Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách quản lý ngoại hối tại Việt Nam

Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng tham gia mạnh mẽ vào thương mại và đầu tư quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối là một mảng chính sách không thể thiếu được bởi hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức và luôn tiềm ẩn những rủi ro do những thay đổi của môi trường kinh tế thế giới. Đi đôi với hội nhập và mở cửa, các nước cần tiến tới hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia,

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách quản lý ngoại hối tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa là đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định lâu dài, có khả năng tiếp nhận sự di chuyển các luồng vốn quốc tế trên cơ sở các luồng vốn được thu hút một cách hợp lý, sử dụng hiệu quả và đảm bảo an toàn khả năng hoàn trả kết hợp với đảm bảo quốc gia có một cán cân thanh toán quốc tế bền vững, tỷ giá hối đoái ổn định và dự trữ ngoại hối đáp ứng yêu cầu dự phòng kinh tế. Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam đã có những điều chỉnh phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh tế trong và ngoài nước. Tuy nhiên hệ thống quản lý ngoại hối vẫn còn nhiều hạn chế và cần phải hoàn thiện để đảm bảo hỗ trợ các chính sách vĩ mô khác nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững. Xuất phát từ những yêu cầu trên, em xin được chọn đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách quản lý ngoại hối tại Việt Nam”cho tiểu luận môn học của mình. 2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để làm cho vấn đề trở nên trực quan hơn, dễ hiểu hơn, đề tài còn sử dụng phương pháp mô hình hoá, lượng hoá. Bên cạnh các phương pháp trên, đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, mô tả, diễn dịch, quy nạp cũng như so sánh để xem xét, nghiên cứu vấn đề. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tiến hành nghiên cứu thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới như Malaysia, Philipine, Trung Quốc. 4. Kết cấu Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 phần: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ương Chương 2: Chính sách quản lý ngoại hối tại Việt Nam trong thời gian qua Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách quản lý ngoại hối tại Việt Nam trong thời gian tới Chương I Những vấn đề cơ bản về chính sách quản lý ngoại hối của ngân hàng trung ương 1.1. Khái niệm về chính sách quản lý ngoại hối 1.1.1. Khái niệm Chính sách quản lý ngoại hối là một bộ phận chính sách tiền tệ quốc gia, là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, có liên quan mật thiết đến hoạt động kinh tế đối ngoại. Nó được thể hiện dưới dạng qui định về pháp lý, những thể chế của Chính phủ trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý các chứng từ có giá bằng ngoại tệ và các laọi ngoại hối khác trong việc sử dụng, trao đổi, mua, bán trên thị trường nội địa và quan hệ thanh toán với nước ngoài. 1.1.2. Mục tiêu của chính sách Mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối bao gồm các nội dung sau: 1.1.2.1. Điều tiết tỷ giá Trong cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết, NHTW có nghĩa vụ can thiệp thường xuyên vào thị trường ngoại hối nhằm đảm bảo duy trì tỷ giá mục tiêu, tạo thuận lợi cho chính sách xuất nhập khẩu nói riêng và sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung. Để có thể chủ động can thiệp và can thiệp một cách hiệu quả, NHTW phải nắm trong tay một lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn để có khả năng ảnh hưởng tới quan hệ cung - cầu trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, việc sử dụng chính sách ngoại hối cũng được xem như một công cụ có hiệu lực để thực thi CSTT của NHTW. 1.1.2.2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHTW có trách nhiệm phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước. NHTW quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước thông qua việc sử dụng quỹ một cách hiệu quả nhằm bảo tồn và phát triển về giá trị của quỹ. Trong thời gian nhàn rỗi, quỹ dự trữ ngoại hối thường được duy trì dưới dạng một danh mục đầu tư bao gồm các khoản mục đầu tư sinh lời với mức rủi ro thấp và tính lỏng cao. Các khoản mục này có thể dưới hình thức số dư tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng lớn trên thế giới, trái phiếu, tín phiếu chính phủ hoặc các chứng từ có giá với độ an toàn cao hoặc dưới dạng tiền mặt, vàng... Với năng lực quản lý của mình, NHTW thường xuyên thay đổi kết cấu danh mục đầu tư để duy trì một danh mục đầu tư tối ưu phù hợp với điều kiện và các cơ hội đầu tư quốc tế trong từng thời kì. 1.1.2.3. Đảm bảo phương tiện thanh toán quốc tế Mục đích thường xuyên của quỹ dự trữ ngoại hối là nhằm cung cấp phương tiện thanh toán quốc tế cho các hoạt động giao dịch về kinh tế, văn hoá và ngoại giao giữa các nước. 1.1.3. Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối Chính sách quản lý ngoại hối bao gồm các nội dung chủ yếu sau: - Hệ thống quy định đối với các giao dịch vãng lai, bao gồm: hoạt động chuyển ngoại tệ giữa các nước; quyền mua, bán ngoại tệ của các đối tượng là người cư trú và không cư trú. - Hệ thống quy định đối với các giao dịch vốn, bao gồm: di chuyển ngoại tệ hình thành từ các giao dịch vốn giữa các nước, quản lý vay và trả nợ nước ngoài; quản lý đầu tư trực tiếp, gián tiếp vào các chứng từ có giá; quản lý ngoại hối trong các trường hợp định cư. - Hệ thống quy định về hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm: quy định về cấp giấy phép hoạt động ngoại hối; cho vay, thu nợ bằng ngoại tệ trong nước; phát hành giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, các quy định về trạng thái ngoại tệ... - Hệ thống quy định nhằm quản lý vàng tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm các quy định về quyền hạn, nhiệm vụ NHTW về quản lý vàng tiêu chuẩn quốc tế cũng như quy định đối với việc sử dụng vàng tiêu chuẩn quốc tế. Các quy định về cơ chế tỷ giá cũng như nguyên tắc xác định và công bố tỷ giá. 1.2. Chính sách quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam 1.2.1. Nội dung các quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước Luật NHNN đã quy định cụ thể về quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối của NHNN. Tại chương |||, mục 5, điều 37 đã quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN về quản lý ngoại hối: - Xây dựng dự án pháp luật, pháp lệnh và các dự án khác về quản lý ngoại hối, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối theo thẩm quyền; - Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối; - Tổ chức, điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước; - Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối; kiểm soát việc xuất, nhập ngoại hối; - Kiểm soát hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng; - Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác về quản lý ngoại hối theo quy định của pháp luật. Điều 38: Quy định về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước Điều 39: Quy định về hoạt động ngoại của NHNN. 1.2.2. Nội dung các quy định trong các văn bản dưới Luật Ngoài ra, quy định về quản lý ngoại hối và chính sách quản lý ngoại hối còn được quy định trong Điều 2, chương 1, Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 như sau: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ngoại hối và hoạt đọng ngoại hối” và “Thống đốc NHNN chịu trách nhiện trước Chính phủ thực hiện việc quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối”. Nội dung chủ yếu các văn bản đã ban hành sau khi thi hành luật ngân hàng. Đối tượng quản lý ngoại hối ở Việt Nam là các tổ chức, cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam và ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam có ngoại hối và hoạt động ngoại hối. Tại Việt Nam, mọi hoạt động của các tổ chức cá nhân phải tuân theo các luật định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Ngoại