Giải pháp nhằm mở rộng & nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội

Lời mở đầu —&– Bước vào thế kỷ 21, với những thành tựu đã đạt được từ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nền kinh tế Việt Nam đang tạo ra những bước phát triển vững chắc trên con đường hội nhập và phát triển. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Hệ thống Ngân hàng đã được đổi mới toàn diện, từ nội dung hoạt động cho đến cơ cấu tổ chức, một trong những nội dung đổi mới của hệ thống đó là đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng. Bên c

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm mở rộng & nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh những nghiệp vụ truyền thống, các ngân hàng đã và đang áp dụng thêm những nghiệp vụ mới có tính chất hiện đại. Một trong số đó là nghiệp vụ “bảo lãnh ngân hàng”. Trên thế giới, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã ra đời và đi vào hoạt động từ thập kỷ 70 (thế kỷ 20) và cho đến nay nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một trong những nghiệp vụ mạnh nhất, đặc biệt là trong xu hướng toàn cầu hoá về các hoạt động thương mại, đầu tư, tín dụng. Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng mới chỉ thật sự xuất hiện trong vài năm gần đây, nhưng nó đã phát huy được vai trò hết sức to lớn, đặc biệt là khi nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như thiếu vốn, thiếu công nghệ thông tin hiện đại, uy tín trên trường quốc tế chưa cao. Tuy nhiên, bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ còn mới mẻ, trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều vấn đề vướng mắc, đôi khi còn gây tổn thất cho ngân hàng, chính vì những lý do trên đã dẫn đến sự áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh vào các hoạt động kinh tế còn ở mức hạn chế so với những đòi hỏi bức bách của nền kinh tế Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh, ngành Ngân hàng nói chung và Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nói riêng đã có định hướng phát triển trong thời gian tới là mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động bảo lãnh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn hệ thống. Là một sinh viên ngành ngân hàng, tôi đã nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các nghiệp vụ ngân hàng. Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội, được sự tận tình chỉ bảo của các anh chị trong cơ quan tôi đã học hỏi và tìm hiểu tình hình thực tế và mạnh dạn chọn đề tài luận văn tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, thực trạng hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Mục tiêu của đề tài: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nội dung và những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, từ đó đưa ra những vấn đề đã đạt được, những mặt còn hạn chế, từ đó tìm ra nguyên nhân của những mặt còn hạn chế. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Toàn bộ luận văn tốt nghiệp được thể hiện trong 3 chương với các nội dung sau: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Chương III: Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Chương I Cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh của các Ngân hàng thương mại —&– 1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh Ngân hàng 1.1.1. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng 1.1.1.1. Bảo lãnh là gì Trong nền kinh tế thị trường, luôn tồn tại những mối quan hệ xã hội khác nhau, các mối quan hệ này vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Trong quan hệ xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên được quan tâm đặc biệt. Chỉ cần một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tác, đặc biệt là trong quan hệ kinh tế. Trong khi đó, quan hệ kinh tế chỉ diễn ra lành mạnh khi các bên thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Vì vậy các bên tham gia quan hệ kinh tế đều muốn có sự đảm bảo bằng uy tín hay tài sản của bên thứ ba về việc thực hiện nghĩa vụ của đối tác. Sự đảm bảo của bên thứ ba đó gọi là bảo lãnh. Có hai hình thức bảo lãnh chủ yếu: - Bảo lãnh đối nhân được áp dụng chủ yếu đối với các quan hệ phi tài sản trong các lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, chế tài hành chính và quan hệ phi tài sản trong dân sự. - Bảo lãnh đối vật được áp dụng chủ yếu trong quan hệ kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản. Với sự đảm bảo rằng nếu người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đền bù cho bên nhận bảo lãnh một số tiền thỏa thuận từ trước. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các định chế về bảo lãnh cơ bản cũng được quy định trên các nguyên tắc này. Tuy nhiên có những quy định đặc thù hiện đang tồn tại ở hai lĩnh vực là hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Theo điều 306, bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo lãnh được định nghĩa như sau “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” Tại điều 2 khoản 3, nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng nay là Thủ tướng chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì bảo lãnh được ghi: “ Bảo lãnh tài sản là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký.” Như vậy, bảo lãnh là sự cam kết của bên bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi họ không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình. 1.1.1.2. Khái niệm về bảo lãnh Ngân hàng Trong quy chế “Bảo lãnh ngân hàng” được ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25 tháng 08 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và theo QĐ số 112/2003/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 11/02/2003 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh đã chỉ rõ: “Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng bao gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng. Bên được bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể; các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng; Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ Luật Dân sự; Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam. Ngân hàng sẽ không được bảo lãnh đối với những người như sau: Thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của các tổ chức tín dụng; Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc); Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng. Cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ taì chính thay cho khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả. 1.1.1.3. Sự ra đời và phát triển của Bảo lãnh ngân hàng Sự ra đời và phát triển của bảo lãnh ngân hàng là một yêu cầu tất yếu khách quan của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp cần có sự bảo lãnh của ngân hàng để thực hiện một hợp đồng kinh tế hoặc một nghĩa vụ kinh tế nào đó. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các chủ thể thường xuyên phải tham gia vào các quan hệ kinh tế mà các quan hệ này được xác lập dựa trên các hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, do nguyên nhân khách quan hay chủ quan, các chủ thể không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã ký kết trong hợp đồng. Các vi phạm này có thể phát sinh một cách chủ quan khi một bên đối tác không thiện ý, cố tình vi phạm các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng nhằm trục lợi riêng cho bản thân mình và gây ra những thiệt hại không lường trước được cho phía bên kia. Hợp đồng kinh tế bị vi phạm có thể do các yếu tố khách quan tác động tới các bên tham gia, dẫn đến những hậu quả không lường trước được khiến bên kia không thể có khả năng thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình mặc dù họ mong muốn thực hiện đúng nghĩa vụ đã ký kết. Những yếu tố khách quan đó có thể là biến động về kinh tế, xã hội hay thiên tai. Đứng trước thực tế này, người ta đã sử dụng rất nhiều công cụ khác nhau nhằm tránh và hạn chế những thiệt hại có thể xẩy ra. Như quy định các điều khoản pháp lý giải quyết tranh chấp, sử dụng tài sản cầm cố, thế chấp để bồi thường, hoặc nhờ một bên thứ ba có uy tín, có chuyên môn và đặc biệt là có khả năng tài chính đứng ra bảo đảm đền bù cho các thiệt hại xảy ra. Sự đền bù có thể dưới hình thức bảo hiểm, bảo lãnh hoặc cung cấp một phương tiện thanh toán thuận tiện và đảm bảo an toàn (trong thương mại). Bảo lãnh có thể do một cá nhân hay tổ chức có uy tín và khả năng tài chính đứng ra cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình nếu bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng và được các bên tham gia giao dịch đồng ý. Nếu một bên đối tác không đồng ý thì sẽ phải tìm người bảo lãnh khác hoặc một người bảo lãnh có uy tín hơn để bảo lãnh cho cá nhân, tổ chức trên (bảo lãnh đối ứng). Hợp đồng bảo lãnh có thể là một phần trực thuộc hợp đồng giao dịch và do đó có tên gọi là bảo lãnh kèm theo hay trách nhiệm bảo lãnh của bên thứ ba, nó có tính phụ thuộc vào hợp đồng gốc. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, độ phức tạp của các giao dịch ngày càng cao, đặc biệt là với những giao dịch kinh tế có quy mô lớn, phạm vi rộng và giao dịch lớn thì người đứng ra bảo lãnh phải có độ uy tín nhất định, có chuyên môn cao về những lĩnh vực được đề cập trong hợp đồng. Đồng thời, người đứng ra bảo lãnh cũng phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh để tạo lòng tin đối với các bên. Nhưng tất cả những điều đó thường vượt quá khả năng của một cá nhân cụ thể. Chỉ có các định chế tài chính lớn như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các Ngân hàng mới có đủ khả năng thực hiện. Các NHTM với thế mạnh về tài chính, nghiệp vụ và uy tín đã tạo lập một công cụ mới, tạo ra sự đảm bảo cho các bên. Công cụ này được gọi là bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng được bắt đầu sử dụng rộng rãi từ đầu thập niên 70. Với sự giầu có nhanh chóng do bán dầu lửa, các quốc gia vùng Trung đông đã ký kết những hợp đồng có giá trị giao dịch rất lớn với những tập đoàn Phương tây nhằm thực hiện những dự án trong các lĩnh vực: Xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp, an ninh quốc phòng như xây dựng đường xá, sân bay hải cảng, nhà máy điện, mạng lưới thông tin. Do giá trị hợp đồng lớn nên để tạo lòng tin cho đối tác, các bên cần phải có một sự đảm bảo nhất định như tài sản, uy tín của bên thứ ba và dịch vụ bảo lãnh ngân hàng đã xuất hiện, đáp ứng nhu cầu cho các bên, đặc biệt là bảo lãnh thanh toán ngay khi có nhu cầu đầu tiên. Ngày nay, dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng đã được phát triển và ngày càng mở rộng với tổng giá trị bảo lãnh tăng lên một cách đáng kể. Có thể khẳng định một điều chắc chắn rằng, những hoạt động kinh tế lớn trên thế giới hiện nay không thể nào không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh ngân hàng cũng được sử dụng ngày càng nhiều hơn khi các hợp đồng kinh tế phát sinh trong phạm vi một quốc gia. Sự mở rộng bắt nguồn từ một thực tế rằng bảo lãnh ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho bất kỳ một hoạt động kinh tế nào từ hợp đồng phi tài chính như hợp đồng mua bán, cho thuê và hợp đồng xây dựng cho đến các hợp đồng tài chính như các khoản tín dụng, cho vay theo món hay thấu chi, tham gia liên doanh, phát hành trái phiếu, tái bảo hiểm hay các cam kết tài chính khác. Với sự ra đời tất yếu khách quan, xuất phát từ những nhu cầu trong thực tế, tại Việt Nam, từ năm 1994, các NHTM bắt đầu áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh như là một sản phẩm dịch vụ và cho đến nay dịch vụ này ngày càng phát triẻn cả về loại hình, doanh số và chất lượng hoạt động. 1.