành các loại chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát hành chứng khoán trên thị trường này luôn tiềm ẩn rủi ro đòi hỏi các chủ thể phát hành phải tìm biện pháp giảm thiểu rủi ro để huy động vốn được tốt nhất. Một trong các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong phát hành chứng khoán là phát hành thông qua bảo lãnh phát hành. Đây là một trong những nghiệp vụ quan trọng trên thị trường chứng khoán sơ cấp do các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính…cung cấp, nhằm bảo đảm cho sự thành công của các đợt phát hành, giúp các chủ thể phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận lợi với chi phí hợp lý và mức độ rủi ro thấp.
ở Việt Nam, thị trường chứng khoán đã chính thức đi vào hoạt động được hơn bốn năm và đã phần nào thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc hỗ trợ các chủ thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Các nghiệp vụ trên thị trường đã bước đầu hình thành và phát triển trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, do hoạt động của thị trường chứng khoán còn rất sơ khai, các nghiệp vụ còn khá mới mẻ, thị trường chưa xuất hiện nhiều tổ chức trung gian có tính chuyên nghiệp để có thể vận hành tốt nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, một trong những nghiệp vụ đòi hỏi trình độ và sự sáng tạo rất lớn. Bên cạnh đó, những chính sách điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và bảo lãnh phát hành chứng khoán nói riêng còn nhiều chồng chéo và mâu thuẫn khiến cho còn nhiều hạn chế và ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của thị trường chứng khoán, đến hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp và hoạt động bảo lãnh phát hành của các tổ chức bảo lãnh. Ngoài ra, cũng chính do sự non nớt của tổ chức bảo lãnh mà điển hình là công ty chứng khoán trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khiến cho việc phát hành, niêm yết chứng khoán bị hạn chế, số lượng công ty niêm yết tăng chậm, cầu về bảo lãnh phát hành rất ít. Các doanh nghiệp thì e dè khi phát hành chứng khoán thông qua bảo lãnh còn các công ty chứng khoán thì e ngại khi nhận bảo lãnh do mức độ rủi ro của nghiệp vụ này ở Việt Nam là tương đối cao.
Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận một cách đúng đắn thực trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam nói chung và tại Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển VN nói riêng.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” nghiên cứu một cách tổng quát, hệ thống cơ sở lý luận chung về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đồng thời đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá, nhận định cụ thể về thực trạng hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, những tồn tại và nguyên nhân, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài lấy hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở một số vấn đề lý luận, thực tiễn có liên quan trực tiếp đến hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán nói chung và hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và luận giải thực tiễn như : phương pháp so sánh, duy vật biện chứng, phân tích hoạt động kinh tế…
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo phần nội dung của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về công ty chứng khoán và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Chương 2 : Thực trạng về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Viẹt Nam.
Chương 1
Lý luận chung về công ty chứng khoán và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1.1 Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán.
1.1.1 Khái niệm về công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một định chế trung gian căn bản của thị trường chứng khoán, một chủ thể có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
CTCK với các hoạt động cung cấp dịch vụ đa dạng của mình giúp cho công chúng có thể luân chuyển vốn đầu tư dễ dàng thông qua hoạt động mua, bán chứng khoán cho khách hàng. Bằng khả năng chuyên môn với nghiệp vụ môi giới,bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin …
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Công ty chứng khoán, ở Việt nam, các CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập hợp pháp tại Việt nam và được Uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty chứng khoán
Khi thị trường chứng khoán mới ra đời thì các CTCK có cơ cấu và hoạt động rất đơn giản. Dần dần cùng với sự phát triển của thị trường thì cơ cấu và hoạt động của các CTCK cũng ngày càng sôi động và phức tạp. Cơ cấu của CTCK phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, nghiệp vụ kinh doanh và tính chất sở hữu của mỗi công ty.
Cơ quan quyền lực cao nhất của CTCK là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị sẽ bổ nhiệm Ban giám đốc để điều hành công ty. Giúp việc Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát tất cả giao dịch chứng khoán.
Một CTCK thường có các phòng ban chủ yếu sau :
- Phòng giao dịch: Đây là nơi thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC. Chức năng chính của phòng này là nhận và thực hiện giao dịch tại Sở đối với các lệnh giao dịch. Thông thường, phòng giao dịch bao gồm 3 bộ phận.
+ Bộ phận môi giới giới cho khách hàng
+ Bộ phận tự doanh
+ Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán
Phòng Kế toán -Tài chính : Gồm 2 bộ phận :
+ Bộ phận Kế toán : Xử lý các hợp đồng và tài liệu giao dịch, soạn thảo, gửi cho khách hàng, nhận lại tài liệu từ khách hàng, lưu trữ các hợp đồng…
+ Bộ phận Tài chính : Quản lý tài chính của công ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền quản lý việc cho khách hàng vay tiền để đầu tư chứng khoán…
Phòng Marketing : Quan hệ với khách hàng của công ty,nhận lệnh
Phòng lưu ký, đăng ký, lưu trữ
Phòng quản trị - hành chính tổng hợp
Phòng quản lý tài sản
1.1.3 Vai trò của Công ty chứng khoán
Sản phẩm do các CTCK tạo ra trong quá trình hoạt động của mình đã làm cho CTCK có những vai trò sau:
Một là, vai trò huy động vốn : Các CTCK là các trung gian tài chính có vai trò huy động vốn, tức là họ là các kênh chuyển vốn từ nơi dư thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Các CTCK thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động về Nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán.
Hai là, vai trò thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán: các CTCK thực hiện cơ chế chuyển đổi này, từ đó giúp nhà đầu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất.
Ba là, vai trò xác định giá cả chứng khoán: Thông qua Sở Giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các CTCK cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình.
Bốn là, thúc đẩy vòng quay của chứng khoán : Các CTCK cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Năm là, làm dịch vụ tư vấn tài chính : Các CTCK với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng,nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư. Công ty có thể tư vấn về : thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư, triển vọng ngắn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các Công ty trong thời gian hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán …
Sáu là, yểm trợ các sản phẩm đầu tư : Các sản phẩm đầu tư hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính, sự nỗ lực trong tiếp thị của các CTCK. Các CTCK có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị trường, vì mỗi loại sản phẩm tài chính có những quy định riêng biệt và nhu cầu khách hàng là đa dạng khác nhau.
1.1.4. Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán
Các CTCK có thể là những công ty chuyên dịch vụ như công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ thực hiện hoạt động tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán…hay là những công ty đa dịch vụ hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Nói chung, đối với CTCK có 3 nghiệp vụ kinh doanh chính :
-Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
-Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Theo thời gian, do đòi hỏi của thị trường và nhu cầu phát triển của bản thân CTCK, xuất hiện ngày càng nhiều các nghiệp vụ phát sinh như : cho vay ký quỹ, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, quản lý thu nhập chứng khoán …Đồng thời CTCK còn hoạt động tích cực trên cả lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ngân hàng.
1.1.4.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới là một hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc kinh doanh đó. Rủi ro mà nhà môi giới hay gặp phải là các khách hàng của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác có thể không thực hiện việc thanh toán đúng thời hạn.
1.1.4.2. Nghiệp vụ bảo lãnh
Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách bán chứng khoán trên thị trường. Sự hỗ trợ đó giúp đơn vị phát hành nắm chắc khả năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động. Có 3 hình thức bảo lãnh phát hành mà thế giới thường áp dụng: bảo lãnh cam kết chắc chắn, bảo lãnh cam kết cố gắng tối đa, bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không.
1.1.4.3. Nghiệp vụ tự doanh
Nghiệp vụ tự doanh là một nghiệp vụ kinh doanh trong đó công ty chứng khoán mua bán chứng khoán với kinh phí của mình, rủi ro do chính công ty chịu và họ có thể làm thêm nhiệm vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó. Nhà giao dịch có lãi hay chịu lỗ tuỳ thuộc và sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán và biến động chung của giá CK do họ nắm giữ.
1.1.4.4. Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính Công ty
Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể do bất kỳ CTCK hay cá nhân nào tham gia thông qua : khuyến cáo, lập báo cáo, tư vấn trực tiếp, ấn phẩm về CK để thu phí. Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp thông tin, cách thức, đối tượng CK, thời hạn, khu vực…và các vấn đề có tính quy luật của hoạt động đầu tư CK. Ngoài dịch vụ tư vấn đầu tư, các CTCK có thể sử dụng kỹ năng để tư vấn cho các công ty về việc sáp nhập, thâu tóm, tái cơ cấu vốn của công ty để đạt kết quả tối ưu.
1.1.4.5.Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Đây là loại nghiệp vụ tư vấn của CTCK nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này khách hàng uỷ thác cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận.Thực hiện nghiệp vụ này cho khách hàng, CTCK vừa bảo quản hộ CK, vừa đầu tư hộ CK.Thông thường CTCK nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm trên số lợi nhuận thu về cho khách hàng.
1.1.4.6. Nghiệp vụ phụ trợ
Nghiệp vụ tín dụng: CTCK cung cấp tín dụng cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng số CK đó làm vật thế chấp cho khoản vay của mình.
Nghiệp vụ quản lý thu nhập chứng khoán( quản lý cổ tức): Nghiệp vụ này của công ty CK xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký CK cho khách hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ lưu ký, công ty phải tổ chức theo dõi tình hình thu lãi CK khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế các công ty thường không trực tiếp quản lý mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu giữ chứng khoán.
Ngoài nghiệp vụ kể trên, công ty CK còn có thể thực hiện một số hoạt động khác như cho vay CK, quản lý quỹ đầu tư, quản lý vốn, kinh doanh bảo hiểm…
1.2. Các hình thức phát hành chứng khoán
1.2.1. Phát hành chứng khoán riêng lẻ
1.2.1.1. Khái niệm:
Phát hành chứng khoán riêng lẻ là việc phát hành chứng khoán được bán nội bộ hoặc bán thẳng cho các tổ chức đầu tư hoặc một số các cá nhân bên ngoài. Phát hành chứng khoán riêng lẻ tập trung vào chủ yếu là các tổ chức lớn và là những tổ chức có quan hệ gần gũi với doanh nghiệp. Việc phân phối chứng khoán theo hình thức này có thể cho phép doanh nghiệp huy động được vốn một cách nhanh chóng và bảo đảm cho giá chứng khoán không biến động mạnh.
Trong hình thức phát hành chứng khoán riêng lẻ thì cổ phiếu thường được phát hành lần đầu cho các nhà sáng lập của công ty hoặc phát hành cổ phiếu mới với việc ưu tiên đặt mua trước cho cổ đông hoặc có thể chào bán chứng khoán cho người thứ ba thường là người có quan hệ chặt chẽ mật thiết với công ty như người quản lý công ty, người lao động trong công ty, các định chế tài chính, các đối tác kinh doanh…
1.2.1.2. Điều kiện phát hành chứng khoán riêng lẻ
Do hình thức phát hành này không tiến hành một cách rộng rãi ra công chúng nên điều kiện phát hành của nó đơn giản cụ thể là:
Quy mô vốn nhỏ, không cần đáp ứng những điều kiện của vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, không quy định về tỷ lệ % đối với vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng công chúng tham gia.
Công ty có thể mới thành lập hoặc công ty đã thành lập và hoạt động không kể thời gian nào.
Hoạt động kinh doanh có thể có lãi cao hoặc thấp hoặc chưa có lãi trong giai đoạn mới phát hành chứng khoán.
Lập được dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh khả thi và việc sử dụng nguồn vốn từ đợt phát hành.
Đội ngũ quản lý công ty có năng lực, không đòi hỏi cao như hình thức phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng.
Đáp ứng một số quy định khác tuỳ thuộc đợt phát hành.