hối chỉ được lưu hành qua hệ thống ngân hàng và tổ chức cá nhân được phép hoạt động ngoại hối. Chính phủ đã đưa ra quy định về ngoại hối, người cư trú, người không cư trú. Các quy định về mở tài khoản ngoại tệ trong nước và sử dụng ngoại tệ trên tài khoản của người cư trú và không cư trú. Quy định sử dụng ngoại tệ trên tài khoản để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ, trả nợ, bán, đầu tư, chuyển đổi sang ngoại tệ khác, góp vốn, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, chi trả cho các cá nhân được phép thu, nhận ngoại tệ, cho, tặng thừa kế theo quy định, gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ để hưởng lãi, được rút cả gốc và lãi. Các cá nhân nước ngoài được chuyển ngoại tệ trên tài khoản ra nước ngoài theo quy định. Quy định về quản lý các giao dịch vãng lai: Người cư trú có ngoại tệ từ các nguồn vãng lai ở nước ngoài phải chuyển toàn bộ về Việt Nam theo quy định. Nghĩa vụ bán ngoại tệ, quyền mua ngoại tệ của các tổ chức, mua và chuyển ngoại tệ của cá nhân mang ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam, vàng tiêu chuẩn quốc tế khi xuất nhập cảnh Quy định về quản lý các giao dịch vốn: Vấn đề chuyển ngoại tệ về Việt Nam của các giao dịch vốn, quản lý vay và trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, đầu tư trực tiếp ra và vào Việt Nam, đầu tư vào giấy tờ có giá... Các quy định về giao dịch vốn nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích thu hút nguồn vốn vào trong nước và đầu tư vốn ra nước ngoài có hiệu quả, đặc biệt với quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Quy định về quản lý và sử dụng qũy dự trữ ngoại hối Nhà nước, trách nhiệm của NHNN và các cơ quan liên quan đến việc quản lý và sử dụng qũy dự trữ ngoại hối Nhà nước. Với mục tiêu an toàn, thanh khoản cao để đáp ứng kiẹp thới cho nhu cầu ngoại hối của chính phủ đồng thời sinh lời qua nghiệp vụ đầu tư. Nhìn chung các quy định đều đảm bảo quyền lợi và thuận tiện trong giao dịch ngoại tệ cho người cư trú, người không cư trú, đồng thời tập trung thu hút ngoại hối vào nhà nước để sử dụng cho lợi ích quốc gia. 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý ngoại hối và bài học rút ra cho Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của Malaysia Malaysia luôn sử dụng chính sách quản lý ngoại hối như là một chính sách bổ sung cho chính sách tài khoá và CSTT quốc gia nhằm phát triển kinh tế một cách lành mạnh. Nước này thường xuyên xem xét lại chính sách quản lý ngoại hối và có những thay đổi hợp lý để đảm bảo không gây cản trở tính hiệu quả của hệ thống. Có thể thấy rõ những thay đổi về chính sách quản lý ngoại hối qua các giai đoạn như sau: Vào thập kỷ 80, nền kinh tế lâm vào tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai trầm trọng, hoạt động kinh tế bị đình trệ, Malaysia không hề siết chặt quản lý ngoại hối mà trái lại nhiều chính sách quản lý ngoại hối đã được nới lỏng từ đầu năm 1987. Chẳng hạn như: nâng mức phải khai báo qua hải quan với các lô hàng xuất khẩu (theo giá FOB) từ mức quy định cũ là 5.000 Ringit lên 20.000 Ringit, việc buôn bán vàng được phép tự do... Những giải pháp này nhằm giảm bớt những thủ tục cho nhà xuất khẩu hàng hoá và tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn trong nước để mở rộng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Từ năm 1987, các giao dịch ngoại hối của Malaysia gia tăng mạnh mẽ đòi hỏi chính sách quản lý ngoại hối phải được thực hiện theo hướng tự do hơn nữa. Từ năm 1994, có khá nhiều chính sách quản lý ngoại hối đã được xoá bỏ. Giới hạn đối với tài khoản tiền gửi ở nước ngoài được tăng từ tháng 11/1996, cho phép các công ty nước ngoài được thực hiện giao dịch ngoại hối có kỳ hạn, linh động hơn nữa trong việc xem xét yêu cầu của các công ty trong nước xin vay vốn để chuyển ra nước ngoài đầu tư, phê chuẩn các dự án đầu tư nhằm tiếp cận thị trường và sử dụng nguyên liệu của Malaysia, dự án có sự chuyển giao công nghệ vào Malaysia... Mục đích của việc tự