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng 1.1.2.1. Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương Để tiến hành được một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, thông thường không chỉ có ngân hàng và người được bảo lãnh tham gia mà còn có cả người nhận bảo lãnh. Giữa các chủ thể này tồn tại những mối quan hệ đan xen nhau được thể hiện qua các hợp đồng kinh tế. Do vậy, ta có thể hiểu rằng bảo lãnh ngân hàng không chỉ là mối quan hệ song phương mà là mối quan hệ đa phương. - Mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng thi công xây dựng. Đây chính là hợp đồng gốc tạo nên các hợp đồng khác. - Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết bảo lãnh dưới hình thức thư bảo lãnh, thư L/C trả chậm hay các hình thức khác. Giữa các hợp đồng này có sự khác biệt nhau song giữa chúng luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau từng đôi một. Trong một số trường hợp, hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn phức tạp hơn với sự tham gia của một số bên trung gian như ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng hay ngân hàng hướng dẫn trong loại hình bảo lãnh gián tiếp. 1.1.2.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập Mặc dù ngân hàng sẽ bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại gây ra do không thực hiện đúng như trong hợp đồng gốc với người được bảo lãnh, song việc thanh toán một bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều khoản và điều kiện quy định trong cam kết bảo lãnh. Tức là, bên nhận bảo lãnh chỉ được quyền đòi tiền bảo lãnh đối với ngân hàng nếu những điều kiện ghi trong cam kết bảo lãnh xảy ra và Ngân hàng cũng không thể viện ra các điều khoản trong hợp đồng gốc để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ ngân hàng có quyền truy đòi khoản tiền bảo lãnh đã trả thay cho khách hàng ngay sau khi ngân hàng thực hiện yêu cầu thanh toán từ bên nhận bảo lãnh mà không hề bị ảnh hưởng bởi các điều khoản của hợp đồng gốc. 1.1.2.3. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng của ngân hàng Khi ngân hàng phát hành một cam kết bảo lãnh thì ngân hàng chưa thực sự phải bỏ ra số tiền bảo lãnh, ngân hàng chỉ tiến hành thu phí bảo lãnh do bên được bảo lãnh đóng. Bảng cân đối tài sản chưa hề bị thay đổi. Do vậy, nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Bảng cân đối tài sản chỉ thay đổi khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh, khi đó ngân hàng sẽ phải chuyển một phần nguồn vốn dùng để cho vay sang hay phải huy động từ các nguồn khác như bán chứng khoán hay đi vay trên thị trường mở. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay số tiền ngân hàng trả thay thì sẽ phải tiến hành nhận nợ. Hay nói cách khác là ngân hàng cấp một khoản tín dụng cho bên được bảo lãnh. 1.1.3. Vai trò và chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.1.3.1. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.1.3.1.1. Bảo lãnh được dùng như công cụ bảo đảm Mục đích quan trọng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng đó chính là cung cấp cho người nhận bảo lãnh một khoản bồi hoàn tài chính trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm điều khoản được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh. Đó là một hình thức bảo đảm cho người nhận bảo lãnh và thường do bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên được bảo lãnh phải đề nghị ngân hàng bảo lãnh. Trong thực tế, người nhận bảo lãnh không mong muốn nhận được tiền bảo lãnh. Họ mong muốn người được bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ. Họ chỉ coi bảo lãnh ngân hàng như một công cụ để bảo đảm an toàn cho mình khi có biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Và bản thân người được bảo lãnh cũng không muốn chuyện đó xảy ra vì nhiều khi thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Tóm lại, bảo lãnh ngân hàng được dùng như một công cụ bảo đảm hữu hiệu hơn rất nhiều so với các hình thức bảo đảm khác. 1.1.3.1.2. Bảo lãnh được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng Sau khi ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, chỉ cần bên được bảo lãnh vi phạm một điều khoản nào đó trong hợp đồng thì bên nhận bảo lãnh có quyền truy đòi số tiền bảo lãnh. Số tiền này ngân hàng sẽ cho vào khoản tín dụng bắt buộc và chắc chắn rằng bên được bảo lãnh đã gây ấn tượng không tốt với ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc xin vay, xin bảo lãnh sau này. Nhiều khi thiệt hại do thực hiện không đúng hợp đồng có thể lớn hơn rất nhiều so với khoản đền bù do vậy có thể nói bảo lãnh ngân hàng đã tạo áp lực đốc thúc bên được bảo lãnh phải hoàn thành nghĩa vụ của mình đúng như đã cam kết. 1.1.3.1.3. Bảo lãnh được dùng như công cụ tài trợ Trong hợp đồng thầu hoặc hợp đồng mua bán có giá trị lớn, thời gian thực hiện kéo dài, nhu cầu tài trợ cho dự án là rất cần thiết. Các nhà đầu tư hoặc người bán sẽ gặp nhiều khó khăn về mặt tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như phải hoàn tất các hạng mục hoặc toàn bộ hợp đồng mới được thanh toán. Do vậy, để công trình tiến hành thuận lợi, chủ thầu hoặc người mua thường tạm ứng trước cho từng công đoạn với điều kiện nhà thầu có một bảo lãnh do một ngân hàng có uy tín đứng ra cam kết sẽ hoàn trả lại số tiền ứng trước đó. Vì thế ngân hàng được coi như là một công cụ tài trợ. Chức năng tài trợ cũng được thể hiện rõ trong việc ngân hàng cấp các khoản bảo lãnh để cho các doanh nghiệp vay vốn, mua thiết bị trả chậm. 1.1.3.1.4. Bảo lãnh được dùng như một công cụ đánh giá Bảo lãnh ngân hàng giúp bên nhận bảo lãnh có những đánh giá nhất định về năng lực tài chính và hoạt động của bên đối tác thông qua việc ngân hàng có chấp thuận hay không chấp thuận bảo lãnh. Bởi vì ngân hàng là một định chế tài chính có chuyên môn cao, có khả năng phân tích đánh giá được tình trạng khách hàng của mình. Do vậy, việc ngân hàng không sẵn sàng chấp thuận bảo lãnh cho đối tác chứng tỏ rằng họ có điều gì đó không ổn về mặt tài chính hoặc năng lực sản xuất kinh doanh. Trên đây là những chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Nó có tác động to lớn đến tất cả các chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh trên cả phương diện nghĩa vụ và quyền lợi. 1.1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 1.1.3.2.1. Vai trò đối với nền kinh tế Với những chức năng của mình, bảo lãnh ngân hàng được coi là một công cụ quan trọng được sử dụng ngày càng rộng rãi để trợ giúp cho các hoạt động kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế để phát triển kinh tế đất nước. Bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư thực hiện vay vốn trong nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu về vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển. Đối với một doanh nghiệp không phải là khách hàng truyền thống, thì việc xin vay vốn đặc biệt là với số vốn xin vay lớn, rất ít khi được ngân hàng hay một tổ chức nào đó đồng ý cho vay. Do họ chưa chắc chắn được rằng liệu doanh nghiệp có khả năng trả được nợ hay không. Trong khi việc dùng tài sản cầm cố, thế chấp để xin vay không phải là lúc nào cũng dễ dàng đối với các doanh nghiệp. Do vậy, dịch vụ bảo lãnh ngân hàng ra đời đã đảm bảo việc hoàn trả vốn vay còn bên có nhu cầu vay vốn sẽ có nhiều cơ hội có được nguồn vốn phù hợp nhất với nhu cầu của mình vì bên cho vay thấy khả năng xảy ra rủi ro tín dụng là rất ít và họ sẵn lòng cung cấp tín dụng hơn. Trong trường hợp này, bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò là phương tiện bảo đảm cho món vay có hiệu quả hơn nhiều so với hình thức cầm cố hay thế chấp. Khi đó nhờ có các khoản vốn vay mà doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới thiết bị, xây dựng các dự án đầu tư có tính khả thi và đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo ra công ăn việc làm góp phần ổn định xã hội và đem lại phồn vinh cho nền kinh tế đất nước. Riêng đối với hình thức bảo lãnh dự thầu đã góp phần giúp các nhà thầu tham gia đấu thầu các dự án quan trọng mà nếu trúng thầu thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp cũng như xã hội rất nhiều lợi ích không chỉ về mặt kinh tế mà còn về cả mặt xã hội. Còn bảo lãnh thực hiện hợp đồng đảm bảo tính đúng đắn khách quan và công bằng cho tất cả các doanh nghiệp tham gia đấu thầu, tránh được những gian lận trong quá trình đấu thầu gây thiệt hại cho chủ đầu tư. 1.1.4.2. Vai trò đối với ngân hàng Các NHTM hiện nay hoạt động theo hướng đa năng tổng hợp, không ngừng tạo lập và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng nhằm đa dạng hoá hoạt động, nâng cao thu nhập. Hoạt động tín dụng thường gắn liền với rủi ro rất cao do ngân hàng phải xuất vốn ra để cho vay, trong khi đó thì nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu là dùng uy tín của mình để khách hàng thực hiện một hoạt động nào đó, ví dụ đi vay vốn ngân hàng khác nên ngày nay, tất cả các ngân hàng đều hướng vào việc tăng doanh thu từ các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng truyền thống đồng thời giúp ngân hàng tìm kiếm thêm những khách hàng mới. Thông qua việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho các khách hàng, ngân hàng sẽ có điều kiện cung cấp cho doanh nghiệp thêm nhiều dịch vụ ngân hàng đồng bộ phù hợp (như dịch vụ thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế…) nhờ đó tạo lập mối quan hệ lâu dài với khách hàng, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ có những mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp cũng như các ngân hàng trong và ngoài nước, do vậy bảo lãnh ngân hàng giúp nâng cao vị thế của ngân hàng, nhất là trong các mối quan hệ đối ngoại, tăng cường quan hệ đại lý giữa các ngân hàng (thông qua các hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh đối ứng…) 1.1.4.3. Vai trò đối với khách hàng Bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng giảm thiểu được rủi ro, đảm bảo lợi ích kinh tế chống lại những thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng gây ra; nó đáp ứng nhu cầu về vốn, thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng phát triển xản xuất kinh doanh. Cụ thể là: - Với bên nhận bảo lãnh: Giúp doanh nghiệp yên tâm hơn khi ký kết và thực hiện hợp đồng, tiết kiệm thời gian và chi phí vào việc tìm hiểu đối tác và đặc biệt là không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nếu có rủi ro xẩy ra, bảo lãnh ngân hàng đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất. - Với bên được bảo lãnh: Nhờ có bảo lãnh, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với những nguồn vốn rẻ, hiệu quả ở cả trong nước và nước ngoài. Bảo lãnh cũng tạo điều kiện cho những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hợp đồng song