1.2.2. Phát hành chứng khoán ra công chúng.
1.2.2.1. Khái niệm.
Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Phát hành chứng khoán ra công chúng có thể được thực hiện trực tiếp bởi tổ chức phát hành hoặc thông qua các tổ chức trung gian.
Hình thức phát hành này có quan hệ khá mật thiết với việc bảo lãnh phát hành bởi đây là hình thức phát hành chứa đựng nhiều rủi ro do việc phân phối chứng khoán ra công chúng là những đối tượng mà tổ chức phát hành không có quan hệ chặt chẽ. Thông thường nếu tổ chức phát hành lựa chọn phát hành chứng khoán ra công chúng thì việc chọn cho mình một tổ chức bảo lãnh uy tín là điều vô cùng cần thiết để có thể đảm bảo cho đợt huy động vốn được diễn ra một cách thuận lợi.
1.2.2.2. Điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng.
Điều kiện để một công ty có thể phát hành chứng khoán ra công chúng là:
Tổ chức đó phải có quy mô vốn lớn, mức vốn điều lệ tối thiểu thực có đến ngày xin phép phát hành tuỳ theo mức quy định của từng nước.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi trong vòng hai năm liên tục gần nhất đối với đợt phát hành chứng khoán.
Có tình hình tài chính lành mạnh và triển vọng.
Có phương án kinh doanh khả thi, việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Có hội đồng quản trị, đội ngũ quản lý kinh doanh nhiều kinh nghiệm.
Có điều kiện về bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Có quy định về việc nắm giữ cổ phiếu đối với cổ đông sáng lập.
1.2.2.3. Các hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng.
Có ba hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng trên thị trường sơ cấp:
- Phát hành trực tiếp (tự phát hành)
Là phương thức phát hành trong đó tổ chức phát hành tự bán chứng khoán ra công chúng.
Muốn tự phát hành ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải có uy tín, có mạng lưới chi nhánh nhiều địa điểm khác nhau, phải am hiểu thị trường, có khả năng phân tích và xử lý thông tin.
- Phát hành bằng phương thức đấu thầu:
Phương thức phát hành thông qua đấu thầu thường áp dụng đối với trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước.
Có hai phương pháp đấu thầu:- Đấu thầu theo kiểu Hà Lan
- Đấu thầu theo kiểu Mỹ.
- Phát hành gián tiếp thông qua bảo lãnh phát hành.
Đây là phương thức phát hành gián tiếp, tổ chức phát hành nhờ ngân hàng hoặc công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành. Phương thức này tạo ra khả năng bán chứng khoán tốt bởi các tổ chức bảo lãnh phát hành có hệ thống bán, kinh nghiệm, khả năng về vốn.
1.2.2.4. Lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng.
Việc phát hành chứng khoán ra công chúng ngày càng thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia và điều này đã làm cho thị trường sơ cấp hoạt động sôi nổi và thúc đẩy cho thị trường thứ cấp phát triển. Đó là do phát hành chứng khoán đem lại khá nhiều lợi ích cho doanh nghiệp cụ thể là:
Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp doanh nghiệp huy động được nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ngưng trệ. Thông qua việc phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, nguồn vốn nợ và vốn cổ phần của doanh nghiệp tăng lên là cơ sở đảm bảo cho nguồn vốn ổn định hơn.
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp, nhờ đó công ty dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu những lần sau. Hơn nữa, khách hàng và nhà cung ứng của công ty cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp cho công ty có thể thu hút và giữ lại những nhân viên có trình độ cao bởi vì một tỷ lệ chứng khoán nhất định nằm trong tay họ. Các nhân viên chính là cổ đông là chủ sở hữu của công ty do đó họ luôn phát huy tinh thần trách nhiệm cao, làm việc có hiệu quả và nó kích thích sự cạnh tranh đối với công ty khác. Quyền lợi của những người nắm giữ cổ phiếu của công ty luôn gắn chặt với lợi ích mà họ tạo ra cho công ty đó.
Phát hành chứng khoán ra công chúng làm cho tính thanh khoản của chứng khoán tăng lên vì lúc này thị trường dành cho các cổ phiếu ra đời đó chính là thị trường thứ cấp. Nhờ đó giá trị tài sản của các cổ đông trong công ty cũng được tăng lên, uy tín của công ty cũng được thay đổi với những hình ảnh tốt đẹp hơn.Khi uy tín và hình ảnh của công ty tăng lên thì giúp cho công ty có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn từ ngân hàng, công ty có thể được vay vốn với những điều kiện ưu đãi hơn về lãi suất, thủ tục vay và thủ tục về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn, công ty có thể có những khuyến khích đáng kể về thuế.
Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo tài chính vì các báo cáo tài chính phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Hơn nữa, các thông tin tài chính của doanh nghiệp phát hành phải được công khai một cách rõ ràng, minh bạch, điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện một cách dễ dàng và thúc đẩy việc quản trị cũng như kinh doanh của công ty có hiệu quả hơn.
1.3. Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
1.3.1. Khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là một trong những nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán và đây cũng là hoạt động được các tổ chức khác trên thị trường thực hiện. Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp đỡ các tổ chức phát hành chứng khoán thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Quá trình này bao gồm việc tư vấn tài chính của công ty phát hành, tư vấn về loại chứng khoán phát hành và thời điểm phát hành, định giá chứng khoán, thực hiện bao tiêu chứng khoán nhằm huy động được nguồn vốn nhất định cho tổ chức phát hành chứng khoán.
Chào bán chứng khoán qua người bảo lãnh là phương pháp mà nhiều doanh nghiệp, nhiều tổ chức lựa chọn nhằm đảo bảm cho đợt phát hành chứng khoán thành công. Đây chính là phương pháp phát hành gián tiếp mà ở đó tổ chức phát hành thông qua một tổ chức trung gian được gọi là tổ chức bảo lãnh phát hành để chào bán chứng khoán ra công chúng đầu tư.
1.3.2.Vai trò của việc bảo lãnh phát hành chứng khoán.
- Vai trò đối với nền kinh tế quốc dân:
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán cung cấp các dịch vụ tài chính chuyên nghiệp như tư vấn tài chính, xác định giá trị chứng khoán nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo môi trường minh bạch, công khai hoá thông tin, hỗ trợ cho thị trường tài chính phát triển, góp phần phát triển kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành góp phần làm cho thị trường chứng khoán phát triển và thúc đầy luồng vốn nhanh chóng trong nền kinh tế tạo cho lưu thông tiền tệ được trôi chảy thúc đẩy các hoạt động kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế.
- Vai trò đối với tổ chức phát hành:
Các tổ chức phát hành bao gồm : các doanh nghiệp được phép phát hành chứng khoán( cổ phiếu và trái phiếu) và Chính phủ. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành rất quan trọng trong việc hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các phương pháp quản lý khoa học, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính ( thông qua tư vấn tài chính), cung cấp các dịch vụ giải pháp tổng thể đảm bảo được sự phát triển của hoạt động kinh doanh, phát huy các ưu thế cạnh tranh và thích ứng được với sự biến động của môi trường kinh doanh trong và ngoài nước. Bảo lãnh phát hành còn là một đảm bảo cho sự thành công của phương án phát hành chứng khoán nhằm huy động vốn cho một dự án mở rộng đầu tư của doanh nghiệp với chi phí hợp lý và giảm thiểu được rủi ro. Đối với Chính phủ nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi từ dân chúng để bù đắp thiếu hụt ngân sách và đáp ứng chi tiêu Chính phủ thì việc phát hành trái phiếu Chính phủ là rất cần thiết và tỏ rõ nhiều thuận lợi hơn cả. Để đạt được mục tiêu của việc phát hành trái phiếu Chính phủ thì kế hoạch phát hành phải được xây dựng một cách khoa học và cụ thể dựa trên chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế xã hội và các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu giúp cho Chính phủ xây dựng được dự toán ngân sách trong từng thời kỳ, trên cơ sở đó đưa ra kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ đồng thời kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá trong quản lý và điều hành thị trường trái phiếu, đáp ứng được nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế xã hội. Thông thường, để bảo lãnh trái phiếu Chính phủ thì cần phải là một tổ hợp bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối số lượng trái phiếu Chính phủ trên cơ sở đã được ấn định trước về số lượng, lãi suất, thời hạn. Phương pháp này giúp cho Chính phủ có thể kiểm soát được lãi suất kì hạn cũng như đối với số lượng trái phiếu.
- Vai trò đối với các nhà đầu tư:
Bảo lãnh phát hành chứng khoán phân tích và cung cấp cho người đầu tư những thông tin cần thiết về tổ chức phát hành như tình hình tài chính, ưu điểm và nhược điểm của cơ cấu tổ chức và những thông tin khác có liên quan đến việc biến động giá chứng khoán ; cho người đầu tư biết được môi trường kinh doanh hiện tại cơ chế quản lý của Nhà nước đối với hoạt động chứng khoán nói chung và bảo lãnh phát hành chứng khoán nói riêng; cung cấp các chuẩn mực quốc tế và sự thay đổi của chúng về lĩnh vực tài chính, kế toán, kiểm toán tiền tệ nhằm giúp cho nhà đầu tư có được những thông tin tổng thể và toàn diện khi họ tham gia thị trường chứng khoán.
1.3.3. Các chủ thể tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán
Tham gia vào việc bảo lãnh phát hành chứng khoán có rất nhiều tổ chức. Tổ chức bảo lãnh (hay có thể gọi là người bảo lãnh) sau khi tiến hành xong hoạt động tư vấn phát hành sẽ là người mua toàn bộ hoặc một phần chứng khoán của người phát hành nhằm mục đích đưa số chứng khoán đó chào bán ra công chúng đầu tư hoặc có thể ký kết hợp đồng với người phát hành để mua số chứng khoán còn lại chưa chưa bán hết nếu không có ai đăng ký mua thêm hoặc có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc phát hành. Tùy theo pháp luật mỗi nước, các công ty có chức năng thực hiện bảo lãnh thường là các tổ chức kinh doanh chứng khoán(các công ty chứng khoán), các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại và các tổ chức có tiềm lực tài chính mạnh. Tổ chức bảo lãnh đóng vai trò quan trọng giúp cho người phát hành bán chứng khoán để huy động vốn một cách thuận lợi.
Có thể thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia đợt bảo lãnh phát hành bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1 : Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia đợt phát hành chứng khoán.
Tổ chức phát hành
Tổ chức bảo lãnh phát hành
Tổ chức bảo lãnh chính
Thành viên bảo lãnh
Thành viên bảo lãnh
Thành viên bảo lãnh
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
*Tổ hợp bảo lãnh phát hành
Trong trường hợp khối lượng vốn huy động của các doanh nghiệp quá lớn mà một tổ chức bảo lãnh không thể đảm đương được hết nhiệm vụ thì thông thường các tổ chức bảo lãnh sẽ lập ra tổ hợp bảo lãnh phát hành để việc phân phối chứng khoán được tiến hành nhanh chóng và đồng thời phân tán được rủi ro.
* Tổ chức bảo lãnh chính :
Là tổ chức bảo lãnh đứng ra thương lượng với người phát hành, chỉ đạo toàn bộ tiến trình bảo lãnh phát hành bao gồm ký kết hợp đồng bảo lãnh với tổ chức phát hành, điều hành cuộc họp thẩm định cuối cùng và bán chứng khoán.
*Những thành viên của tổ hợp bảo lãnh:
Những thành viên của tổ hợp bảo lãnh cam kết với tổ chức bảo lãnh chính về việc bán chứng khoán ra công chúng. Đối với trường hợp bảo lãnh chắc chắn, tất cả các thành viên của tổ hợp phải làm giấy cam kết bán hết số chứng khoán mà họ đã nhận trong tổng số phát hành.
Các thành viên của tổ hợp sẽ ký vào một bản thoả thuận tham gia vào tổ hợp trong đó quy định trách nhiệm của các thành viên, của tổ chức bảo lãnh chính và việc phân chia lợi nhuận của tổ hợp.