do hoá chính sách quản lý ngoại hối giai đoạn này là nhằm giảm chi phí tuân thủ pháp luật, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn tín dụng, tăng hiệu quả của các giao dịch biên giới của công dân, khuyến khích các công ty đa quốc gia thành lập trụ sở chính ở Malaysia. Trong điều hành chính sách quản lý ngoại hối, Malaysia luôn được xếp vào nhóm các nước sử dụng các biện pháp quản lý ngoại hối để hỗ trợ các chính sách khác. Không giống với các nước khác, Malaysia chỉ áp dụng các chính sách này trong khoảng thời gian ngắn, bổ sung các chính sách vĩ mô để nhanh chóng ổn định nền kinh tế. Chẳng hạn trong giai đoạn 1993-1994, luồng vốn ngắn hạn chảy vào Malaysia khá lớn đã làm tăng cung về tiền tệ, đồng thời tạo ra áp lực gia tăng lạm phát. Để quản lý tình hình này, NHTW đã sử dụng một số biện pháp can thiệp để tránh sự gia tăng về cơ số tiền, song luồng vốn ngắn hạn vẫn tiếp tục tăng mạnh. Do đó, NHTW đã sử dụng một số biện pháp quản lý ngoại hối vào tháng 1 và 3/1994 nhằm hạn chế đầu cơ gây mất ổn định thị trường. Song do xác định rõ mục tiêu của các biện pháp này cũng như nhận thức rõ đây chỉ là biện pháp tạm thời, sau đó, NHTW đã huỷ bỏ nhiều biện pháp. Sự phản ứng tức thời của thị trường ban đầu là tiêu cực và tiếp theo là sự mất giá của đồng Ringit. Tuy nhiên, sau khi thị trường có những vận động điều chỉnh, nền kinh tế đã dần cải thiện mức tăng trưởng, lạm phát được kiềm chế, thị trường tiền tệ và ngoại hối ổn định, đồng Ringit lên giá một cách vững chắc. Như vậy, có thể nói, biện pháp này khá thành công trong việc ổn định cung tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế và giảm bớt ảnh hưởng của khủng hoảng đồng Peso của Mehico vào năm 1994, 1995. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Một là, các chính sách phải được áp dụng trong một môi trường có các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý, đúng đắn. Hai là, đối tượng và mục đích quản lý phải thống nhất, rõ ràng, đặc biệt luôn chú trọng đến các biện pháp quản lý và kiểm soát sự biến động của nguồn vốn ngắn hạn mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn dài hạn. Ba là, hệ thống quản lý nhà nước tốt và các công cụ hành chính hiệu quả đảm bảo tính lành mạnh và hiệu quả của các biện pháp quản lý ngoại hối trong khi không làm tăng chi phí đối với nhà kinh doanh. Bốn là, tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế đòi hỏi một sự thận trọng trong việc đưa ra chính sách quản lý ngoại hối tùy theo những thay đổi của môi trường kinh tế. Chính sách quản lý ngoại hối phải thích ứng với những thay đổi nhưng vẫn phải giữ nguyên mục tiêu dài hạn. Năm là, các biện pháp quản lý ngoại hối chỉ nên là một sự lựa chọn chính sách nhưng không thể thay thế được các chính sách kinh tế vĩ mô. Kinh nghiệm cho thấy sử dụng chính sách quản lý ngoại hối một cách có lựa chọn và thận trọng hỗ trợ các chính sách kinh tế vĩ mô truyền thống sẽ góp phần ổn định nền kinh tế. 1.3.2.Kinh nghiệm của Philipine Do sự bất ổn chính trị trong những năm 80 đã khiến Philipine không thu hút đủ một lượng FDI như mong muốn nhưng lại có hiện tượng chảy máu ngoại tệ nên nước này chủ yếu dựa vào nguồn vốn bên ngoài. Trong bối cảnh này, khu vực kinh tế đối ngoại của Philipine trước những năm 1990 vẫn là một nền kinh tế yếu ớt. Bước sang đầu thập kỷ 90, luồng vốn chảy vào Philipine tăng vọt, luồng vốn FDI gia tăng, cán cân thương mại được cải thiện. Nguyên nhân là do Luật đầu tư nước ngoài đã sửa đổi cho phép người nước ngoài nắm giữ 100% cổ phần của xí nghiệp ở Philipine, cho phép thành lập các ngân hàng nước ngoài. Các quy định về mở chi nhánh mới được thực hiện theo hướng tự do hoá hơn thông qua việc cho phép đấu thầu cấp phép mở chi nhánh. Trong thời gian này, Philipine vẫn quản lý một cách thận trọng quá trình tự do hoá bằng việc tăng mức góp vốn tối thiểu và đưa ra các tiêu chuẩn về sự lành mạnh tài chính và khả năng thu lợi nhuận đối với các chi nhánh ngân hàng mới thành lập. Khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á xảy ra, mặc dù chịu ảnh hưởng ít hơn so với các quốc gia khác như Thái Lan, Hàn Quốc..., đồng Peso của Philipine cũng bị yếu đi, NHTW phải dùng dự trữ ngoại hối để can thiệp, ngoài ra còn áp dụng kiểm soát ngoại hối, cụ thể là kiểm soát các giao dịch ngoại hôi, đặc biệt là các giao dịch tiềm ẩn nguy cơ đầu cơ. Nhờ đó, nền kinh tế Philipine đã trở lại ổn định vào cuối năm 1998. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Quản lý khu vực kinh tế đối ngoại ở Philippine chính là kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối, theo đó nghĩa vụ báo cáo của các tổ chức và cá nhân giao dịch ngoại hối được gắn kết chặt chẽ với việc đăng ký tại NHTW Philippine. Qua kinh nghiệm của Philippine, có thể thấy rằng để hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối, Việt Nam cần chú trọng đến việc giám sát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối. Muốn vậy, ta phải chú trọng công tác thống kê điều tra về các giao dịch ngoại hối trong và ngoài ngành ngân hàng. Để thực hiện công tác kiểm soát ngoại hối, yêu cầu đăng ký giao dịch ngoại hối ngay từ ban đầu có thể được áp dụng nhưng phải đảm bảo tính hiệu quả. 1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc Do điều kiện kinh tế, xã hội giữa Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm giống nhau cho nên về cơ bản, các chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc không khác nhiều so với Việt Nam. Tuy nhiên đi vào từng nội dung cụ thể ta có thể thấy ngay sự khác nhau khá lớn. Cách làm của Trung Quốc thể hiện sự nhất quán của chính sách ở tầm vĩ mô, một sự kiên trì thực hiện các mục tiêu, kế hoạch đã định ra. Điều này có thể thấy rõ thông qua các mốc quan trọng trong quá trình đổi mới chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc. Nội dung của chính sách này cũng thay đổi qua từng giai đoạn phát triển trong mối tương quan với chính sách đổi mới kinh tế. Kể từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách đổi mới kinh tế từ năm 1979 cho đến nay, chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc đã thay đổi theo hướng tự do hóa hơn nhưng vẫn đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước với những mốc quan trọng là: Năm 1979, Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế; Năm 1994, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách một tỷ giá; Năm 1996, Trung Quốc tự do hóa hoàn toàn cán cân vãng lai; Giai đoạn 1997-1998, Trung Quốc đối mặt với cuộc khủng hoảng Châu á, mức xuất khẩu giảm sút, có dấu hiệu căng thẳng về ngoại tệ; Năm 2001, Trung Quốc gia nhập WTO; Năm 2002, Trung Quốc đưa ra hệ thống quản lý thông tin trên mạng, cho phép Ngân hàng nhân dân Trung Quốc giám sát chặt chẽ và tức thời các giao dịch ngoại tệ của cách NHTM tạo điều kiện cho phép các NHTM được tham gia hoạt động ngoại hối một cách linh hoạt hơn (trước đây, các hoạt động ngoại hối tập trung chủ yếu ở ngân hàng ngoại thương Trung Quốc, các NHTM khác về danh nghĩa được hoạt động ngoại hối nhưng phạm vi rất hạn chế Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Thông qua thực tiễn của Trung Quốc, kinh nghiệm nổi bật rút ra đối với Việt Nam là: Không nên tự do hóa quản lý ngoại hối khi nhà nước chưa có khả năng quản lý; khi hoạch định chính sách không nên quá phụ thuộc vào ý kiến của IMF và Ngân hàng Thế giới, mà nên căn cứ vào tình hình thực tế và đặc thù của đất nước. Sử dụng một cách nghiêm ngặt dự trữ ngoại hối (không nên trực tiếp chi cho các khoản sử dụng ngoại tệ của Chính phủ), duy trì một cách hợp lý biện pháp kết nối. Tăng cường công tác thông tin trong quản lý, giám sát giao dịch ngoại hối. Chương ii chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong thời gian qua 2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý ngoại hối tại Việt Nam 2.1.1.Trước khi luật NHNN Việt Nam ra đời Đối chiếu lại lịch sử hình thành và phát triển các chính sách về quản lý ngoại hối của Việt Nam, có thể cho rằng có 3 Nghị định là nền tảng của hệ thống chính