lại chưa có đủ uy tín đối với bên đối tác có thể tham gia đấu thầu những công trình lớn. Ngoài ra, với sự kiểm tra và giám sát của ngân hàng trước và sau khi đồng ý bảo lãnh buộc doanh nghiệp phải quan tâm tới hơn việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để không làm mất uy tín đối với ngân hàng cũng như với bên đối tác. Như vậy, chính bảo lãnh ngân hàng đã thúc đẩy cho doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn, có trách nhiệm hơn và hoàn thành hợp đồng theo đúng quy định. Do đó, nó giúp doanh nghiệp tăng uy tín trong quan hệ sản xuất kinh doanh, mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tóm lại, bảo lãnh ngân hàng giúp tháo gỡ những khó khăn của những doanh nghiệp đang có nhu cầu vay vốn , những doanh nghiệp muốn tham gia đấu thầu những chưa có đủ uy tín. Nó giúp các chủ đầu tư, những người bán yên tâm hơn khi ký hợp đồng, giúp giảm thiểu rủi ro có thể xẩy ra, do vậy có thể nói rằng sự ra đời và phát triển của bảo lãnh ngân hàng là một yêu cầu tất yếu khách quan của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.4. Phân loại bảo lãnh ngân hàng. 1.1.4.1. Theo phương thức phát hành bảo lãnh 1.1.4.1.1. Bảo lãnh trực tiếp Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh cam kết sẽ trực tiếp thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng một hoặc một số các điều kiện ghi trong cam kết bảo lãnh. Thông thường có ba bên tham gia vào một nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán là ngân hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng phát hành một bảo lãnh với các điều kiện và thời hạn thường được quy định trước trong hợp đồng gốc đồng thời cam kết sẽ bồi hoàn lại cho ngân hàng phát hành nếu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Sau khi xem xét, nếu chấp nhận thì ngân hàng sẽ ký phát hành một bảo lãnh. Sau khi bảo lãnh ngân hàng có hiệu lực, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu ngân hàng phải thanh toán đền bù khi có sự vi phạm của bên được bảo lãnh. Sau đó, nếu đúng là có sự vi phạm điều khoản trong cam kết bảo lãnh, ngân hàng phát hành sẽ thanh toán và sẽ đòi bên được bảo lãnh phải hoàn trả lại số tiền mà mình đã thanh toán. Bảo lãnh ngân hàng sẽ hết hiệu lực khi thời hạn bảo lãnh kết thúc hoặc khi ngân hàng đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Trong một số trường hợp, xuất hiện ngân hàng thứ hai là ngân hàng thông báo, phục vụ cho người nhận bảo lãnh. Sơ đồ 1.1: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp NH phát hành bảo lãnh NH thông báo Người được bảo lãnh (A) Người nhận bảo lãnh (B) (2) (1) (3) (5) (4) (1) Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng gốc trong đó quy định bên A phải mở một bảo lãnh. (2) Bên được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình phát hành một bảo lãnh ngân hàng. (3) Nếu chấp thuận, ngân hàng phát hành sẽ phát hành một thư bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo hoặc thông báo trực tiếp cho bên nhận bảo lãnh. (4) Ngân hàng thông báo bảo lãnh sẽ kiểm tra tính trung thực và thông báo lại cho bên nhận bảo lãnh. (5) Ngân hàng phát hành thực hiện việc thanh toán cho bên được bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng của bên xin bảo lãnh. 1.1.4.1.2. Bảo lãnh gián tiếp Bảo lãnh gián tiếp là loại hình bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh chính mở bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ bên được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Trong bảo lãnh gián tiếp, ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng không có quan hệ bảo lãnh đối với người nhận bảo lãnh. Nghĩa vụ của ngân hàng đối với ngân hàng phát hành bảo lãnh khi ngân hàng phát hành thanh toán tiền bảo lãnh là nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng. Khi có vi phạm xẩy ra, ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, sau đó sẽ đòi tiền từ ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng và đến lượt ngân hàng này sẽ đòi tiền từ bên được bảo lãnh. Sơ đồ 1.2: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp NH phát hành bảo lãnh đối ứng NH phát hành bảo lãnh Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh NH thông báo (3) (4) (5) (6) (7) (1) (9) (2) (8) (1) Người được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng gốc trong đó quy định về bảo lãnh ngân hàng và các điều khoản cũng như thời hạn của bảo lãnh. (2) Bên được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình yêu cầu một ngân hàng khác tại quốc gia của bên nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh. (3) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh. (4) Ngân hàng phát hành bảo lãnh thông báo cho ngân hàng thông báo. (5) Ngân hàng thông báo sẽ kiểm tra tính xác thực sau đó sẽ thông báo cho bên nhận bảo lãnh. (6) Bên nhận bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết. (7) Ngân hàng phát hành thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. (8). Ngân hàng phát hành yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng hoàn trả lại số tiền mà họ đã thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. (9) Ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng yêu cầu bên được bảo lãnh phải hoàn trả số tiền bảo lãnh. 1.1.4.1.3. Bảo lãnh được xác nhận Trong một số trường hợp, người nhận bảo lãnh có thể yêu cầu một ngân hàng trong nước của mình xác nhận một bảo lãnh do ngân hàng nước ngoài phát hành và như vậy người nhận bảo lãnh có thể xuất trình những chứng từ theo yêu cầu đến ngân hàng xác nhận để được thanh toán. Tuy nhiên, trong thực tế, nếu người nhận bảo lãnh không tin tưởng vào tiềm lực tài chính của ngân hàng phát hành thì họ có thể yêu cầu một nghiệp vụ tái bảo lãnh. 1.1.4.1.4. Đồng bảo lãnh Đối với các thương vụ mà số tiền bảo lãnh có giá trị rất lớn vượt qua quỹ bảo lãnh hiện có của ngân hàng hoặc vượt qua tỷ lệ cho phép đối với một khách hàng. Trong một số trường hợp, một ngân hàng riêng lẻ thường không đủ điều kiện để một mình đứng ra bảo lãnh. Khi đó để phân tán và hạn chế rủi ro, Ngân hàng sẽ mời các ngân hàng khác cùng tham gia phát hành bảo lãnh này. Thông thường, các ngân hàng tham gia đồng bảo lãnh sẽ lựa chọn một ngân hàng có uy tín, có nhiều kinh nghiệm nhất đứng ra làm ngân hàng chủ trì. Ngân hàng này sẽ phát hành bảo lãnh toàn bộ giá trị và được các ngân hàng thành viên hỗ trợ bằng việc phát hành bảo lãnh đối ứng. Khi ngân hàng chủ trì đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người nhận bảo lãnh thì có quyền truy đòi các ngân hàng thành viên đồng bảo lãnh số tiền mà họ cam kết trong bảo lãnh đối ứng. Đồng bảo lãnh thường được áp dụng đối với những dự án liên doanh có vốn đầu tư lớn và những công trình đòi hỏi nhiều công ty cùng tham gia. 1.1.4.2. Theo đối tượng của bảo lãnh 1.1.4.2.1. Bảo lãnh vay vốn Bảo lãnh vay vốn là loại bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Bảo lãnh vay vốn thường rất phức tạp, số tiền bảo lãnh thường l._.à lớn do đó rủi ro của ngân hàng trong trường hợp người được bảo lãnh không trả được nợ cũng lớn theo. Do đó với những trường hợp này, ngân hàng cần xem xét rất kỹ khả năng trả nợ của người được bảo lãnh, xem xét tài sản thế chấp, mức ký quỹ trước khi đưa ra quyết định có bảo lãnh hay không. Số tiền bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh được ghi trên thư bảo lãnh theo yêu cầu của bên được bảo lãnh và được sự đồng ý của bên nhận bảo lãnh. Thông thường thời hạn bảo lãnh là khoảng 10 ngày từ ngày nợ đến hạn. Loại bảo lãnh này thường được áp dụng để doanh nghiệp đi vay các ngân hàng nước ngoài. 1.1.4.2.2. Bảo lãnh thanh toán Bảo lãnh thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Trong quá trình thực hiện hợp đồng thường có sự lệch nhau về thời gian chi trả và thời gian nhận hàng, do đó bảo lãnh thanh toán nhằm tránh tổn thất cho người bán trong trường hợp người mua vì một lý do nào đó mà không chịu thanh toán tiền hàng, thanh toán chậm hoặc thanh toán không đủ. Loại bảo lãnh này nhằm đảm bảo chính xác đúng hạn trong thanh toán. Đối với bảo lãnh thanh toán, số tiền bảo lãnh thường bằng 100% giá trị hợp đồng còn thời hạn bảo lãnh thường do các bên thoả thuận sao cho phù hợp với hợp đồng gốc. Bảo lãnh thanh toán bao gồm 2 loại: - Bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình. - Bảo lãnh thanh toán tiền mua hàng hoá, máy móc thiết bị. 1.1.4.2.3. Bảo lãnh dự thầu Bảo lãnh dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Thông thường với những hợp đồng lớn, đặc biệt là hợp đồng xây dựng, thiết kế hay cung cấp thiết bị, chủ đầu tư sẽ yêu cầu những người dự thầu phải có sự bảo lãnh của một ngân hàng có uy tín mới được dự thầu. Điều này là một trong những điều kiện bắt buộc nhằmg bảo đảm rằng người dự thầu không rút lui hoặc thay đổi trước khi dự thầu và sẽ đồng ý ký kết hợp đồng trong trường hợp trúng thầu. Nếu điều đó xẩy ra thì chủ đầu tư sẽ nhận được khoản tiền bồi thường từ phía ngân hàng phát hành bảo lãnh. Khoản tiền này được trả cho chủ đầu tư nhằm trang trải những chi phí đấu thầu, thiệt hại do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí tổ chức lại một cuộc đấu thầu khác. Giá trị của một món bảo lãnh dự thầu thường là không quá 3% giá trị hợp đồng đấu thầu. Thời hạn của bảo lãnh dự thầu thường được quy định phù hợp với thời gian mở thầu và hết hạn vào ngày chủ đầu tư thông báo trúng thầu cho nhà thầu. 1.1.4.2.4. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một hình thức bảo lãnh ngân hàng được sử dụng khá phổ biến, do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Khoản tiền mà Ngân hàng phát hành bảo lãnh trả cho bên nhận bảo lãnh giúp họ trang trải những chi phí phải chịu như chi phí điều tra nghiên cứu, chuẩn bị thiết bị và các chi phí tìm nhà cung cấp mới. Giá trị bảo lãnh tuỳ theo giá trị hợp đồng và thường là không quá 10% giá trị hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng có hai loại đó là bảo lãnh thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc thiết bị, hàng hoá và hợp đồng xây lắp, thi công công trình. Hiện nay, ở Việt Nam, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng là hai loại bảo lãnh được sử dụng nhiều nhất. Do cả hai đều rất đa năng, có thể vận dụng cho bất cứ loại hình giao dịch nào. 1.1.4.2.5. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm được sử dụng với mục đích là bảo đảm cho chất lượng sản phẩm trong suốt thời hạn bảo hành của sản phẩm. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm bao gồm: - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình. - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng hàng hoá, máy móc thiết bị. Thời hạn và số tiền bảo lãnh do hai bên thống nhất và thoả thuận sao cho phù hợp với các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng gốc. Ngân hàng chỉ nhận bảo lãnh cho các hợp đồng với các điều khoản cụ thể về các chỉ tiêu gồm cả định lượng và định tính để xác định chất lượng công trình. 