*Nhóm bán:
Thông thường thì công ty chứng khoán sẽ được mời tham gia phân phối chứng khoán.Các`công ty chứng khoán này được coi là thành viên trong nhóm bán sẽ bán chứng khoán cho nhà đầu tư tại cùng một giá, cùng một lúc và cùng những điều kiện như của những tổ chức bảo lãnh phát hành.
Những thành viên trong nhóm bán không bị ràng buộc trách nhiệm tài chính đối với người phát hành hay với bất kỳ ai khác bởi họ không phải là những người bảo lãnh phát hành. Mặt khác, những thành viên của nhóm bán cũng không kiếm được nhiều tiền từ một đợt chào bán chứng khoán ra công chúng như tổ chức bảo lãnh phát hành. Tuy nhiên, trong mọi tình huống các thành viên trong nhóm bán đều phải hoạt động căn cứ vào bản hợp đồng với tổ chức bảo lãnh.
1.3.4 Các thủ tục và quy định trong bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1.3.4.1. Một số tài liệu và thủ tục trong bảo lãnh phát hành.
Để được công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành, công ty phát hành phải cung cấp cho các tổ chức bảo lãnh những tài liệu sau :
- Điều lệ công ty
- Giấy phép thành lập công ty
- Báo cáo giới thiệu về hoạt động của công ty, trong đó có các báo cáo tài chính
Việc bảo lãnh được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh giữa tổ chức bảo lãnh và tổ chức phát hành chứng khoán. Hợp đồng bảo lãnh phát hành( hay còn gọi là cam kết bảo lãnh phát hành) là thoả thuận mà các tổ chức bảo lãnh đồng ý mua chứng khoán của tổ chức phát hành theo giá cố định để bán lại ra công chúng. Nội dung cam kết bảo lãnh trước hết bao gồm các điều khoản thực thi cam kết và xác nhận mà tổ chức phát hành phải thực hiện trước khi các tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm mua chứng khoán.
Hợp đồng bảo lãnh cũng có một số điều khoản điều chỉnh hoạt động của tổ chức bảo lãnh. Tổ chức bảo lãnh chính thay mặt các tổ chức bảo lãnh thành viên thực hiện hợp đồng bảo lãnh và khi hợp đồng bảo lãnh được thực hiện nó thể hiện cam kết của mỗi tổ chức bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh còn có điều khoản quy định về việc mất khả năng thanh toán. Các điều khoản này quy định rằng nếu một tổ chức bảo lãnh không mua các chứng khoán mà họ nhận bảo lãnh thì tổ chức bảo lãnh chính có thể tiếp nhận phân phối những chứng khoán đó.
Hợp đồng bảo lãnh cũng có các điều khoản liên quan tới việc bồi thường và đóng góp giữa các bên. Tổ chức phát hành sẽ phải bồi thường cho các tổ chức bảo lãnh do việc cung cấp các thông tin sai lệch và thiếu những thông tin quan trọng trong hồ sơ đăng ký phát hành và bản cáo bạch làm ảnh hưởng đến chất lượng phân phối chứng khoán. Ngược lại, các tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ bồi thường cho tổ chức phát hành khi làm sai lệch với quy trình của nghiệp vụ hoặc thiếu sót các thông tin quan trọng trong hồ sơ đăng ký phát hành và bản cáo bạch nhưng chỉ trong phạm vi các thông tin sai lệch thiếu sót đó do các nhà bảo lãnh cung cấp bằng văn bản cho tổ chức phát hành để đưa vào hồ sơ đăng ký và bản cáo bạch.
Sau khi hợp đồng bảo lãnh được ký kết, tổ chức bảo lãnh xúc tiến việc chuẩn bị bản cáo bạch cho công ty phát hành. Bản cáo bạch theo quy định của Uỷ ban chứng khoán phải bao gồm những tài liệu sau:
- Bản giới thiệu tên và lịch sử của công ty.
- Số lượng và loại chứng khoán chào bán.
- Cơ cấu vốn của công ty trư._.ớc và sau khi phát hành.
- Phương thức phát hành chứng khoán.
- Phần dành cho tổ chức bảo lãnh phát hành.
- Phương hướng sử dụng nguồn vốn thu được, kế hoạch chia cổ tức.
- Danh sách các tổ chức tài chính thường xuyên quan hệ và cố vấn pháp luật của công ty phát hành.
- Các báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong vòng ba năm hoạt động và bản đánh giá của công ty kiểm toán.
- Một số tài liệu khác theo yêu cầu của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
1.3.4.2. Các quy định trong hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
* Đối với hoạt động bảo lãnh phát hành.
Các nước trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán đều chú trọng đến việc ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh đối với thị trường chứng khoán cũng như hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
ở Mỹ, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán được quy định trong luật chứng khoán năm 1933; ở Nhật thì được điều chỉnh bởi luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán năm 1986. Tại các nước mới nổi, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán thường do luật pháp chứng khoán điều chỉnh trực tiếp như Thái Lan, Trung Quốc…
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trên thị trường sơ cấp là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại đa năng vì vậy quản lý việc thực hiện các nghiệp vụ này nằm trong sự quản lý các chủ thể cung cấp nghiệp vụ. Nhìn chung hoạt động bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán( có thể là các cơ quan độc lập hoặc trực thuộc Bộ tài chính) và các tổ chức tự quản nơi các công ty chứng khoán này tham gia với tư cách là thành viên. Hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý tiền tệ Trung ương hoặc địa phương tuỳ thuộc vào phạm vi tính chất của nghiệp vụ cung cấp. Cụ thể tại Mỹ hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán công ty của các công ty chứng khoán chịu sự quản lý của cơ quan giám sát tiền tệ và cục dự trữ liên bang ( Ngân hàng trung ương).
Tại Hàn Quốc, các công ty chứng khoán phải đăng ký hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán với Bộ tài chính. Mặt khác, các công ty cũng phải chịu sự quản lý của Ban kiểm soát chứng khoán (SSB), Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán với tư cách là các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán. Các ngân hàng thương mại Hàn Quốc có thể được phép tham gia bảo lãnh trái phiếu nhưng chịu sự điều chỉnh của luật ngân hàng và các quy định của ban quản lý tiền tệ ngân hàng trung ương Hàn Quốc.
Tại Malaixia, hoạt động phát hành chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán chịu sự điều chỉnh của Vụ phát hành chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Malaixia.
Còn tại Việt Nam các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán chịu sự điều chỉnh của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nay thuộc Bộ Tài chính.
* Quy định đối với tổ chức bảo lãnh phát hành
Tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán ở mỗi nước thì có những quy định riêng do tiềm lực tài chính và trình độ đối với nghiệp vụ này là khác nhau và ở mỗi thị trường chứng khoán thì có sự vận hành khác nhau cùng với sự điều hành của cơ quan quản lý vì mục tiêu của thị trường không giống nhau.
Tại Việt Nam, tổ chức bảo lãnh phát hành phải hội tụ những điều kiện sau mới có thể tham gia vào việc bảo lãnh phát hành chứng khoán cho tổ chức phát hành:
- Có giấy phép hoạt động bảo lãnh phát hành do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp.
- Không nắm giữ từ 5% trở lên vốn cổ phần của tổ chức phát hành và ngược lại.
- Không có từ 5% trở lên vốn cổ phần của mình do tổ chức phát hành nắm giữ.
- Không có một cổ đông nào cùng sở hữu từ 5% trở lên vốn cổ phần của mình và cả bên tổ chức phát hành.
- Chỉ được phép bảo lãnh với tổng giá trị hợp đồng không vuợt quá 30% vốn tự có của công ty.
1.3.5. Quy trình bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1.3.5.1. Tư vấn phát hành chứng khoán( tư vấn tài chính trước khi nhận bảo lãnh)
Tổ chức bảo lãnh tiến hành tìm hiểu thông tin về các công ty có nhu cầu huy động vốn và niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán đồng thời liên hệ với ban lãnh đạo công ty xem xét khả năng phát hành chứng khoán. Việc xem xét này cần được nghiên cứu về nhiều mặt:
Xem xét về tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Xem xét về tình hình sản xuất kinh doanh.
Xem xét về các báo cáo tài chính trong một vài năm gần với thời điểm phát hành chứng khoán.
Thẩm định dự án đầu tư mới.
Kiểm tra các quy định đối với việc phát hành chứng khoán của doanh nghiệp.
Thông thường các nhà bảo lãnh sẽ ký kết với tổ chức phát hành một hợp đồng về tư vấn tài chính( được gọi là hợp đồng tiền bảo lãnh). Đối với các tổ chức bảo lãnh thì đây là một bước quan trọng để dẫn tới quyết định bảo lãnh.
Sau khi thẩm định và xem xét các tài liệu liên quan đến đợt phát hành, tổ chức bảo lãnh thường đưa ra những thông tin chủ yếu sau trực tiếp quyết định đến sự thành công sau này của đợt phát hành.
*Tư vấn tái cơ cấu.
Dựa trên những tìm hiểu về công ty phát hành, tổ chức bảo lãnh sẽ đưa ra những tư vấn cần thiết về cơ cấu công ty. Nếu như công ty là một doanh nghiệp nhà nước đang trong tiến trình cổ phần hoá thì việc phát hành chứng khoán sẽ có tác động như thế nào, quy trình cổ phần hoá sẽ diễn ra các bước ra sao?
Nếu công ty là một doanh nghiệp nhỏ đang muốn huy động nguồn vốn lớn nhưng khả năng không cho phép, hay việc sáp nhập, hợp nhất với một công ty khác thì việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán sẽ trở nên hoàn toàn dễ dàng. Tổ chức bảo lãnh chính là người cung cấp thông tin liên quan đó.
Trong tình hình kinh tế thị trường như hiện nay, việc chuyển đổi hình thức công ty diễn ra thường xuyên và việc tìm một tổ chức bảo lãnh phát hành để tư vấn tái cơ cấu là rất cần thiết cho những bước chuẩn bị tiếp theo là phát hành chứng khoán ra công chúng đầu tư.
* Tư vấn về loại chứng khoán phát hành.
Để thực hiện được việc tư vấn về loại chứng khoán mà công ty sẽ phát hành cần tìm hiểu xem những loại chứng khoán nào mà doanh nghiệp được phép phát hành.
Đối với loại hình công ty cổ phần thì công ty được phép phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn nhưng công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phép phát hành trái phiếu. Như thế việc tư vấn về loại chứng khoán chỉ diễn ra đối với công ty cổ phần còn đối với công ty chỉ được phép phát hành trái phiếu thì tổ chức bảo lãnh sẽ tư vấn về loại trái phiếu nên phát hành với mệnh giá và lãi suất thời hạn là bao nhiêu để đảm bảo cho đợt phát hành mang lại hiệu quả với chi phí hợp lý.
Tổ chức bảo lãnh phát hành tiến hành tìm hiểu cơ cấu vốn của các công ty cổ phần thông qua các báo cáo tài chính, cung vốn cho hoạt động đầu tư diễn ra trong bao lâu, tình hình quản trị và uy tín của công ty như thế nào để từ đó liên hệ với những ưu nhược điểm của từng loại chứng khoán mà đưa ra những quyết định tư vấn hợp lý.
* Tư vấn về thời điểm phát hành chứng khoán.
Tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ tư vấn cho tổ chức phát hành thời điểm nào thì phát hành chứng khoán có lợi nhất và thích hợp nhất. Điều này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chi phí phát hành, khối lượng vốn có thể huy động được và cả uy tín của công ty…
Đối với việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu thời điểm phát hành thích hợp đối với công ty là lúc công ty đang nổi tiếng vì sản phẩm được ưa chuộng, thị phần lớn. Bởi lúc này giá bán chứng khoán sẽ có lợi, nó có thể cao hơn rất nhiều so với mệnh giá. Chi phí phát hành sẽ thấp vì các tổ chức bảo lãnh sẽ dễ dàng chấp nhận với những điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên cũng không kém phần quan trọng là cần phải xem xét đến thời điểm đó thị trường ra sao đặc biệt là thị trường chứng khoán. Nếu như thị trường chứng khoán kém sôi động không có nhiều nhà đầu tư thì rủi ro về giá là rất lớn. Công ty có thể không bán được chứng khoán hoặc bán được rất ít và đợt phát hành chứng khoán sẽ bị thất bại. Vì vậy lúc thị trường đang giao động lớn nhà đầu tư có xu hướng mua trái phiếu nhiều hơn mua cổ phiếu. Trong trường hợp này phát hành cổ phiếu sẽ không có lợi. Ngược lại, lúc thị trường chứng khoán đang náo nhiệt và hấp dẫn, giá cổ phiếu bắt đầu tăng là lúc phát hành có lợi và được giá.
* Tư vấn về giá phát hành chứng khoán.
Việc xác định giá phát hành chứng khoán là khâu quan trọng và cũng là khó khăn nhất đối với tổ chức bảo lãnh phát hành. Giá chứng khoán liên quan trực tiếp đến quyền lợi của tổ chức phát hành, nhà đầu tư cũng như các bên liên quan đến đợt phát hành như tổ chức bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính… Nó cũng đảm bảo cho đợt phát hành được thành công là huy động được số vốn như dự kiến của tổ chức phát hành.Việc định giá chứng khoán phụ thuộc vào tình hình cụ thể của từng công ty và môi trường pháp lý, kinh tế của từng nước. Việc định giá chứng khoán sắp phát hành có sự khác nhau theo tính chất của đợt phát hành. Xác định giá cho chứng khoán đã có thị trường giao dịch ( thị trường thứ cấp) khác với việc xác định giá cho chứng khoán mới phát hành lần đầu ra công chúng. Hiện tại, có rất nhiều phương pháp để xác định giá chứng khoán phát hành.
- Đối với cổ phiếu của công ty đã được niêm yết trên thị trường :
Việc định giá cổ phiếu phát hành thêm rất đơn giản bởi vì đã có sẵn giá chứng khoán đó trên thị trường thứ cấp. Việc định giá các cổ phiếu sắp phát hành được dựa vào giá giao dịch trên thị trường của cổ phiếu đó trước thời điểm phát hành mới. Thông thường giá phát hành được xác định dựa trên cơ sở giá đóng cửa của ngày hôm trước hoặc giá thị trường bình quân của một số ngày trước ngày xác lập giá phát hành hoặc trước ngày phát hành cổ phiếu mới.
- Đối với cổ phiếu phát hành lần đầu ra công chúng:
Có nhiều phương pháp để có thể xác định giá chứng khoán phát hành lần đầu ra công chúng. Thông thường đối với cổ phiếu thì người ta tính giá dựa trên các dòng thu nhập, dựa vào cổ tức hoặc là tài sản hiện có của công ty. Các phương pháp phổ biến hiện nay là : phương pháp chiết khấu luồng thu nhập, phương pháp chiết khấu cổ tức, phương pháp hệ số P/E, phương pháp giá trị tài sản ròng.
+ Phương pháp định giá cổ phiếu theo luồng cổ tức.
Theo phương pháp này thì giá cổ phiếu được tính bằng tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức trong tương lai với giá trị hiện tại của cổ phiếu tại thời điểm bán sau này. Công thức cụ thể như sau:
Giá cổ phiếu
=
Tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức trong tương lai
+
Giá trị hiện tại của CP tại thời điểm bán sau này
Nếu như cổ phiếu được người đầu tư nắm giữ vô hạn thì thời gian của cổ phiếu sẽ tiến tới vô cùng ( thông thường quãng đời của cổ phiếu là vô hạn vì nó không có thời gian đáo hạn). Khi đó giá trị hiện tại của vốn gốc sẽ tiến tới 0.
Lúc này:
Giá cổ phiếu = tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức trong tương lai.
+ Phương pháp định giá cổ phiếu theo luồng thu nhập.
Phương pháp định giá cổ phiếu theo luồng thu nhập dựa trên nguyên lý cơ bản đó là giá trị của doanh nghiệp thu được trong tương lai được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng với một mức lãi suất chiết khấu phù hợp với mức độ rủi ro của doanh nghiệp đó. Trong phương pháp này, hai thông số cơ bản cần được xác định đó là luồng thu nhập mà công ty sẽ thu về trong tương lai và mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó.
+Phương pháp xác định giá theo hệ số P/E
Giá cổ phiếu = P/E * thu nhập ròng trên một cổ phiếu
Theo phương pháp này, người xác định giá chứng khoán sẽ dựa vào giá trị P/E được công bố đối với loại cổ phiếu có cùng độ rủi ro như cổ phiếu chuẩn bị phát hành, sau đó lấy giá trị này nhân với thu nhập ròng trên cổ phiếu của công ty phát hành cổ phiếu đó thì sẽ tìm ra giá trị cổ phiếu phát hành.
Đây là phương pháp thông dụng nhất trong các phương pháp dựa vào hệ số mà có thể tìm ra giá trị của một loại chứng khoán một cách dễ dàng. Đối với một thị trường chứng khoán phát triển thì tỷ lệ P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Còn đối với thị trường chứng khoán mới nổi thì việc sử dụng phương pháp này nhiều khi không mang lại những thông tin đáng tin cậy.
+Phương pháp xác định giá trị cổ phiếu theo giá trị tài sản.
Theo phương pháp này, người định giá cổ phiếu phải tính được giá trị tài sản thực có của doanh nghiệp theo giá trị thị trường chứ không phải là giá trị sổ sách. Giá trị cổ phiếu tính theo giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp cần được điều chỉnh thêm giá trị lợi thế hoặc khả năng sinh lời phù hợp với từng doanh nghiệp, thực chất là kết hợp với các phương pháp trên.
- Đối với trái phiếu:
Trái phiếu là một loại chứng khoán có nhiều đặc điểm cố định như lãi suất, thời gian đáo hạn, hình thức trả lãi ( trả lãi trước hay trả lãi sau) nên việc xác định giá trái phiếu tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của loại trái phiếu phát hành. Thông thường, trong một đợt phát hành trái phiếu người ta quan tâm đến việc xác định lãi suất trái phiếu phát hành và đây cũng là yếu tố chính để xác định giá bán trái phiếu.
+ Đối với trái phiếu Chính phủ : trái phiếu Chính phủ là loại chứng khoán có độ tín dụng cao nhất và an toàn nhất. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ thường là lãi suất chuẩn cho các loại lãi suất khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất trái phiếu Chính phủ thường được xác định thông qua đấu thầu, bảo lãnh phát hành giữa các tổ chức tài chính, các ngân hàng thương mại. Sau đó các tổ chức này bán lại hoặc phân phối lại trái phiếu ra công chúng. Trên cơ sở lãi suất phát hành và lãi suất của trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn trên thị trường mà trái phiếu sẽ được bán thấp hơn, cao hơn hoặc bằng mệnh giá.
+ Trái phiếu công ty: lãi suất trái phiếu công ty được xác định dựa trên cơ sở của lãi suất trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn tương ứng và mức độ tín nhiệm của công ty phát hành trái phiếu. Định mức tín nhiệm của công ty là việc đánh giá độ tín nhiệm của một công cụ nợ, đó chính là ý kiến của các tổ chức định mức tín nhiệm cho các nhà đầu tư về độ rủi ro của loại trái phiếu mà họ sẽ gặp phải. Một định mức tín nhiệm cao là một hình ảnh đẹp về tổ chức phát hành. Và như vậy, sẽ vô cùng thuận lợi cho việc xác định giá trị trái phiếu của công ty.Các tổ chức bảo lãnh sử dụng định mức tín nhiệm mà được giám sát liên tục hàng năm để làm cơ sở để xác định giá của một công cụ nợ.
1.3.5.2. Lập và nộp hồ sơ xin phép phát hành.
Sau khi chấp nhận bảo lãnh phát hành, tổ chức bảo lãnh sẽ liên hệ với công ty tư vấn hoặc các tổ chức đại lý phân phối để thiết lập tổ hợp bảo lãnh(nếu cần). Tổ chức bảo lãnh phải ký cam kết bảo lãnh phát hành với tổ chức phát hành.
Việc chuẩn bị và lập hồ sơ xin phép phát hành do tổ chức bảo lãnh phát hành chính cùng với tổ chức phát hành cùng thực hiện và họ chịu trách nhiệm một phần về tính trung thực của hồ sơ. Sau khi hoàn thành việc chuẩn bị hồ sơ, tổ chức bảo lãnh chuyển hồ sơ xin phép phát hành cho công ty tư vấn luật để xem xét các khía cạnh pháp lý liên quan đến đợt phát hành đó. Công ty tư vấn chịu trách nhiệm xem xét và đảm bảo hồ sơ đầy đủ và hợp lệ theo đúng quy định của Uỷ ban chứng khoán.
Tiến hành xét và xác định trách nhiệm giữa tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành và các công ty tư vấn. Trong cuộc họp này, các bên rà soát lại các bước thực hiện, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên tham gia. Các bên ký vào biên bản cuộc họp, biên bản này sẽ là một trong những cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề kiện tụng phát sinh sau này (nếu có).
Sau khi kết thúc giai đoạn “phân tích, đánh giá” tổ chức bảo lãnh hoàn chỉnh hồ sơ xin phép phát hành và đệ trình lên Uỷ ban chứng khoán. Trong thời gian xét duyệt hồ sơ xin phép phát hành, tổ chức bảo lãnh cùng với tổ chức phát hành phải thực hiện tất cả việc sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Uỷ ban chứng khoán.
1.3.5.3. Bao tiêu chứng khoán.
* Khái niệm bao tiêu chứng khoán.
Bao tiêu chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành lựa chọn phương thức bao tiêu nhằm phân phối số chứng khoán mà tổ chức phát hành giao cho theo đúng cam kết bảo lãnh. Bảo lãnh phát hành được thực hiện bằng nhiều phương thức. Việc lựa chọn phương thức nào đã được thoả thuận giữa tổ chức bảo lãnh và công ty phát hành trong hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán. Thông thường có các phương thức bao tiêu chứng khoán như dưới đây.
* Các hình thức bao tiêu chứng khoán.
- Bảo lãnh phát hành theo cam kết chắc chắn.
Đây là phương thức bảo lãnh mà theo đó người bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán theo giá thương lượng với công ty phát hành và sau đó bán lại ra công chúng với mức giá cao hơn để hưởng hoa hồng chiết khấu cho dù tổ chức bảo lãnh có phân phối được hết số chứng khoán hay không.
Theo phương pháp này tổ chức bảo lãnh tham gia vào việc đảm bảo phát hành một cách chắc chắn và chấp nhận mọi rủi ro xảy ra. Trong trường hợp tổ chức bảo lãnh không phân phối hết số chứng khoán thì họ sẽ là người mua lại số chứng khoán cho chính mình. Vậy nên tổ chức bảo lãnh thường áp dụng hình thức này đối với người phát hành có uy tín.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất( bảo lãnh tới mức tối đa)
Đây là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý phân phối cho tổ chức phát hành. Tổ chức nhận bảo lãnh sẽ không cam kết bán hết toàn bộ số chứng khoán của công ty phát hành mà họ chỉ cam kết cố gắng để bán hết toàn bộ số chứng khoán đó, nếu còn thừa thì họ sẽ trả lại cho nhà phát hành. Số tiền bảo lãnh phát hành sẽ được tính trên số chứng khoán đã bán ra. Hình thức bảo lãnh này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp mới được thành lập chưa có uy tín trên thị trường. Đây là một phương thức nhận bán ít mạo hiểm hơn so với phương thức trên, thường được các tổ chức bảo lãnh có quy mô nhỏ không muốn phiêu lưu nhiều nên chỉ đơn giản muốn nhận bán hộ để hưởng hoa hồng.