sách quản lý ngoại hối Việt Nam qua các thời kỳ. Trước tiên phải kể đến Nghị định số 102/CP của Chính phủ, ban hành về điều lệ quản lý ngoại hối năm 1963, tiếp đến là Nghị định số 161 ban hành năm 1988. Nghị định 161 tuy đã có nhiều điểm mới thông thoáng hơn so với Nghị định 102 nhưng nó vẫn thể hiện đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Điển hình như: “ Các đơn vị kinh tế có thu chi tiền mặt phải lập kế hoạch và gửi các cơ quan theo quy định để Nhà nước tổng hợp kế hoạch của cả nước”. Và chỉ đến khi Nghị định 63/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối ra đời thì mới có những nội dung thích ứng với tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Ngoài ra còn một số văn bản khác quy định về một số vấn đề như: Về sử dụng ngoại tệ trong nước: Trước đây do ngoại tệ được quản lý tập trung nên người cư trú chưa được phép mở tài khoản và gửi tiết kiệm tại hệ thống Ngân hàng. Năm 1991, với mục tiêu huy động ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống Ngân hàng, NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định số 08 cho phép người cư trú được phép gửi ngoại tệ vào Ngân hàng, không kể nguồn gốc. Năm 1995, quyết định số 48 cho phép dân cư được gửi tiền tiết kiệm và rút ra bằng tiền mặt hay chuyển đổi ra VND. Nhờ vậy, tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống Ngân hàng tăng lên nhanh chóng, điều này góp phần tăng hệ thống ngoại tệ cho hệ thống Ngân hàng nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh vấn đề đô la hóa. Về chính sách quản lý giao dịch vãng lai Một là, về chính sách kiều hối. Năm 1995, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, NHNN đã ban hành quyết định số 48 để khuyến khích kiều hối chuyển về nước. Theo quyết định này, kiều hối chuyển về không hạn chế về khối lượng, số lần gửi và ngoại tệ gửi. Người thụ hưởng nhận bằng VND theo tỷ giá của Ngân hàng không nhận ngoại tệ tiền mặt nhưng được gửi tiết kiệm tại Ngân hàng và rút ra bằng ngoại tệ và chịu thuế thu nhập không thường xuyên. Hai là, về chính sách kết hối. Trong giai đoạn này, chính sách kết hối đã góp phần tập trung ngoại tệ vào hệ thống Ngân hàng để phục vụ nhu cầu nhập khẩu, giảm tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ của các tổ chức, giảm sức ép lên tỷ giá. Tuy nhiên, nó còn mang nặng tính kế hoạch hóa nên còn gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, không tạo ra cơ chế cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàngĐiển hình trong thời kỳ này là quyết định số 37 của Chính phủ năm 1998 chỉ cho phép mỗi tổ chức mở một tài khoản ngoại tệ. Về chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn. Xem xét hệ thống văn bản về trả nợ vay nước ngoài, có thể nói nghị định 58/NĐ-CP của Chính phủ năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý cho phép các doanh nghiệp được ký kết vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả. Ngoài ra, để nới lỏng chính sách vay trả nợ nước ngoài, đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế, Nghị định số 90 ban hành năm 1998 đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động vay trả nợ nước ngoài theo hướng phân định trách nhiệm quản lý rõ ràng cho các cơ quan quản lý Nhà nước. Về các khoản vay vốn nước ngoài ngắn hạn, trước năm 1997 chưa được NHNN chú trọng. Từ năm 1997, Thống đốc NHNN đã quan tâm hơn đến vấn đề này và ban hành quyết định số 207/QĐ-NH7 kèm theo quy chế mở L/C trả chậm, trong đó đưa ra các quy định chặt chẽ đối với các Ngân hàng mở L/C và các doanh nghiệp khi thực hiện nghiệp vụ này. Ngoài ra còn có rất nhiều các văn bản khác có liên quan. 2.1.2. Sau khi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời Luật NHNN Việt Nam và Luật các TCTD được Quốc hội khóa X nước CHXHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thức 2 ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành ngày 1/10/1998 là một bước phát triển quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng. Đặc biệt, khi vai trò của công tác