1.1.4.2.6. Bảo lãnh hoàn thanh toán Thông thường, với những công trình hay những hợp đồng mua bán có giá trị lớn, người thi công hay người bán thường yêu cầu người đầu tư hay người mua phải ứng trước một phần tiền, thường từ 5-20% giá trị hợp đồng, nhằm tài trợ cho người thi công hay người bán thực hiện hợp đồng. Để đảm bảo an toàn, người mua yêu cầu người bán phải mở một bảo lãnh về khoản tiền đặt cọc đó. Vậy bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc chỉ hoàn trả một phần thì ngân hàng sẽ đứng ra hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh hoàn thanh toán bao gồm: - Bảo lãnh hoàn thanh toán tiền ứng trước thi công công trình. - Bảo lãnh hoàn thanh toán tiền ứng trước sản xuất máy móc thiết bị, xuất khẩu hàng hoá. 1.1.4.2.7. Bảo lãnh hải quan (Bảo lãnh nộp thuế) Có những doanh nghiệp muốn đem hàng hoá của mình sang nước khác để tham gia hội chợ quốc tế hay trưng bầy tại triển lãm trong một khoảng thời gian nhất định rồi sẽ tái xuất hay trong trường hợp một công ty xây dựng cần nhập tạm thời một thiết bị xây dựng để thi công và sau đó sẽ lại xuất khẩu về bản quốc. Thông thường những hàng hoá hay thiết bị đó không phải nộp thuế nhập khẩu nếu người nhập trình với hải quan một hợp đồng tái xuất có kèm theo bảo lãnh thuế. Bảo lãnh thuế được sử dụng với mục đích bảo đảm rằng nếu quá thời hạn đăng ký mà hàng hoá hay thiết bị đó không tái xuất hoặc bên nhập khẩu không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu thì hải quan sẽ có quyền truy đòi khoản miễn thuế đối với ngân hàng. Bảo lãnh này thường được sử dụng ở các nước thuộc Cộng đồng châu âu (EU). Tại Việt Nam, hải quan cho phép nhà nhập khẩu chậm nộp tiền thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt trong một thời gian. Khi đó nhà nhập khẩu phải có bảo lãnh nộp thuế do một ngân hàng phát hành thì mới được phép nhận hàng nhập khẩu khi chưa nộp thuế. 1.1.4.3. Phân loại theo điều kiện thanh toán 1.1.4.3.1. Bảo lãnh vô điều kiện (bảo lãnh theo yêu cầu) Bảo lãnh vô điều kiện là loại bảo lãnh mà ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay khi bên nhận bảo lãnh yêu cầu mà không được phép trì hoãn. Khi đó bên nhận bảo lãnh chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán mà không cần phải có thêm văn bản nào khác chứng minh rằng bên được bảo lãnh đã vi phạm những điều khoản có trong cam kết bảo lãnh. Loại bảo lãnh này tạo ra lợi thế rất lớn cho người nhận bảo lãnh vì họ có quyền yêu cầu thanh toán bất cứ lúc nào trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh khi mà họ nhận thấy rằng người được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên nó gây bất lợi rất lớn cho bên được bảo lãnh và cả phía ngân hàng. Do việc đòi bồi thường mang tính chủ quan nên khả năng xẩy ra gian lận hoặc lừa đảo từ bên nhận bảo lãnh là khá cao. 1.1.4.3.2. Bảo lãnh có điều kiện Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh ngân hàng mà trong đó người nhận bảo lãnh muốn nhận tiền bồi thường phải xuất trình các giấy tờ do bên thứ ba xác nhận hay phán quyết của toà án chứng minh rằng bên được bảo lãnh đã vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng. Loại bảo lãnh này giúp người được bảo lãnh và ngân hàng giảm bớt nguy cơ bị lừa đảo vì việc bồi thường chỉ có thể tiến hành nếu có sự xác nhận của người thứ ba do đó nó đảm bảo tính khách quan. Tuy nhiên, nó gây bất lợi khá lớn cho người nhận bảo lãnh do thời gian thanh toán bị kéo dài. Để được bồi thường, người nhận bảo lãnh phải đề nghị bên thứ ba xác nhận việc vi phạm của bên được bảo lãnh, mà điều này sẽ mất khá nhiều thời gian. Do tính kém linh hoạt và phiền hà nên việc sử dụng bảo lãnh có điều kiện trên thực tế là rất ít. Hiện nay, Việt Nam đang trên đà phát triển và tăng trưởng với tốc độ tương đối cao. Nhu cầu về vốn đầu tư do vậy cũng rất lớn. Trong khi đó, nguồn vốn trong nước còn rất hạn chế. Trước tình hình đó một mặt cần phải đẩy mạnh nguồn vốn huy động trong nước, mặt khác phải tìm kiếm nguồn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, vấn đề bảo lãnh ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, do đây vẫn còn là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ nên ở nước ta mới chỉ có các loại bảo lãnh sau: - Bảo lãnh vay vốn (đặc biệt là vay vốn nước ngoài). - Bảo lãnh dự thầu, chủ yếu là dự thầu xây lắp và dự thầu cung ứng máy móc thiết bị. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, chủ yếu là thực hiện hợp đồng xây lắp và thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc thiết bị. - Bảo lãnh hoàn thanh toán, chủ yếu là tiền ứng trước thi công công trình và tiền ứng khi mua hàng hoá. - Bảo lãnh chất lượng sản phẩm, chủ yếu là đảm bảo chất lượng công trình và đảm bảo chất lượng máy móc thiết bị. - Bảo lãnh thanh toán gồm thanh toán tiền xây lắp công trình và tiền đặt máy móc thiết bị - Bảo lãnh nộp thuế. - Đồng bảo lãnh (mới có) 1.1.5. Các hình thức phát hành bảo lãnh ngân hàng Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng, ngân hàng sẽ căn cứ vào yêu cầu của bên cho vay hoặc chủ đầu tư quy định trong hợp đồng vay vốn hoặc hợp đồng thi công xây lắp, ngân hàng sẽ ký phát hành một trong số các hình thức bảo lãnh sau cho phía khách hàng. 1.1.5.1. Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh Đây là hình thức được sử dụng khá phổ biến. Ngân hàng có thể phát hành thư bảo lãnh và xác nhận bảo lãnh cho tất cả các loại hình bảo lãnh. Thư bảo lãnh hoặc xác nhận bảo lãnh do ngân hàng lập ra theo yêu cầu của bên được bảo lãnh và các điều khoản trong thư phải được bên nhận bảo lãnh chấp nhận và phù hợp với lợi ích của ngân hàng. 1.1.5.2. Ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu Hình thức này được sử dụng chủ yếu với loại hình bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh thanh toán. Sau khi kiểm tra và đối chiếu giữa bộ hối phiếu do bên được bảo lãnh phát hành hoặc lệnh phiếu do bên nhận bảo lãnh phát hành với các nội dụng tương ứng trong hợp đồng gốc. Ngân hàng sẽ ký xác nhận bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho bên được bảo lãnh nếu họ không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. 1.1.5.3. Hình thức khác theo quy định của pháp luật - Thư tín dụng trả chậm: Là một hình thức phát hành do ngân hàng bảo lãnh phát hành cho bên nhận bảo lãnh, cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Loại này thường được sử dụng trong bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn. - Giấy chứng nhận kỳ hạn nợ với nước ngoài, thường được sử dụng trong bảo lãnh vay vốn nước ngoài. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh và chất lượng bảo lãnh ngân hàng 1.2.1. Chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng Một nghiệp vụ bảo lãnh được coi là có chất lượng khi nó đem lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia. Bản thân ngân hàng khi tiến hành một nghiệp vụ bảo lãnh cũng luông mong muốn nó có chất lượng cao nhất. Vậy chất lượng bảo lãnh là gì, ta sẽ xem xét chất lượng bảo lãnh từ các góc độ khác nhau: - Góc độ khách hàng: Khách hàng ở đây bao gồm cả bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Người nhận bảo lãnh có thể là pháp nhân hay cá nhân. Vậy đứng trên góc độ khách hàng thì bảo lãnh có chất lượng là bảo lãnh của những bên có uy tín, có khả năng tài chính cao. + Đối với người được bảo lãnh, một nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng đã tạo điều kiện cho Doanh nghiệp hoàn thành tốt hoạt động cần bảo lãnh của mình như thu hút được vốn, công nghệ, có được hợp đồng, tạo công ăn việc làm. Có trường hợp, do có bên thứ ba bảo lãnh mà ngân hàng còn mạnh dạn cho vay khách hàng với lãi suất thấp. + Đối với bên nhận bảo lãnh để đảm bảo an toàn, họ yêu cầu bên được bảo lãnh phải có một hợp đồng bảo lãnh trong đó người bảo lãnh cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp đến kỳ hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ đi kèm khi ký kết hợp đồng kinh tế. Bởi vì nếu có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh, bên được bảo lãnh sẽ thực hiện hợp đồng một cách tốt hơn hoặc nếu có sai sót xẩy ra thì họ vẫn được bồi thường thiệt hại. Vậy bảo lãnh có chất lượng nếu nó tạo niềm tin và sự an toàn cho người thụ hưởng khi thực hiện hợp đồng gốc với bên được bảo lãnh như cho vay vốn, bán hàng hóa, máy móc, thiết bị. - Nhìn từ góc độ ngân hàng: Trước khi tiến hành một nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng đã phân loại chủ thể bảo lãnh theo mức độ an toàn từ cao đến thấp: Chính phủ, công ty bảo hiểm, các ngân hàng, các định chế tài chính khác, các doanh nghiệp, các cá nhân. Tuy vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh được coi là tốt phải được tiến hành tốt ngay từ khi thẩm định cho đến khi kết thúc một nghiệp vụ bảo lãnh với kết quả là ngân hàng thu được doanh thu từ nghiệp vụ này. Có nghĩa rằng ngân hàng thu được đầy đủ lệ phí và ngân hàng không phải tiến hành trả thay cho khách hàng. Nhờ đó mà hỗ trợ cho khách hàng phát triển, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, ngân hàng tăng cường mối quan hệ với khách hàng, đẩy mạnh uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế, thu hút thêm khách hàng. - Nhìn từ góc độ của nền kinh tế: Nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các bên từ người được bảo lãnh, ngân hàng, người nhận bảo lãnh. Nó giúp các doanh nghiệp giải quyết nhu cầu về vốn, công nghệ, phát triển và mở rộng sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. 1.2.2. Tiêu chuẩn phản ánh chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng 1.2.2.1. Tiêu chuẩn phản ánh chất lượng một nghiệp vụ bảo lãnh Khi đứng về phía ngân hàng để đánh giá một nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng không, ta phải đánh giá cả quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đó. - Ngân hàng phải đảm bảo mọi bước thực hiện đều đúng pháp luật. - Ngân hàng phải đáp ứng dịch vụ bảo lãnh hoàn hảo theo yêu cầu của khách hàng trong thời gian nhanh nhất. Về thời gian để thực hiện một món bảo lãnh, mỗi một ngân hàng có quy định thời gian làm việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Cán bộ, nhân viên ngân hàng phải có thái độ phục vụ văn minh, lịch sự, hạn chế tối đa sự phàn nàn của khách hàng. Điều này ảnh hưởng tới nhận xét của khách hàng về toàn bộ các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Do đó, cán bộ thực hiện bảo lãnh cũng là cán bộ thực hiện Marketing. - Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng thực hiện tốt mục đích của mình theo đúng pháp luật. Giúp khách hàng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, nâng cao sức cạnh tranh. - Khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng phải bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh theo yêu cầu đòi tiền đầu tiên của bên nhận bảo lãnh và phải luôn luôn đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện trả nợ thay khi xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của người được bảo lãnh. - Ngân hàng phải luôn luôn đảm bảo rằng khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh thì ngân hàng sẽ thu lại được tiền từ người được bảo lãnh một cách nhanh nhất. 1.2.2.2. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Các tiêu chuẩn trên là để đánh giá chất lượng của một nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại một ngân hàng, ta cần phải đánh giá tất cả các nghiệp vụ bảo lãnh mà ngân hàng đã thực hiện. - Tổng phí thu được từ dịch vụ bảo lãnh trên tổng doanh thu dịch vụ ngân hàng. Nếu hệ số này lớn chứng tỏ hoạt động dịch vụ bảo lãnh tại ngân hàng rất phát triển, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh không phải là nhỏ. - Chỉ tiêu: Số lượng các nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trên tổng số lượng các nghiệp vụ bảo lãnh đã thực hiện. Nếu số lượng các nghiệp vụ bảo lãnh phải thực hiện thanh toán thay cho khách hàng lớn chứng tỏ hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng có chất lượng không cao. - Chỉ tiêu: Tổng số tiền ngân hàng trả thay trên tổng doanh số bảo lãnh. Nếu chỉ số này lớn chứng tỏ hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng có vấn đề. Ngân hàng cần xem xét lại quá trình thẩm định, nghiên cứu khách hàng trước khi ra quyết định bảo lãnh. _ Chỉ tiêu: Số món bảo lãnh, số tiền mà ngân hàng trả thay nhưng người được bảo lãnh không hoàn trả được. Đây được coi như là khoản nợ khó đòi. Nếu ngân hàng có quá nhiều món bảo lãnh không thu hồi được tiền trả thay có khả năng dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động bảo lãnh và chất lượng bảo lãnh ngân hàng * Các nhân tố khách quan: Đó chính là chính sách vĩ mô của các quốc gia thể hiện qua các văn bản Luật và dưới luật và sự thay đổi của chúng tác động tới hoạt động bảo lãnh cũng như chất lượng bảo lãnh. Tại Việt Nam, hoạt động bảo lãnh vẫn còn mới song các văn bản Luật và dưới Luật quy định về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã ra đời từ rất sớm như Luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng, Nghị định về đảm bảo tiền vay của NHNN và mới đây là quy chế về bảo lãnh của NHNN. Tuy nhiên, các văn bản này vẫn chưa đồng bộ và đầy đủ, hay thay đổi làm cho quá trình thực hiện bảo lãnh gặp nhiều khó khăn. * Các nhân tố thuộc về phía người được bảo lãnh: Khi thực hiện hợp đồng gốc, người được bảo lãnh thường gặp phải nhiều khó khăn khiến việc thực hiện hợp đồng theo đúng các điều khoản đã ký kết không diễn ra theo ý muốn. Họ có thể gặp khó khăn do trình độ quản lý qúa kém hay do thiên tai tác động làm họ không thể hoàn thành hợp đồng như đúng kế hoạch. Mặt khác, do các doanh nghiệp được quyền vay vốn từ các ngân hàng khác nhau, mở các tài khoản giao dịch nhiều nơi nên việc quản lý của ngân hàng đối với doanh nghiệp còn nhiều khó khăn. * Các nhân tố thuộc về phía người nhận bảo lãnh: Trong một số trường hợp, do các nhân tố tác động, người nhận bảo lãnh đã thực hiện giả mạo các chứng từ để yêu cầu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mặc dù không có sự vi phạm từ phía người được bảo lãnh. Khi đó, Ngân hàng sẽ gặp tổn thất nếu đó là bảo lãnh vô điều kiện. Ngân hàng phải thực hiện thanh toán ngay lập tức mà không có quyền yêu cầu xem các chứng từ. Đây là điều bất lợi rất lớn đối với các ngân hàng. Ngoài ra, trong một số trường hợp, người nhận bảo lãnh cố tình để người được bảo lãnh không thực hiện được đầy đủ các điều khoản ghi trong hợp đồng để nhận tiền bảo lãnh. * Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng phát hành bảo lãnh Thông thường, trước khi ra quyết định bảo lãnh, ngân hàng phải tiến hành thẩm định khách hàng. Song tại nhiều ngân hàng, trình độ nhân viên kém dẫn đến thẩm định sai, ra quyết định không đúng. Thái độ của nhân viên ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng hoạt động bảo lãnh. Nó ảnh hưởng tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Nhân viên có thái độ phục vụ tận tình, chu đáo sẽ khiến khách hàng hài lòng, tiếp tục giao dịch với ngân hàng. Hiện nay, các ngân hàng ở các nước phát triển được trang bị máy móc hiện đại. Tạo điều kiện trong việc cung cấp thông tin, xử lý dữ liệu, quản lý khách hàng. Song tại Việt nam, việc đầu tư cho máy móc còn gặp nhiều khó khăn. Do thiếu thông tin về khách hàng, về thị trường, khó khăn trong việc quản lý dòng tiền ra vào tại tài khoản của khách hàng đã tác động tới việc ra quyết định và theo dõi kiểm tra việc thực hiện hợp đồng. 1.3. Những rủi ro trong một nghiệp vụ bảo lãnh Bảo lãnh ngân hàng là một dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng bằng việc bảo đảm. Số tiền bảo lãnh được hạch toán ngoại bảng có nghĩa là nó không ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn và tài sản của ngân hàng. Ngoài ra, phí thu từ nghiệp vụ bảo lãnh đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập của ngân hàng. Nhưng đó là trong trường hợp khách hàng đúng cam kết giữa họ với bên nhận bảo lãnh. Nếu khách hàng vi phạm cam kết thì ngân hàng và có khi là cả người nhận bảo lãnh có thể sẽ gặp rủi ro. 1.3.1. Rủi ro đối với người nhận bảo lãnh. Trên lý thuyết, người nhận bảo lãnh sẽ được ngân hàng đảm bảo chi trả đầy đủ các thiệt hại phát sinh do bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Song thực tế không phải lúc nào cũng được như vậy, chính vì thế mà người nhận bảo lãnh rất có thể sẽ gặp phải rủi ro do khả năng nhận được tiền bồi thường phụ thuộc rất lớn vào khả năng tài chính của ngân hàng. Nếu ngân hàng đứng ra bảo lãnh bị phá sản thì ngưòi nhận bảo lãnh sẽ gặp khó khăn trong việc thu được tiền bồi thường mặc dù họ luôn được ưu tiên đầu tiên khi thanh toán các khoản nợ. 1.3.2. Rủi ro đối với ngân hàng bảo lãnh - Rủi ro do người được bảo lãnh không trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh được hạch toán ngoại bảng, song nếu khách hàng vi phạm hợp đồng đã ký kết, ngân hàng phải thực hiện việc trả thay cho khách hàng thì khoản tiền này sẽ được coi như là khoản nợ bắt buộc đối với khách hàng, khi đó nó giống như một khoản tín dụng. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro rất lớn nếu khách hàng không hoàn trả được đầy đủ số tiền ngân hàng đã thanh toán hộ. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ bị mất vốn, khoản mục nợ quá hạn tăng nhanh. Ngân hàng sẽ gặp khó khăn hơn nếu những tài sản thế chấp, cầm cố, ký quỹ không bù đắp đủ được những khoản tín dụng này. - Rủi ro thanh khoản: Thông thường, ngân hàng phải trích vốn để thành lập quỹ bảo lãnh nhằm đề phòng có khoản thanh toán thay bên được bảo lãnh, nhưng nếu số tiền phải trả quá lớn vượt quá giá trị của quỹ, ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, lúc này phải chuyển một phần nguồn vốn dùng để cho vay sang để chi trả cho quỹ bảo lãnh. Các hoạt động này khi thực hiện một cách bị động thường làm cho ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. - Rủi ro lãi suất: Trong nghiệp vụ bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh vốn, ngân hàng phải cam kết hoàn trả cả gốc và lãi cho bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Lãi suất thường được quy định ngay khi ký kết hợp đồng. Nhưng lãi suất thị trường luôn biến động, do vậy nếu lãi suất thị trường thấp hơn nhiều so với lãi suất quy định trong hợp đồng gốc, ngân hàng sẽ phải thực hiện cam kết với lãi suất cao trong khi khách hàng chỉ nhận nợ với lãi suất thấp. - Rủi ro hối đoái: Ngày nay, hoạt động bảo lãnh không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, đồng tiền sử dụng trong quan hệ bảo lãnh không chỉ là một đồng tiền duy nhất. Chính vì thế khi có biến động tỷ giá giữa các đồng tiền liên quan thì sẽ xẩy ra rủi ro hoặc cho bên này hoặc cho bên kia trong quan hệ bảo lãnh. Nếu ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ bằng ngoại tệ của quốc gia bên nhận bảo lãnh trong khi hợp đồng bảo lãnh được ký kết với bên được bảo lãnh bằng nội tệ. Nếu đồng ngoại tệ lên giá so với đồng nội tệ thì ngân hàng sẽ thiệt hại. Tóm lại, bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng không chỉ đối với các NHTM mà còn đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế. Nghiệp vụ bảo lãnh không những giúp ngân hàng hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình mà nó còn giúp ngân hàng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Để hiểu sâu hơn việc áp dụng nó vào thực tiễn tại ngân hàng, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu thực tế áp dụng, những kết quả đã đạt được và những hạn chế của hoạt động bảo lãnh tại NH ĐT&PT Hà Nội. Chương II Thực trạng hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tại Chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển thành phố hà nội —&– 2.1. Vài nét về tình hình hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội được thành lập ngày 27/05/1957, với tên gọi ban đầu là Chi hàng kiến thiết Thành phố Hà Nội. Đến nay, Ngân hàng đã trải qua hơn 45 năm hoạt động và phát triển và trở thành một trong những chi nhánh lớn mạnh nhất của ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Khi mới thành lập, ngân hàng có nhiệm vụ chính là nhận vốn từ Ngân sách Nhà nước để tiến hành cấp phát, cho vay trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Lúc đó, Ngân hàng được tổ chức thành mô hình chỉ có hai phòng là phòng cấp phát và phòng kế toán. Đến ngày 24/6/1981, để phù hợp với tình hình mới, Ngân hàng đã được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng thành phố Hà Nội với nhiệm vụ cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không thuộc Ngân sách Nhà nước cấp hoặc vốn tự có không đủ song song với cấp vốn thanh toán các công trình thuộc Ngân sách Nhà nước. Cho vay vốn lưu động với các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Từ những năm 1990, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện việc huy động vốn, không trông chờ ở Ngân sách Nhà nước, phải mở rộng diện huy động để thực sự đi vào kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Trước tình hình đó, Ngân hàng ĐT&XD Hà Nội được đổi tên thành Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội theo quyết định số 401/CT ngày 14/11/1990. Đến ngày 1/1/1995, sau khi bộ phận cấp phát vốn ngân sách tách khỏi NH ĐT&PT Việt Nam thành Tổng cục đầu tư và phát triển trực thuộc Bộ tài chính, hoạt động của hệ thống NH ĐT&PT Việt Nam nói chung, Chi nhánh thành phố Hà Nội nói riêng đã chuyển sang giai đoạn mới. Từ đó cho đến nay, Ngân hàng đã thực sự trở thành một Ngân hàng thương mại quốc doanh. Nhiệm vụ của Ngân hàng là huy động các nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức nước ngoài để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và dân cư. Đến nay, ngân hàng đã mở rộng ra với 17 phòng, 4 chi nhánh trực thuộc với 12 quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch ngân hàng bán lẻ tại các khu vực đông dân cư, các trọng điểm kinh tế của thủ đô. Do đạt được những kết quả tốt đẹp, chi nhánh đã được Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam công nhận là đơn vị xuất sắc toàn hệ thống trong 3 năm 1999-2001 và vinh dự đón nhận Huân chương lao động hạng 3 năm 1996, Huân chương lao động hạng II năm 2001, do Chủ tịch nước trao tặng, được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen năm 1998. Tóm lại, trải qua hơn 45 năm hoạt động và phát triển, Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội đã không ngừng phát triển và trưởng thành, trở thành một trong những chi nhánh lớn của NH ĐT&PT Việt Nam. Ngân hàng đã phát huy sức mạnh nội lực, phấn đấu vươn góp phần tích cực vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Hiện nay, trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có 