Bảo lãnh tất cả hoặc không.
Đây là phương thức bảo lãnh mà tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu tổ chức bảo lãnh không phân phối được hết số chứng khoán đó thì tổ chức phát hành sẽ huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành.
Phương thức này được áp dụng khi doanh nghiệp cần tăng một lượng vốn tối thiểu nào đó để đáp ứng nhu cầu kinh doanh nhưng doanh nghiệp không thể sử dụng một lượng vốn ít hơn và như vậy doanh nghiệp yêu cầu tất cả các chứng khoán cần phải được bán hết nếu không sẽ phải huỷ bỏ toàn bộ lượng chứng khoán đã phân phối.
- Bảo lãnh theo phương pháp dự phòng.
Tổ chức bảo lãnh thường áp dụng phương thức này sẽ cam kết mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và sau đó bán lại ra công chúng. Đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung cổ phiếu thường. Trong trường hợp đó, công ty cần bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu và như vậy công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra ngoài công chúng. Tuy nhiên sẽ có một số cổ đông không mua thêm cổ phiếu của công ty do vậy công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng.
1.3.5.4. Phân phối chứng khoán và khoá sổ kết thúc đợt bảo lãnh.
Mỗi nước có những quy định khác nhau về tỷ lệ phân phối chứng khoán cho các nhà đầu tư của các tổ chức bảo lãnh. Ví dụ, chứng khoán mà tổ chức bảo lãnh chính dành để bán trực tiếp cho các nhà đầu tư có tổ chức trong đợt phát hành ở Mỹ có thể chiếm từ 40% đến 60% tổng số chứng khoán chào bán. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này là rất thấp do các nhà đầu tư có tổ chức chưa tham gia thị trường nhiều nên việc phân phối chứng khoán chủ yếu vẫn là dành cho các nhà đầu tư cá thể.
Trước khi khoá sổ kết thúc đợt bảo lãnh, mỗi tổ chức bảo lãnh sẽ thông báo cho tổ chức bảo lãnh chính những thông tin cần thiết để chuẩn bị chứng chỉ cho số chứng khoán đã bán. Thông tin đó bao gồm tên người đăng ký chứng khoán và đặc điểm của chứng chỉ đại diện chứng khoán.
Sau khi tập hợp các thông tin như vậy, tổ chức bảo lãnh chính chuyển các thông tin đó tới tổ chức phát hành để chuẩn bị in các chứng chỉ. Sau khi chuẩn bị xong, các chứng chỉ đó được gửi tới đại lý chuyển nhượng của tổ chức phát hành. Đại lý chuyển nhượng điền đầy đủ các thông tin cần thiết để hoàn thiện chứng chỉ sau đó ký và gửi các chứng chỉ đó đến các công ty đăng ký. Công ty đăng ký chứng khoán đồng thời thường là đại lý chuyển nhượng ký chứng khoán đồng thời lưu sổ đăng ký và số lượng chứng khoán được ghi trong mỗi chứng chỉ.
Việc thanh toán được thực hiện vào thời điểm khoá sổ đồng thời với việc chuyển giao các chứng chỉ. Sau khi kết thúc đợt bảo lãnh, nếu hợp đồng có quy định, tổ chức bảo lãnh đóng vai trò ổn định thị trường sẽ giao dịch nhằm ổn định giá chứng khoán trong thời gian và theo những điều kiện quy định.
Ta có thể khái quát quy trình bảo lãnh qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2 : Quy trình bảo lãnh phát hành chứng khoán
Phân phối chứng khoán
Khoá sổ và kết thúc đợt phát hành
Tổ chức
phát hành
Lập và nộp hồ sơ xin phép phát hành
Nhận chứng khoán
Tư vấn phát hành chứng khoán
Tổ chức
bảo lãnh
phát hành
1.4. Kinh nghiệm của các nước về bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1.4.1. Kinh nghiệm bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Mỹ.
Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, phần lớn các công ty đều phát hành thông qua bảo lãnh của công ty chứng khoán và các ngân hàng đầu tư ở Mỹ.Trong thời kỳ 1992-1997, hoạt động của các ngân hàng đầu tư và các công ty chứng khoán ở Mỹ có sự phát triển đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là do sự gia tăng từ lợi nhuận do kinh doanh các loại chứng khoán có thu nhập cố định như trái phiếu công ty, trái phiếu cầm cố tài sản và tổng giá trị bảo lãnh phát hành. Hầu như các công ty chứng khoán và ngân hàng đầu tư của Mỹ được lựa chọn không chỉ vì họ làm ăn ngày càng hiệu quả mà họ còn có nhiều trình độ và kinh nghiệm chuyên môn để đảm bảo cho sự thành công của đợt phát hành chứng khoán với chi phí hợp lý. Trong số 15 tổ chức bảo lãnh lớn nhất của Mỹ thì 5 tổ chức đứng đầu đã chiếm tới 55% khối lượng bảo lãnh trong đó phải kể đến ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, một tổ chức bảo lãnh phát hành đứng đầu ở Mỹ cũng như trên toàn thế giới với mức vốn là 33 tỷ USD.
Ngoài các công ty chứng khoán và các ngân hàng đầu tư là chủ yếu tham gia vào lĩnh vực bảo lãnh phát hành chứng khoán thì đến năm 1999 đã xuất hiện nhiều tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm cũng tham gia vào lĩnh vực này.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Mỹ có thể coi như một hình thức bảo hiểm. Trong một đợt chào bán được bảo lãnh, các tổ chức bảo lãnh mua lại chứng khoán từ các tổ chức phát hành với mức giá họ đặt ra rồi trừ đi tỷ lệ phần trăm bảo lãnh nhất định. Khi thực hiện bảo lãnh như vậy các tổ chức bảo lãnh phải chịu rủi ro là có thể không bán được toàn bộ số chứng khoán phát hành với mức giá chào bán ban đầu và khi đó các tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ bán chứng khoán với mức giá theo cung cầu thị trường và gánh chịu phần thua lỗ.
Việc bảo lãnh ở Mỹ cũng có thể tiến hành thông qua tổ hợp bảo lãnh. Trong một đợt chào bán được bảo lãnh theo tổ hợp thì tổ hợp bảo lãnh được thiết lập để mua chứng khoán từ tổ chức phát hành và sau đó đem chào bán lại cho nhà đầu tư. Nhà bảo lãnh chính sẽ lựa chọn những công ty chứng khoán có khả năng trong việc tiếp thị chào bán để thành lập một tổ hợp bảo lãnh. Việc bảo lãnh theo tổ hợp giúp san sẻ rủi ro bảo lãnh giữa công ty chứng khoán thành viên trong tổ hợp.
Một đợt chào bán có thể kéo dài vài tháng tuỳ theo sự chuẩn bị của tổ chức phát hành, việc chuẩn bị đầy đủ thông tin cho việc đăng ký phát hành và điều kiện trên thị trường.
Quy trình bảo lãnh phát hành ở Mỹ thường bắt đầu từ khi tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh có được thoả thuận thống nhất ban đầu và kết thúc vào khoảng 25 ngày sau khi đợt chào bán chính thức được phép tiến hành và chứng khoán được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán tập trung hoặc trên thị trường phi tập trung. Trong trường hợp chứng khoán không được đem niêm yết thì thường kết thúc vào khoảng 90 ngày sau khi chứng khoán được chính thức chào bán.
Các bước tiến hành trong một đợt chào bán gồm có việc lập hồ sơ phát hành, đăng ký với Uỷ ban và giao dịch chứng khoán(SEC), SEC đưa ra những ý kiến, sửa đổi đăng ký, chuẩn bị bản cáo bạch sơ bộ, tiến hành quảng cáo về đợt chào bán, tiến hành nghiên cứu về công ty, thoả thuận giá cả và ký kết hợp đồng bảo lãnh và kết thúc.
Theo quy định trong luật chứng khoán Mỹ 1933 tổ chức bảo lãnh phát hành chính sẽ tiến hành nghiên cứu về tổ chức phát hành. Bước tiếp theo là tổ chức này sẽ chuẩn bị hồ sơ đăng ký với Uỷ ban chứng khoán. Tham gia vào quá trình này còn có cả phía công ty, tổ chức kiểm toán và tư vấn pháp luật. Những tai liệu cần phải chuẩn bị gồm có hợp đồng bảo lãnh phát hành, hồ sơ pháp lý và số liệu tình hình tài chính để công bố cho công chúng biết tại các văn phòng của SEC. Ngày nộp hồ sơ được coi là ngày mà tổ chức bảo lãnh nộp hồ sơ đăng ký phát hành lên SEC và hồ sơ dăng ký chỉ có hiệu lực khi SEC không còn bất kỳ một yêu cầu sửa đổi nào.
Trong khi tiến hành thủ tục đăng ký, các tổ chức liên quan cũng đồng thời tiến hành việc in ấn và phát hành rộng rãi bản cáo bạch sơ bộ, lựa chọn sở giao dịch để đem niêm yết và là đại lý chuyển nhượng. Các tổ chức bảo lãnh ở Mỹ cũng tiến hành lập tổ hợp bảo lãnh và tổ chức quảng cáo cho đợt phát hành.
Việc thoả thuận và quyết định lần cuối về quy mô và giá chào bán sẽ phụ thuộc vào tình hình tài chính của công ty, tình hình trên thị trường chứng khoán, giá chứng khoán của các công ty khác cùng ngành nghề, giá dự kiến sau này…và hợp đồng bảo lãnh được ký kết khi đăng ký phát hành chuẩn bị có hiệu lực. Sau khi không còn yêu cầu sửa đổi nào từ phía Vụ tài chính công ty của SEC, đăng ký phát hành có hiệu lực và tổ chức bảo lãnh tiến hành bán chứng khoán.
Tại Mỹ, trong một đợt phát hành chứng khoán ra công chúng chứng khoán có thể được bảo lãnh theo phương thức cố gắng tối đa hay phương thức cam kết chắc chắn trong đó tổ chức (tổ hợp ) bảo lãnh phát hành chịu trách nhiệm toàn bộ từ khâu nghiên cứu lập hồ sơ, phân phối chứng khoán và ổn định giá sau khi phát hành nhưng qua giá trị bảo lãnh phát hành từ 1257 tỷ USD (1997) cũng có thể cho thấy đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Từ sau năm 1997, do có sự sáp nhập của nhiều tổ chức tài chính lớn cùng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực bảo lãnh phát hành ( lĩnh vực mà trước đây bị cấm khi ban hành đạo luật Glass- Steagall 1933) thì một số tổ chức lớn đã chiếm thị phần bảo lãnh phát hành như : Merrill Lynch, Morgan Stenley Dean Witter …và làm cho hoạt động bảo lãnh phát hành phát triển hơn bao giờ hết.
1.4.2. Kinh nghiệm bảo lãnh phát hành ở Thái Lan.
Thái Lan là một nước Đông Nam á nhưng có thị trường chứng khoán phát triển chẳng kém gì một số nước Châu Âu. Thị trường chứng khoán Thái Lan đã không chỉ là một kênh quan trọng giúp các doanh nghiệp trong nước huy động vốn một cách có hiệu quả mà còn là môi trường tích cực cho các hoạt động liên quan đến chứng khoán như kinh doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đặc biệt đối với hoạt động bảo lãnh phát hành nếu không có một thị trường chứng khoán phát triển thì coi như hoạt động này không phát huy tác dụng.