quản lý ngoại hối ngày càng trở nên thân thiết trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng, Luật NHNN là một khung pháp lý nền tảng, tạo cơ sở thuận lợi cho công tác soạn thảo và ban hành các văn bản dưới Luật về lĩnh vực quản lý ngoại hối, nhằm mục đích xây dựng nên một hệ thống văn bản pháp quy thống nhất, thuận tiện và có hiệu quả đối với công tác quản lý và thực thi trong lĩnh vực này. Một số văn bản pháp quy dưới Luật như: + Nghị định số 63/1998/NĐCP ngày 17-8-1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối. + Thông tư số 01/1999/TT/NHNN7 ngày 16/4/1999 của NHNN hướng dẫn thi hành Nghị định 63/1998/NĐCP. + Nghị định số 90/1998/NĐCP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài. + Nghị định số 86/1999/NĐCP ngày 19/12/1999 về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước. + Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN ngày 25/5/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm. + Quyết định số 980/2001/QĐ-NHNN ngày 1/8/2001 của Thống đốc NHNN về việc quy định về chi phí khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp. + Quyết định số 1233/2001/QĐ-NHNN ngày 26/9/2001 của Thống đốc NHNN về sửa đổi điều 15 quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành theo quyết định số 711/2001/ QĐ-NHNN ngày 25/5/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm. + Quyết định số 1432/2001/QĐ-NHNN ngày 16/1/2001 của thống đốc NHNN về việc bổ sung sửa đổi một số nội dung tại thông tư số 03/1999/TT NHNN7 ngày 12/8/1999 hướng dẫn việc vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp. + Quyết định số 1437/2001/QĐ-NHNN ngày 19/11/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy định về mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài của người cư trú và người không cư trú. + Quyết định số 653/2001/ QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế tổ chức thực hiện nhiệm vụ về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước. Trên cơ sở các văn bản này, thị trường ngoại hối trong nước, hoạt động của các cá nhân tổ chức và các Ngân hàng đã từng bước được quản lý một cách khoa học, phát triển phù hợp với thực tế khách quan và định hướng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống các văn bản về quản lý ngoại hối nêu trên đã góp phần không nhỏ vào những thành công của Ngành và hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn vừa qua. 2.2. chính sách quản lý ngoại hối của Việt nam trong thời gian qua 2.2.1. Chính sách tỷ giá Từ chế độ đa tỷ giá cố định trước những năm 90, đến năm 91 NHNN đã từng bước chuyển đổi sang chế độ một tỷ giá thống nhất. Khi cần thiết, tỷ giá chính thức do NHNN công bố được điều chỉnh thích hợp để gắn với cung cầu ngoại tệ thực tế của nền kinh tế, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ ổn định và kiềm chế được mức lạm phát ở mức cho phép vào đầu những năm 90. Tuy nhiên, trước cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực và do một loạt các nước phá giá đồng tiền, NHNN liên tục điều chỉnh tăng tỷ giá chính thức và nới lỏng biên độ giao động tỷ giá áp dụng đối với NHTM từ 5%-10% trong giai đoạn 1997-1999. Đặc biệt từ tháng 2-1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức mà công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. Các Ngân hàng được xác định tỷ giá mua - bán so với USD trong phạm vi 0,1%. Đây là bước cải cách có ý nghĩa vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định chủ quan sang cơ chế tỷ giá xác định trên cơ sở cung cầu trên thị trường. Tuy nhiên, khi mới thực hiện cơ chế này, NHNN đã quy định quá chi tiết các mức biên độ và biên độ lại quá hẹp, được coi là quan thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các NHTM. Do vậy, NHNN đã dần dần chỉnh sửa cơ chế này theo hướng nới rộng hơn và ít kỳ hạn chi tiết hơn như sau: + Giai đoạn từ 26/2/1999 đến 30/8/2001, NHNN quy định tới 12 kỳ hạn khác nhau: không kỳ hạn, kỳ hạn 30 ngày, từ 31 đến 44 ngày...với biên độ tương ứng từ 0,1% đến 3,5%. + Giai