341 cán bộ ngân hàng, trong đó nữ chiếm 220 người được tổ chức thành một hệ thống các phòng ban phù hợp với trình độ học vấn và khả năng của từng người như sau: Ban Giám đốc Chi nhánh Đông Anh (Thị trấn Đông Anh) Phòng tín dụng 1 Phòng nguồn vốn kinh doanh Phòng tổ chức cán bộ Phòng GD số 1, 8, 14 Chi nhánh Cầu Giấy Phòng tín dụng 2 Phòng thẩm định KTKT&ĐT Phòng kiểm tra nội bộ Phòng GD số 9, 15 Chi nhánh Thanh Trì (đường Giải Phóng) Phòng tín dụng 3 Phòng thông tin điện toán Phòng kế toán tài chính Phòng GD số 7, 16 Phòng GD số 1, 2, 6, 10 Phòng tín dụng 4 Phòng ngân quỹ Văn phòng Phòng huy động vốn đầu tư PhòngKTĐN& thanh tóan QT Quỹ tiết kiệm số 11 Quỹ tiết kiệm số 12 2.1.3. Tình hình hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trong những năm gần đây Trải qua hơn 45 năm tồn tại và phát triển, Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh. Với những bước thăng trầm của nền kinh tế Việt Nam, ngân hàng đã phải trải qua không ít những thời kỳ khó khăn. Năm 1995, việc chuyển toàn bộ nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp trả về Tổng cục Đầu tư và phát triển trực thuộc Bộ tài chính, theo thống kê khoảng 900 tỷ, đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cùng lúc đó, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến động. Tuy nhiên, với sự thay đổi phương thức hoạt động cùng sự nỗ lực cố gắng của toàn thể các cán bộ, ngân hàng đã vượt qua được những khó khăn trước mắt. Thời điểm này có thể được coi là một cái mốc đánh dấu sự chuyển mình không chỉ của chi nhánh mà còn của toàn hệ thống NHĐT&PT Việt Nam. Với sự thay đổi phương thức hoạt động, từ việc hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh doanh đa năng tổng hợp, Ngân hàng đã thực sự trở thành một Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, ngân hàng đã vươn lên trở thành đơn vị xuất sắc toàn hệ thống NH ĐT&PT Việt Nam với các kết quả kinh doanh đạt được như sau: Trong 7 năm 1995-2001, chi nhánh đã thực hiện thẩm định và duyệt cho vay 686 dự án với tổng số tiền trên 2000 tỷ đồng, doanh số thanh toán năm 2001 đạt 12.000 tỷ đồng, gấp 4,5 lần so với năm 1995. Đến thời điểm 31/12/2002, tổng nguồn vốn huy động đạt 4.730 tỷ đồng. Về công tác tín dụng, tổng dư nợ đến 31/12/2002 là 3.395 tỷ đồng, chiếm 6,6% thị phần tín dụng trên địa bàn. Qua đó, có thể thấy rằng, Chi nhánh thật xứng đáng là đơn vị đứng đầu hệ thống NH ĐT&PT Việt Nam. Sau đây là tình hình của một số hoạt động kinh doanh cơ bản tại Chi nhánh. 2.1.3.1. Về công tác quản lý và điều hành vốn Ta có bảng số liệu sau: Bảng 2.1: Bảng kết quả hoạt động huy động vốn của NHĐT&PT Hà Nội. Đơn vị: triệu đồng, ngoại tệ đã quy đổi Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số tiền Số tiền +/-% Số tiền +/-% Tổng nguồn huy động 2.503.502 3.526.264 40,8 4.730.461 34,1._.ng cấp bảo lãnh thanh toán trả chậm thì sẽ trợ giúp được cho doanh nghiệp đồng thời nâng cao doanh số bảo lãnh thanh toán trong nước. Đối với bảo lãnh vay vốn, hiện nay ngân hàng chỉ thực hiện bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Trong thực tế, các doanh nghiệp khi muốn vay vốn trong nước rất ít khi sử dụng bảo lãnh ngân hàng, họ chủ yếu dùng biện pháp cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bằng uy tín của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, khi các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài thường gặp khó khăn khi tiến hành thẩm định do họ không hiểu rõ về doanh nghiệp hay khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp. Rõ ràng các ngân hàng Việt nam có thuận lợi hơn khi tiến hành các công việc này. Do đó, các ngân hàng nước ngoài thích dùng biện pháp bảo lãnh của ngân hàng Việt Nam hơn là dùng tài sản thế chấp. Bên cạnh các lọai bảo lãnh trên, bảo lãnh nộp thuế là loại hình mới song cũng đã đóng góp thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Như vậy, ngân hàng cần phải chuẩn bị các hoạt động để làm đa dạng các loại hình bảo lãnh. Trước hết, ngân hàng cần phải phát động rộng khắp trong tập thể các cán bộ phong trào nghiên cứu tìm hiểu các loại hình bảo lãnh mới; nghiên cứu các đặc điểm, tác dụng, ưu nhược điểm, điều kiện áp dụng, các khó khăn có thể gặp phải khi sử dụng, nhu cầu bảo lãnh hiện nay và trong tương lai; đồng thời có các đề xuất cho việc áp dụng vào thực tế. Ban lãnh đạo ngân hàng trên cơ sở tập hợp, đánh giá các ý kiến sẽ trình lên NHĐT&PT Việt Nam để cho phép thực hiện và ban hành quy chế hướng dẫn cụ thể. 3.2.1.2. Tăng cường thực hiện công tác Marketing nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường bảo lãnh của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và phát triển, mỗi đơn vị kinh doanh đều phải có chiến lược Marketing hoàn hảo. Vì thế, ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược Marketing thật tốt. Muốn vậy, chi nhánh cần làm tốt những biện pháp sau: * Chiến lược nghiên cứu thị trường - Trước hết, chi nhánh cần phải nghiên cứu tập tính, thái độ và đặc biệt là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng. Thường thì khi khách hàng lựa chọn một ngân hàng nào đó tức là ngân hàng đó có khả năng thoả mãn được một số nhu cầu của họ như mức phí bảo lãnh, mức độ uy tín của ngân hàng bảo lãnh, các dịch vụ kèm theo, thái độ phục vụ khách hàng… Để có được những thông tin đầy đủ, chính xác, ngân hàng cần phải thu thập thông tin thường xuyên qua tham khảo thái độ, ý kiến của khách hàng khi đến giao dịch hay qua Hội nghị khách hàng. - Nghiên cứu tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường, khả năng cung ứng của bản thân ngân hàng, khả năng của các ngân hàng khác cùng hoạt động trên địa bàn. Điều này khá quan trọng giúp ngân hàng biết được mặt mạnh yếu của mình và các đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra chiến lược phát triển lâu dài. Tuy nhiên để nghiên cứu được tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường và khả năng của các ngân hàng khác trên địa bàn không phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy ngân hàng cần phải có những cán bộ chuyên sâu có khả năng thu thập, tổng hợp các thông tin. Có thể nghiên cứu theo nhóm khách hàng từ đó phân tích theo phương pháp xác suất để đưa ra các chỉ tiêu giúp cho các chiến lược khác có hiệu quả. * Thực hiện tốt các chính sách Marketing Chính sách Marketing bao gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách giao tiếp khếch trương. - Chính sách sản phẩm: Ngân hàng cần thực hiện đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh bằng các biện pháp đã nêu ở trên. Đồng thời phải thường xuyên tăng cường việc thực hiện các tiêu chuẩn bảo lãnh đã đề ra. Tức là cán bộ thực hiện bảo lãnh phải có thái độ niềm nở với khách hàng, tận tình phục vụ, luôn luôn coi việc làm thoả mãn nhu cầu cảu khách hàng là trách nhiệm của mình. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. - Chính sách giá cả: Mức phí bảo lãnh đã được NHĐT&PT Việt Nam quy định rất cụ thể và không có chênh lệch nhiều so với các ngân hàng như NHCT, NHNT là mấy. Chưa nói đến việc là mức phí bảo lãnh tại ngân hàng là tương đối thấp so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Do đó để thu hút thêm khách hàng là DNNQD, ngân hàng nên có sự điều chỉnh hợp lý hơn để thu hút thêm khách hàng. - Chính sách giao tiếp khếch trương: Một trong những phương pháp để có thể nâng cao thanh thế của ngân hàng đó là phải tạo niềm tin trong khách hàng đối với các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp bằng chính thái độ, phong cách phục vụ của mỗi một cán bộ ngân hàng, trong đó cán bộ tín dụng. Không nói sai rằng mỗi một cán bộ ngân hàng là một nhân viên làm Marketing. Khi khách hàng đến giao dịch, họ sẽ tiếp xúc với không chỉ cán bộ tín dụng mà còn với các cán bộ ở các phòng ban khác như phòng kế toán, phòng thanh toán quốc tế... Do đó để tạo được sự thoải mái, tin tưởng với khách hàng về ccác nghiệp vụ, trong đó cố nghiệp vụ bảo lãnh thì tất cả các cán bộ phải có thái độ và tinh thần phục vụ khách hàng nhiệt tình, niềm nở. Bên cạnh đó, để mở rộng hoạt động bảo lãnh thì hoạt động tuyên truyền, quảng cáo của ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết. * Xây dựng chiến lược khách hàng: Ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược khách hàng toàn diện, tổng thể trên cơ sở nghiên cứu thị trường với mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở không ngừng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Chiến lược khách hàng phải tập trung vào việc củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút thêm các khách hàng mới các biện pháp sau: + Cần phải có chính sách ưu tiên phục vụ các khách hàng truyền thống, các khách hàng có quan hệ thường xuyên, có chữ tín đối với ngân hàng về quan hệ tín dụng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của đối tượng này. Đồng thời tập trung khai thác khách hàng mới có tiềm năng. Cho dù là khách hàng mới cũng luôn coi hiệu quả trong kinh doanh của họ là mục đích hoạt động của ngân hàng. Do đó không nên áp dụng các quy định chung một cách quá cứng nhắc mà cần linh hoạt áp dụng các quy định thủ tục nhằm giảm bớt khó khăn cho từng đối tượng. + Để có được các thông tin về khách hàng cũng như biết được thái độ, ý kiến của khách hàng về những vướng mắc hay sự hài lòng của họ đối với hoạt động bảo lãnh, ngân hàng có thể tổ chức Hội nghị khách hàng theo định kỳ. Đây cũng là dịp để ngân hàng giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường. Có vậy các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là ban lãnh đạo, mới trực tiếp lắng nghe tiếp thu ý kiến của khách hàng về hình thái và chất lượng phục vụ và các khó khăn, thuận lợi khách hàng gặp phải, để từ đó có các biện pháp tháo gỡ kịp thời. - Thường xuyên tạo ra mối quan hệ tín nhiệm trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi. Đồng thời phải chủ động thu hút khách hàng, không để bị rơi vào thế bị động. - Trong quan hệ với khách hàng, cần thường xuyên hỗ trợ tư vấn cho khách hàng để thực hiện đúng quy định, các cán bộ cùng khách hàng giải quyết các khó khăn, vướng mắc để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. - Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với ngân hàng bạn trong và ngoài nước, các tổ chức tín dụng để thông qua đó tìm kiếm thêm khách hàng mới. 3.2.1.3. Mở rộng và duy trì mối quan hệ với các ngân hàng khác trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh Để hạn chế rủi ro có thể pháp sinh từ hoạt động bảo lãnh, NHĐT&PT Việt Nam đã quy định mức bảo lãnh tối đa đối với chi nhánh cho một khách hàng. Do đó việc thực hiện các món bảo lãnh có giá trị lớn cho một khách hàng vượt quá thẩm quyền cho phép của ngân hàng. Đồng thời đôi khi khả năng tài chính của ngân hàng cũng không cho phép thực hiện được món bảo lãnh quá lớn. Để khắc phục điều này, các ngân hàng sẽ cùng liên kết với nhau để thực hiện một món bảo lãnh cho khách hàng. Do đó, chi nhánh cần phải mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác với các ngân hàng lớn trong và ngoài nước để khi có các dự án lớn vượt quá khả năng thì sẽ chủ động hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh. Muốn vậy, trước hết, ngân hàng sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ, phối hợp với các chi nhánh trong cùng một hệ thống, tạo nên một sức cạnh tranh thống nhất của hệ thống trên địa bàn. Thứ hai, với các ngân hàng bạn, mở rộng và duy trì quan hệ trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư phát triển. 