Tương tự như các nước phát triển. quy trình bảo lãnh ở Thái Lan cũng bắt đầu từ bước nghiên cứu các thông tin về tổ chức phát hành, từ thông tin về quá trình hình thành và phát triển của công ty cho đến thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, ngành nghề hoạt động…sau khi nghiên cứu toàn bộ những thông tin này tổ chức bảo lãnh phát hành tập hợp lại và đưa ra những thông tin quan trọng nhất về tổ chức phát hành để tạo ra sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư và tóm tắt về đợt chào bán chứng khoán. Bên cạnh đó, tổ chức bảo lãnh còn nghiên cứu, hỗ trợ thêm cho tổ chức phát hành những thông tin liên quan đến ngành nghề và hoạt động kinh doanh và đảm bảo những quy định của Uỷ ban chứng khoán đối với việc công bố thông tin.
Sau khi tập hợp đầy đủ những thông tin cần thiết, tổ chức bảo lãnh sẽ tiến hành quảng cáo về đợt chào bán chứng khoán sắp tới. Chương trình quảng cáo này được tổ chức riêng cho từng nhà đầu tư có tổ chức có tầm quan trọng nhất trong đợt chào bán. Ngoài ra, chương trình này được tổ chức đồng bộ cho từng nhóm các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà phân tích chứng khoán và công chúng đầu tư. Các nhà đầu tư được các tổ chức bảo lãnh chọn là đối tượng cho chương trình quảng cáo này thường là các quỹ tương hỗ, các quỹ tiết kiệm, quỹ hưu trí Chính phủ, các công ty tài chính, bảo hiểm, ngân hàng và các nhà đầu tư cá thể.
Tiếp theo trong quá trình bảo lãnh là chọn bảo lãnh phát hành. Việc lựa chọn này tuỳ thuộc vào khối lượng phát hành còn số lượng nhà bảo lãnh phát hành sẽ phụ thuộc vào việc nhà bảo lãnh chính muốn phân tán rủi ro đến mức nào để có thể phân bổ tỷ lệ cho từng nhà bảo lãnh. Các nhà đồng bảo lãnh ở tổ hợp bảo lãnh ở Thái Lan không do tổ chức bảo lãnh phát hành chính lựa chọn mà phải có sự chấp thuận của tổ chức phát hành. Khi lựa chọn các nhà bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh chính phải đưa ra lý do cho việc lựa chọn các tổ chức bảo lãnh thành viên.
Sau khi kết thúc các công việc chuẩn bị về mặt nghiên cứu tình hình công ty, quyết định về loại, khối lượng chứng khoán phát hành và hồ sơ đăng ký với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, tổ chức bảo lãnh phát hành tiến hành định giá sơ bộ để chuẩn bị cho việc lập hồ sơ tập hợp nhu cầu mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư có tổ chức. Yêu cầu đặt ra là kỹ thuật định giá phải đảm bảo thu hút được nhu cầu tới mức tối đa. Sau khi lập sổ xong và trình hội đồng quản trị công ty phát hành, nếu chưa tập hợp được đủ lượng cầu thì thời gian chào bán có thể được lui lại.
Chỉ sau khi lập sổ xong và tập hợp đủ nhu cầu đặt mua chứng khoán, tổ chức bảo lãnh sẽ tiến hành định giá lần cuối cùng trước khi phân phối chứng khoán cho các nhà đầu tư. Để đảm bảo uy tín của mình, tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ đưa ra lý do giải thích về tỷ lệ phân phối cho các nhà đầu tư. Tỷ lệ phân phối được quyết định theo nguyên tắc ưu tiên về thời gian và giá chào mua cạnh tranh.
Quy trình phân phối chứng khoán bắt đầu khi các nhà đầu tư nộp đơn đặt mua và đồng thời nộp tiền đặt mua. Số tiền đặt mua sẽ chuyển cho tổ chức phát hành. Rủi ro sẽ thuộc về nhà bảo lãnh phát hành từ khi người mua nộp tiền cho tới khi ti._. mạnh phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trên cơ sở phát hành thường xuyên trái phiếu Chính phủ huy động vốn trong và ngoài nước thông qua TTCK để huy động vốn cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản.
- Xây dựng luật chứng khoán và TTCK trên nền tảng các văn bản pháp luật hiện hành để vận hành TTCK ở Việt Nam nhằm tăng cường hiệu lực pháp lý đối với các thể chế tham gia vào TTCK.
- Xây dựng TTCK cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ điều kiện niêm yết, với quy mô phù hợp hiện nay nhằm vừa đảm bảo tạo ra được sân chơi cho các doanh nghiệp này, nhưng vẫn đảm bảo được khả năng quản lý của Nhà nước. Từng bước nghiên cứu, xây dựng và đưa vào vận hành thị trường phi tập trung (OTC) cho các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp công nghệ cao.
- Thành lập hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia thị trường có cơ hội được đào tạo, phát triển kỹ năng kinh doanh và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ trên thị trường.
- Từng bước hội nhập với thị trường vốn quốc tế. Mở rộng liên kết với thị trường các nước trong khu vực theo tiêu chuẩn chung. Tham gia quy chế niêm yết trên các sở giao dịch của các nước khu vực ASEAN, tạo tiền đề cho việc huy động vốn trên thị trường quốc tế.
- Xây dựng các thể chế phụ trợ cho vận hành thị trường, như Trung tâm Lưu ký chứng khoán, trung tâm máy tính chứng khoán, các tổ chức định mức tín nhiệm…
3.1.2 Định hướng phát triển của công ty chứng khoán BSC đến năm 2010
Là một trong những Công ty chứng khoán đầu tiên ra đời tại Việt Nam, BSC được coi là một công ty có những bước đi khá bài bản trong “làng” chứng khoán sơ khai.
Để đánh giá thực trạng kinh doanh của BSC trong giai đoạn hiện nay không thể chỉ nhìn vào những con số kinh doanh cụ thể. Vì với TTCK giai đoạn đầu, các CTCK chưa thể nghĩ đến việc sẽ thu nhiều lãi. Mục đích trước mắt của BSC là khá rõ ràng, đó là tích luỹ kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán, góp phần làm sôi động TTCK và khẳng định uy tín của mình trên TTCK.
* Nhiệm vụ của công ty
- ổn định tổ chức, cơ cấu các phòng, ban trong công ty với bộ máy điều hành dảm bảo thích ứng nhạy bén với tình hình thị trường : nội bộ vững mạnh, tạo nên một khối đoàn kết nhất trí.
- Triển khai và phát triển các hoạt động nhân viên với phương chân “An toàn, hiệu quả, bảo tồn vốn”, từng bước nâng cao uy tín của công ty và mở rộng thị phần thị trường.
- Xúc tiến mạnh công tác đào tạo, tuyển dụng để xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, có tâm huyết, giúp công ty nắm bắt kịp thời những cơ hội, thời cơ kinh doanh cũng như vượt qua những khó khăn thử thách tiềm ẩn trên thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản làm khung pháp lý cho mọi hoạt động của công ty từ điều hành đên nghiệp vụ, đảm bảo mọi hoạt động đều phù hợp với quy định của pháp luật.
Với phương châm “ Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của công ty”, BSC luôn đặt cho mình những mục tiêu hoạt động cụ thể để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Chính vì vậy trong những năm tới, BSC đặt ra các mục tiêu và các giải pháp thực hiện, cụ thể như sau:
- Đảm bảo không có khách hàng nào phàn nàn về phong cách giao dịch của cán bộ nhân viên trực thuộc công ty.
- Đảm bảo 80% các dự án tư vấn thực hiện đúng thời gian cam kết
- Đạt mức lợi nhuận trước thuế gấp 1,5 lần năm 2004
- Mức tăng trưởng chung của năm sau luôn cao hơn năm trước 2 lần
- Trở thành một trong những công ty chứng khoán hàng đầu trong nước
- Tiếp tục giữ vị trí hàng đầu về công nghệ thông tin.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động : năm 2005 sẽ mở thêm hai phòng giao dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Năm 2006-2008 sẽ mở đại lý nhận lệnh tại Vũng Tàu, Quảng Ninh, Đà Nẵng ( phối hợp với mạng lưới chi nhánh của BIDV)
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại CTCK Ngân hàng Đầu tư và phát triển việt nam.
Các công ty chứng khoán là lực lượng chủ chốt thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Ngoài việc mua bán các chứng khoán trên thị trường thứ cấp ( thực hiện nghiệp vụ tự doanh ) công ty chứng khoán còn là người góp phần tạo nên sự sôi động trên thị trường sơ cấp thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Trong thời gian, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán mà các công ty chứng khoán thực hiện mới chỉ dừng lại ở hình thức tư vấn phát hành và đại lý phát hành chứng khoán mà hiệu quả lại chưa cao. Do đó, trước mắt các công ty chứng khoán phải xây dựng uy tín, gây dựng lòng tin đối với các doanh nghiệp, đối với nhà đầu tư.
3.2.1. Giải pháp trực tiếp của BSC.
3.2.1.1. Nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn.
Tư vấn là bước đầu tiên của quá trình bảo lãnh phát hành. Nên nếu nghiệp vụ này có tốt thì mới tạo đà cho những bước sau thành công. Để có thể khiến cho nhiều tổ chức phát hành tìm đến với các tổ chức bảo lãnh thì một điều vô cùng quan trọng đó là chất lượng dịch vụ mà tổ chức bảo lãnh cung cấp cho khách hàng của mình.
Hiện nay, trình độ tư vấn trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán chưa cao và điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh nghiệp vụ này của công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán mới hoạt động được trong một thời gian rất ngắn, hơn nữa lại không được thực hành nhiều với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành do ít doanh nghiệp chọn bảo lãnh phát hành nên có thể nói họ chưa có nhiều kinh nghiệm và còn rất lúng túng trong khi thực hiện.
Đối với việc bảo lãnh phát hành, tư vấn về loại chứng khoán và thời điểm phát hành không hợp lý hoặc việc định giá chứng khoán không chính xác không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ huy động vốn của doanh nghiệp mà có thể làm cho doanh nghiệp không huy động đủ số vốn cần thiết hoặc cổ phiếu bị rớt giá mạnh làm ảnh hưởng đến các cổ đông của công ty. Công ty chứng khoán cần phải hiểu rằng lợi ích của doanh nghiệp chính là lợi ích của công ty. Bởi nếu như đợt bảo lãnh phát hành chứng khoán không thành công, doanh nghiệp không huy động được vốn thì rủi ro sẽ thuộc về công ty chứng khoán. Do vậy, việc nâng cao trình độ, tính chuyên nghiệp của công ty chứng khoán đặc biệt bộ phận bảo lãnh phát hành chứng khoán là vô cùng cần thiết.
Đối với một số lĩnh vực tư vấn như tư vấn chứng khoán, tư vấn thời điểm phát hành thì có thể tự tổ chức tiến hành nhưng đối với tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp để từ đó tìm ra chứng khoán hợp lý thì cần có sự tham gia của nhiều tổ chức khác nhau như tổ chức kiểm toán độc lập, tổ chức định mức tín nhiệm nhằm tạo ra tính khách quan, có thể áp dụng nhiều biện pháp xác định giá doanh nghiệp hiện nay. Tổ chức bảo lãnh cần nghiên cứu các phương pháp định giá tiên tiến trên thế giới một cách có hệ thống, chọn lọc và ứng dụng nhiều phương pháp thích hợp với Việt Nam. Từ đó tổ chức bảo lãnh có thể cung cấp thông tin đầy đủ nhất về đợt phát hành chứng khoán cho doanh nghiệp.
Việc lập hồ sơ, báo cáo tài chính cần thiết để nộp Uỷ ban chứng khoán cần được tiến hành một cách cẩn thận và nhanh chóng. Không nên để doanh nghiệp chờ đợi quá lâu, gây nản lòng các doanh nghiệp trong việc có ý định phát hành chứng khoán lần kế sau.