đoạn từ 1/9/2000 đến 17/9/2001, NHNN vẫn quy định 12 kỳ hạn với mức biên độ bình quân giảm 1/2 so với năm trước. + Giai đoạn từ 18/9/2001 đến 30/6/2002, NHNN chỉ còn quy định 4 kỳ hạn: không kỳ hạn, kỳ hạn 30 ngày, kỳ hạn từ 31 đến 104 ngày, kỳ hạn 105 đến 179 ngày; với các mức biên độ được nới rộng gần gấp 2 lần so với trước. + Giai đoạn từ 1/7/2002 đến nay, NHNN quy định 5 kỳ hạn, với các mức biên độ tiếp tục được nới rộng từ 1,10% lên 0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay; từ 0,40% lên 0,50% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày; từ 2,35% lên 2,5% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn trên 90 ngày... Việc điều chỉnh tăng này đã đáp ứng được yêu cầu của các TCTD cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các Ngân hàng, không bị gò bó trong khuân khổ chật hẹp như trước đây.Ngoài ra nó còn góp phần tạo điều kiện cho các NHTM chủ động hơn trong việc xác định tỷ giá của mình trên cơ sở tình hình cung cầu ngoại tệ, góp phần thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển và tạo điều kiện cho các NHTM hội nhập kinh tế thế giới theo nguyên tắc cạnh tranh và bình đẳng. 2.2.2. Chính sách dự trữ bắt buộc Một công cụ khác của chính sách tiền tệ tác động trực tiếp đến chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá đó là dự trữ bắt buộc. Trong hơn 2 năm qua, NHNN đã điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng nâng cao mức dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ và hạ mức dự trữ bắt buộc đối với VND. Việc điều chỉnh này có tác động tích cực đến tình hình đô la hóa, lãi suất ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Sau đây là biểu đồ thể hiện sự tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt đối với tiền gửi ngoại tệ buộc thời kỳ 2001-2002: Từ biểu đồ ta có thể nhận thấy rằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có xu hướng tăng rồi lại giảm chứng tỏ NHNN đã có những biện pháp điều chỉnh nó cho phù hợp với tình hình thực tế trên thị trường. Từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 8/2003 tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 4%, tiền từ 12 tháng đến 24 tháng là 1%. Đồng thời NHNN cũng điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với VND từ 5% xuống 3%, riêng NHNo&PTNT Việt Nam từ 3% xuống 2%. Từ kỳ dự trữ bắt buộc 12/2003 các tỷ lệ lần lượt tương ứng là 2% và 1,5%. Việc điều chỉnh này đã có tác động hỗ trợ rất lớn trong điều hành lãi suất và tỷ giá thời gian qua, giúp cho lãi suất nội tệ diễn ra theo hướng có lợi hơn lãi suất đô la Mỹ, hạn chế được phần nào hiện tượng đô la hóa và ngăn ngừa rủi ro tỷ giá của các NHTM. 2.2.3. Chính sách quản lý hối đối với giao dịch vãng lai 2.2.3.1. Chính sách kiều hối Trước năm 1980, Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích kiều hối chuyển về. Tuy nhiên, chính sách kiều hối giai đoạn này mang tính chất của nền kinh tế tập trung nên chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn. Cụ thể: ở thời kì này, chính sách kiều hối quy định không cho người thụ hưởng được phép giữ ngoại tệ và phải bán cho ngân hàng Ngoại thương với tỷ giá cao (tỷ giá thưởng) đồng thời chỉ được gửi về dưới 6 loại ngoại tệ chính là FRF, FR Thuỵ Sỹ, DM, Bảng Anh, HK dola, USD. Từ năm 1982 trở đi, chính sách kiều hối đã nới lỏng hơn trước, mở rộng thêm 3 loại ngoại tệ khác song vẫn hạn chế khối lượng rút tiền từng lần và hạn chế loại tiền gửi cho đến cuối năm 1987. Từ năm 1988, với chủ trương làm bạn với tất cả các nước, chính sách kiều hối đã tỏ ra thông thoáng hơn, cho phép chấp nhận tất cả các loại ngoại tệ và được phép gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, xoá bỏ qui định hạn mức rút tiền từng lần. Từ năm 1990, người nhập cảnh được mang ngoại tệ vào không hạn chế sau khi khai báo hải quan. Năm 1995, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ, NHNN ban hành QĐ số 48 để khuyến khích kiều hối gửi về nước. Theo._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35609.doc