3.2.1.4. Có sự đầu tư thích đáng cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc hiện đại ảnh hưởng một phần tới tâm lý, sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Nhất là những khách hàng mới, điều đầu tiên đập vào mắt họ đó chính là cơ sở hạ tầng, họ sẽ nhận xét về ngân hàng một phần thông qua nó. Nó sẽ phản ánh một phần uy tín, số vốn của ngân hàng. Vì vậy mà ngân hàng cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng để nâng cấp, cải tạo lại nơi làm việc, trang thiết bị. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải chú trọng hơn nữa tới việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh. Việc đầu tư vào CNTT không những tạo ra chất lượng đối với hoạt động bảo lãnh mà nó còn giúp ngân hàng nắm bắt thông tin với khách hàng, với thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Để từng bước tiến tới hiện đại hoá thông tin thì trước hết NHĐT&PT Hà Nội cần phải: - Xây dựng trang thiết bị máy móc như đầu tư cho máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc cho các phòng một cách dầy đủ. - Xây dựng trang webside giới thiệu về ngân hàng, có cung cấp thông tin quảng cáo và phục vụ khách hàng trên mạng Internet. - Xây dựng mối quan hệ thường xuyên với một số công ty, tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực bảo lãnh. Cùng với phòng thông tin điện toán và các phòng ban khác của ngân hàng hoàn thiện hơn nữa chương trình phần mềm quản lý, theo dõi khách hàng. Mở rộng hoạt động bảo lãnh phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh, có vậy mới nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh bao gồm nâng cao chất lượng thẩm định, hoàn thiện quy trình bảo lãnh và đề ra chính sách phí và ký quỹ hợp lý. 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh 3.2.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các yêu cầu bảo lãnh Giống như hoạt động tín dụng, hoạt động bảo lãnh cũng chứa đựng những rủi ro nhất định. Nếu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì món bảo lãnh đó sẽ trở thành một món vay bắt buộc, khi đó nó sẽ có nguy cơ không thu hồi được nợ. Chính vì vậy để hạn chế rủi ro xẩy ra, ngân hàng cần phải hết sức chú trọng tới công tác thẩm định trước khi ra quyết định. Muốn vậy các cán bộ tín dụng cần đảm bảo tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định phương án thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký giữa hai bên. Tuy nhiên, quá trình này nhiều khi không được chặt chẽ và chính xác do các yếu tố khách quan và chủ quan. Do vậy trong việc thẩm định nhu cầu bảo lãnh, ngân hàng cần chú trọng hơn đến các vấn đề sau: - Tư cách pháp nhân: Điều này là cần thiết đối với các khách hàng mới, đặc biệt là công ty cổ phần, công ty TNHH. Bởi vì, khi có tranh chấp xẩy ra, mọi việc đều được đưa ra trước pháp luật. Do đó, ngân hàng cần quan tâm tới tư cách pháp lý của khách hàng để nhằm tránh những bất lợi cho ngân hàng sau này. - Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh: Các cán bộ tín dụng cần đặc biệt chú trọng tới việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh dựa trên các báo cáo tài chính, hay công suất sử dụng máy móc, số lượng công nhân viên. Việc thu thập thông tin có thể trực tiếp qua khách hàng hoặc qua bạn hàng, báo chí và đặc biệt là trực tiếp đến tìm hiểu tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng phải chú ý tới việc phân tích môi trường kinh doanh, đánh giá khó khăn, thuận lợi của doanh nghiệp từ đó đưa ra ý kiến xem liệu doanh nghiệp có khả năng hoàn thành được hợp đồng hay không. - Khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp: Đây là một yếu tố khá quan trọng, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các cán bộ tín dụng cần phải đánh giá kỹ càng khả năng điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp thông qua năng lực tổ chức (bố trí, sắp xếp lao động...), năng lực chuyên môn và uy tín của họ. Có thể thu thập thông tin qua các nhân viên, qua bạn hàng hoặc tiếp xúc trực tiếp. Kết hợp với kinh nghiệm từ trước, các cán bộ tín dụng sẽ đưa ra đánh giá chính xác hơn. - Khả năng tài chính: Một trong những điều kiện để ra quyết định bảo lãnh đó là doanh nghiệp phải có khả năng tài chính lành mạnh, có khả năng trả được nợ. Ngân hàng sẽ xem xét đánh giá tình hình công nợ hiện có của doanh nghiệp, thu chi hàng năm của doanh nghiệp để ra quyết định. - Định giá tài sản thế chấp: Đây là một trong những vướng mắc rất lớn không chỉ đối với chi nhánh mà còn đối với rất nhiều ngân hàng khác. Trong thực tế, nhóm khách hàng truyền thống thường là các DNNN, tài sản thế chấp của họ chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước do đó cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy định hiện thời của các cơ quan chức năng về tài sản thế chấp đó để có phương hướng giải quyết phù hợp. Một vấn đề gặp phải nữa đó là việc định giá tài sản thế chấp, đặc biệt tài sản đó là nhà cửa, máy móc, trang thiết bị. Việc định giá tài sản này gặp phải khó khăn do chúng có tính hao mòn. cả hữu hình và vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đó, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm của bản thân. Ngoài ra cán bộ tín dụng cần tính đến cả hao mòn vô hình bằng cách đánh giá tình hình thị trường về loại tài sản đó, mức độ lên xuống của giá cả. Nếu tổng giá trị tài sản thế chấp không bằng 70% giá trị bảo lãnh thì phải yêu cầu doanh nghiệp đảm bảo thêm tài sản hoặc thực hiện thêm hình thức đảm bảo khác như ký quỹ. 3.2.2.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quản lý khách hàng về mặt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh cũng như với ngân hàng Cán bộ tín dụng phải thường xuyên đôn đốc khách hàng thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng. Nếu khách hàng gặp khó khăn, cán bộ sẽ cùng họ tham gia tìm hiểu nguyên nhân để từ đó có biện pháp tháo gỡ, khắc phục. Thường xuyên phối hợp với các phòng ban như phòng kế toán để theo dõi số dư tiền gửi tại ngân hàng đồng thời theo dõi tình hình công nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng khác. Nếu khách hàng có dấu hiệu vi phạm thì phải có biện pháp xử lý kịp thời. 3.2.2.3. Chính sách phí bảo lãnh và mức ký quỹ * Chính sách phí bảo lãnh Phí bảo lãnh cũng là một nhân tố quyết định tới nhu cầu bảo lãnh của khách hàng. Ngân hàng nên đưa ra một chính sách phí linh hoạt có tính cạnh tranh cao để thu hút khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho ngân hàng. Ngân hàng nên có một biểu phí chi tiết hơn hiện nay, quy định cụ thể đối với từng loại đối tượng khách hàng, loại hình bảo lãnh, mức độ rủi ro đối với từng loại. * Mức ký quỹ: Tuỳ từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng nên có mức ký quỹ cho hợp lý. Bởi vì mức ký quỹ là 100% tỏ ra không hợp lý vì nó gây khó khăn cho khách hàng do bị đông vốn lưu động. Chi nhánh nên yêu cầu khách hàng ký quỹ theo môt tỷ lệ nhất định đồng thời kết hợp linh hoạt với các hình thức đảm bảo khác như đảm bảo bằng số dư tài khoản tiền gửi hoặc tài sản thế chấp. Điều này rất có ý nghĩa đối với khách hàng khi giá trị bảo lãnh lớn. Tuỳ từng đối tượng mà cán bộ tín dụng sẽ đưa ra mức ký quỹ và hình thức đảm bảo khác cho phù hợp. 3.2.2.4. Tiếp tục hoàn thiện quy trình bảo lãnh Quy trình bảo lãnh có thể hoàn thiện theo hướng - Tăng cường công tác thẩm định khách hàng về mặt pháp lý, tài chính nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng bảo lãnh. - Đơn giản hoá các thủ tục, giảm bớt thời gian xét duyệt nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn, đầy đủ theo quy định. Giải quyết các vướng mắc xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên kịp thời tránh để khách hàng chờ đợi quá lâu. - Nâng cao chất lượng theo dõi, giám sát và quản lý chặt chẽ khách hàng được bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng. - Chú trọng việc đánh giá, tổng kết, đúc rút ra kinh nghiệm sau khi tất toán một món bảo lãnh từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện cho các món bảo lãnh tiếp theo. 3.2.2.5. Giải pháp để giải quyết các hạn chế liên quan đến mẫu biểu Hiện nay, trong khi NHĐT&PT Việt Nam chưa đưa ra các mẫu biểu bằng tiếng Anh, ngân hàng sẽ thực hiện việc hoàn thiện các mẫu biểu đã có sẵn. Các cán bộ tín dụng có khả năng về Tiếng Anh sẽ tiến hành thảo ra những mẫu biểu bằng Tiếng Anh trên cơ sở các mẫu biểu đã có sẵn. Hoặc là ngân hàng sẽ phải nhờ đến những chuyên gia về luật và tài chính giúp đỡ bởi vì điều này sẽ giúp cho các cán bộ tín dụng không gặp khó khăn khi phát hành thư bảo lãnh cũng như không gặp khó khăn nếu có xẩy ra vi phạm, vì thế mà đỡ mất thời gian cho khách hàng. Về vấn đề thời gian thực hiện một món bảo lãnh bị kéo dài do gặp khó khăn về mẫu thư bảo lãnh, ngân hàng có thể giải quyết như sau: Đối với những khách hàng đã có quan hệ giao dịch về bảo lãnh với ngân hàng, các cán bộ tín dụng sẽ đưa cho họ những mẫu thư có sẵn để họ tham khảo. Với những món bảo lãnh đơn giản, số tiền bảo lãnh nhỏ thì ngân hàng cho phép các khách hàng có thể tự thảo thư bảo lãnh trên cơ sở mẫu thư có sẵn có sự kiểm tra của cán bộ tín dụng. Đối với những khách hàng lần đầu tiên giao dịch hoặc với những món bảo lãnh có số tiền bảo lãnh lớn, các điều khoản phức tạp thì ngân hàng yêu cầu khách hàng phải để các cán bộ tín dụng soạn thư bảo lãnh. 3.2.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện các món bảo lãnh Trong nhiều trường hợp do các cán bộ tín dụng sau khi thực hiện một món bảo lãnh quên không chuyển thông tin xuống phòng kế toán nên không nhập ngoại bảng, ảnh hưởng tới việc thu phí. Do đó cần tăng cường các biện pháp kiểm tra đối với quá trình thực hiện bảo lãnh. Sau khi thực hiện xong một món bảo lãnh, yêu cầu tất cả các cán bộ tín dụng buộc phải vào sổ theo dõi. Để đến cuối tuần so sánh với phòng kế toán. Đồng thời phải hoàn thiện chương trình điện toán trong đó yêu cầu các cán bộ tín dụng khi thực hiện xong một món bảo lãnh phải nhập thông tin ngay. 3.2.2.7. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng và tổ chức bố trí cán bộ hợp lý Con người là một trong những yếu tố quyết định tới kết quả của công tác bảo lãnh nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó cần phải quan tâm tới công tác đào tạo, tổ chức cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển. Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện các hoạt động sau nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cả về lý luận và thực tế cho các cán bộ tín dụng: - Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, kết hợp với đào tạo tại chỗ. - Ngân hàng cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ tín dụng. Bởi vì với những món bảo lãnh mà có liên quan tới phía nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh thanh toán… thì việc am hiểu và nắm rõ các điều khoản ghi bằng ngoại ngữ trên hợp đồng là rất quan trọng. Để từ đó đưa ra các điều khoản khi ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh phải chính xác. Nếu không việc tranh chấp là khó tránh khỏi khi có vi phạm xẩy ra. Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đặt ra với các cán bộ tín dụng là phải nắm rõ và thường xuyên cập nhật các thông tin về luật, quy tắc và thông lệ trong giao dịch bảo lãnh. - Bồi dưỡng, nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của toàn thể các cán bộ ngân hàng. Luôn phải coi hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Cần phải có thái độ niềm nở, phục vụ tận tình, chu đáo để tạo ra hình ảnh tốt về ngân hàng. - Khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ. Khuyến khích các cán bộ học cao hơn, đặc biệt là nâng cao số cán bộ có trình độ đại học và sau đại học. Thường xuyên tổ chức các hội thi, phong trào tìm hiểu về các nghiệp vụ tại đơn vị giúp các cán bộ bổ sung kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tạo không khí đoàn kết trong ngân hàng. - Tổ chức sắp xếp lao động phải hợp lý, đảm bảo phù hợp về trình độ, năng lực, tính cách, nguyện vọng. sở thích của mỗi người. - Ngân hàng nên có một phòng Marketing riêng với các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này để có các chiến lược toàn diện và tổng thể. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng có được những chiến lược Marketing một cách toàn diện trên cơ sở những nghiên cứu có tính khoa học hơn. Đồng thời cũng giúp cho Phòng thẩm định kinh tế-kỹ thuật chuyên sâu hơn về chuyên môn của họ. Trong phòng Marketing sẽ có không chỉ các cán bộ chuyên về Marketing mà còn có những cán bộ học chuyên về ngân hàng-tài chính để trao đổi thông tin, hỗ trợ nhau khi lập chiến lược. - Để có được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, bên cạnh những cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm cần có các cán bộ trẻ có tính sáng tạo, năng động. Do đó cần có các chính sách thu hút, tuyển dụng các cán bộ có trình độ và năng lực cao từ các nơi khác. Đồng thời thu hút các cán bộ trẻ có tài năng, có khả năng tìm tòi, sáng tạo, năng động. 3.3. Kiến nghị và đề xuất 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ và phù hợp với thực tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những cho hoạt động của ngân hàng mà còn cho tất cả các tổ chức kinh tế. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng phát triển. Nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ mới tại Việt Nam, mặc dù các văn bản pháp luật đã ra đời song nó vẫn chưa quy định rõ ràng và đầy đủ. Ngay như vấn đề tài sản thế chấp đã phát sinh từ khi có hoạt động tín dụng nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định rõ về việc thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp của các DNNN. Do đó việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ, thống nhất là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam. Các văn bản liên quan đến bảo lãnh được chính phủ ban hành vẫn chưa có điều lệ quốc tế điều chỉnh, điều này gây bất lợi cho phía Việt nam khi có tranh chấp với nước ngoài. Cho nên việc xây dựng hành lang pháp lý đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành có liên quan. - Chính phủ cần quy định rõ ràng danh mục tài sản cầm cố, quy định xử lý danh mục tài sản thế chấp, cầm cố khi doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng. - Chính phủ và các Bộ cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy chế đấu thầu để đảm bảo chắc chắn rằng tất cả các doanh nghiệp có đủ điều kiện đều có cơ hội tham gia. Đây cũng là một giải pháp để đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ Bảo lãnh ngân hàng. - Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với các Doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó nên đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mãi các tài sản trên để thu nợ. - Tiếp tục tiến hành cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước nhằm nâng cao vai trò làm chủ thực sự của các doanh nghiệp mà đặc biệt là khẳng định quyền sở hữu hợp pháp của các doanh nghiệp này đối với các tài sản thế chấp để làm căn cứ đảm bảo cho ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh. 3.3.2. Với ngân hàng nhà nước 3.3.2.1. Về điều kiện được bảo lãnh NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không vượt quá 10% vốn tự có của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Trong trường hợp vượt mức trên thì phải được chấp thuận của NHNN. Điều này nên để cho các ngân hàng tự giải quyết không nên trình từng trường hợp, nên để ngân hàng thực hiện báo cáo theo định kỳ. 3.3.2.2. Về mức phí bảo lãnh Mức phí bảo lãnh tối đa hiện nay là 2% tăng hơn so với quy chế trước đây là 1%. Tuy nhiên tại ngân hàng có những loại bảo lãnh mà mức phí này vẫn chưa chắc đã đủ bù dắp chi phí và rủi ro có thể xẩy ra cho ngân hàng. Vì vậy, thiết nghĩ NHNN không nên quy định mức phí trần mà nên để ngân hàng tự thoả thuận với khách hàng dựa trên loại bảo lãnh, đối tượng khách hàng, mức độ rủi ro... Đề nghị NHNN sớm ban hành một quy định mới về mức phí bảo lãnh đó là chỉ quy định mức phí tối thiểu. Ngân hàng thực hiện bảo lãnh sẽ thoả thuận với khách hàng để đưa ra mức phí hợp lý mà không bị giới hạn bởi mức phí trần. Ngoài ra, mức phí tối thiểu mà NHNN hiện đang quy định là 300.000 đồng với một món bảo lãnh. Trong khi đó quy định của NHĐT&PT Việt Nam là 50.000 đồng đối với bảo lãnh dự thầu và 200.000 đồng đối với các loại bảo lãnh khác. Rõ ràng có sự bất hợp lý ở đây. Nếu các cán bộ tín dụng mà tuân theo quy định của NHNN thì lại không thu hút được khách hàng, nếu họ tuân theo quy định của NHĐT&PT Việt Nam thì lại trái với quy định của NHNN. Thiết nghĩ NHNN nên xem xét điều này để có sự thống nhất, không ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời các cán bộ tín dụng khi thoả thuận mức phí sẽ dễ dàng hơn, không bị trái Luật. 3.3.2.3. Về các hình thức bảo lãnh Hiện nay, có nhiều loại hình bảo lãnh mà các ngân hàng thương mại đã thực hiện hoặc khách hàng đang có nhu cầu nhưng trong các văn bản Luật vẫn chưa quy định cụ thể, chỉ quy định một cách rất chung chung là các loại bảo lãnh khác. Những loại bảo lãnh mới nhưng đã được các ngân hàng áp dụng như bảo lãnh thuế, đồng bảo lãnh... Để tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, không gặp phải cản trở do trong Luật chưa quy định rõ ràng, thiết nghĩ NHNN nên quy định rõ hơn về các loại bảo lãnh mới này. 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Tuỳ thuộc vào từng loại bảo lãnh và đối tượng khách hàng mà ngân hàng quyết định mức phí cho hợp lý. Trong trường hợp doanh nghiệp xin ký quỹ 100% thì rõ ràng doanh nghiệp sẽ cảm thấy thiệt thòi, vì vậy nên chăng cần phải quy định mức phí bảo lãnh linh hoạt hơn với từng loại bảo đảm. Hiện nay, NHĐT&PT Việt Nam đang quy định mức thẩm quyền quyết định cho chi nhánh là 30 tỷ cho một món bảo lãnh. Nếu số tiền bảo lãnh mà vượt mức trên thì phải trình lên NHĐT&PT Việt Nam xem xét và giải quyết. Thiết nghĩ nên nâng cao mức phán quyết cho các chi nhánh để đỡ mất thời gian cho khách hàng và cũng tạo điều kiện cho chi nhánh hoạt động một cách tự chủ hơn. Quy trình bảo lãnh còn phức tạp, có nhiều phần quy định không cần thiết, gây phiền hà cho khách hàng. Thiết nghĩ NHĐT&PT Việt Nam nên giảm bớt các quy định, các phần không cần thiết. Trong phần Lập tờ trình nằm trong Bước2 – Quyết định bảo lãnh, nên bỏ phần Nội dung Tờ trình vì phần trên đã nêu rõ rằng các cán bộ tín dụng khi lập tờ trình đã phải nêu đầy đủ quan điểm cá nhân đồng thời có ý kiến của trưởng phòng tín dụng. Trong phần này chỉ cần nêu rằng: “ Nội dung Tờ trình được thảo trên cơ sở mẫu tờ trình có sẵn. Tờ trình NHĐT&PT Việt Nam phải tuân theo Mẫu tờ trình số BM 02a/QT-BL-02” là đủ. Ngoài ra, trong quy trình bảo lãnh, ở Bước 4, phần theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh có nêu: “ Kiểm tra, theo dõi khách hàng (trừ trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có)” là không chính xác. Bởi vì đối với trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có thì cán bộ tín dụng cũng cần phải theo dõi việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh vì điều này sẽ ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng đối vơí người nhận bảo lãnh vì thế thiết nghĩ chỉ nên viết là: “Kiểm tra, theo dõi khách hàng: ”. Mặt khác, trong quy trình bảo lãnh chưa đưa ra cách tính hạn mức đối với loại bảo lãnh hạn mức một cách tốt nhất. Thiết nghĩ NHĐT&PT Việt Nam nên xem xét lại điều này và đưa ra một cách tính hạn mức phù hợp nhất. Cách tính hạn mức này phải dựa trên hạn mức bảo lãnh năm trước của khách hàng (khách hàng truyền thống mới được bảo lãnh hạn mức) và dựa trên các món bảo lãnh thực phát sinh vào năm trước đó, đồng thời trên cơ sở phân tích nhu cầu bảo lãnh có thể phát sinh trong năm tới của họ. Phân tích nhu cầu bảo lãnh trong năm tới có thể căn cứ vào khả năng phát triển kinh doanh từ đó xác định nhu cầu cần xây dựng hay mua máy móc thiết bị...của các doanh nghiệp khi đề nghị bảo lãnh sao cho phù hợp nhất. Ngoài ra, đối với việc gia hạn bảo lãnh, đơn xin gia hạn không có phần duyệt của ngân hàng. Do đó khi gia hạn, cán bộ tín dụng lại phải làm lại tờ trình này, đây là một điều không thuận lợi, mất nhiều thời gian cho khách hàng. Do đó, trong tờ trình xin gia hạn bảo lãnh phải có luôn phần duyệt của ban lãnh đạo. Kết luận Cho đến nay, bảo lãnh ngân hàng là một loại hình nghiệp vụ không thể thiếu đối với các ngân hàng cũng như với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM càng đòi hỏi ngày một hoàn thiện và phát triển. Chính vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu và qua quá trình tìm hiểu thực tế về hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, bằng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, luận văn tốt nghiệp đã đạt được một số kết quả sau: - Khái quát được quá trình hình thành, sự cần thiết ra đời hoạt động bảo lãnh cũng như những vấn đề cơ bản khác về nghiệp vụ bảo lãnh. - Tổng hợp và phân tích tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, từ đó tìm hiểu những mặt hạn chế tại Ngân hàng từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó. - Trên cơ sở thực tế, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Luận văn tốt nghiệp của em được thực hiện trong thời gian 4 tháng đến nay đã kết thúc. Song do trình độ hiểu biết còn hạn chế và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn chưa thể bao quát được nội dung của toàn bộ hoạt động bảo lãnh cũng như không thể tránh khỏi những sai sót do chưa có tính thực tế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và tập thể cán bộ tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội để nội dung luận văn được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trường ĐH KTQD, tập thể phòng tín dụng 3, Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội. Em xin trân trọng cảm ơn thầy Hoàng Đình Quang và toàn thể các thầy cô giáo khoa Ngân hàng - Tài chính giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Em cũng xin cám ơn cha mẹ em đã tạo mọi điều kiện về vật chất cũng như tinh thần giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0178.doc
Tài liệu liên quan