3.2.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản cho sự phát triển TTCK nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng. Việc tiếp cận được nguồn nhân lực có trình độ cao là rất cần thiết cho sự phát triển của công ty chứng khoán. Thực tế hiện nay, hầu hết nhân sự tại các CTCK là còn non yếu và mới ra trường, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về chứng khoán được đào tạo chưa sâu, chưa mang tính chuyên nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của nghiệp vụ (đặc biệt là môi giới, tư vấn, phân tích…). Công ty BSC cũng vậy cho nên nâng cao năng lực nhân sự là hết sức cần thiết. Để thực hiện được điều nay, đòi hỏi phải có các biện pháp như :
- Chú trọng ngay khâu tuyển dụng nhân sự, đáp ứng yêu cầu từng loại nghiệp vụ đối với Công ty
- Tích cực thực hiện các chương trình đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên nghiệp vụ của Công ty.
- Xây dựng kế hoạch và chiến lược dài hạn về đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn cho nguồn nhân lực của Công ty.
- Công ty BSC cần chủ động xây dựng hệ thống đào tạo nội bộ, liên kết đào tạo trong nước, nước ngoài, các trường đại học…
- Phát triển đa dạng các loại hình đào tạo : đào tạo trực tiếp, đào tạo qua uỷ thác, đào tạo và thi cử trực tuyến, đào tạo phổ biến, đào tạo chuyên nghiệp…
3.2.1.3. Tận dụng quan hệ với ngân hàng mẹ.
Trong tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất trằm lắng như hiện nay, việc thu hút thêm khách hàng mới đến công ty là điều không dễ dàng. Để cải thiện tình trạng này Công ty cần dựa vào lợi thế sẵn có nhằm mở rộng phạm vi kinh doanh, thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh của Công ty.
Một lợi thế đặc biệt quan trọng của Công ty đó là sự gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động của Công ty và hoạt động của Ngân hàng mẹ – NHĐT&PTVN. Có thể thấy rất rõ trong số khách hàng của ngân hàng, có rất nhiều doanh nghiệp có thể trở thành khách hàng tiềm năng của Công ty. Công ty cần tranh thủ mối quan hệ sẵn có từ ngân hàng mẹ đối với khách hàng để chủ động tư vấn, kích thích nhu cầu của khách hàng để khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh phát hành khi họ thấy cần thiết. Việc tiếp cận và lấy lòng tin với lượng khách hàng này là tương đối dễ dàng nhờ vào mối quan hệ sẵn có của ngân hàng với các đối tượng này.
Thực tế, NHĐT&PTVN đã có một mạng lưới chi nhánh và các điểm giao dịch rộng rãi trên các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đây là lợi thế mà Công ty nên tận dụng để tăng cường khả năng phân phối chứng khoán của Công ty khi thực hiện bảo lãnh phát hành.
3.2.2. Giải pháp hỗ trợ.
3.2.2.1 Cần có một chính sách lãi suất ngân hàng hiệu quả hơn.
Thời gian qua, tình trạng ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn lên rất cao đã phản ánh không trung thực mức cung cầu tín dụng trên thị trường tiền tệ.
Một phần có thể thấy cầu tín dụng trong nền kinh tế hiện thời là rất lớn vì hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng cần phải mở rộng và phát triển, quy chế cho vay được áp dụng cho nhiều đối tượng, người dân vay tiền để đầu tư vào bất động sản, vay tiêu dùng tăng lên vì đời sống người dân đã được nâng cao. Vì thế các ngân hàng luôn trong tình trạng thiếu vốn. Để thu hút được nhanh chóng nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư thì các ngân hàng liên tục tăng lãi suất huy động, tăng lãi suất phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngang với lãi suất cho vay. Chính điều này làm cho gần như người đầu tư chọn ngân hàng mà họ quên mất đang có TTCK tồn tại trong nền kinh tế.
Điều cơ bản hơn là có ngân hàng không thiếu vốn nhưng vẫn tăng lãi suất huy động. Các ngân hàng liên tục tăng lãi suất để thu hút khách hàng về phía mình để cạnh tranh với nhau. Chính điều này càng làm giảm nguồn vốn vào thị trường chứng khoán. Bởi người đầu tư cho rằng thà chấp nhận một mức lãi suất thấp nhưng an toàn và chắc chắn được hưởng một mức lợi nhuận nhất định hàng tháng còn hơn đầu tư vào TTCK tuy có lợi tức cao hơn nhưng rủi ro luôn kề bên. Chính vì thế mà việc tăng lãi suất liên tục của ngân hàng càng làm cho mọi chủ thể trong nền kinh tế quan tâm và họ thi nhau gửi tiền vào ngân hàng. Điều này sẽ làm mất cân đối giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán tăng lên. Chính từ thực tế này việc đưa ra một quy chế lãi suất cho vay và huy động vốn một cách hợp lý tránh tình trạng các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất một cách tự do theo ý muốn chủ quan là điều cần thiết trong giai đoạn thị trường tiền tệ hiện nay. Các ngân hàng chỉ huy động khi thực sự thiếu vốn chứ không nên tăng lãi suất để cạnh tranh nhau rồi gây ra thừa vốn trong hệ thống làm cho các lĩnh vực khác trong nền kinh tế bị ảnh hưởng. Bởi không thể nói rằng lãi suất có tác động tốt đến lĩnh vực ngân hàng là đủ mà nó còn phải đảm bảo cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Lãi suất cần phản ánh đúng cung cầu thực tế của thị trường có như vậy thì nó mới có cơ sở để kích thích đầu tư, tiêu dùng cũng như các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội.
3.2.2.2. Hoàn thiện chế độ kế toán kiểm toán
Để đáp ứng yêu cầu về chất lượng dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán thì không thể bỏ qua vai trò của hoạt động kế toán kiểm toán.
Với chức năng ghi chép lại toàn bộ những hoạt động thu chi của đơn vị, hoạt động kế toán giúp cho các nhà quản lý cũng như tư vấn tài chính, bảo lãnh phát hành biết được rõ thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp tại mọi thời điểm. Với chức năng kiểm tra chính xác tính hợp lý của các báo cáo tài chính, hoạt động kiểm toán sẽ cung cấp những thông tin trung thực cho người sử dụng thông tin kiểm toán và là chỗ dựa tin cậy cho các nhà bảo lãnh và tư vấn phát hành chứng khoán.
Một yêu cầu bắt buộc đối với các báo cáo của công ty phát hành chứng khoán niêm yết là chúng phải được chứng nhận kiểm toán. Vì thế hoạt động kế toán, kiểm toán đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nếu báo cáo tài chính mà không có được kết quả kiểm toán trung thực thì nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với công chúng đầu tư trong việc nắm bắt thông tin về loại chứng khoán mà họ quyết định lựa chọn kinh doanh. Bởi ở Việt Nam, chủ yếu nhà đầu tư nhận định sự biến động giá chứng khoán thông qua phân tích cơ bản là phân tích tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt là thông qua các báo cáo tài chính chứ chưa áp dụng phổ biến phân tích kỹ thuật do TTCK mới đi vào hoạt động.
Tuy nhiên hệ thống kế toán kiểm toán của nước ta hiện nay thì sao? Tuy nước ta đã có một chế độ kế toán tương đối đầy đủ, các hệ thống tài khoản cũ được thay thế, các mẫu báo cáo tài chính được ban hành mới … nhưng hệ thống chế độ kế toán Việt Nam vẫn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa được quốc tế công nhận.
Các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng chế độ kế toán thống kê của Việt Nam trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại áp dụng chế độ kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc đánh giá kết quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau. Ngoài ra phải kể đến sự yếu kém trong các phương pháp hạch toán kế toán, thiếu chắc chắn trong các quy tắc tài chính, cố tình làm sai nguyên tắc tài chính tìm cách hợp lý hoá các khoản chi sai.
Hệ thống kiểm toán của nước ta phát triển cũng khá nhanh hiện nay nước ta có hơn 30 công ty kiểm toán kể cả kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ. Hệ thống kiểm toán đã góp phần tạo ra một chuẩn mực để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong hoạt động kiểm toán vẫn nổi lên những hạn chế như các chuẩn mực kiểm toán chưa đủ để điều chỉnh và kiểm soát hoạt động kiểm toán; thiếu vắng những tổ chức kiểm toán có chất lượng cao ; sự bất cập giữa trình độ của các cán bộ kiểm toán với yêu cầu của chất lượng kiểm toán khiến cho nhiều báo cáo tài chính không phản ánh đúng thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh đã không được làm sáng tỏ.
Trong thời gian tới để tăng tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính thì hệ thống kế toán của nước ta cần phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Thừa nhận những chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với hệ thống kế toán Việt Nam, tăng cường đội ngũ chuyên môn về nghiệp vụ kế toán, hoàn chỉnh các quy chế quản lý hoạt động của các tổ chức kế toán như : hội kế toán Việt Nam, hội đồng quốc gia về kế toán.
Đối với hoạt động kiểm toán thì nhanh chóng kiện toàn khung pháp lý cho hoạt động kiểm toán đó là ban hành Luật kiểm toán. Bên cạnh đó cần ban hành các chuẩn mực kế toán đầy đủ làm nền tảng cho dịch vụ kiểm toán hoạt động và phát triển ; có chương trình đào tạo nghiệp vụ kiểm toán ; việc thi lấy bằng kiểm toán phải được nghiêm chỉnh tổ chức do hội đồng thi tuyển quốc gia thực hiện.
3.2.2.3. Tuyên truyển khuyến khích các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng đồng thời sử dụng dịch vụ hỗ trợ của các tổ chức chuyên nghiệp.
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp không nắm rõ được thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Vì thế, các doanh nghiệp sợ không dám phát hành chứng khoán để huy động vốn. Thực ra đây là tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không đầy đủ trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, việc quảng bá những thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán, tuyên truyền khuyến khích các doanh nghiệp phát hành chứng khoán thay vì các hình thức huy động khác thì chắc chắn là các doanh nghiệp sẽ lựa chọn phát hành chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với các tổ chức trung gian trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát hành chứng khoán tiến hành thường xuyên việc tuyên truyền lợi ích của phát hành chứng khoán, tổ chức những buổi hội thảo với doanh nghiẹp để có thể tiếp xúc trực tiếp với họ, một mặt mang lại những thông tin bổ ích về chứng khoán và thị trường chứng khoán một mặt tìm hiểu xem những khó khăn dẫn đến các doanh nghiệp chưa thể sử dụng rộng rãi hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Từ đó Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có thể đề ra những biện pháp cụ thể và hữu hiệu hơn trong việc thu hút các doanh nghiệp tham gia thị trường và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Theo kết quả thống kê gần đây của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về khả năng tham gia niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán cho thấy số doanh nghiệp có ý định huy động vốn trên thị trường chứng khoán là khá lớn ( chiếm khoảng 53,98%). Số doanh nghiệp còn lại chưa có ý định tham gia thị trường chứng khoán là họ chưa hiểu rõ được lợi ích mà phát hành chứng khoán đem lại, chưa đủ điều kiện tham gia thị trường cũng như chưa nắm rõ quy trình và thủ tục niêm yết trên thị trường. Chính vì lẽ đó mà việc hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức trung gian sẽ giúp các doanh nghiệp có thể xây dựng được chiến lược tham gia thị trường chứng khoán một cách phù hợp với tình hình, đặc điểm hiện tại của doanh nghiệp, thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp, xác định giá trị doanh nghiệp, xác định tiêu chuẩn định mức tín nhiệm của chứng khoán … để có thể đáp ứng các điều kiện phát hành, điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Để làm được việc đó thì nhất thiết phải xây dựng một mạng lưới các tổ chức trung gian bài bản, chuyên nghiệp trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng. Và vì vậy lại càng cần thiết hơn trong việc tuyên truyền khuyến khích các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng để họ thấy được lợi ích tất yếu khi tham gia thị trường chứng khoán đồng thời khuyến khích họ sử dụng các dịch vụ hỗ trợ được cung cấp bởi các tổ chức chuyên nghiệp để giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn khi tiếp cận với thị trường vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với UBCKNN
Để hoạt động của TTCKVN đi vào ổn định và hiệu quả thì phải có sự phối hợp giữa các bên liên quan, trong đó trách nhiệm lớn thuộc về cơ quan quản lý, giám sát. Do vậy những hành động cụ thể của các cơ quan quản lý luôn đem lại luồng sinh khí mới cho TTCKVN, từ đó giúp cho thị trường đầu tư được cải thiện, các CTCK sẽ có cơ hội tốt hơn để tìm kiếm lợi nhuận. Trên cơ sở nhận thức được vấn đề này, việc đề xuất một số ý kiến đối với UBCKNN là vô cùng cần thiết.
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý. TTCK là phạm trù còn rất mới mẻ cho nên cơ sở hình thành pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn rất sơ khai. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của TTCK hiện nay vẫn còn là nghị định, các văn bản dưới luật có giá trị pháp lý thấp. Các văn bản còn thiếu tính hệ thống, manh mún, chắp vá thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo.Mặt khác, các văn bản này được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học hỏi kinh nghiệm tổ chức, quản lý thị trường chứng khoán ở nước ngoài mà chưa có sự kiểm nghiệm qua thực tiễn hoạt động ở Việt Nam.Để hoàn chỉnh một khung pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam, cần tập trung vào một số phương hướng sau:
- Đồng bộ hoá các thể chế liên quan tới chứng khoán và TTCK, tạo một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ và nhất quán điều chỉnh hoạt động của TTCK. Các vấn đề cần phải hoàn thiện để đồng bộ hoá là: pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư trong nước và nước ngoài, pháp luật về tài chính …
- Xây dựng và ban hành Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Cần liên tục xem xét lại các quy định đã ban hành, kịp thời sửa đổi, bổ sung ban hành các quy định mới cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của thị trường.
- Cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phát hành và bảo lãnh và phát hành chứng khoán.
Việc có một khuôn khổ pháp lý thích hợp về phát hành chứng khoán sẽ kích thích các doanh nghiệp tham gia TTCK nhiều hơn.
Với những hạn chế của các văn bản pháp lý về phát hành chứng khoán thì cần phải có các sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn thị trường như : nới lỏng các tiêu chuẩn về phát hành chứng khoán ra công chúng và các tiêu chuẩn về niêm yết trên TTCK, cải cách các thủ tục hành chính trong phát hành chứng khoán theo hướng đơn giản hoá thủ tục, rút ngắn thời gian chờ đợi nhằm tạo điều kiện thuận lợi và tâm lý thoải mái cho các doanh nghiệp có nhu cầu phát hành chứng khoán ra công chúng.
Bên cạnh đó cần xem xét đến việc giảm bớt những can thiệp hành chính của Nhà nước tạo tính chủ động cho các doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán như thay việc xin phép phát hành bằng việc chỉ phải tiến hành đăng ký phát hành. Theo đó, khi các doanh nghiệp có nhu cầu phát hành chứng khoán ra công chúng nếu đủ điều kiện chỉ cần thực hiện việc đăng ký với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là có thể phát hành chứng khoán. Việc làm này vừa nâng cao được tính chủ động của các doanh nghiệp, vừa không làm mất đi vai trò giám sát vĩ mô của Chính phủ đối với việc phát hành chứng khoán.
Thứ hai, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phải không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ để có thể đáp ứng được trọng trách là cơ quan quản lý thị trường. Bên cạnh đó, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm để tiếp nhận các ý kiến đóng góp của các chuyên gia, những người am hiểu về thị trường để có được cái nhìn tổng quan qua đó lựa chọn những ý tưởng xác đáng để đưa vào thực thi.
Thứ ba, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phải tích cực nâng cao vai trò giám sát thị trường của mình, phải đưa ra các cam kết, cam đoan với người đầu tư về các chính sách phát triển thị trường và phải thực hiện chúng. Trước các vấn đề tiêu cực xảy ra đối với thị trường cần phải có câu trả lời, trách tình trạng “im lặng”, lẩn tránh bởi hành động này sẽ làm mất lòng tin bởi các thành viên tham gia thị trường. Trong quá trình giám sát thị trường, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phải hướng dẫn tư vấn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các đối tượng tham gia thị trường đặc biệt là phải trở thành cầu nối cho các công ty chứng khoán với thị trường, bởi vì các công ty chứng khoán là các nhân tố quan trọng nhất để phát triển thị trường. Thông qua các nghiệp vụ tư vấn, bảo lãnh phát hành, tư vấn niêm yết … các công ty chứng khoán có khả năng vận động thu hút khách hàng và tạo ra chứng khoán niêm yết cho thị trường từ đó giúp tăng quy mô vốn cho thi trường. Muốn phát huy được khả năng này các công ty chứng khoán rất cần đến sự hỗ trợ từ phía Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
Ngoài ra, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để từ các cấp, các ngành đến mọi người dân đều hiểu đúng và hiểu rõ về thị trường.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công ty chứng khoán Đầu tư hoạt động kinh doanh có hiệu quả đặc biệt là hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, ngoài những đề xuất lên Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, công ty BSC có một số kiến nghị lên NHĐT&PT Việt Nam như sau:
Có chủ trương cho phép CTCK được bổ sung vốn điều lệ bằng nguồn thu nhập để lại, gồm cả thuế được thoái thu theo quy định của Bộ tài chính. Để từ đó BSC có thể nhận được những hợp đồng có giá trị cao mà không phải e ngại về đảm bảo tỷ lệ quy định ( CTCK chỉ được bảo lãnh những hợp đồng có giá trị không quá 30% vốn tự có của công ty). Cho phép được trích ( hoặc điều chuyển ) từ thu nhập hàng năm lập Quỹ giám đốc để có cơ sở động viên kịp thời, xứng đáng với đối với số lao động có trình độ tay nghề cao, thành tích cao, đạt thành tích xuất sắc trong công ty được tập thể công nhận. Việc sử dụng Quỹ này được đặt dưới sự giám sát của Kiểm soát trưởng và có sự phê duyệt của Chủ tịch công ty. Cho phép điều chỉnh hệ số lương trách nhiệm cao hơn đối với một số cán bộ làm công tác tư vấn, phân tích, tự doanh, môi giới …
Có chủ trương cho phép công ty thí điểm việc thuê chuyên gia tư vấn, phân tích, cộng tác viên để hạn chế tăng biên chế mà vẫn đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
Có chủ trương cử tuyển một số cán bộ ưu tú của công ty và một số cán bộ của NHĐT&PTVN đủ điều kiện tham dự các khoá học chuyên về chứng khoán ở trong và ngoài nước, sớm cử 1-3 cán bộ đi thực tập nâng cao ở các CTCK, công ty tư vấn, quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài …theo đề nghị của CTCK và Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo ở chính NHĐT&PTVN bằng nguồn kinh phí tài trợ của NHĐT&PTVN
Việc sử dụng và nghiên cứu đồng bộ các giải pháp và kiến nghị trên sẽ góp phần giúp công ty ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, đồng thời củng cố vị trí của công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Kết luận chương 3
Từ những nghiên cứu về vấn đề lý luận khái quát ở chương 1, từ thực trạng cũng như những hạn chế từ chương 2, chương 3 đã tập trung vào việc đưa ra hệ thống các biện pháp cơ bản nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Hệ thống các biện pháp đó bao gồm các biện pháp trực tiếp của Công ty chứng khoán và các biện pháp hỗ trợ của thị trường. Ngoài ra, ở chương 3 còn đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại BSC. Đó là một số kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Việc thực hiện các giải pháp cũng như các kiến nghị của đề tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Việt Nam nói chung và tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Như vậy thì mới có thể từng bước nâng cao vị thế của các doanh nghiệp và vai trò của hoạt động bảo lãnh phát hành đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng như nền kinh tế nước ta.
Kết luận
Thị trường chứng khoán là thể chế tài chính bậc cao trong nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy TTCK là một thành phần không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế của một đất nước bởi đó là kênh huy động vốn vô cùng quan trọng. Đó là thị trường phức tạp nhất trong các loại thị trường và thu hút được sự tham gia của nhiều tổ chức trung gian tài chính mang tính chuyên nghiệp cao trong đó có các tổ chức trung gian thực hiện việc hỗ trợ cho các chủ thể phát hành chứng khoán mà cụ thể là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là nghiệp vụ quan trọng mang tính đặc thù trên TTCK đặc biệt là trên TTCK sơ cấp. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán đóng vai trò như một đảm bảo cho sự thành công của các đợt phát hành chứng khoán.
ở Việt Nam thì bảo lãnh phát hành chứng khoán vẫn còn là một lĩnh vưc hoàn toàn mới, phạm vi hoạt động rộng và thực hiện rất khó khăn phức tạp, đòi hỏi trình độ cao. Vì vậy, nó gây ra rất nhiều trở ngại cho các tổ chức bảo lãnh phát hành mà cụ thể là Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi tiến hành triển khai thực hiện nghiệp vụ. Đề tài đã nêu ra được thực trạng cũng như một số giải pháp để thúc đẩy và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại chính Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên do đề tài đề cập đến nhiều vấn đề còn mới mẻ, phức tạp cộng với trình độ hiều biết và thời gian thực tập có hạn nên chắc chắn khoá luận sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp phê bình của giáo viên hướng dẫn, các thầy cô giáo trong khoa và những người quan tâm đến đề tài để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn Tiến sĩ Kiều Hữu Thiện người đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em trong quá trình em thực hiện đề tài, em cũng xin cám ơn các anh chị trong công ty chứng khoán BSC đặc biệt là Phòng phân tích đã cung cấp tài liệu, hướng dẫn cụ thể cho đề tài của em và giúp em hoàn thành khoá luận này.
Tài liệu tham khảo.
1. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “ Các giải pháp nâng cao vai trò của các tổ chức trung gian trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng” Chủ nhiệm đề tài Ths Vũ Thị Kim Liên – Vụ trưởng vụ quản lý phát hành.
2. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “ Mô hình dự kiến và các điều kiện để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và tư vấn tài chính trên thị trường sơ cấp ở Việt Nam” Chủ nhiệm đề tài Ths Vũ Thị Kim Liên – Vụ trưởng vụ quản lý phát hành.
3. Nội dung nghiệp vụ bảo lãnh phát hành – The manual of Underwriting Operation.
4. Tham luận “ Một số vấn đề hoàn thiện các văn bản pháp luật cho hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay” của TS Nguyễn Sơn- Vụ phát triển thị trường chứng khoán.
5. Tham luận “ Nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty chứng khoán” của Bùi Thị Thanh Hương – Vụ trưởng vụ quản lý kinh doanh chứng khoán.
6. Các văn bản liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán của Việt Nam.
7. Sách “ Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán” PGS Đinh Xuân Hạ.
8. Sách “ Kiến thức chuyên sâu về chứng khoán và thị trường chứng khoán” (Tài liệu lưu hành nội bộ của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước )
9. Giáo trình “ Thị trường chứng khoán” – Học viện Ngân hàng.
10. Giáo trình “ Thị trường chứng khoán” - Đại học Ngoại thương.
11. Tạp chí “ Chứng khoán Việt Nam” – Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
12. Tạp chí “ Đầu tư chứng khoán” – Bộ Kế hoach và Đầu tư.
13. Thời báo kinh tế Việt Nam.
14. The valuation of Businesses, shares and other equities.
15. Theory and problem of investment – Jack Clark Francis PhD & Richard W. Talor PhD.
16. Một số tạp chí khác.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0349.doc